Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ tới Đại Hàn nhân dịp Ngày Giới Trẻ Á Châu lần thứ sáu tại giáo phận Daejeon từ 14 tới 18 tháng này. Đây là lần thứ ba, vị đứng đầu Giáo Hội Công Giáo tới đây (lần thứ nhất năm 1984 và lần thứ hai năm 1989 là của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II). Một vinh dự chỉ thua trưởng nữ Giáo Hội Á Đông là Phi Luật Tân, và hơn hẳn Giáo Hội Việt Nam. Lãnh nhận đức tin sau Việt Nam và tất nhiên bắt đầu bị bách hại chậm hơn Giáo Hội Việt Nam, nhưng các vị tử đạo Đại Hàn đã được phong hiển thánh sớm hơn các vị tử đạo Việt Nam, tức vào năm 1984, và được phong ngay trên quê hương, nơi các vị đổ máu đào minh chứng lòng trung thành với sứ điệp Tin Mừng của mình, một sứ điệp các vị mới vừa tiếp nhận không lâu.

Muốn hiểu được cái vinh dự lớn lao ấy, thiển nghĩ không thể không xem qua lược sử của Giáo Hội sinh động Đại Hàn.

I. Sự phát triển của Giáo Hội Công Giáo sơ khai tại Đại Hàn



1. Thiết lập Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn

Yi Seung-hun, người Đại Hàn đầu tiên được rửa tội tại Bắc Kinh, lấy tên là Phêrô. Từ Trung Hoa trở về, ông rửa tội cho Yi Byeok vào tháng Chín năm 1784 và thiết lập nên cộng đồng Kitô Giáo. Chính Yi Byeok đã khuyên Yi Seung-hun tiếp xúc với các nhà truyền giáo Tây Phương tại Bắc Kinh và học hỏi tín lý Công Giáo. Chính vì thế, Yi Byeok được coi là khởi điểm của Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn.

Sau khi rửa tội cho Yi Byeok, Yi Seung-hun rửa tội cho Gwon Il-sin thuộc dòng dõi một gia đình bác học hàng đầu vào lúc đó và là người nghiên cứu Đạo Công Giáo qua sách vở Tây Phương bằng tiếng Trung Hoa. Ba người Công Giáo đầu tiên của Đại Hàn này, tức Phêrô Yi Seung-hun, Gioan Baotixita YI Byeok và Phanxicô Xaviê Kwon Il-sin, được gọi là Các Cha Già Sáng Lập ra Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn. Ba “thánh Tông Đồ” này loan truyền Đạo Công Giáo cho cả các nhà trí thức của giai cấp quí tộc lẫn các giai cấp trung và hạ lưu.

Cộng đồng Kitô Giáo phát triển nhanh chóng nhờ sự tận tụy nồng cháy của họ đối với việc truyền giáo. Họ dịch các sách tín lý Công Giáo từ tiếng Trung Hoa sang tiếng Đại Hàn cho tín hữu sử dụng. Trong giai đoạn phát triển Giáo Hội dưới sự lãnh đạo của giáo dân này, họ đã tự chọn người làm linh mục và bắt đầu cử hành Thánh Lễ và ban các bí tích. Thời này vốn được mệnh danh là “ thời ngụy phẩm trật” (pseudo-hierarchy) của Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn. Nó được khởi diễn do ý ngay lành của các nhà lãnh đạo chỉ biết bí tích và phụng vụ qua sách vở họ nghiên cứu. Họ làm thế cũng để thoả mãn nhu cầu của một cộng đồng đang phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, cũng do sự dốt nát của họ về tín lý Công Giáo.

Chẳng bao lâu sau đó, họ bắt đầu nghi nghờ tính hợp pháp trong việc thực hành và ban các bí tích của họ. Cuối cùng, họ tham khảo Giám Mục Bắc Kinh để có được sự giải thích chân chính đối với việc thực hành của họ. Và họ ngưng việc thực hành đó ngay lập tức khi hiểu ra rằng nó bất hợp pháp và họ yêu cầu gửi các linh mục qua Đại Hàn.

