Chuyện phiếm đọc trong tuần Chúa Thánh Thần Hiện Xuống năm B 27-5-2012

“Ai bảo chăn trâu là khổ,”
“Chăn trâu sướng lắm chứ!…”
(Phạm Duy – Em Bé Quê)
(1Th 1: 4-6)
Nhắn và hỏi như thế, là hỏi những điều khiến em đây thấy khó mà trả lời, hoặc giả có đi nữa, thì chắc cũng chẳng được bao nhiêu! Hỏi và nhắn như vậy, là nhắn nhủ để rồi hát đôi lời ca về “quê ta” vốn mộc mạc, chân chất rất như sau:

“Em mới lên năm, lên mười
Nhưng em không yếu đuối.
Thầy mẹ yêu cũng vì trẻ thơ
Làm việc rất say sưa…
Em biết yêu thương đời trai
Đời hùng anh chiến sĩ
Ước mong sao em nhớn lên mau
Vươn sức mạnh cần lao.”
(Phạm Duy – bđd)

Phải thú thật –lại xưng thú những là lỗi gì nữa đây- Vâng, xin xưng thú rất thật rằng: lâu nay bần đạo cứ bàn chuyện đâu đâu những triết lý/thần học, lẩn quẩn ở đây đó nơi xứ Đạo, cũng khá bạo. Chuyện triết lý với thần học, nay có lẽ cũng nên tạm gác một bên các vấn đề khá gai góc để bạn và tôi, ta “phiếm” nhẹ ba chuyện thực tế dễ gần gũi, thân thương mọi người! Chuyện, là chuyện về “sự thể” và sự thế bảo rằng: mọi chuyện mà lịch sử từng xác chứng, là: nước nào chuyên về nghề nông cũng khó khá. Chẳng hạn như, nước ta thời xa xưa vẫn có câu “nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông nhất nông nhì sĩ”, đến là hay.
Tựu trung, thì mọi người vẫn thích bàn chuyện “chính trị sa-lông” cộng với bàn giấy rất “ngon ăn”, dễ nhậu hơn chuyện khô khan những là thần học. Ở Hy Lạp xứ người, bầu bạn khắp nơi lại chỉ bàn chuyện học hành ngành nghề như y khoa, hoá chất tạo dược hoặc kỹ sư chuyên ngành rất khó tin tức ở bên dưới:

“Mấy tuần qua, tin cho biết có vị dược sĩ nọ tự dưng đã cất công đến quốc hội, rồi chĩa súng vào đầu bấm cò tự sát cốt để phản đối chính phủ dám dùng biện pháp “thắt lưng buộc bụng” hầu cắt giảm trợ cấp dưỡng tuổi già kiếm rất khó. Thế nhưng cạnh đó, lại có tin cho biết nay rất nhiều bạn sinh viên lại cứ muốn giới trẻ phải biết thích nghi với tình trạng tiêu túng của nước mình, bèn chọn môn học nền tảng là phát triển nông nghiệp.
Cụ thể ra, ở vùng gần thủ phủ Thessalonikê, số sinh viên ghi danh học nghề nông tại đại học Mỹ đã gia tăng gấp đôi so với số người nộp đơn năm ngoái. Thông thường, thì chỉ mỗi con cháu nhà nông mới chịu học môn này thôi. Nhưng, nay thì đám trẻ lại đổi ý đã biết lo cho dân nghèo được đủ ăn/đủ mặc nên mới theo học ngành nghề như thế. Trong số bạn trẻ học ngành này, có sinh viên năm thứ nhất là Thanos Bizbiroulas đã cho biết lý do tại sao em chọn môn học chán ngấy như thế: “Thật tình mà nói, thì nông nghiệp không phải là môn em chọn cho chương trình cử nhân 3 năm đâu. Nhưng, hiện tình đất nước đang có khó khăn về tài chánh/kinh tế, em nghĩ rằng lựa chọn của em không sai lầm. ”
Ngoài ra, có bạn cùng lớp là Vangelis Evangelou lại cũng cho biết: “Hầu hết giới trẻ ở đây lâu nay cho rằng muốn cho vận nước có tương lai hơn, có lẽ ta nên học môn gì đó khả dĩ giúp mình ung dung ăn trên ngôi chốc một chút chứ. Nhưng, nay thì hầu hết bạn bè của em đều nghĩ điều đó không còn đúng nữa. Và các bạn về với nghề nông, cũng đúng thôi.” (x. Carolyn Moynihan, MercatorNet 16/4/2012)

Nếu nghệ sĩ họ Phạm nhà mình nghe được ý kiến này, hẳn ông sẽ vui lên mà hát tiếp:

“Em mới lên năm, lên mười
Nhưng em không yếu đuối.
Thầy mẹ yêu cũng vì trẻ thơ
Làm việc rất say sưa.
Em biết yêu thương đời trai
Đời hùng anh chiến sĩ.
Ước mong sao em lớn lên mau,
Vươn sức mạnh cần lao.”
(Phạm Duy – bđd)

Ước và mong cho em sớm “lớn lên mau”, hầu “đem sức mạnh cần lao” phục vụ đất nước và mọi người, ở chốn miền có tên gọi là Thessalonikê, nước Hy Lạp thì chắc đó cũng là ý kiến của Phaolô tông đồ khi thánh nhân viết lên những lời lẽ ưu tư, tự sự rất như sau:

“Hỡi anh em, là những người được Chúa yêu mến,
chúng tôi nhận biết anh em là những kẻ được chọn,
vì Tin Mừng chúng tôi loan báo,
không chỉ đến với anh em bằng lời nói mà thôi,
nhưng là đến một cách quyền năng
bằng Thánh Thần và sự dồi dào mọi thứ.
Vả lại, anh em biết: nơi anh em,
chúng tôi đã cư xử làm sao với anh em
và anh em đã noi gương bắt chước Chúa
đã chịu lấy Lời giữa bao nỗi gian truân,
trong sự hoan hỉ của Thánh Thần
khiến anh em trở nên mẫu mực cho mọi người
vùng Makêđônia và Akhaia.”
(1Th 1: 4-6)

Thêm vào đó, có lẽ cũng nên đề cập đến lời bình của Giáo sư Nguyễn Thế Thuấn CSsR có nói:

“Thánh Phaolô ở Anthêna quá lo cho số phận của giáo hội ở Thessalônikê, nên đã sai Timôthê đi thăm xứ đạo ấy. Nhân dịp Timôthê từ Thessalônikê về, đem những tin khả dĩ làm yên lòng ngài, thánh Phaolô đã viết thư này cốt để thổ lộ tâm tình, đồng thời thanh minh về ít lời vu cáo của người chống đối (tức: những người Do thái trong thành). Tiếp đó, ngài thêm ít lời khuyên về đời sống tín hữu phải tuân theo nguyên tắc đã dạy. Giữa các lời khuyên có chen vào đó đoạn 4 câu 13 và đoạn 5 câu 11 bàn về số phận kẻ chết thời Chúa quang lâm, tức phần quan trọng nhất về đạo lý trong thư này.” (x. Kinh thánh, bản dịch của Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR 1976, tr.464)

Nói cách khác, làm ngôn sứ cho mọi người là xả thân phục vụ không biết mệt. Chẳng cần biết nghề ấy nghiệp nọ có ăn khách không; hoặc, có là nghề “ngồi mát ăn bát vàng” không. Nhưng, chỉ cần xét xem nghề mình làm có thích hợp với thời buổi hôm nay, hoặc có giúp ích cho nhiều người hay không, mà thôi.
Nói theo kiểu nghệ sĩ họ Phạm trích dẫn ở trên, là nói bằng những câu hát rất rất ca đơn điệu:

“Trâu hỡi trâu ơi đi cầy
Trâu ơi đi cấy nhé
Đồng ruộng kia, với đồi cỏ kia
Là của những dân quê
Em bé dân quê Việt Nam
Là mầm non tươi thắm
Sức mai sau xây đắp quê hương
Cho nước giầu mạnh hơn.
(Phạm Duy – bđd)

Về với nhà Đạo, không phải để xem người mình đáp trả ra sao khi nghe lời gọi/mời từ Đức Chúa và có làm thế hay không. Bởi, lời mời/gọi ở nhà Đạo, là gọi và mời ta ra đi phục vụ dân Chúa, chẳng cần biết việc mình làm có đem lại lợi nhuận hay thu nhập được bao nhiêu; hoặc, công việc ấy có “thơm như múi mít” rất ngon lành, không. Nhưng, về đó để đề cao/nhấn mạnh chuyện biết cách phục vụ con người, bất kể người ấy là ai. Bất cần và cũng chẳng kể xem con người mình phục vụ có là “người con” tốt lành của Đạo Chúa đấy chứ? Về đó, để nắm rõ rằng người mà mình phục vụ vẫn cứ là người đói kém, tất bạt, nghèo hèn chẳng ai nhớ.
Mới đây, trong một hội luận do viện Catherine de Sienne tổ chức ở Sydney, mà người điều khiển chương trình là Clara Georghegan đã nói về chủ đề “Ơn gọi là ơn được gọi và tặng quà đặc sủng” đã có nhận định khá rõ nét và đặc sắc, khi chị bảo:

“Mỗi khi trong chúng ta có người nhận lãnh ơn thanh tẩy để gia nhập cộng đoàn Kitô-hữu thì khi đó, toàn thể cộng đoàn ta được Thánh Thần Chúa ban lời mời/gọi sống đời phục vụ cách nào đó, có Chúa. Khởi từ đó, ta không thấy có khó khăn xem đó có là ơn gọi/mời hay không, mà chỉ thấy khó khi mình cứ xem đó như lời mời/gọi cũng rất lạ kỳ. Phần đông nhiều người hiểu “ơn gọi” như lời mời tham gia thực hiện sứ vụ hoặc lối sống độc thân theo thiên chức linh mục/tu sĩ; hoặc cả chuyện chọn lựa đời sống gia đình nữa, vẫn là chọn lựa để phục vụ. Nay, cũng nên suy thêm việc Chúa mời và gọi ta theo cung cách khác, ngay vào lúc ta nhận lĩnh ơn thanh tẩy.
Một khi nhóm/hội chúng ta càng có nhiều người suy nghĩ về lời mời nhận lãnh ơn thanh tẩy, thì càng có nhiều người tìm đến phục vụ theo tư cách linh mục, hoặc của người sống đời tu trì. Bởi, khi đã nhận lời mời/gọi lãnh nhận ơn thanh tẩy, ta được tặng quà đặc sủng rất khác biệt. Và, một khi ta được tặng quà đặc biệt/đặc sủng, là ta được mời và gọi theo cung cách thế nào đó cũng đặc biệt không kém. Và, khi được gọi/mời làm dân con bước theo chân Chúa, ta cũng được ban tặng kỹ năng chuyên biệt nào đó, rất khác thường. Và, quà đặc biệt đó có khả năng lôi cuốn mọi người đến với ta, và quà đó không còn dành để cho riêng ta nữa, mà cho người khác. Nói khác đi, thì tự thân, ta đâu chọn lựa quà đó, mà quà đó do Chúa gửi đến với ta, thôi.
Nhận lĩnh ân huệ đặc sủng, tức là mình bắt đầu có khả năng tìm ra mấu chốt ở đâu đó rất chung quanh để sống đúng qui cách. Trước nhất, là mấu chốt dẫn đến sự sống có giáo huấn của Hội thánh. Tiếp đến, là mặc lấy tính cách duy nhất chỉ mình mới có tài năng đó. Chỉ mình mới có loại hình văn hoá hoặc kinh nghiệm tư riêng, thôi. Và cuối cùng, chỉ mỗi mình mình mới biết đâu là vấn đề và những gì là nhu cầu thiết thực của thời đại mình sống. Tất cả những gì mình nhận lĩnh hoặc lĩnh hội, đều ngang qua cuộc sống, qua kinh nghiệm hoặc việc làm và tình thương yêu cũng như khổ đau rất hiếm quý, đề rồi Thánh Thần Chúa sẽ đưa vào đó đặc sủng riêng tây Ngài phú ban cho riêng mình ta thôi.
Thông thường, ta hay nói với giới trẻ rằng: họ có tự do chọn lựa để trở thành mẫu người mà họ từng mong ước trở thành, rồi cộng thêm vào đó có một chút siêng năng/cật lực, thì rồi ra họ cũng sẽ biến mộng ước thành hiện thực, rất dễ thôi. Dù là thế, với tôi, thì lời khuyên này xem ra có phần khiếm khuyết do ở điểm, là: quà tặng đặc sủng bao giờ cũng là quà Chúa ban tặng và ngay đến thành tựu ta đạt được, ngang qua việc phục vụ, cũng không phải để cho riêng ta, mà là cho hết mọi người, những người con của Chúa. Thành thử, vấn đề không phải là cứ siêng năng làm việc cho cật lực là xong đâu. Trái lại, tất cả đều là ân huệ Chúa ban, dù xấu dù tốt. Từ đó, ta nhận ra rằng: ta có chấp nhận quà tặng ấy hay không, nó vẫn là quà đặc sủng; và vẫn đến với ta để làm lợi cho người khác. Và, cũng bởi quà tặng ấy là quà đặc sủng, nên nó vẫn nối kết/ dính liền với mục đích khiến ta có mặt trên trái đất này. Đặc sủng, luôn là sự kiếm tìm hạnh phúc cho đời mình, đời người.” (x. Michael McVeigh, Our greatest happiness, our gifts lead us to our calling, Australian Catholics Easter 2012, tr. 10)

