Trường Sơn: Đèo heo hút gió
23-12-2002: Chúc Mừng Giáng Sinh
Vi hành trong Dãy Trường Sơn ngút ngàn trầm lắng
Dừng chân chốc lát, lòng con tưởng nhớ
Quí tôn sư
Qúi Anh em linh mục đồng lớp
Quí thân bằng cố hửu
Quí Ân nhân
Quí CVK
Mặt trời vẩn tỏa sáng
Chim vẩn hót ca
Bông hoa vẩn tỏa mùi hương
Suối vẩn reo - Sông vẩn chảy
Núi vẩn trơ gan cùng tuế nguyệt
Con vẩn cám tạ Thiên Chúa
Và nhớ ơn những ai đóng góp
vào cuộc sống Linh Mục con trên Dãy Trường Sơn.
24.12.2002 : Bầu khí Giáng Sinh :
Gió đông về. Se lạnh. Hiu hắt. Từng đoàn người lử thứ kéo về Nhà thờ Chánh tòa để dọn mình mừng Lể Chúa Giáng Sinh. Nam phụ lão ấu, sơ sinh đều có đủ. Mù lòa. Què quặt. Phung cùi. Điếc lác. Thanh thản cảnh màn trời chiếu đất. Hớn hở như dân Do Thái được về Nhà Chúa thuở nào.
Tiền bạc chỉ đủ hai chuyền xe đi về. Họ đã vào rừng kiếm vỏ bời lời (dùng làm nhang), mật ong, làm mì (củ sắn) khô, bán năm ba con gà để có tiền trẩy hội lên đền.Với cả niềm tin yêu.
Dân Thiên Chúa. Họ sống không phân biệt giàu nghèo. Không chen lấn tranh giành. Không ồ chấy lộn xộn mất an ninh. Giáo Phận ân cần đón tiếp, sưởi ấm con cái như “gà mẹ ấp ủ đàn con dưới cánh”.
Một đĩa cơm qua bữa. Một cây bánh mì. Một tô bún. Một chai Pepsi giải khát. Tất cả đều đồng giá 1000đ ( 1USD#15.600đ)
13 ngàn người. Có ngày ĐGM phải giải tội đến 900 người mới được ngơi nghỉ. Thánh Lễ đêm Gíang Sinh. Ánh đèn lung linh qua màn sương rơi. Mọi miệng lưởi hát vang lời ca : “Ơ kon nge lơng lap pran tơpă”(ôi Hài Nhi thánh đức). Cái giá lạnh làm con người cãm nghiệm như Thiên Chúa đang đến thực sự năm nào trên cánh đồng Bêlem.
Tôi chỉ đứng câm lặng bên Giám Mục chủ tế, không đọc ra tiếng(vì tuần nay giải tội liên tiếp cho bao nhiêu ngàn người)mà như nhủ thầm :”Đêm nay con chẳng có gì dâng Chúa hài nhi”
27.12.02 : Đi đường Trường Sơn về Quãng Nam thăm lại quê cha quê mẹ.
Lần đầu tiên, tôi là linh mục của Gíao Phận Kontum đi con đường Trường Sơn(còn gọi là đường mòn Hồ Chí Minh) về Quảng Nam dài 300Km. Phải qua đèo Lò Xo dài 25Km. Núi cao trên 2500m. Vực sâu. Mây vần vũ quanh triền. Vài thác nước bên vệ đường, trắng xóa như tóc tiên.
“Một quang cảnh mà đâu đâu cũng nói về Thiên Chúa. Mỗi lần mà tôi có dịp đến miền núi và chiêm ngắm những cảnh nầy, tôi cám tạ Thiên Chúa vì vẻ đẹp huy hoàng của tạo vật.... Núi non, cách riêng, không những tạo nên một cảnh tuyệt vời để chiêm ngắm, nhưng hầu như còn là một trường tôi luyện cuộc đời. Ta học được nơi đó những nổ lực đễ đạt tới mục tiêu, tương trợ nhau trong những lúc gặp khó khăn, cùng nhau thưởng nghiệm sự lặng yên, nhận ra mình nhỏ bé biết bao trước một cảnh sinh huy hoàng và tráng lệ như thế." (Giáo Hoàng Yoan Phaolo I I 7-20 juillet 1999)
Ngày xưa, khoảng trên 100 năm, người Thượng Xêđang (khi ấy gọi là Mọi) xuống đồng bằng cướp của bắt người về làm tôi hoặc bán cho người Lào.
30.12.2002 : Núi Ngọc Linh và Sông Pơkô.
Con ơi ! dù đi đâu, ở đâu con vẫn không
quên con là người quê mình
Cao thứ hai cả nước là núi Ngọc Linh
Dòng sông Pơkô đã đi vào huyền thoại
Như bản trường ca ngàn năm vọng mãi
...... . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Cha và con mang đến mọi người
Cây đã trồng cây phải xanh tươi
Trái đã kết trái phải ngon ngọt
Là chim chim phải hót
Là hoa hoa phải thơm
Dẫu tuổi ngày càng cao cha vẫn âm thầm
Như con ong ngày ngày tích mật
Dẫu thấp hơn ngọn Fan-xi-pan, nhưng so với bất cứ núi nào
Thì Ngọc Linh vẫn cao chất ngất.
Dòng Pơkô vẫn say trái tim người
Đất quê mình thiêng liêng lắm con ơi !
Dẫu đi đâu ở đâu ta vẫn nhớ.” ( Đậu thanh Hoa)
Trường Sơn với núi Ngọc Linh đầy sâm quí. Chất lượng ngang hàng với sâm Đại Hàn. Dak Glei miền cao hơn 2550m.Mỗi năm từng đàn ong bay về đây cho mật. Dân làng tạo bộng ở những cây cao cho ong đến. Người được vài ba chục lít, kẻ thâu vài ba trăm lít mật. Hết mùa, ong lại đi. Rồi thế hệ khác lại về.
Ôi lạy Thiên Chúa, Ngài vẫn tiếp tục nuôi dân Ngài như xưa trong sa mạc bằng manna và mật ong rừng. Nhưng nào ai có biết ! Xin hãy mở rộng đôi mắt và tâm hồn chúng con.
15.01.2003: Bộ chiêng - Gia bảo quí hóa nhất trong gia đình là ghè ché, chiêng cồng, khăn khố.
Bộ chiêng gồm có trên 15 chiếc lớn nhỏ. Biểu dương tính đại đồng, tập thể của bộ tộc. Mỗi nhạc công thủ một dấu nhạc, sống chan hòa trong một khúc ca. Gỏ lúc nào. Gỏ một cái. Gỏ hai cái liên tiếp. Gỏ nhấn lệch(syncope). Một người gỏ sai nhịp, sai lúc, cả đoàn cồng chiêng như khựng lại. Các thành viên làm nên một cuộc sống.
Cồng chiêng cũng có thể nói được là linh hồn của một dân tộc thiểu số. Âm thanh và điệu nhạc đã ăn sâu vào máu thịt của từng người từ khi lọt lòng mẹ. Lớn lên trong tiếng cồng chiêng bao nhiêu ngày lể hội quanh năm. Đến khi vĩnh biệt núi sông, tiếng cồng chiêng vang vọng đưa tiễn người quá cố về cỏi xa xăm với âm điệu u hoài, ảm đạm và day dứt.
Tiếng chiêng thay con người thể hiện buồn vui, căm giận, thanh nhàn. Hơn nữa còn biểu hiện lòng tự tin, sự giàu có và tính hùng mạnh của cộng đồng. Liên đới với nhau hằng ngày. Họ không thể sống tách rời cộng đồng. Cái tốt và cái xấu.