2. Phát triển Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn

Khi nhận được lá thư của người Công Giáo Đại Hàn, Giám Mục Bắc Kinh rất có ấn tượng trước việc chính người Đại Hàn tự thành lập một cộng đoàn tín hữu để thực hành đức tin của mình. Để trả lời câu hỏi liên quan tới sáng kiến ban các bí tích của họ, ngài cho biết điều ấy không hợp pháp nhưng không tra vấn chi vì họ làm thế hoàn toàn vì không biết và do ý ngay lành. Rồi ngài hứa sẽ gửi một nhà truyền giáo tới Đại Hàn mà lúc đó đã có tới 4,000 tín hữu nhưng chưa có một linh mục nào.

Do biến cố đó, Đại Hàn được đặt dưới thẩm quyền tài phán của Giám Mục Bắc Kinh và Cha James Zhou Wen-mo, một linh mục Trung Hoa của Giáo Phận Bắc Kinh đã được phái qua Đại Hàn vào năm 1794. Sau khi tới đó, Cha Zhou phải giảng dạy Tin Mừng một cách bí mật với sự trợ giúp và che chở của tín hữu Đại Hàn. Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn, vào lúc đó, được sự trợ giúp của người dân thường và một số trí thức thuộc giai cấp thượng lưu.

Đến năm 1801, đã có khoảng 10,000 người theo đức tin Kitô Giáo, nhưng việc phát triển nhanh chóng này chẳng bao lâu gặp ngãng trở bởi các cuộc bách hại. Người Công Giáo Đại Hàn cố gắng liên lạc với Giám Mục Bắc Kinh và Tòa Thánh để tường trình tình huống của họ. Họ liên lỉ van nài Tòa Thánh phái các nhà truyền giáo tới và thiết lập cho họ một giáo phận riêng. Do đó, năm 1831, Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin ở Rôma đã thiết lập Đại Diện Tông Tòa Joseon.

Hội Thừa Sai Paris (MEP) được ủy nhiệm trông coi Đại Diện Tông Tòa mới được thành lập này. Thành thử, các nhà truyền giáo Pháp đã bí mật tới Đại Hàn. Giám Mục Imbert là một trong số các vị này. Năm 1846, thầy Anrê Kim Tae-gon được thụ phong và trở thành vị linh mục đầu tiên của Đại Hàn. Đầu năm 1866, số người Công Giáo Đại Hàn lên tới khoảng 20,000 bất chấp nhiều cuộc bách hại tàn nhẫn.

3. Đời sống các tín hữu

Người Công Giáo bị bách hại không những bởi chính phủ mà còn bởi cộng đồng làng xóm và thân thuộc của họ nữa. Trong tình huống ngặt nghèo này, họ đã phải thành lập các Làng Kitô Giáo riêng cho mình gọi là “Gyouchon” tại những địa điểm hẻo lánh, mong có nơi yên ổn để thực hành tôn giáo của mình. Đời sống của họ không ổn định và an ninh vì họ phải di chuyển hết nơi này tới nơi nọ, để tránh sự rình mò của những người bách hại. Mọi người Công Giáo thới đó đều sống trong thân phận tội phạm vì đã theo một tôn giáo bị chính phủ cấm cản. Tại các Làng Kitô Giáo, họ sinh hoạt cộng đồng dưới sự hướng dẫn của các nhà lãnh đạo giáo dân, và đôi khi chia sẻ tài sản chung giống các Kitô hữu thời các Tông Đồ. Các nhà truyền giáo người Pháp tới Đại Hàn giữa thập niên 1800 có ấn tượng sâu sắc trước lối sống của tín hữu Đại Hàn trong các làng Kitô Giáo và ngưỡng phục cho hay “Lối sống Kitô Giáo thời các Tông Đồ chưa biến hẳn nhưng đang sinh động ở Đại Hàn này”.

Bất chấp các cuộc bách hại ngặt nghèo, Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn tiếp tục phát triển và nên vững mạnh nhờ sự tận tụy tuyệt vời của các nhà truyền giáo và các lãnh đạo giáo dân. Ngoài ra, sách vở Công Giáo được ấn hành bằng tiếng Đại Hàn, một thứ tiếng dễ học không như tiếng Trung Hoa vốn được các nhà trí thức thuộc giai cấp cao sử dụng. Nó đóng góp đáng kể vào việc phát triển đức tin Kitô Giáo nơi người bình dân.