Nói như chuyên gia xã hội học ở trên, cũng là nói như người nghệ sĩ từng quả quyết “Chăn trâu sướng lắm chứ!” Nói như người nhà Đạo, còn là nói ở nhà thờ. Là, sống đúng lời mình vẫn nói và vẫn giảng giải ở khắp chốn. Giảng, về đặc sủng Chúa ban trực tiếp cho riêng mình. Chính đó là hạnh phúc. Hạnh phúc ấy, vẫn ý nhị hơn câu ca do nghệ sĩ già họ Phạm từng đặt ở bên dưới:

“Ngồi mình trâu, phất ngọn cờ lau
Và miệng hát nghêu ngao
Vui thú không quên học đâu
Nằm đồi non gió mát
Cất tiếng theo tiếng lúa đang reo
Em đánh vần thật mau.
Chiều vương tiếng diều
Trên bờ đê vắng (ứ ư ư) xa.
Đường về xóm nhà
Chữ i, chữ (ư ư ư) tờ.
Lùa trâu nhốt chuồng
Gánh nước nữa là (a à a) xong
Khoai lùi bếp nóng
Ngon hơn là (a à a) vàng.”
(Phạm Duy – bđd)

Chẳng cần biết, vàng có ngon ăn hay không. Nhưng, “chăn trâu” hay phục vụ người khác theo đặc sủng mình nhận được, vẫn là thứ gì đó ta cần trân trọng. Trân quý và tôn trọng, để rồi sẽ thấy đời mình là những chuỗi ngày dài hạnh phúc chứ chẳng phải là “khổ ải” hoặc hoặc “sao đó” như nhiều người thường nghĩ. Bởi, về quà tặng đặc sủng vẫn ban khi ta được gọi/mời gia nhập cộng đoàn tín hữu Đức Kitô, lại có nhận định của đấng bậc khác từng có kinh nghiệm từng trải về cuộc sống hợp lẽ đạo, như sau:

“Hội thánh Chúa, ngay từ lúc ta ưu tư về tội lỗi và ơn cứu độ, thực ra vẫn chỉ là hạnh phúc có được do bởi “tương quan” ta có với người khác. Khác đạo, khác chính kiến, khác cả tông ty giòng họ, vẫn là chìa khoá đưa ta đến với hạnh phúc của cuộc đời. Có tương quan, là có hiện hữu. Chứ tuyệt nhiên, hiện hữu không phải do ta thủ đắc, kềm chế hoặc kiểm soát được nhiều thứ, nhiều người. Hạnh phúc ấy, cũng chẳng do ta tin vào Thuợng Đế luôn ban phát điều lành hoặc do chinh phục được ai đó, thứ gì đó. Mà, không gian thánh thiêng ở nơi thọ tạo là chốn miền ở giữa. Giữa tương quan. Giữa nỗi niềm hiệp thông ta vẫn có với nhau. Với mọi người” (x. Robin R. Meyers, Saving Jesus from The Church, HarperOne 2009, tr. 203-204)

Thật ra thì, tương quan có với nhau, và với mọi người chỉ quan trọng và đáng trân trọng, khi tương quan ấy là tương quan trong phục vụ lẫn nhau, đem lại lợi ích cho người khác, chứ không phải cho chính mình. Chính đó là lời mời/gọi làm con dân Chúa dù có ở chức năng nào, hoặc mang danh xưng nào, đi nữa.
Lời gọi/ mời dẫn đến quà tặng đặc sủng, còn là kết quả từ mối tương quan ta vẫn có với nhau qua tư cách người đồng đạo, đồng thời hoặc đồng hành trong chung sống. Quà tăng đặc sủng ta có, vẫn là hạnh phúc tức kết quả của tình thương yêu phục vụ khi chung sống với người khác. Phục vụ người khác hầu đem lại hạnh phúc cho chính họ chứ không phải cho mình. Để xác chứng điều này, đấng bậc giảng dạy ở trên từng rút kinh nghiệm trong dạy và giảng, còn nói thêm:

“Ngay như niềm tin cũng là mối tương quan ta vẫn có. Và, kinh thánh không thể trở thành khách-quan nếu xoá bỏ tương quan này. Thông thường ta hay nói đến “trận chiến/phấn đấu để kinh thánh được mọi người biết đến” trong khi kinh thánh lại là “trao đổi/chuyện trò”. Thứ chuyện trò/trao đổi ta nghe được từ khoảng cách rất xa, nay phiên dịch (và do đó đã bội phản) từ ngôn ngữ người nước ngoài và lâu nay được nói lên từ những người mà ta không hề tưởng tượng họ có thể nghĩ chính ta là người sẽ được nghe/được biết về công cuộc chuyện trò/trao đổi giữa Thiên Chúa và loài người.
Cũng nên nhớ rằng, không một chữ nào trong kinh thánh được viết là để viết cho ta, người thời nay, đọc ngõ hầu chiến đấu cho Kinh thánh được phổ cập. Bởi, ta chỉ chiến đấu hoặc thi đấu để chiếm đoạt điều gì đó, chứ nào để chiếm đoạt cuộc chuyện trò/trao đổi, bao giờ. Bởi thế nên, nếu ai đó coi Kinh thánh như một chiến cụ để đấu tranh giành điều gì đó, hẳn là họ sẽ biến cuộc chuyện trò/trao đổi giữa Thiên Chúa và loài người thành vật thể để chiếm lĩnh. Nếu thế thì, mối tương quan giữa Thiên Chúa và người phàm sẽ không vẹn toàn nữa.
Thế nên, Đạo đích thật chính là tương quan, chứ không phải là sự đúng đắn do mình giành phần thắng. Thế cho nên, nhu cầu trong-sáng-hoá bản-chất của tương quan/trò chuyện giữa Thiên Chúa và loài người làm cho nó thành chính thực, có khả năng đổi thay cuộc sống, hầu chống lại sự không thật và đối đầu với sự chết. “ (x, Robin R. Meyers, bđd)

Nói như học giả hoặc bậc thày dạy là nói rất nhiều, nhưng người nghe và đọc, hiểu được bao nhiêu, cũng không rõ. Nói như đấng bậc nhà Đạo còn là nói để thông truyền một kiến thức đích thực và đúng đắn ngõ hầu từ đó ta quyết sống theo gương mẫu mình học được. Nói về tương quan ta có với người đời trong hạnh phúc, sướng vui, có thể là nói như người nghệ sĩ ở đâu đó, hát câu sau đây:

“Kìa trăng sáng ngời
Đêm rằm Trung, Trung (ứ ư ư) Thu.
Đời vui trống ròn
Tiếng ca lẫy (ý y y) lừng
Từ ngõ ngách làng
Đèn đuốc rước triền miên
Bao người đóng góp
Vui chung một (ư ừ ư) miền.”
(Phạm Duy – bđd)

Nói như người đời, cho dễ hiểu, về hạnh phúc/sướng vui trong tương quan với mọi người, còn là nói và kể những câu truyện cổ tích rất hợp thời mà người đời vẫn nhớ đến, như một minh hoạ cho vấn đề mình đặt ra, như sau:

“Sống trên đời, bao giờ cũng chỉ có hai chuyện để lo và phải lo thôi:
Hoặc mình khỏe mạnh hoặc đau yếu. Nếu khỏe mạnh, thì chẳng có gì đến phải lo lắng hết
Nếu đau yếu, thì có hai điều phải lo lắng:
Hoặc mình sẽ được bình phục hoặc sẽ chết. Nếu bình phục, thì chẳng có gì phải lo lắng hết.
Nếu rồi ra ta cũng chết, thì sẽ có hai điều phải lo lắng.
Hoặc lên thiên đàng hoặc xuống địa ngục. Nếu lên thiên đàng, thì chẳng có gì phải lo.
Nếu xuống địa ngục, thì sẽ bận tíu tít lên mà bắt tay từ biệt bạn bè cũ/mới, và như thế làm gì còn thì giờ đâu nữa để mà lo với lắng.
Bởi thế nên, chuyện gì khiến bạn và mình phải lo lắng đến như thế, nhỉ???”

Đó là câu nhắn của người kể truyện. Cũng có thể là sự thật trong đời mà người kể từng có kinh nghiệm sống qua, khi lo lắng đến hạnh phúc/sướng vui trong đời. Nói cho cùng, cuộc đời chừng như lúc nào cũng tràn đầy mọi sướng vui, hạnh phúc. Đó là điều ta nên nhận thức mà nắm bắt, chẳng cần hỏi ai. Chẳng cần nghiên cứu nhiều cho bận tâm và mất sức. Phải thế không bạn? Phải thế không tôi, hỡi mọi người!