Phải ba năm cùng chung sống với anh em dân tộc thiểu số, tôi mới cảm nghiệm những điều nói trên. Tiếng cồng chiêng từ từ thấm vào tâm hồn tôi để tôi có thể cùng vui buồn với họ trong Dãy Trường Sơn đèo heo hút gió nầy.
1.02.2003 : Tết Quí Mùi 2003
Sáng đi trảy lộc đón xuân
Ra ngõ vừa gặp bạn thân xông nhà
Bạn mừng lời đẹp ý hoa
Khác nào được lộc nhân ba bốn lần.
Anh em Thượng đi tết một nãi chuối xanh với đôi ba trứng gà. Chuối xanh vì nếu đem chuối chín qua đèo vượt suối nó rụng hết. Rồi tới ngày cũng phải chín. Nhớ lại khi tôi ở Kơbey, có người mượn con heo để làm đám cưới. Về sau anh ta trả lại một con heo con. Tôi hỏi mượn heo lớn mà lại trả heo con. Anh trả lời gọn lỏn : " Rồi nó sẽ lớn chứ"
Mừng Tết Đức Giám Mục, anh em Thượng đem về hai con chim cu. Tôi lảnh phần đem về nuôi để nghe chim gáy. Nhắm tướng chim cu theo các cụ ngày xưa : Đầu nhỏ, mỏ đinh - Cườm đóng nhặt quanh - Mình thon bắp chuối - Lông xoay con cuối - Chân ngắn đỏ sần - Tiếng vọng hồ âm - Gáy hoài không mệt.
Mồng Hai Tết : Cha Yoachim Nên đang dâng lể tại làng Kon Jơdreh bổng yếu mệt. Cuối lể hai Iao phu dìu ngài về phòng. Tê liệt bán thân.
Con người linh mục 75 tuổi. Về hưu. Nhưng vẫn hăng say với việctông đồ. Giờ phút nầy ngài bị loại ra khỏi vòng chiến. Anh em Linh mục quá ít. Công việc quá tải.
”Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán : lúa chín thì nhiều, thợ gặt thì ít". Xin Chúa ban nhiều thợ biết nhiệt thành... "
Mồng Ba Tết : 7g00 điện thoại cấp cứu. Một bà mẹ tại làng Dak Xut sinh không ra. Cách Kontum 100 Km đường rừng. Nước ối đã vỡ. Điễm tâm qua loa với vài lát bánh tét, tôi lái xe lên đường với cô trợ tá.
Ôi Mẹ Maria, xin thương đến những người mẹ nầy.
5 Tết. Chúng tôi đến tiển đưa cha Nguyễn thúc Nên về Saigon chửa bệnh trên một chiếc xe cứu thương. Lòng ngậm ngùi. Một người anh 75 tuổi vẫn còn miệt mài sống phục vụ anh em Bahnar, Jơlơng cho đến giây phút tàn hơi kiệt sức ngay cuối Thánh Lể ngày Mồng Hai Tết.
Hôm nay cũng là ngày tôi đi chào Năm Mới Chính quyền địa phương Xã Dak Pơxi và Dak Hring. Đường vào hai xã nầy gập ghềnh hiễm trở. Núi cao trùng điệp. Có đoạn đường nhiêu khê phải cài đến số mạnh. Chính trên con đường nầy các vị truyền giáo tiên khởi đã từng đi bộ từng bước. Rồi bằng ngựa. Rồi bằng xe đạp. Rồi bằng môtô. Và hôm nay tôi đi bằng chiếc Musso tân tiến của thời đại. Niềm an ủi là hai chính quyền địa phương đã niềm nở tiếp đón tôi như làn khí mát của Năm Mới.
10.02.2003 : Đưa người chết về thôn làng.
Tận dụng chiếc Musso, xếp ghế lại, tôi đặt chiếc quan tài vào trong. Chở về làng Yang Lố Kram, gần biên giới Lào. Vừa bước xuống xe, người nhà khóc òa lên inh ỏi. Tiếng khóc báo tang. Người làng lần lượt chạy tới. Tiếng khóc lan truyền từ người nầy tới người kia. Cả làng đều khóc.
Tôi đứng lặng người. Không hiểu mình đang ở dương gian hay nơi âm phủ. Nhưng lòng tôi dịu lại khi thấy họ thương yêu nhau. Tình yêu chân thật và sơ khai của một tập thể.
Tôi ra hiệu. Họ lặng thinh. Và lời kinh tôi cùng họ dâng lên Chúa cho người quá cố. Mặt trời sắp lặn. Không gian trầm lắng. Buồn tênh ! Từ biệt cho hôm nay và mai sau gặp lại trên Quê trời.
25.02.2003 : Tin buồn Cha Léoni qua đời tại Paris.
Ngài đã từng là Cha Sở Kon Kơla gồm các làng anh em Xêđang thuộc Xã Pơxi nầy. Trong những năm chiến tranh, Ngài bị bắn gãy tay. Ngài vẩn tiếp tục coi sóc những đứa con của Rừng Núi nầy cho tới ngày giải phóng 1975. Và hôm nay, tôi là người nối tiếp những bước chân của Ngài.
1.03.2003 : Dùng điện thoại.
Ngày nay vùng xa xôi hẻo lánh đều có điện thoại, ít nhất ở cơ sở hành chính và trạm y tế. Anh em chưa bao giờ dùng điện thoại và không có quan niệm nào về điện thoại.
Mỗi lần gọi đến xin xe cấp cứu, tôi nghe tiếng thở hổn hển sợ sệt. Họ có cảm nghỉ là tôi biết họ.
- “Ai đang nói chuyện với tôi đây ?”
- “ Dạ(thưa) con”.
Tôi đã dặn dò chỉ bảo nhiều lần. Nhưng bao giờ cũng nhận được hai tiếng “Dạ con”.
25.03.2003 : Ngày bài lao quốc tế.
Rất nhiều bệnh nhân lao phổi trong anh em dân tộc thiểu số. Họ không có quan niệm vi trùng lao hay lây. Khạt nhổ. An uống chung, tay bốc đưa vào miệng, liếm tay. Uống chung rượu cần. Hút thuốc lá phì phà khói đầy nhà.
Nhiều lần tôi phải chở cấp cứu những người lao nặng trong chiếc Musso nhỏ bé. Tôi phải mở lớn kính xe. Cho hơi gió thổi mạnh, hy vọng tống ra ngoài những con vi trùng lao. Và tôi chỉ mong chờ Thiên Chúa thương cứu tôi khỏi lây lao.
Đa số các Iao Phu thay mặt cha sở coi sóc dạy dỗ các thôn làng đều bị lao. Họ được trọng nễ. Tiệc tùng, lễ lạc, cúng bái họ đều được mời uống rượu chung cần liên miên. Khi phải ngồi chung hội họp, học hành, trao đổi hàng ngày hàng giờ với họ, thật là ngại ngùng.
Năm năm phục vụ mà hai lá phổi tôi hảy còn an toàn. Tôi tin thật chỉ có Thiên Chúa phù hộ tôi thôi.
17.04.2003 : Ông Trưởng Viện Nghiên cứu tôn giáo Trung Ương.
Từ Hà Nội vào, ông đến gặp tôi và hỏi : - “Các linh mục đã làm thế nào để đồng bào thiểu số tin theo đạo ?”
- “Chúng tôi đến sống với họ, yêu thương họ, chia sẻ thân phận với họ. Và chúng tôi nói với họ rằng có Thiên Chúa là Đấng dựng nên muôn loài và là Cha yêu thương mọi người. Và cuộc vĩnh cữu đời sau”.