Đòi hỏi nhân phẩm và bình đẳng của người bình dân, vốn là một sức mạnh thúc đẩy xã hội tiến triển, đã tìm được đáp ứng nơi giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo. Người Công Giáo hiểu được niềm tin mới và lòng tôn kính Thiên Chúa bằng chính nền văn hóa của họ nhờ những hạn từ như “trung với vua” và “hiếu với cha mẹ”. Nhờ thế, một loại văn hóa Công Giáo Đại Hàn hết sức độc đáo đã được khai sinh.

II. Việc bách hại Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn



1. Bối cảnh của việc bách hại

Đức tin Công Giáo va chạm với nền văn hóa cổ truyền của Đại Hàn ngay từ lúc nó được du nhập vào xứ sở này. Chính phủ thời đó không cho người dân Đại Hàn hưởng quyền tự do được tin theo tôn giáo mới vì họ coi đức tin Công Giáo là “giáo huấn bất kính” (profane teaching). Nhà cầm quyền cũng bác bỏ tín lý Công Giáo vì nó khác với tân Khổng Học, lúc đó vốn là ý thức hệ hàng đầu của chính phủ. Thí dụ, giáo huấn Công Giáo ngăn cấm thói quen thờ cúng tổ tiên trong khi phong tục của Khổng Giáo coi việc thờ cúng này là biểu thức quan trọng nói lên lòng hiếu kính con thảo đối với cha mẹ.

Nhưng dù Đạo Công Giáo bị luật pháp ngăn cấm, nhiều người vẫn tin nhận nó một cách chân thành tuy bí mật. Thành thử, các nhà cai trị coi sự gắn bó của người Công Giáo với niềm tin của họ như một thách thức trực diện đối với thẩm quyền nhà vua. Các tín hữu thì tin vào sự tách biệt giữa đức tin và nhà nước và nhấn mạnh tới đức tin của mình. Nhưng chính phủ không thể chấp nhận một quan niệm như thế, và tự giải thích tác phong của người Công Giáo như một chống đối trực diện đối với nhà vua. Đàng khác, người Công Giáo cũng bác bỏ hệ thống phẩm trật của xã hội và sự kỳ thị phái tính vốn được dùng để duy trì triều đại nhà Yi và trật tự xã hội. Do đó, chính phủ càng có lý do hơn để bách hại người Công Giáo vì họ nghĩ rằng những người này gây rối trật tự xã hội. Các Kitô hữu cũng công khai liên lạc với Giáo Hội tại Trung Hoa và các nhà truyền giáo người Pháp trong khi chính phủ cấm hay kiểm soát gắt gao bất cứ sự liên lạc nào của người dân thường với người ngoại quốc.

Tất cả các xử sự trên của người Công Giáo được hiểu như một thách thức trực tiếp đối với thẩm quyền nhà vua và chính sách của chính phủ. Thành thử, cuối cùng, triều đại nhà Yi đã tiến tới chỗ định nghĩa Giáo Hội Công Giáo là “giáo huấn bất kính” và bắt đầu chính thức bách hại nó.

2. Diễn trình bách hại

Cuộc bách hại người Công Giáo đầu tiên bắt đầu vào năm 1785, khoảng một năm sau khi Giáo Hội Công Giáo được thiết lập tại Đại Hàn. Cuộc bách hại này được công khai mở màn khi cảnh sát khám phá ra một cuộc tụ tập của các tín hữu. Tuy nhiên, trong giai đoạn thứ nhất của cuộc bách hại này, hình phạt tương đối nhẹ. Chỉ chủ nhà bị trừng phạt và phát vãng. Còn các tín hữu thuộc giai cấp quí tộc bị bị áp lực từ bỏ niềm tin của họ vào tôn giáo mới. Trong một xã hội lấy gia đình làm trung tâm, hình phạt do gia đình cũng có tác dụng y như hình phạt của chính phủ.

Cuộc bách hại năm 1791 xẩy ra do các tín hữu thuộc giai cấp quí tộc làm ngơ sắc lệnh của chính phủ chống lại đức tin Công Giáo. Các tín hữu này bác bỏ việc thờ cúng tổ tiên và thắp hương trước bài vị của các vị. Các hành vi này bị chính gia đình của họ và xã hội lên án như là các vi phạm trầm trọng chống lại lòng hiếu thảo. Người Công Giáo liên lụy vào việc này bị kết án tử hình ngay tức khắc. Biến cố này dẫn tới việc nhiều tín hữu thuộc giai cấp quí tộc ra khỏi Giáo Hội. Cuộc bách hại năm 1791 tương đối nhỏ nhưng là một biến cố quan trọng về nhiều phương diện.