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn cứ tự bảo mình những điều như thế
để sống vui, suốt một đời.
Rồi hát vang những lời như sau:

“Vàng lên cánh đồng
Khi trời vươn ánh (ứ ư ư) dương
Trẻ thơ nhớn dậy
Giữ quê, giữ (ứ ư ư) vườn
Đời vui thái bình, cây lúa sớm trổ bông
Cỏ ngàn thơm phức, trâu ăn đầy (y ỳ y) đồng….”
(Phạm Duy – bđd)

Suy niệm Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống Năm B 27.5.2012
“Phút thiêng liêng nhuần gội ánh thiều quang,”
“Thiên hạ bình và trời tuôn ơn phước”
(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)
Ga 20: 19-23; 15: 26-27/16: 12-15
Ánh thiều quang, nay nhuần gội khắp dân gian, muôn ơn phước, Thiên hạ bình, trời đổ tuôn ơn phước Chúa ban, như trình thuật còn diễn tả từng chữ, rất đủ nghĩa.
Trình thuật, nay thánh sử ghi về Lễ Hội trải dài từ Chay Mùa tâm tịnh cho đến Phục Sinh quang vinh mà người Do thái vẫn mừng kính vào độ Xuân về có hái gặt suốt 50 ngày dài, sau Vượt Qua. Mãi sau, người Do thái mới thay đổi ngày này thành đại lễ kỷ niệm mừng Giao ước Chúa thực hiện với dân con ở Sinai núi thánh bừng bừng niềm vui khó phai mờ.
Ngay buổi đầu, sau cái chết và sự trỗi dậy của Chúa, đã thấy hai nhóm đạo ở Giêrusalem nổi lên tìm về Đất Hứa. Nhóm đầu, cũng khá đông, gồm những người đạo hạnh từ khắp nơi đổ về. Họ về, từ đất miền thuộc xứ Giuđêa, Mêsôpôtamia, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập và Lybia, tức: đến từ khắp mọi nơi. Nơi nào cũng rộn rã người Do thái ồn ào/náo động tụ tập về để mừng kính lễ hội. Nhóm thứ hai nhỏ hơn, nhưng gồm các đấng bạc đã từng theo chân Chúa bước trong âm thầm/lặng lẽ rất đợi chờ, nguyện cầu.
Họ thật chẳng biết mình cầu nguyện là nguyện và cầu cho ai. Để làm gì? Bởi, thời gian cứ lặng lẽ trôi nhiều tháng ngày sau cái chết của Chúa, thế mà nhóm đạo này vẫn ẩn mình trong bóng tối, cứ hãi sợ mọi chuyện xảy đến sẽ liên lụy đến bản thân. Có thể, các ngài chỉ muốn về lại thăm chốn cũ người xưa, nơi Chúa bỏ mình chết rất nhục nhưng rồi Ngài Phục Sinh quang vinh. Hai nhóm đạo chẳng quan hệ gì với nhau. Nhóm đông người, đến từ các nơi, lại không biết rằng những người theo Chúa đang có mặt ở nơi đó. Và, nhóm nhỏ gồm các đấng bậc/đồ đệ lại chẳng muốn mọi người biết các ngài đang hiện diện ở chốn này.
Nhưng, chuyện phải đến lại đã đến với các đấng bậc từng hãi sợ. Các ngài lại đã xuất hiện trước công chúng lôi kéo sự chú ý của mọi người. Và, sự việc xảy đến khiến các ngài tràn đầy Thần Khí Chúa đổ tràn từ bên trên. Chuyện xảy đến, như một thứ “trời long đất lở” có sấm sét, có lửa ngọn thiêu đốt tâm can người người, đem đến cho họ nhiều nghị lực, có tâm thức.
Lửa hồng hâm nóng, khiến các ngài trở nên tươi mát, đổi mới, rất lành lặn. Lửa hồng sưởi ấm, còn đem đến với các ngài nhiều ơn lạ khác. Nên, các ngài bèn tiến ra ngoài, nói chuyện với người chưa một lần quen biết đến như một xác chứng: “Đức Giêsu, dù đã chết hôm trước, nay Ngài vẫn sống và đã gửi Thần Khí đến với mọi người.” Và lúc đó, mọi người bất chợt nói được tiếng Aram, ngôn ngữ cổ xưa của Do thái.