Vô thần và hửu thần là hai con đường song song không bao giờ tương phùng hội ngộ. Tôi thầm nghĩ người vô thần đi nghiên cứu tôn giáo(hửu thần) không làm sao mà hiểu được. Một số cán bộ thường hỏi giáo dân dự lể Gíang Sinh tại Kontum về : “các ông cha đạo cho anh em những cái gì? v.v... ”
3.05.2003 : Cấp cứu một bà mẹ sanh đôi ở Dak Gía. Một em bé chết. Người mẹ đang trong tình trạng sưng ù cả người.
4.05.2003 : Cấp cứu một bệnh nhân nam đau nặng, chân bị liệt.
5.05.2003 : Cấp cứu người mẹ sanh xong hai bà ngày, đau đi không được như trật khớp xương chậu.
26.05.03 : Một người mẹ bồng bế con còn bú mốm, nuôi chồng ở bệnh viện tỉnh, đến xin giúp củi, gạo và thức ăn. Bà ở thôn làng Dak Blái, xa cách Kontum hàng 100Km rừng sâu hiểm trở.
Tôi rất quí trọng những người mẹ vì đó là hình ảnh sống động của mẹ tôi, của tình mẫu tử, của lòng quãng đại vị tha vô bờ bến. Không hình ảnh nào đẹp hơn hình ảnh người mẹ trong cuộc đời.
13.06.2003 : Mừng Dương Khánh.
Giáp 35 năm linh mục. Con số 35 trùng vào năm Mùi là năm con Dê. 12 anh em linh mục cùng lớp còn ở Quê Nhà, họp mặt tại Giáo xứ Tân Mai Biên Hòa thăm nhau và tạ ơn Thiên Chúa. Nhìn nhau cười với bao nhiêu thay đổi hình vóc và gương mặt. Có người ở trại cải tạo trên 10 năm. Có anh em hảy còn là phó xứ. Và đã có hai người về với Chúa.
Tiếng ca đoàn thanh thoát làm chạnh lòng mỗi người chúng tôi : “Dầu cho núi lỡ sông bồi, con xin chọn Ngài, con xin chọn Ngài”. Tóc đã bạc màu hoa râm. Âm thầm lê bước, nối tiếp cuộc hành trình.
Chúng con xin dâng Chúa những vui buồn, thành công hay thất bại chuỗi ngày qua. Xin gìn giữ chúng con trong những năm còn lại của cuộc đời linh mục.
18.06.2003 : Cha Yuse Phạm Minh Công làm cha sở Giáo xứ Phú Thọ Hạt Pleiku, GP Kontum. Ngài được 70 tuổi, 38 năm linh mục, 13 năm tù đày. Lần đầu tiên Ngài được làm cha sở.
Bài hát “Con hân hoan tiến lên Bàn thờ Chúa” có người tiếu lâm bảo phải hát thành “Con lom khom tiến lên bàn thờ Chúa”
Ngài tuyên bố, nay mai sắp xin hưu.
Xin Chúa ban cho ngài sức khỏe dồi dào và kéo dài tuổi thọ của Ngài.
20.06.2003 : Một chút trong cuộc đời.
2.07.2003 : Nuôi Trâu đạp ruộng cấy lúa.
Tôi thám hiểm con đường nối liền Kontum-Quãng Ngãi còn đang thi công. Đèo Viôla ngoằn ngoèo khúc khủy cao ngất. Vách đá chênh vênh.
Trước năm 1845, đã có ông Cã Ninh tìm đường lên miền Kontum hôm nay mà không thành công. Núi cao vách đá thế nầy, không sức nào leo được. Lại nữa sắc tộc Hre chuyên xuống đồng bằng đột xuất bắt người hôi của nên không có đường liên lạc.
Dân tộc vùng nầy nuôi trâu nhiều. Họ đánh trâu đạp ruộng nước mà cấy lúa. Các dân tộc Tây nguyên bao giờ cũng dựng làng gần con sông con suối. Và uống nước vọt ra trên mặt đất, thường gọi là “Vọt nước”.
Con người là phần của thiên nhiên. Ăn mừng trời mưa vì mưa cho nước. Giản đơn là thế nên khi về ở Trung Tâm Vãng Lai,
họ mở rơbinet nước thật to. Dùng rồi cứ để vậy mà đi. Lần đầu, tôi nhắc nhớ. Họ nhìn ngơ ngác, không hiểu vì sao.
15.07.2003 : Cuộc sống thiên nhiên.
Sống không đồng hồ, không lịch. Chỉ theo mặt trời và mùa màng thời tiết. Không ý niệm về thời gian.
Buổi sáng tấp nập : phụ nữ giã gạo, lấy nước, nấu cơm, ăn cơm. Đàn ông coi lại dụng cụ, ngồi hút thuốc nhàn nhã bên bếp lửa chờ cơm.
Khi mặt trời đã lên cao(khoảng chín giờ), họ mới ra khỏi nhà đi làm. Nơi làm chính là rừng, là rẩy, là sông suối.
Mỗi tối, các gia đình quây quần bên nhau. Ánh lửa bập bùng để ca hát, vui cười, hàn huyên. Đó là thời khắc đầm ấm, hạnh phúc, chan hòa nhất.
4.08.2003 : Mắm ruốt ru con.
Chúng tôi cố gắng chọn loại mắm ruốc ngon, hợp vệ sinh để cung cấp cho bà con. Họ như lạc loài nơi chợ búa phố phường. Như con nai ngơ ngác lạc vào thành phố. Con buôn thì ham lợi.
Một bà mẹ có đứa con khó tính khóc quá. Sẳn đang cầm gói mắm ruốc trong tay, bà quẹt mắm đút vào miệng thằng bé. Nó chép miệng thích thú. Nín khóc ngay. Cách dỗ em thật kỳ diệu vô tiền khoáng hậu trong thế gian.
Tự nhiên tôi nhớ tới hình ảnh trong Truyền hình bảo vệ thú vật. Thấy những người tình nguyện chuyên môn lo chăm sóc những con vật bị bỏ rơi, bị thương tật. Tôi thầm ước những con người thiểu số thiếu may mắn nầy được hưởng cho dù một phần nhỏ tình thương ấy.
12.08.2003 : Bình an với số phận.
Nhận sự sống như một món quà tặng. Còn sự chết như là ý của Thượng Đế. Không than van, không rên rỉ, không lo âu trước cái chết. Bình an đón nhận như cây cối phải tàn. Họ không có gì để trăn trối. Đó là những hình ảnh tôi cãm nhận được của những người con Núi Rừng.
5.09.2003 : Dân tộc Brâu.
Làng Dak Mê xã Pơ-y huyện Ngọc Hồi, là làng duy nhất của dân tộc Brâu trên dãy Trường Sơn nầy. Họ chỉ còn tất cả là 262 nhân khẩu, với 55 hộ gia đình. Trước đây, họ du cư trong rừng sâu. Sống với nghề săn bắt, hái lượm rau rác, hoa quả. Họ vẫn có một ngôn ngữ riêng biệt.
Lạy Chúa, xin hãy đến với dân tộc nầy vì chính Chúa đã dựng nên họ.
10.09.2003 : Cấp cứu một người bị cây ngã đập.
21g00 điện thoại réo…. Tôi và người trợ tá âm thầm lao vào đêm tối. Đường đi được đèn xe chiếu sáng như một con đường hầm.
Từ xa, tôi thấy đóm lửa bập bùng. Dân làng chỉ vài chục nóc nhà, họ kéo nhau ra bờ đường, bên mép rừng, đốt lửa ngồi đợi. Trời không ánh sao. Đêm càng thêm lạnh lùng. Độ cao trên 2000m
12.09.2003 : Cấp cứu em bé 9 tháng tuổi.