Tiếp theo cuộc bách hại trên, một thái độ truyền giáo năng nổ nhằm chống lại nền văn hóa cổ truyền đã chiếm thế thượng phong trong Giáo Hội Đại Hàn thay vì một chủ trương truyền giáo nhằm tự thích ứng mình với nền văn hóa địa phương. Sự kình chống văn hóa này đã kích động nhiều cuộc bách hại gay gắt hơn. Cuộc bách hại trong các năm 1801, 1839, 1846 và 1866 dẫn tới cái chết của khoảng 100,000 tử đạo. Trong số các vị tử đạo này, có nhiều nhà lãnh đạo giáo dân xuất chúng. Ngoài ra, việc mất một nhà truyền giáo Trung Hoa và 12 nhà truyền giáo của Hội Thừa Sai Paris là một mất mát lớn đối với Giáo Hội. Trong số các vị tử đạo, 103 vị đã được Đức Gioan Phaolô II phong hiển thánh vào ngày 6 tháng 5 năm 1984 tại Yoido, Hán Thành. Và lần này, Đức Phanxicô sẽ phong chân phúc cho hơn một trăm vị khác.

3. Tác động của bách hại

Bách hại đã tăng cường đức tin nơi các tín hữu nhưng đồng thời cũng là một trở ngại đối với việc phát triển bình thường của Giáo Hội. Máu các tử đạo luôn trở thành hạt giống đức tin và là một cơ hội để tuyên xưng đức tin của ta vào Thiên Chúa. Tuy nhiên, mỏi mòn vì bách hại, Giáo Hội còn lại khá ít năng lực để truyền giáo. Bách hại cũng ảnh hưởng tới lối sống Kitô Giáo của tín hữu. Trong những ngày đầu, người Công Giáo Đại Hàn biết cách phải hòa hợp đức tin của họ ra sao với đời sống xã hội, nhưng từ khi bị ngăn cản bởi bách hại, sứ điệp của Tin Mừng gửi thế giới đã không còn được theo đuổi nữa. Bách hại cũng đã làm người Công Giáo chỉ hoài mong thế giới sắp đến mà thôi. Họ học được sự phân lập có tính nhị nguyên giữa “thế giới phàm tục” và “thế giới thánh thiện”. Trong đức tin, họ đi tìm sự sống thượng giới hay sự hoàn hảo của Kitô Giáo để tự giải thoát mình khỏi thứ thế giới đang đàn áp họ.

Đối với giai cấp quí tộc thời đó, việc bách hại các tín hữu có nghĩa là mất hết mọi đặc quyền họ vốn được hưởng. Và do đó, Giáo Hội Công Giáo trở thành một tôn giáo của người dân thường chứ không hẳn của giai cấp ưu tuyển. Chính vì thế, nó có đặc tính của một “phong trào tôn giáo Minjung” có nghĩa là bình dân.

Kết quả là vào cuối thế kỷ 19, lúc tự do tôn giáo được cho phép, người Công Giáo tỏ ra ít quan tâm tới việc thăng tiến xã hội của mình và do dự không muốn lãnh nhận vai trò lẵnh đạo nào trong thời phát triển mau chóng. Tuy nhiên, việc bách hại Giáo Hội Công Giáo vẫn là môt biến cố quan trọng trong lịch sử Đại Hàn. Chính nhờ nó, một số nhà trí thức bắt đầu lưu tâm tới việc nghiên cứu giáo huấn của Giáo Hội và tiếp nhận đức tin Công Giáo. Cảm kích vì gương hy sinh của các tín hữu, người dân thường cũng trở nên quan tâm tới Kitô Giáo hơn và tiếp nhận đức tin Công Giáo. Xét về nhiều phương diện, đời sống tin hữu cũng là một thách thức đối với trật tự xã hội và nâng cao ý thức về tầm quan trọng của tự do tư tưởng và tự do lương tâm. Nhờ đó, triều đại nhà Yi buộc phải thay đổi chính sách phản hiện đại của họ trong việc kiểm soát lương tâm người ta.