Người có mặt, cũng đều nghe và hiểu sự việc bằng chính ngôn ngữ của mình. Và khi ấy, lại thấy xảy ra một bộc phá dứt bỏ mọi lằn ranh/ngăn cách của ngôn ngữ, địa dư và sắc tộc. Sự việc xảy ra không mang dáng dấp của rẽ chia/phân cách. Mỗi người đều cảm nhận sự việc xảy đến bằng chính văn-hoá cũng như văn-minh/lề thói của người mình. Tất cả, là thông điệp rõ nét, rất dễ hiểu. Là, sự kiện mới, đã xảy đến với muôn dân.
Mỗi nguời và mọi người, nay hiểu rằng Thần Khí Chúa kích động mọi người phổ biến sứ điệp Ngài tặng ban để ý Ngài được thể hiện và phổ biến khắp mọi nơi trong thánh hội, và cuộc sống. Thể hiện, nhờ thanh tẩy. Phổ biến, nhờ Thần Khí Chúa mang sức sống đến hầu người người tự thánh-hoá bản thân. Đôi khi, nhiều người lại vẫn nghĩ: nhờ Thần Khí Chúa run rủi, nên mọi người mới có được giờ phút thăng hoa, phấn khởi. Người khác lại cứ hiểu: Thần Khí Chúa vẫn lặng lẽ xuất hiện ở hậu trường sự sống cố hỗ trợ việc chỉnh sửa mọi sai sót/lỡ lầm ngõ hầu người người mới truyền bá được Tin Vui Ngài mang đến.
Cũng có lúc, nhiều người cứ lầm tưởng rằng đôi lúc Thần Khí Chúa cũng vắng mặt khỏi hiện trường sự sống, khiến họ cứ đơn độc, lẻ loi. Nhưng thánh Phaolô lại bảo: Thần Khí đến với ta, thường vào lúc ta sướng vui, quyết thương yêu đùm bọc và đối xử tử tế với mọi người. Nhìn vào cuộc sống của Chúa, người người đều thấy Ngài luôn có mặt ở cạnh bên, nếu ta biết sống thực đường lối Ngài khuyến nghị, tức: cứ để Thần Khí hướng dẫn và phô diễn cuộc sống ấy với mọi người.
Nhưng, với thế giới ta hiện sống, nay đã có vấn đề. Vấn đề, nay thấy xuất hiện hai nhóm người cũng khác biệt. Một, gồm những người sống rải rác khắp đó đây, từng nghe biết Chúa. Biết rằng, Ngài đã chết đi cho tội lỗi của con người và Ngài đã Phục Sinh quang vinh. Biết rằng, vào lễ Ngũ Tuần, Ngài đã gửi Thần Khí Chúa đến với dân con mọi người. Người người đều biết, do tiếp cận mạng truyền thông, vi tính. Nên, ngày nay chẳng một ai cần đến các nhà truyền giáo kiểu xưa cũ cứ đem đến với họ những lời là lời, mà họ chẳng hiểu lời đó có nghĩa gì. Lời đó, có đòi họ sống giống Chúa không, trên thực tế. Làm như thể, họ chưa từng biết đến những chuyện như thế. Làm như thể, những điều họ nghe biết chẳng liên can gì đến cuộc sống thực tế. Cũng chẳng giống như ngôn từ họ sử dụng. Nên, mọi người chỉ cần các “thừa sai” nào biết và sống như Chúa từng sống, mà thôi.
Nhóm còn lại là chúng ta, tức thánh hội của Chúa rất hôm nay. Nhóm của ta cũng trân quý lời Chúa gửi đến với ta. Cũng hiểu đôi chút về Ngài. Nhưng, vẫn không biết cách loan truyền nhận thức ấy với dân gian, ở khắp chốn. Cũng “đi” nhà thờ hàng tuần, nhưng không “đến”. Tức, chẳng hấp thụ thêm được điều gì. Có chăng, cũng chỉ đôi ba ý tưởng vặt vãnh từ bài chia sẻ của vị chủ trì thôi, để rồi ao ước mình có được hy vọng. Ao ước, có được một Ngũ Tuần khác khi đó Chúa sẽ đổ muôn ơn lành đến với ta và mọi người; ngõ hầu ta biết đả thông chuyện của Chúa, như một số Đức Giáo Hoàng vẫn dùng lời để diễn tả về “lễ Ngũ Tuần mới” rồi sẽ đến, nhưng chưa đạt.
Dân con Đạo Chúa nay lại bảo: lễ Ngũ Tuần là đảo-đề về những gì từng xảy đến hồi tháp Babel, trong Cựu Ước. Cũng cùng truyện kể về tháp do con người làm, khiến dân chúng khi đó lại cứ tập tành phát âm thành nhiều tiếng rất mới nhưng chỉ để nói và gây nhiều ngộ nhận. Ngộ nhận nhiều thứ. Ngộ nhận đến độ, người nói tiếng lạ chẳng hiểu nhau. Lễ Ngũ Tuần hôm nay phải hiểu là Lễ Hội này đã cắt bỏ mọi rẽ chia/phân cách. Là, dịp để mọi người hiểu nhau hơn. Hiểu, cả vào khi có người nói bằng ngôn ngữ lạ ít sử dụng. Xem như thế, Lễ Ngũ Tuần đã đảo ngược được thực trạng tháp Babel của mọi thời. Cả đến hôm nay, cũng như thế.