10g00 tối. Điện thoại reo. Trạm xá Xã Dak Ang cách Kontum 115 Km báo cáo một em bé 9 tháng tuổi, viêm khí quản, nghẹt thở. Tôi lái xe đến nhà tư anh tài xế. Đem vắng lặng. Chúng tôi thay tay lái cho nhau, qua đồi núi, tiến về Dak Ang. Đường về đêm, thật vắng lặng.
1.11.2003. Anh em về dọn mình xưng tội đông đúc. Tôi có một nhận xét như sau : người đầu tiên ra làm việc đền tội, quì lại lâu thì các người tiếp sau cũng quì lâu. Và ngược lại. Nếu người đầu tiên đột xuật đi đàng thánh giá, bao nhiêu người khác cũng đều làm theo. Đột nhiên có ai khác bản lĩnh cao làm cách khác thì những người sau lại tiếp tục làm theo. Đó là cuộc sống “đàn, bầy” của dân tộc bán khai. Họ còn đóng khung trong tập thể. Tập thể cũng có cái hay nhưng cũng có nhiều cái làm họ chậm tiến.
14.11.2003 : Bệnh nhân tâm thần.
Ông Biên mắc bệnh tâm thần. Lên cơn, đốt nhà cửa, đánh vợ con. Nhiều lần ông đã đến ở lại với chúng tôi.
Bỗng nhiên hôm nay nghe tin ông đã thắt cổ tự vận. Buồn man mác, nhớ thương một con người đã đến với tôi.
Trong niên khoá nầy, tôi đã giúp được 62 bệnh nhân. Một số người được lành bình thường. Một số cơn bệnh giãm đi nhiều. Một số tái đi tái lại. Chúng tôi vẫn tiếp tục lấy thuốc cho họ trong hai ba năm điều trị.
Nhờ công sức, tiền bạc một số ân nhân mà tôi không bao giờ quen biết.
Xin Chúa trả công bội hậu. Xin hãy tiếp tục đồng hành với chúng tôi.
“Chỉ có điều nầy là chúng ta phải nhớ đến những người túng thiếu, điều mà tôi vẫn cố gắng làm” (Gal 2,10).
17.11.2003 : Bà góa và đứa con trai duy nhất.
Khác với Tin Mừng, đây đứa con trai đứng lặng yên nhìn mẹ mê man sắp chết trên giường bệnh tại Bệnh viện Tỉnh. Anh buồn đứng nhìn mẹ như cột trồng. Tôi gọi khẻ anh : “ Con ăn uống gì chưa?” Anh trả lời gọn lỏn, lạnh lùng : “At” hiểu được là “bụng trống không” (Mùa chay tiếng Xêđang là rơnó at).
Đây chính là lúc tôi thay mặt các ân nhân xa gần, dúi vào túi áo anh số tiền cần thiết.
20.11.2003 : Một người đàn ông nằm chửa bệnh tại trạm xá vãng lai của Nhà thờ Chính tòa. Ông xin được rửa tội vì linh cảm mình không thể sống nữa. Ở thôn làng, ông đã từng tham gia kinh nghĩa với họ đạo. Sáng hôm sau, ông đã qui hồi tiên tổ. Tôi chở xác ông về làng Yang Lố gần biên giới Lào.
Đó là thành quả của các anh em Iao Phu(người quản lý họ đạo thay cho linh mục). Chính họ là người gương mẫu, dạy dỗ, hướng dẩn họ đạo, chủ trì các buổi cầu kinh.
20.11.2003 : Bàn tay ma.
Trời đã tối. Cần phải chở một xác chết về lại làng. Nằm trơ trên chiếc xe. Không có hòm. Anh tài xế và cô trợ tá lảnh phần đi trong đêm nay. Qua quãng đường dài mỏi mệt, xe dựng lại nghỉ xả hơi. Xe tiếp tục chuyển bánh. Chỉ vài phút sau, anh tài xe cảm thấy bàn tay lạnh buốt đánh chạch vào sau cổ. Phản ứng tự động, anh đưa nhanh tay gở bàn tay lạnh buốt ra. Không phải bàn tay, mà là con ểnh ương, chân dài lều phều. Nó từ sau xe nhảy bổ lên. Có lẻ khi xuống xe nghỉ, cửa xe mở và có ánh đèn trong xe, con ểnh ương tập kích phóng lên thùng xe. Và sau đó nó thấy ánh sáng của hàng đèn chổ tay lái nên phóng tới. Anh tài xế một phen hú vía vì suốt chặng đường, anh cũng đã ngờ ngợ với chiếc thây nằm lắc lư phía sau lưng.
Khen cho anh tài xế khá trầm tỉnh. Nếu người nhát gan chết điến thì xe sẽ lọt xuống hố. Nói đúng hơn Thiên Chúa gìn giữ chúng con trong lúc gian nan khốn khó.
25.11.2003 : Thôn Dak Hnai kêu cứu. Một em bé té ngồi vào nồi cháo heo. Phỏng cả lưng và bàn tọa. Qua một đêm, vết lở chảy nước. Em chỉ nằm sấp
Chở về Thị Xã Kontum. Tôi tìm đến bà lang với thuốc gia truyền. Qũa thật là hay ! Chỉ một tuần sau, đứa nhỏ lành da về lại làng.
1.12.2003 : Bọc ảnh Đức Mẹ trong túi.
Anh em Xêđang về Kontum thường chuộc ảnh chuổi rất nhiều. Có người bảo rằng : “Con đi đâu bọc tượng Đức Mẹ nhỏ nầy trong túi. Lên nương rẫy, vào rừng sâu, chổ nào thuận tiện, lúc nghỉ ngơi, con đặt tượng ảnh Mẹ ra, quì lần hột và cầu nguyện”.
Ôi lạy Mẹ khoan dung, xin thương phù hộ anh em Xêđang mà Chúa đã giao phó cho con trên Dãy Trường Sơn nầy.
7.12.2003 : Hủ bột bà góa Sarepta.
Tâm trạng bà góa Sarepta lấy bột trong hủ làm bánh cho nhà tiên tri mà cứ sợ nó vơi hết cũng là tâm trạng của tôi hôm nay. Sáng sớm đã có người tới than khóc. Điện thoại cấp cứu. Mổ xẻ ở Bệnh viện. Tiền xe về lại làng. Người bệnh tâm thần cần đi điều trị v.v...
Nhìn túi tiền chẳng là bao nhiêu. Tôi lấy đức tin nhủ thầm : “đấy Chúa đến mà!”. Và lòng vẫn cứ lo nom nóp chẳng còn tiền đâu nửa. Nhưng rồi Chúa vẫn cho hủ bột không nhiều mà cũng không vơi.
Quả thật nếu có dư đầy, thì tôi chẳng có gì để phải tin, để cầu xin và ước mơ. Cầu xin có người đồng hành. Ước mơ thấy người nghèo được ủi an và người bệnh hoạn được vơi đi nổi khổ đau.
Năm hết Tết về
Con kính bái quí tôn sư
Chúc mừng quí anh em
linh mục cùng lớp
trong niềm thương nổi nhớ
Xin Thiên Chúa chúc lành
cho quí thân bằng cố hửu
và quí Ân nhân xa gần
chưa một lần quen biết
và những ai đã nâng đỡ
đời sống linh mục con
là Mục tử
Dãy Trường Sơn
Ai muốn liên lạc với Lm Simon Bình, xin gửu thư trực tiếp cho Ngài
hoặc liên lạc email: info@vietcatholic.net, chúng tôi sẽ chỉ dẫn
23-12-2002: Chúc Mừng Giáng Sinh
Vi hành trong Dãy Trường Sơn ngút ngàn trầm lắng
Dừng chân chốc lát, lòng con tưởng nhớ
Quí tôn sư
Qúi Anh em linh mục đồng lớp
Quí thân bằng cố hửu
Quí Ân nhân
Quí CVK
Mặt trời vẩn tỏa sáng
Chim vẩn hót ca
Bông hoa vẩn tỏa mùi hương
Suối vẩn reo - Sông vẩn chảy
Núi vẩn trơ gan cùng tuế nguyệt
Con vẩn cám tạ Thiên Chúa
Và nhớ ơn những ai đóng góp
vào cuộc sống Linh Mục con trên Dãy Trường Sơn.