III. Tác động của đức tin Công Giáo đối với xã hội cổ truyền Đại Hàn



1. Tiền đề phân tích

Mọi tôn giáo và tín ngưỡng đều ảnh hưởng tới xã hội nơi chúng thuộc về và ngược lại chịu ảnh hưởng của các xã hội này. Tính hỗ tương này vốn hiện diện giữa xã hội cổ truyền Đại Hàn và đức tin Công Giáo ngay từ lúc du nhập vào đây vào cuối thế kỷ 18.

Sau đây là một khảo sát vắn vỏi nhằm để thấy đức tin Công Giáo đã tác động ra sao đối với xã hội cổ truyền và lịch sử Đại Hàn ngõ hầu có được một hiểu biết rõ ràng về lịch sử của Giáo Hội Công Giáo tại đây.

Ta cần xem xét ba điểm sau đây: Thứ nhất, hiểu biết chính xác các đặc điểm của đức tin Công Giáo lúc được du nhập vào Đại Hàn và các xu hướng thần học vào thời đó. Thứ hai, hiểu biết ảnh hưởng của đức tin Công Giáo đối với xã hội và bối cảnh xã hội thời ấy. Thứ ba, phân tích chức năng xã hội của những người thực hành đức tin Công Giáo. Khi suy tư về ba điểm vừa kể, ta sẽ khảo sát ảnh hưởng của Công Giáo đối với xã hội Đại Hàn giữa các năm 1784, năm đức tin Kitô Giáo được du nhập vào Đại Hàn, và năm 1876, năm được coi như khởi đầu cho cuộc hiện đại hóa Đại Hàn.

Ở đây, ta nên nhấn mạnh rằng đức tin Công Giáo mang vào Đại Hàn thế kỷ 18 có nhiều đặc điểm trung cổ. Nó không cùng nhịp với nền thần học hiện đại. Xã hội cổ truyền Đại Hàn vào lúc đó cũng đang ở một khúc rẽ sau thời trung cổ và đang trên đường tìm kiếm các giá trị hiện đại. Một số nhà trí thức đã bắt đầu tiếp nhận đức tin Công Giáo lúc ấy đang được truyền bá cho giai cấp hạ lưu. Trong bối cảnh của xã hội cuối thời trung cổ, nhiều người thuộc giai cấp hạ lưu coi đức tin Công Giáo là một hệ thống sống có giá trị. Thành thử, việc thực hành đức tin này ngụ ý một đối kháng xã hội.

2. Phát huy nhân phẩm

Một trong các hiệu quả của đức tin Công Giáo đối với tín ngưỡng và hệ thống giá trị của người Đại Hàn là việc khẳng nhận nhân phẩm. Hệ thống giá trị trổi vượt lúc ấy là thuyết Tân Khổng Học, một thuyết biện minh cho sự hiện hữu của giai cấp thống trị. Tân Khổng Học đặt căn bản trên sự bất bình đẳng giữa người với người và do đó biện minh cho việc giai cấp trên làm chủ giai cấp dưới. Tuy nhiên, tới thế kỷ 18, lối suy nghĩ ấy bị giai cấp dưới thách thức. Quan niệm về con người nhân bản trong đức tin Công Giáo khác với cùng quan niệm này trong Tân Khổng Học.

Giáo Hội giảng dạy sự bình đẳng và phẩm giá của mọi con người nhân bản vì họ được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa. Giáo Hội cổ vũ việc tôn trọng các giá trị của con người nhân bản và quyền tự do của họ.

Giáo huấn của đức tin Công Giáo trên gây ngỡ ngàng cho phần lớn các nhà trí thức thời đó. Cuối cùng, nó dẫn họ tới chỗ khám phá lại các giá trị của nền hiền triết Á Châu liên quan tới việc tôn trọng con người nhân bản. Thí dụ, Jeong Yak-yong (1762-1836), một triết gia nổi tiếng, chịu ảnh hưởng của sách vở Công Giáo, đã nhấn mạnh khá nhiều tới phẩm giá con người, không như các hiền giả Tân Khổng Học. Dựa vào quan niệm mới mẻ này về những con người nhân bản, và được viễn ảnh Công Giáo gợi hứng, người ta bắt đầu suy nghĩ về phương pháp cai trị và cơ cấu xã hội. Kết quả là, người ta ý thức được sự bình đẳng giữa người với người, ý thức được quyền lợi phụ nữ và phẩm giá trẻ em, coi chúng như những vấn đề xã hội quan trọng. Đức Tin Công Giáo đóng một vai trò có ý nghĩa trong việc phát huy phẩm giá con người vào lúc ấy.