Bởi thế nên, thay vì bảo: “Họ sáng chế ra ngôn ngữ mới (tức tên mới) cho họ”, thì mọi người lại vẫn nói: “Họ tự đặt tên cho chính mình”, hoặc tìm cách để nên như thế. Và, vấn đề còn tiềm ẩn bên trong mỗi người. Bởi, khi tự đặt tên cho, là ta tự nói nhiều về mình. Nhiều đến độ không nghe người khác nói gì nữa.
Thành thử, Ngũ Tuần hôm nay là dịp để Thần Khí đến với dân con/đồ đệ của Chúa để họ trở nên khiêm hạ. Ngũ Tuần, là dịp để không còn ai tự đặt tên cho mình, nữa. Làm thế, để con dân Chúa không còn cho mình là nhân vật quan trọng, lại rất nổi. Nổi đến nỗi, không nói về Đức Chúa là Đấng cuốn hút mọi người đến với Ngài. Làm như thế, là họ đã tự giảm giá và nghĩ rằng nay có nhiều cách thế để biết Chúa, chứ không chỉ có mỗi đường lối của Giáo hội mình. Làm thế, để ta nhận ra rằng: nếu cứ tập trung vào mỗi đường lối của riêng mình và cho mình là quan trọng, thì đó là hành xử cách bạo tàn với người khác.
Ngũ Tuần, nay là lễ hội để dân con của Chúa biết sống cởi mở, tử tế. Cởi mở/tử tế, để đón nhận cả những người thua kém mình, khác với mình để họ gia nhập vào với cộng đoàn mình sống. Và, đó là lúc những người khác với mình bắt đầu hiểu Chúa hơn. Từ đó, sẽ cảm thông, truyền đạt và trao đổi. Để rồi, ta sẽ sẻ san cho nhau mọi sự tốt đẹp, kể cả nhận thức bằng trực giác, nói năng hoặc diễn đạt. Đó, là ý nghĩa của Lễ Ngũ Tuần, rất hôm nay.
Vậy, Lễ này có nghĩa gì với thời hiện tại? Nếu, Ngũ Tuần được gọi là ngày sinh của Hội thánh, thì nay xin chúc Hội thánh mình có được ngày sinh quá sức đẹp. Tuy thế, ta cũng nên làm sao có được lễ Ngũ Tuần đẹp hơn nữa, ngõ hầu trở nên loại hình thánh Hội mà Thần Khí Chúa vẫn muốn ta trở thành vào buổi Lễ Ngũ Tuần rất tiên khởi, thời Chúa vừa Phục Sinh, rất quang vinh.
Thần khí Chúa muốn con dân mình trở nên tử tế, khiêm hạ và cởi mở. Biết, bao gộp hết mọi người vào với thánh hội mình. Biết lắng nghe người khác nói. Và, sẵn sàng sống đường lối và cách nói năng ra sao để mình thần phục lập trường của người khác. Chứ không chỉ lẻo mép, nói rất nhiều mà chẳng nói được ngôn ngữ của người thời đại, rất hôm nay.
Nên chăng, có một Hội thánh rất như thế? Nếu vậy, ta hãy nguyện cầu như sau:
Lạy Thánh Thần Chúa, xin đến
Chữa lành vết thương lòng ở nơi con
Kiện toàn và canh tân uy lực của đời con,
Và tẩy rửa vết nhơ con lỡ phạm.
Hãy bẻ cong tâm can cùng nguyện ước vẫn đông cứng
Để con tim đông lạnh của con nay tan chảy,
hầu sưởi ấm lòng người lạnh lẽo.
Hãy dẫn dắt những người vẫn trật đường, đi chập chững…
Tâm nguyện thế rồi, cũng nên ngâm thêm lời thơ của nghệ sĩ ở đời vẫn hát giòng thơ Đạo, rằng:
“Ta há miệng, cho nguồn thơm trào vọt,
Đường thơ bay, sáng láng như sao sa…
Trên lụa trắng, mười hai hàng chữ ngọc.
Thêu như thêu, rồng phượng kết tinh hoa.”
(Hàn Mặc Tử - Nguồn Thơm)
Thơm một nguồn, cả ngôn ngữ lẫn tình thơ Thần Khí Chúa đem đến dân con, hết mọi người. Nguồn thơm trào vọt, để người người lại sẽ thưởng ngoạn ơn thiêng Chúa gửi, hôm trước đến bây giờ.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh - Mai Tá phỏng dịch