24.12.2002 : Bầu khí Giáng Sinh :
Gió đông về. Se lạnh. Hiu hắt. Từng đoàn người lử thứ kéo về Nhà thờ Chánh tòa để dọn mình mừng Lể Chúa Giáng Sinh. Nam phụ lão ấu, sơ sinh đều có đủ. Mù lòa. Què quặt. Phung cùi. Điếc lác. Thanh thản cảnh màn trời chiếu đất. Hớn hở như dân Do Thái được về Nhà Chúa thuở nào.
Tiền bạc chỉ đủ hai chuyền xe đi về. Họ đã vào rừng kiếm vỏ bời lời (dùng làm nhang), mật ong, làm mì (củ sắn) khô, bán năm ba con gà để có tiền trẩy hội lên đền.Với cả niềm tin yêu.
Dân Thiên Chúa. Họ sống không phân biệt giàu nghèo. Không chen lấn tranh giành. Không ồ chấy lộn xộn mất an ninh. Giáo Phận ân cần đón tiếp, sưởi ấm con cái như “gà mẹ ấp ủ đàn con dưới cánh”.
Một đĩa cơm qua bữa. Một cây bánh mì. Một tô bún. Một chai Pepsi giải khát. Tất cả đều đồng giá 1000đ ( 1USD#15.600đ)
13 ngàn người. Có ngày ĐGM phải giải tội đến 900 người mới được ngơi nghỉ. Thánh Lễ đêm Gíang Sinh. Ánh đèn lung linh qua màn sương rơi. Mọi miệng lưởi hát vang lời ca : “Ơ kon nge lơng lap pran tơpă”(ôi Hài Nhi thánh đức). Cái giá lạnh làm con người cãm nghiệm như Thiên Chúa đang đến thực sự năm nào trên cánh đồng Bêlem.
Tôi chỉ đứng câm lặng bên Giám Mục chủ tế, không đọc ra tiếng(vì tuần nay giải tội liên tiếp cho bao nhiêu ngàn người)mà như nhủ thầm :”Đêm nay con chẳng có gì dâng Chúa hài nhi”
27.12.02 : Đi đường Trường Sơn về Quãng Nam thăm lại quê cha quê mẹ.
Lần đầu tiên, tôi là linh mục của Gíao Phận Kontum đi con đường Trường Sơn(còn gọi là đường mòn Hồ Chí Minh) về Quảng Nam dài 300Km. Phải qua đèo Lò Xo dài 25Km. Núi cao trên 2500m. Vực sâu. Mây vần vũ quanh triền. Vài thác nước bên vệ đường, trắng xóa như tóc tiên.
“Một quang cảnh mà đâu đâu cũng nói về Thiên Chúa. Mỗi lần mà tôi có dịp đến miền núi và chiêm ngắm những cảnh nầy, tôi cám tạ Thiên Chúa vì vẻ đẹp huy hoàng của tạo vật.... Núi non, cách riêng, không những tạo nên một cảnh tuyệt vời để chiêm ngắm, nhưng hầu như còn là một trường tôi luyện cuộc đời. Ta học được nơi đó những nổ lực đễ đạt tới mục tiêu, tương trợ nhau trong những lúc gặp khó khăn, cùng nhau thưởng nghiệm sự lặng yên, nhận ra mình nhỏ bé biết bao trước một cảnh sinh huy hoàng và tráng lệ như thế." (Giáo Hoàng Yoan Phaolo I I 7-20 juillet 1999)
Ngày xưa, khoảng trên 100 năm, người Thượng Xêđang (khi ấy gọi là Mọi) xuống đồng bằng cướp của bắt người về làm tôi hoặc bán cho người Lào.
30.12.2002 : Núi Ngọc Linh và Sông Pơkô.
Con ơi ! dù đi đâu, ở đâu con vẫn không
quên con là người quê mình
Cao thứ hai cả nước là núi Ngọc Linh
Dòng sông Pơkô đã đi vào huyền thoại
Như bản trường ca ngàn năm vọng mãi
...... . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Cha và con mang đến mọi người
Cây đã trồng cây phải xanh tươi
Trái đã kết trái phải ngon ngọt
Là chim chim phải hót
Là hoa hoa phải thơm
Dẫu tuổi ngày càng cao cha vẫn âm thầm
Như con ong ngày ngày tích mật
Dẫu thấp hơn ngọn Fan-xi-pan, nhưng so với bất cứ núi nào
Thì Ngọc Linh vẫn cao chất ngất.
Dòng Pơkô vẫn say trái tim người
Đất quê mình thiêng liêng lắm con ơi !
Dẫu đi đâu ở đâu ta vẫn nhớ.” ( Đậu thanh Hoa)
Trường Sơn với núi Ngọc Linh đầy sâm quí. Chất lượng ngang hàng với sâm Đại Hàn. Dak Glei miền cao hơn 2550m.Mỗi năm từng đàn ong bay về đây cho mật. Dân làng tạo bộng ở những cây cao cho ong đến. Người được vài ba chục lít, kẻ thâu vài ba trăm lít mật. Hết mùa, ong lại đi. Rồi thế hệ khác lại về.
Ôi lạy Thiên Chúa, Ngài vẫn tiếp tục nuôi dân Ngài như xưa trong sa mạc bằng manna và mật ong rừng. Nhưng nào ai có biết ! Xin hãy mở rộng đôi mắt và tâm hồn chúng con.
15.01.2003: Bộ chiêng - Gia bảo quí hóa nhất trong gia đình là ghè ché, chiêng cồng, khăn khố.
Bộ chiêng gồm có trên 15 chiếc lớn nhỏ. Biểu dương tính đại đồng, tập thể của bộ tộc. Mỗi nhạc công thủ một dấu nhạc, sống chan hòa trong một khúc ca. Gỏ lúc nào. Gỏ một cái. Gỏ hai cái liên tiếp. Gỏ nhấn lệch(syncope). Một người gỏ sai nhịp, sai lúc, cả đoàn cồng chiêng như khựng lại. Các thành viên làm nên một cuộc sống.
Cồng chiêng cũng có thể nói được là linh hồn của một dân tộc thiểu số. Âm thanh và điệu nhạc đã ăn sâu vào máu thịt của từng người từ khi lọt lòng mẹ. Lớn lên trong tiếng cồng chiêng bao nhiêu ngày lể hội quanh năm. Đến khi vĩnh biệt núi sông, tiếng cồng chiêng vang vọng đưa tiễn người quá cố về cỏi xa xăm với âm điệu u hoài, ảm đạm và day dứt.
Tiếng chiêng thay con người thể hiện buồn vui, căm giận, thanh nhàn. Hơn nữa còn biểu hiện lòng tự tin, sự giàu có và tính hùng mạnh của cộng đồng. Liên đới với nhau hằng ngày. Họ không thể sống tách rời cộng đồng. Cái tốt và cái xấu.
Phải ba năm cùng chung sống với anh em dân tộc thiểu số, tôi mới cảm nghiệm những điều nói trên. Tiếng cồng chiêng từ từ thấm vào tâm hồn tôi để tôi có thể cùng vui buồn với họ trong Dãy Trường Sơn đèo heo hút gió nầy.
