Jacinta, người chăn chiên bé nhỏ

Lúc này, con lớn đủ để được sai đi trông nom đàn chiên của nhà con, giống như mẹ con từng sai các đứa con khác của ngài cùng ở tuổi con. Chị Carolina của con lúc đó 13 tuổi và đến lúc chị phải ra ngoài làm việc. Nên mẹ con trao cho con việc trông nom đàn chiên. Con đưa tin này cho hai bạn đồng hành của con và nói với hai em rằng con sẽ không còn chơi với các em được nữa: nhưng hai em không làm sao chấp nhận được việc chia tay này. Các em lập tức xin mẹ các em cho phép các em cùng đi với con, nhưng bà không chịu. Chúng con không còn chọn lựa nào khác ngoài việc phải chấp nhận việc chia tay. Sau đó, gần như mọi ngày, hai em đều đi gặp con trên đường con về nhà vào lúc nhá nhem tối. Sau đó, chúng con tới sân đạp lúa, và chạy chơi một lúc, đợi Đức Mẹ và các Thiên Thần đốt đèn lên, hoặc để đèn, như kiểu chúng con quen nói, lên cửa sổ để soi sáng cho chúng con. Vào những đêm không có trăng, chúng con thường nói rằng không có dầu để Đức Mẹ đốt đèn!

Jacinta và Francisco thấy khó quen với việc vắng bóng của người cùng chơi với hai em trước đây. Vì thế, hai em khẩn khoản xin với mẹ hết lần này đến lần nọ để hai em cũng được đi chăn đàn chiên của gia đình. Cuối cùng, dì con, có lẽ hy vọng không còn phải nghe những lời khẩn khoản này nữa, dù biết hai em còn quá nhỏ, đã trao cho hai em việc trông nom đàn vật của gia đình. Rạng rỡ vì vui mừng, hai em chạy tới đưa tin cho con và nói đến việc để các đàn chiên của chúng con lại với nhau mỗi ngày. Mỗi người chúng con sẽ mở cổng chuồng, bất cứ khi nào mẹ hai em quyết định, và bất kể ai tới Barreiro đầu tiên cũng phải đợi cho đàn vật kia đến đã. Barreiro là tên của chiếc ao ở cuối chân đồi. Ngay khi gặp nhau tại ao, chúng con quyết định sẽ cho súc vật gặm cỏ ở đâu vào ngày hôm đó. Rồi chúng con lên đường, hạnh phúc và hài lòng như thể đi dự hội.

Và giờ đây, thưa Đức Cha, chúng con thấy Jacinta trong cuộc sống mới là người chăn chiên. Chúng con được lòng các con chiên nhờ biết chia sẻ bữa trưa với chúng. Điều này có nghĩa: khi chúng con tới đồng cỏ, chúng con được chơi thỏa tình, vì hoàn toàn chắc mẩm là đàn chiên sẽ không lạc xa khỏi chúng con. Jacinta thích nghe thấy tiếng em vọng lại từ thung lũng. Vì thế, một trong các trò vui của chúng con là leo lên đỉnh đồi, ngồi xuống tảng đá to nhất, và hết hơi hô to những tên khác nhau. Tên vọng lại rõ ràng nhất là “Maria”. Đôi khi Jacinta quen hô to trọn cả câu Kính Mừng Maria, bằng cách chỉ hô đến chữ sau, khi chữ trước hết vọng lại.

Chúng con cũng quen ca hát. Chen vào các bài hát bình dân, mà chẳng may chúng con biết khá nhiều, là các thánh ca ưa thích của Jacinta như “Salve Nobre Padroeira” (Kính Chào Nữ Quan Thầy Cao Sang), “Virgem Pura” (Nữ Trinh Tinh Tuyền), “Anjos, Cantai Comigo” (Hỡi Các Thiên Thần, Xin Cùng Hát Với Con). Chúng con cũng rất thích múa, và bất cứ nhạc cụ nào chúng con nghe các người chăn chiên khác chơi đều khiến chúng con nhẩy múa hân hoan. Jacinta, dù người nhỏ thó, có năng khiếu múa ngoại hạng.

Chúng con được khuyên đọc kinh Mân Côi sau bữa ăn trưa, nhưng vì cả ngày xem ra quá ngắn đối với trò chơi của chúng con, nên chúng con nghĩ ra một cách hay để đọc kinh này cho lẹ. Chúng con chỉ lần hạt qua ngón tay, trong khi miệng chỉ đọc “Kính Mừng Maria, Kính Mừng Maria, Kính Mừng Maria…” Cuối mỗi mầu nhiệm, chúng con dừng lại đôi chút, rồi chỉ đọc “Lạy Cha Chúng Con”, và cứ thế, trong nháy mắt, như người ta thường nói, chúng con đã đọc xong Kinh Mân Côi!