3. Cổ vũ bình đẳng giữa mọi người

Xã hội cổ truyền Đại Hàn là một xã hội bất bình đẳng dựa trên hệ thống gia trưởng. Giống nơi nhiều xã hội cổ truyền khác, có một sự kỳ thị phái tính đối với phụ nữ và trẻ em bị đánh giá thấp. Trong bối cảnh xã hội như thế, sự đóng góp của đức tin Công Giáo vào việc phát triển xã hội, bằng cách nhấn mạnh tới tầm quan trọng của nguyên tắc bình đẳng giữa người với người, hết sức đáng kể.

Ngay từ khi Giáo Hội du nhập vào Đại Hàn, người Công Giáo đã tạo nên một cộng đồng đức tin mới, vượt quá nguồn gốc gia đình và địa vị xã hội. Thực vậy, họ bác bỏ hệ thống giai cấp vốn phân chia người ta thành quí tộc, trung lưu và hạ lưu, và họ gọi nhau là “bằng hữu trong đức tin” (Gyou). Tuy nhiên, xã hội dựa trên hệ thống giai cấp chặt chẽ không chấp nhận hiện tượng này.

Một số người thuộc giai cấp thượng lưu, khi chịu phép rửa, đã giải phóng các đầy tớ nam nữ của họ vì họ học được rằng mọi con người nhân bản đều bình đẳng, bất chấp giai cấp và địa vị xã hội. Với quan điểm Kitô Giáo này về con người nhân bản, người thuộc giai cấp hạ lưu thấy mình như sống trong “thiên đàng hạ giới”. Xã hội Đại Hàn coi mối liên hệ nam nữ như một liên hệ hàng dọc chủ tớ. Nhưng Giáo Hội Công Giáo cổ vũ sự bình đẳng giữa nam và nữ và cố gắng cổ vũ địa vị xã hội của người đàn bà, và một xã hội hiện đại dựa trên sự bình đẳng giới tính.

4. Ý thức văn hóa mới

Trong bối cảnh xã hội cổ truyền của Đại Hàn, Giáo Hội nâng cao một ý thức văn hóa mới và đem nó ra thực hành. Trong khi xã hội Đại Hàn lấy Tân Khổng Học làm trung tâm, coi nó như hệ thống văn hóa duy nhất có thể chấp nhận được, thì Giáo Hội cổ vũ việc tôn trọng chủ nghĩa đa nguyên văn hóa và nhấn mạnh tới tính khai phóng của văn hóa. Trong phương diện này, sự đóng góp của Giáo Hội vào xã hội cổ truyền Đại Hàn và vào lối hiểu văn hóa hiện đại, bao gồm việc tiếp cận với các trào lưu của thế giới, đã được thừa nhận cao độ.

Giáo Hội cũng đóng góp nhiều vào việc nghiên cứu và sử dụng “Hangeul", tức mẫu tự Đại Hàn. Sách về tôn giáo được viết bằng Hangeul, chứ không phải bằng chữ Trung Hoa. Các sách văn phạm và từ điển Đại Hàn được Giáo Hội ấn hành.

Dù bị bách hại, Giáo Hội vẫn cố gắng nâng đỡ các trẻ mồ côi với sự phụ giúp của hội “Các Thánh Anh Hài” và thận trọng cố gắng phát triển một hệ thống học đường hiện đại.

Như đã nhắc trên đây, tác động của Giáo Hội đối với xã hội cổ truyền Đại Hàn rất đáng kể. Bị bách hại gắt gao, chức năng của Giáo Hội trong việc cổ vũ tiến bộ xã hội tại Đại Hàn chỉ có tính tiềm năng hơn là động năng. Ấy thế nhưng, điều không còn hoài nghi là Giáo Hội đã thực hiện được sự đóng góp tích cực vào lịch sử Đại Hàn và dự phần vào diễn trình hiện đại hóa đất nước.

Còn tiếp