1.02.2003 : Tết Quí Mùi 2003
Sáng đi trảy lộc đón xuân
Ra ngõ vừa gặp bạn thân xông nhà
Bạn mừng lời đẹp ý hoa
Khác nào được lộc nhân ba bốn lần.
Anh em Thượng đi tết một nãi chuối xanh với đôi ba trứng gà. Chuối xanh vì nếu đem chuối chín qua đèo vượt suối nó rụng hết. Rồi tới ngày cũng phải chín. Nhớ lại khi tôi ở Kơbey, có người mượn con heo để làm đám cưới. Về sau anh ta trả lại một con heo con. Tôi hỏi mượn heo lớn mà lại trả heo con. Anh trả lời gọn lỏn : " Rồi nó sẽ lớn chứ"
Mừng Tết Đức Giám Mục, anh em Thượng đem về hai con chim cu. Tôi lảnh phần đem về nuôi để nghe chim gáy. Nhắm tướng chim cu theo các cụ ngày xưa : Đầu nhỏ, mỏ đinh - Cườm đóng nhặt quanh - Mình thon bắp chuối - Lông xoay con cuối - Chân ngắn đỏ sần - Tiếng vọng hồ âm - Gáy hoài không mệt.
Mồng Hai Tết : Cha Yoachim Nên đang dâng lể tại làng Kon Jơdreh bổng yếu mệt. Cuối lể hai Iao phu dìu ngài về phòng. Tê liệt bán thân.
Con người linh mục 75 tuổi. Về hưu. Nhưng vẫn hăng say với việctông đồ. Giờ phút nầy ngài bị loại ra khỏi vòng chiến. Anh em Linh mục quá ít. Công việc quá tải.
”Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán : lúa chín thì nhiều, thợ gặt thì ít". Xin Chúa ban nhiều thợ biết nhiệt thành... "
Mồng Ba Tết : 7g00 điện thoại cấp cứu. Một bà mẹ tại làng Dak Xut sinh không ra. Cách Kontum 100 Km đường rừng. Nước ối đã vỡ. Điễm tâm qua loa với vài lát bánh tét, tôi lái xe lên đường với cô trợ tá.
Ôi Mẹ Maria, xin thương đến những người mẹ nầy.
5 Tết. Chúng tôi đến tiển đưa cha Nguyễn thúc Nên về Saigon chửa bệnh trên một chiếc xe cứu thương. Lòng ngậm ngùi. Một người anh 75 tuổi vẫn còn miệt mài sống phục vụ anh em Bahnar, Jơlơng cho đến giây phút tàn hơi kiệt sức ngay cuối Thánh Lể ngày Mồng Hai Tết.
Hôm nay cũng là ngày tôi đi chào Năm Mới Chính quyền địa phương Xã Dak Pơxi và Dak Hring. Đường vào hai xã nầy gập ghềnh hiễm trở. Núi cao trùng điệp. Có đoạn đường nhiêu khê phải cài đến số mạnh. Chính trên con đường nầy các vị truyền giáo tiên khởi đã từng đi bộ từng bước. Rồi bằng ngựa. Rồi bằng xe đạp. Rồi bằng môtô. Và hôm nay tôi đi bằng chiếc Musso tân tiến của thời đại. Niềm an ủi là hai chính quyền địa phương đã niềm nở tiếp đón tôi như làn khí mát của Năm Mới.
10.02.2003 : Đưa người chết về thôn làng.
Tận dụng chiếc Musso, xếp ghế lại, tôi đặt chiếc quan tài vào trong. Chở về làng Yang Lố Kram, gần biên giới Lào. Vừa bước xuống xe, người nhà khóc òa lên inh ỏi. Tiếng khóc báo tang. Người làng lần lượt chạy tới. Tiếng khóc lan truyền từ người nầy tới người kia. Cả làng đều khóc.
Tôi đứng lặng người. Không hiểu mình đang ở dương gian hay nơi âm phủ. Nhưng lòng tôi dịu lại khi thấy họ thương yêu nhau. Tình yêu chân thật và sơ khai của một tập thể.
Tôi ra hiệu. Họ lặng thinh. Và lời kinh tôi cùng họ dâng lên Chúa cho người quá cố. Mặt trời sắp lặn. Không gian trầm lắng. Buồn tênh ! Từ biệt cho hôm nay và mai sau gặp lại trên Quê trời.
25.02.2003 : Tin buồn Cha Léoni qua đời tại Paris.
Ngài đã từng là Cha Sở Kon Kơla gồm các làng anh em Xêđang thuộc Xã Pơxi nầy. Trong những năm chiến tranh, Ngài bị bắn gãy tay. Ngài vẩn tiếp tục coi sóc những đứa con của Rừng Núi nầy cho tới ngày giải phóng 1975. Và hôm nay, tôi là người nối tiếp những bước chân của Ngài.
1.03.2003 : Dùng điện thoại.
Ngày nay vùng xa xôi hẻo lánh đều có điện thoại, ít nhất ở cơ sở hành chính và trạm y tế. Anh em chưa bao giờ dùng điện thoại và không có quan niệm nào về điện thoại.
Mỗi lần gọi đến xin xe cấp cứu, tôi nghe tiếng thở hổn hển sợ sệt. Họ có cảm nghỉ là tôi biết họ.
- “Ai đang nói chuyện với tôi đây ?”
- “ Dạ(thưa) con”.
Tôi đã dặn dò chỉ bảo nhiều lần. Nhưng bao giờ cũng nhận được hai tiếng “Dạ con”.
25.03.2003 : Ngày bài lao quốc tế.
Rất nhiều bệnh nhân lao phổi trong anh em dân tộc thiểu số. Họ không có quan niệm vi trùng lao hay lây. Khạt nhổ. An uống chung, tay bốc đưa vào miệng, liếm tay. Uống chung rượu cần. Hút thuốc lá phì phà khói đầy nhà.
Nhiều lần tôi phải chở cấp cứu những người lao nặng trong chiếc Musso nhỏ bé. Tôi phải mở lớn kính xe. Cho hơi gió thổi mạnh, hy vọng tống ra ngoài những con vi trùng lao. Và tôi chỉ mong chờ Thiên Chúa thương cứu tôi khỏi lây lao.
Đa số các Iao Phu thay mặt cha sở coi sóc dạy dỗ các thôn làng đều bị lao. Họ được trọng nễ. Tiệc tùng, lễ lạc, cúng bái họ đều được mời uống rượu chung cần liên miên. Khi phải ngồi chung hội họp, học hành, trao đổi hàng ngày hàng giờ với họ, thật là ngại ngùng.
Năm năm phục vụ mà hai lá phổi tôi hảy còn an toàn. Tôi tin thật chỉ có Thiên Chúa phù hộ tôi thôi.
17.04.2003 : Ông Trưởng Viện Nghiên cứu tôn giáo Trung Ương.
Từ Hà Nội vào, ông đến gặp tôi và hỏi : - “Các linh mục đã làm thế nào để đồng bào thiểu số tin theo đạo ?”
- “Chúng tôi đến sống với họ, yêu thương họ, chia sẻ thân phận với họ. Và chúng tôi nói với họ rằng có Thiên Chúa là Đấng dựng nên muôn loài và là Cha yêu thương mọi người. Và cuộc vĩnh cữu đời sau”.
Vô thần và hửu thần là hai con đường song song không bao giờ tương phùng hội ngộ. Tôi thầm nghĩ người vô thần đi nghiên cứu tôn giáo(hửu thần) không làm sao mà hiểu được. Một số cán bộ thường hỏi giáo dân dự lể Gíang Sinh tại Kontum về : “các ông cha đạo cho anh em những cái gì? v.v... ”
3.05.2003 : Cấp cứu một bà mẹ sanh đôi ở Dak Gía. Một em bé chết. Người mẹ đang trong tình trạng sưng ù cả người.