Jacinta cũng thích ôm chặt các con chiên nhỏ mầu trắng trong vòng tay, ngồi ôm chúng trong lòng, mơn trớn chúng, hôn hít chúng, và cõng chúng trên vai để về nhà lúc đêm hôm, để chúng khỏi bị mệt. Một ngày kia, trên đường về nhà, em còn đi giữa đàn chiên.

Con hỏi em: “Jacinta, em làm gì thế giữa đàn chiên?”

“Em muốn làm như Chúa chúng ta trong bức ảnh chị cho em. Người y hệt như thế này, ngay giữa đàn chiên, và Người ôm một con trong đôi tay Người”.

Cuộc hiện ra lần thứ nhất

Và giờ đây, thưa Đức Cha, Đức Cha ít nhiều biết rõ Jacinta đã sống như thế nào trong 7 năm đầu đời của em, cho tới ngày 13 tháng Năm, năm 1917, một ngày bừng sáng và tươi đẹp như mọi ngày trước đó. Ngày này, một cách tình cờ, nếu trong kế sách của Đấng Quan Phòng, có sự tình cờ này, chúng con chọn cho đàn vật của chúng con gặm cỏ ở một thửa đất thuộc cha mẹ con, gọi là Cova da Iria. Như thường lệ chúng con chọn đồng cỏ ở Barreiro như con đã nhắc ở trên. Điều này có nghĩa chúng con phai vượt qua một giải đất hoang khô cằn chỉ có thạch nam để tới đó, khiến đường đi dài gấp đôi. Chúng con phải đi chầm chậm để đàn vật có dịp gặm cỏ dọc đường, thành thử gần trưa chúng con mới tới nơi. Ở đây, con không muốn nói với Đức Cha điều xẩy ra hôm đó, vì Đức Cha đã biết rõ cả rồi, và do đó, đỡ mất thì giờ. Ngoại trừ vì đức vâng lời, việc con viết về điều này xem ra cũng là việc mất thì giờ đối với con nữa. Vì con không thể thấy Đức Cha rút được ích lợi gì từ nó, ngoại trừ để Đức Cha quen thuộc hơn với sự ngây thơ trong trắng của Jacinta.

Trước khi bắt đầu nói với Đức Cha những gì con nhớ được về giai đoạn mới trong cuộc đời của Jacinta, trước nhất con phải nhận rằng có một số khía cạnh trong các lần Đức Mẹ hiện ra được chúng con thỏa thuận sẽ không cho ai biết. Tuy nhiên, giờ đây, có lẽ con phải nói tới chúng để giải thích do đâu Jacinta lại hấp thụ được một lòng yêu mến lớn lao như thế với Chúa Giêsu, với đau khổ và các người có tội, mà vì phần rỗi của họ, em đã hy sinh một cách quảng đại như vậy. Đức Cha không rõ đâu rằng chính em là người, vì không kiềm chế được niềm vui, nên đã vi phạm thỏa thuận giữ kín mọi sự. Ngay chiều hôm đó, trong khi chúng con còn đang ưu tư và đắm chìm trong ngạc nhiên, Jacinta không ngừng la lên một cách phấn chấn:

“Ồ, Bà ấy đẹp quá!”

Con nói: “Chị biết sẽ xẩy ra điều gì. Cuối cùng em sẽ nói điều ấy cho một người khác biết”.

Em trả lời, “Không, em sẽ không nói, chị đừng lo”.

Ngày hôm sau, Francisco chạy đến nói với con Jacinta đã kể cho mọi người trong nhà hay vào đêm hôm trước như thế nào. Nghe thấy như vậy, Jacinta không dám nói gì.

Con nói với em: “Em thấy đấy, đó là điều chính chị đã nghĩ sẽ xẩy ra”.

Em trả lời, nước mắt dàn dụa: “Có điều gì đó ở trong em không để em giữ được im lặng”.

“Được rồi, em đừng khóc nữa, và đừng nói với ai bất cứ điều gì khác về những gì Đức Mẹ nói với chúng ta”.

“Nhưng em đã nói với họ rồi”

“Thế em đã nói những gì?”

“Em nói Đức Mẹ hứa sẽ đem chúng ta về thiên đàng”.

“Vì nghĩ em đã nói những điều ấy!”