4.05.2003 : Cấp cứu một bệnh nhân nam đau nặng, chân bị liệt.
5.05.2003 : Cấp cứu người mẹ sanh xong hai bà ngày, đau đi không được như trật khớp xương chậu.
26.05.03 : Một người mẹ bồng bế con còn bú mốm, nuôi chồng ở bệnh viện tỉnh, đến xin giúp củi, gạo và thức ăn. Bà ở thôn làng Dak Blái, xa cách Kontum hàng 100Km rừng sâu hiểm trở.
Tôi rất quí trọng những người mẹ vì đó là hình ảnh sống động của mẹ tôi, của tình mẫu tử, của lòng quãng đại vị tha vô bờ bến. Không hình ảnh nào đẹp hơn hình ảnh người mẹ trong cuộc đời.
13.06.2003 : Mừng Dương Khánh.
Giáp 35 năm linh mục. Con số 35 trùng vào năm Mùi là năm con Dê. 12 anh em linh mục cùng lớp còn ở Quê Nhà, họp mặt tại Giáo xứ Tân Mai Biên Hòa thăm nhau và tạ ơn Thiên Chúa. Nhìn nhau cười với bao nhiêu thay đổi hình vóc và gương mặt. Có người ở trại cải tạo trên 10 năm. Có anh em hảy còn là phó xứ. Và đã có hai người về với Chúa.
Tiếng ca đoàn thanh thoát làm chạnh lòng mỗi người chúng tôi : “Dầu cho núi lỡ sông bồi, con xin chọn Ngài, con xin chọn Ngài”. Tóc đã bạc màu hoa râm. Âm thầm lê bước, nối tiếp cuộc hành trình.
Chúng con xin dâng Chúa những vui buồn, thành công hay thất bại chuỗi ngày qua. Xin gìn giữ chúng con trong những năm còn lại của cuộc đời linh mục.
18.06.2003 : Cha Yuse Phạm Minh Công làm cha sở Giáo xứ Phú Thọ Hạt Pleiku, GP Kontum. Ngài được 70 tuổi, 38 năm linh mục, 13 năm tù đày. Lần đầu tiên Ngài được làm cha sở.
Bài hát “Con hân hoan tiến lên Bàn thờ Chúa” có người tiếu lâm bảo phải hát thành “Con lom khom tiến lên bàn thờ Chúa”
Ngài tuyên bố, nay mai sắp xin hưu.
Xin Chúa ban cho ngài sức khỏe dồi dào và kéo dài tuổi thọ của Ngài.
20.06.2003 : Một chút trong cuộc đời.
- Một chút những viên đá nhỏ có thể tạo thành một ngọn núi lớn.
- Một chút những bước chân có thể đạt đến hàng dặm.
- Một chút hành động của tình yêu thương và lòng tử tế cho thế giới những nụ cười tươi tắn nhất.
- Một chút lời an ủi có thể làm dịu bớt những đau đớn to tát.
- Một chút ân cần có thể làm khô đi những giọt nước mắt.
- Một chút ánh sáng từ những ngọn nến có thễ làm cho đêm không còn tối nữa.
- Một chút ký ức, kỷ niệm có thể hữu ích cho nhiều năm sau.
- Một chút những giấc mơ có thể dẫn đường cho những công việc vĩ đại.
2.07.2003 : Nuôi Trâu đạp ruộng cấy lúa.
Tôi thám hiểm con đường nối liền Kontum-Quãng Ngãi còn đang thi công. Đèo Viôla ngoằn ngoèo khúc khủy cao ngất. Vách đá chênh vênh.
Trước năm 1845, đã có ông Cã Ninh tìm đường lên miền Kontum hôm nay mà không thành công. Núi cao vách đá thế nầy, không sức nào leo được. Lại nữa sắc tộc Hre chuyên xuống đồng bằng đột xuất bắt người hôi của nên không có đường liên lạc.
Dân tộc vùng nầy nuôi trâu nhiều. Họ đánh trâu đạp ruộng nước mà cấy lúa. Các dân tộc Tây nguyên bao giờ cũng dựng làng gần con sông con suối. Và uống nước vọt ra trên mặt đất, thường gọi là “Vọt nước”.
Con người là phần của thiên nhiên. Ăn mừng trời mưa vì mưa cho nước. Giản đơn là thế nên khi về ở Trung Tâm Vãng Lai,
họ mở rơbinet nước thật to. Dùng rồi cứ để vậy mà đi. Lần đầu, tôi nhắc nhớ. Họ nhìn ngơ ngác, không hiểu vì sao.
15.07.2003 : Cuộc sống thiên nhiên.
Sống không đồng hồ, không lịch. Chỉ theo mặt trời và mùa màng thời tiết. Không ý niệm về thời gian.
Buổi sáng tấp nập : phụ nữ giã gạo, lấy nước, nấu cơm, ăn cơm. Đàn ông coi lại dụng cụ, ngồi hút thuốc nhàn nhã bên bếp lửa chờ cơm.
Khi mặt trời đã lên cao(khoảng chín giờ), họ mới ra khỏi nhà đi làm. Nơi làm chính là rừng, là rẩy, là sông suối.
Mỗi tối, các gia đình quây quần bên nhau. Ánh lửa bập bùng để ca hát, vui cười, hàn huyên. Đó là thời khắc đầm ấm, hạnh phúc, chan hòa nhất.
4.08.2003 : Mắm ruốt ru con.
Chúng tôi cố gắng chọn loại mắm ruốc ngon, hợp vệ sinh để cung cấp cho bà con. Họ như lạc loài nơi chợ búa phố phường. Như con nai ngơ ngác lạc vào thành phố. Con buôn thì ham lợi.
Một bà mẹ có đứa con khó tính khóc quá. Sẳn đang cầm gói mắm ruốc trong tay, bà quẹt mắm đút vào miệng thằng bé. Nó chép miệng thích thú. Nín khóc ngay. Cách dỗ em thật kỳ diệu vô tiền khoáng hậu trong thế gian.
Tự nhiên tôi nhớ tới hình ảnh trong Truyền hình bảo vệ thú vật. Thấy những người tình nguyện chuyên môn lo chăm sóc những con vật bị bỏ rơi, bị thương tật. Tôi thầm ước những con người thiểu số thiếu may mắn nầy được hưởng cho dù một phần nhỏ tình thương ấy.
12.08.2003 : Bình an với số phận.
Nhận sự sống như một món quà tặng. Còn sự chết như là ý của Thượng Đế. Không than van, không rên rỉ, không lo âu trước cái chết. Bình an đón nhận như cây cối phải tàn. Họ không có gì để trăn trối. Đó là những hình ảnh tôi cãm nhận được của những người con Núi Rừng.
5.09.2003 : Dân tộc Brâu.
Làng Dak Mê xã Pơ-y huyện Ngọc Hồi, là làng duy nhất của dân tộc Brâu trên dãy Trường Sơn nầy. Họ chỉ còn tất cả là 262 nhân khẩu, với 55 hộ gia đình. Trước đây, họ du cư trong rừng sâu. Sống với nghề săn bắt, hái lượm rau rác, hoa quả. Họ vẫn có một ngôn ngữ riêng biệt.
Lạy Chúa, xin hãy đến với dân tộc nầy vì chính Chúa đã dựng nên họ.
10.09.2003 : Cấp cứu một người bị cây ngã đập.
21g00 điện thoại réo…. Tôi và người trợ tá âm thầm lao vào đêm tối. Đường đi được đèn xe chiếu sáng như một con đường hầm.
Từ xa, tôi thấy đóm lửa bập bùng. Dân làng chỉ vài chục nóc nhà, họ kéo nhau ra bờ đường, bên mép rừng, đốt lửa ngồi đợi. Trời không ánh sao. Đêm càng thêm lạnh lùng. Độ cao trên 2000m
12.09.2003 : Cấp cứu em bé 9 tháng tuổi.