“Xin chị tha thứ cho em. Em sẽ không nói cho bất cứ ai bất cứ điều gì nữa”.

Suy nghĩ về hoả ngục

Hôm ấy, khi chúng con tới đồng cỏ, Jacinta ngồi tư lự trên một phiến đá.

“Jacinta, tới đây chơi”

“Hôm nay, em không muốn chơi”

“Tại sao không?”

“Vì em nghĩ Đức Mẹ bảo chúng ta đọc kinh Mân Côi và làm các việc hy sinh cho người có tội ăn năn trở lại. Vậy từ nay trở đi, khi đọc kinh Mân Côi, chúng ta phải đọc trọn cả kinh Kính Mừng và trọn cả kinh Lạy Cha! Còn các việc hy sinh, chúng ta phải làm chúng cách nào đây?”

Ngay lập tức, Francisco nghĩ đến một việc hy sinh:

“Chúng ta hãy dành bữa trưa của chúng ta cho đàn chiên, và làm việc hy sinh bằng cách không có bữa trưa”.

Chỉ trong ít phút, các đồ chứa trong các hộp ăn trưa của chúng con đã được phân chia cho các con chiên. Thành thử hôm đó, chúng con ăn chay nghiêm ngặt như một tu sĩ khổ tu nhiệm nhặt nhất! Jacinta vẫn ngồi trên phiến đá, nhìn rất đăm chiêu, và lên tiếng hỏi:

“Đức Mẹ còn nói rằng nhiều linh hồn sẽ xuống hỏa ngục. Vậy hỏa ngục là chi?”

“Nó giống như một hầm sâu đầy thú dữ, với lò lửa vĩ đại ở đấy – đây là điều mẹ con thường giải thích cho con như vậy – và đây là nơi những người phạm tội mà không đi xưng tội phải tới. Họ ở đó và bị thiêu đốt đời đời!”

“Và họ không bao giờ ra khỏi đó?”

“Không!”

“Dù sau nhiều, rất nhiều năm?”

“Không! Hỏa ngục không bao giờ cùng!”

“Và thiên đàng cũng không bao giờ cùng?”

“Ai đã lên thiên đàng, thì không bao giời rời bỏ đó nữa!”

“Còn ai đã xuống hỏa ngục, cũng không bao giời rời khỏi đó?”

“Chúng đời đời, em biết đấy, chúng không bao giờ cùng”

Đó là lần đầu tiên, chúng con thực hiện cuộc suy gẫm về hoả ngục và đời sống vĩnh cửu. Điều gây ấn tượng sâu xa nơi Jacinta là ý niệm đời đời. Dù giữa cuộc chơi, em cũng sẽ dừng lại và hỏi:

“Nhưng này chị, há hỏa ngục không chấm dứt sau nhiều, rất nhiều năm đó sao?”

Hay; “Những người bị thiêu đốt trong hỏa ngục, há họ không bao giờ chết hay sao? Và há họ không cháy thành than hay sao? Và nếu người ta cầu nguyện rất nhiều cho các người có tội, há Chúa không cho họ ra khỏi đó hay sao? Và khi họ còn làm các việc hy sinh nữa? Những người có tội quả đáng thương! Chúng ta phải cầu nguyện và làm nhiều việc hy sinh cho họ!”

Và em nói tiếp:

“Bà ấy [Đức Mẹ] tốt lành xiết bao! Bà hứa sẽ đem chúng ta về thiên đàng!”.

Người tội lỗi ăn năn trở lại

Jacinta khắc sâu việc thực hiện hy sinh cho người có tội vào trong tâm khảm đến nỗi không bao giờ bỏ lỡ cơ hội làm những việc này. Có hai gia đình ở Moita có con cái đi ăn xin từng nhà. Một ngày kia, chúng con gặp các trẻ em này, khi chúng con đang đi chăn chiên. Ngay khi gặp họ, Jacinta nói với chúng con:

“Chúng ta hãy dành bữa trưa của chúng ta cho các trẻ em nghèo này, để người có tội ăn năn trở lại”.

Và em chạy đi tặng bữa trưa cho họ. Chiều hôm đó, em nói với con rằng em đói bụng. Gần đấy có những cây sồi xanh và những cây sồi thường. Trái của chúng vẫn còn xanh. Tuy nhiên, con nói với em chúng con có thể ăn chúng. Francisco bèn leo lên cây sồi xanh và hái đầy các túi, nhưng Jacinta nhớ rằng chúng con có thể ăn trái của cây sồi thường, và do đó, làm việc hy sinh bằng việc ăn loại trái đắng hơn. Thế là buổi chiều hôm ấy, chúng con thưởng thức bữa ăn thịnh soạn này! Jacinta biến việc này thành một trong các việc hy sinh thông thường của em, và thường hái những trái sồi thường hoặc những trái ôliu từ cây.