10g00 tối. Điện thoại reo. Trạm xá Xã Dak Ang cách Kontum 115 Km báo cáo một em bé 9 tháng tuổi, viêm khí quản, nghẹt thở. Tôi lái xe đến nhà tư anh tài xế. Đem vắng lặng. Chúng tôi thay tay lái cho nhau, qua đồi núi, tiến về Dak Ang. Đường về đêm, thật vắng lặng.
1.11.2003. Anh em về dọn mình xưng tội đông đúc. Tôi có một nhận xét như sau : người đầu tiên ra làm việc đền tội, quì lại lâu thì các người tiếp sau cũng quì lâu. Và ngược lại. Nếu người đầu tiên đột xuật đi đàng thánh giá, bao nhiêu người khác cũng đều làm theo. Đột nhiên có ai khác bản lĩnh cao làm cách khác thì những người sau lại tiếp tục làm theo. Đó là cuộc sống “đàn, bầy” của dân tộc bán khai. Họ còn đóng khung trong tập thể. Tập thể cũng có cái hay nhưng cũng có nhiều cái làm họ chậm tiến.
14.11.2003 : Bệnh nhân tâm thần.
Ông Biên mắc bệnh tâm thần. Lên cơn, đốt nhà cửa, đánh vợ con. Nhiều lần ông đã đến ở lại với chúng tôi.
Bỗng nhiên hôm nay nghe tin ông đã thắt cổ tự vận. Buồn man mác, nhớ thương một con người đã đến với tôi.
Trong niên khoá nầy, tôi đã giúp được 62 bệnh nhân. Một số người được lành bình thường. Một số cơn bệnh giãm đi nhiều. Một số tái đi tái lại. Chúng tôi vẫn tiếp tục lấy thuốc cho họ trong hai ba năm điều trị.
Nhờ công sức, tiền bạc một số ân nhân mà tôi không bao giờ quen biết.
Xin Chúa trả công bội hậu. Xin hãy tiếp tục đồng hành với chúng tôi.
“Chỉ có điều nầy là chúng ta phải nhớ đến những người túng thiếu, điều mà tôi vẫn cố gắng làm” (Gal 2,10).
17.11.2003 : Bà góa và đứa con trai duy nhất.
Khác với Tin Mừng, đây đứa con trai đứng lặng yên nhìn mẹ mê man sắp chết trên giường bệnh tại Bệnh viện Tỉnh. Anh buồn đứng nhìn mẹ như cột trồng. Tôi gọi khẻ anh : “ Con ăn uống gì chưa?” Anh trả lời gọn lỏn, lạnh lùng : “At” hiểu được là “bụng trống không” (Mùa chay tiếng Xêđang là rơnó at).
Đây chính là lúc tôi thay mặt các ân nhân xa gần, dúi vào túi áo anh số tiền cần thiết.
20.11.2003 : Một người đàn ông nằm chửa bệnh tại trạm xá vãng lai của Nhà thờ Chính tòa. Ông xin được rửa tội vì linh cảm mình không thể sống nữa. Ở thôn làng, ông đã từng tham gia kinh nghĩa với họ đạo. Sáng hôm sau, ông đã qui hồi tiên tổ. Tôi chở xác ông về làng Yang Lố gần biên giới Lào.
Đó là thành quả của các anh em Iao Phu(người quản lý họ đạo thay cho linh mục). Chính họ là người gương mẫu, dạy dỗ, hướng dẩn họ đạo, chủ trì các buổi cầu kinh.
20.11.2003 : Bàn tay ma.
Trời đã tối. Cần phải chở một xác chết về lại làng. Nằm trơ trên chiếc xe. Không có hòm. Anh tài xế và cô trợ tá lảnh phần đi trong đêm nay. Qua quãng đường dài mỏi mệt, xe dựng lại nghỉ xả hơi. Xe tiếp tục chuyển bánh. Chỉ vài phút sau, anh tài xe cảm thấy bàn tay lạnh buốt đánh chạch vào sau cổ. Phản ứng tự động, anh đưa nhanh tay gở bàn tay lạnh buốt ra. Không phải bàn tay, mà là con ểnh ương, chân dài lều phều. Nó từ sau xe nhảy bổ lên. Có lẻ khi xuống xe nghỉ, cửa xe mở và có ánh đèn trong xe, con ểnh ương tập kích phóng lên thùng xe. Và sau đó nó thấy ánh sáng của hàng đèn chổ tay lái nên phóng tới. Anh tài xế một phen hú vía vì suốt chặng đường, anh cũng đã ngờ ngợ với chiếc thây nằm lắc lư phía sau lưng.
Khen cho anh tài xế khá trầm tỉnh. Nếu người nhát gan chết điến thì xe sẽ lọt xuống hố. Nói đúng hơn Thiên Chúa gìn giữ chúng con trong lúc gian nan khốn khó.
25.11.2003 : Thôn Dak Hnai kêu cứu. Một em bé té ngồi vào nồi cháo heo. Phỏng cả lưng và bàn tọa. Qua một đêm, vết lở chảy nước. Em chỉ nằm sấp
Chở về Thị Xã Kontum. Tôi tìm đến bà lang với thuốc gia truyền. Qũa thật là hay ! Chỉ một tuần sau, đứa nhỏ lành da về lại làng.
1.12.2003 : Bọc ảnh Đức Mẹ trong túi.
Anh em Xêđang về Kontum thường chuộc ảnh chuổi rất nhiều. Có người bảo rằng : “Con đi đâu bọc tượng Đức Mẹ nhỏ nầy trong túi. Lên nương rẫy, vào rừng sâu, chổ nào thuận tiện, lúc nghỉ ngơi, con đặt tượng ảnh Mẹ ra, quì lần hột và cầu nguyện”.
Ôi lạy Mẹ khoan dung, xin thương phù hộ anh em Xêđang mà Chúa đã giao phó cho con trên Dãy Trường Sơn nầy.
7.12.2003 : Hủ bột bà góa Sarepta.
Tâm trạng bà góa Sarepta lấy bột trong hủ làm bánh cho nhà tiên tri mà cứ sợ nó vơi hết cũng là tâm trạng của tôi hôm nay. Sáng sớm đã có người tới than khóc. Điện thoại cấp cứu. Mổ xẻ ở Bệnh viện. Tiền xe về lại làng. Người bệnh tâm thần cần đi điều trị v.v...
Nhìn túi tiền chẳng là bao nhiêu. Tôi lấy đức tin nhủ thầm : “đấy Chúa đến mà!”. Và lòng vẫn cứ lo nom nóp chẳng còn tiền đâu nửa. Nhưng rồi Chúa vẫn cho hủ bột không nhiều mà cũng không vơi.
Quả thật nếu có dư đầy, thì tôi chẳng có gì để phải tin, để cầu xin và ước mơ. Cầu xin có người đồng hành. Ước mơ thấy người nghèo được ủi an và người bệnh hoạn được vơi đi nổi khổ đau.
Năm hết Tết về
Con kính bái quí tôn sư
Chúc mừng quí anh em
linh mục cùng lớp
trong niềm thương nổi nhớ
Xin Thiên Chúa chúc lành
cho quí thân bằng cố hửu
và quí Ân nhân xa gần
chưa một lần quen biết
và những ai đã nâng đỡ
đời sống linh mục con
là Mục tử
Dãy Trường Sơn
Ai muốn liên lạc với Lm Simon Bình, xin gửu thư trực tiếp cho Ngài
hoặc liên lạc email: info@vietcatholic.net, chúng tôi sẽ chỉ dẫn