Một hôm, con bảo em:

“Jacinta, đừng ăn trái đó; nó quá đắng!”

“Nhưng vì nó đắng nên em mới ăn nó, để những người có tội ăn năn trở lại”.

Trên đây không phải là những lần duy nhất chúng con ăn chay. Chúng con từng thỏa thuận với nhau rằng bất cứ khi nào gặp một trẻ em nghèo như những trẻ em này, chúng con sẽ dành bữa trưa cho họ. Họ rất sung sướng được lãnh nhận các món bố thí này, nên họ rất hay gặp chúng con; họ hay đợi chúng con trên lộ trình của chúng con. Vừa trông thấy họ, Jacinta đã chạy tới và cho họ mọi món ăn chúng con có ngày hôm đó, hạnh phúc như thể em chẳng cần đến những món này. Vào những ngày như thế, thức ăn duy nhất của chúng con chỉ còn là những hạt thông, và những trái mọng (berry) nhỏ cỡ trái ôliu mọc ở rễ các cây hoa hình chuông mầu vàng, cũng như các trái dâu đen, nấm, hoặc một vài thứ khác chúng con thấy được ở rễ các cây thông – Giờ đây, con không thể nhớ những thứ này tên gì. Nếu có trái cây nào trên đất thuộc cha mẹ chúng con, chúng con thường ăn nó.

Việc khát mong làm các hy sinh của Jacinta xem ra không biết đâu cho vừa. Một ngày kia, người hàng xóm cho mẹ con một bãi cỏ ngon cho đàn chiên của chúng con. Dù bãi cỏ này khá xa và chúng con đang ở những ngày rất nóng của mùa hè, mẹ con cũng vẫn nhận món quà hậu hĩnh này, và sai con tới đó. Ngài nói với con rằng chúng con nên nghỉ trưa dưới bóng cây cối, vì gần đó có giếng để đàn vật uống nước. Trên đường tới đó, chúng con gặp mấy đứa trẻ nghèo thân thương của chúng con, và Jacinta chạy tới cho họ các của bố thí thông thường của chúng con. Hôm đó là một ngày thật đáng yêu, nhưng mặt trời thì nắng cháy, và trong thửa đất hoang khô cằn sỏi đá ấy, xem ra mọi sự đều như cháy xém cả. Chúng con bị nung đến khát khô và không hề có một giọt nước để uống. Thoạt đầu, chúng con dâng sự hy sinh này một cách quảng đại cho người tội lỗi ăn năn trở lại, nhưng quá trưa, chúng con không còn chịu đựng được nữa.

Vì có một căn nhà gần đấy, nên con đề nghị với hai bạn đồng hành rằng con sẽ đi và xin họ ít nước. Hai bạn đồng hành đồng ý, nên con đi gõ cửa. Một bà già nhỏ bé không những cho con nước uống mà còn cho cả bánh mì nữa, được con tiếp nhận một cách đầy biết ơn. Con chạy đi chia cho các bạn đồng hành, rồi đưa bình nước cho Francisco và bảo em uống.

Em trả lời: “Em không muốn uống”

“Tại sao?”

“Em muốn hy sinh để người tội lỗi ăn năn trở lại”

‘Còn Jacinta, em uống một hớp chứ!”

“Nhưng em cũng muốn dâng hy sinh này cho người tội lỗi ăn năn trở lại”.

Thế là con đổ nước xuống một chỗ lõm trong đá, để đàn chiên uống, và đem bình đi trả cho bà chủ của nó. Cái nóng mỗi lúc một gay gắt hơn. Tiếng kêu nhức óc của dế và cào cào hợp với tiếng ộp ộp của ếch nhái từ chiếc ao gần đó khiến cho sự om sòm thành gần như không thể chịu đựng được. Jacinta, người vốn yếu ớt, và càng yếu ớt hơn vì thiếu thực phẩm và nước uống, nói với con một cách hết sức đơn sơ vốn là bản tính em rằng:

“Chị nói với mấy con dế và mấy con ếch im đi! Em nhức đầu quá”.

Lúc ấy, Francisco hỏi Jacinta:

“Há em không muốn chịu điều này vì các người tội lỗi hay sao?”

Con nhỏ, tay ôm đầu, trả lời:

“Có, em chịu. Cứ để chúng ca đi!”

Còn tiếp