THỪA SAI HẢI NGOẠI PARIS
350 năm xây dựng Giáo Hội Việt Nam (Bài 7)
Công trình mục vụ của hai Ðức cha Lambert và Pallu

Sau khi đã họp Công Ðồng Ayuthia 1664, không kể công việc truyền giáo phải làm ở hai địa phận Ðàng Trong và Ðàng Ngoài, nhiều vấn đề khác cần phải được đề cập trực tiếp với Tòa Thánh:

• Trình báo về tình hình đạo Kitô trong các vùng thừa sai
• Xin phê chuẩn bản « Chỉ dẫn các thừa sai »
• Xin những công bố rõ rệt hơn về: a- quyền lợi của các thừa sai và về sự tự lập của họ đối với Bồ Ðào Nha, b- những luật lệ và cư xử về một vài điểm kỷ luật, c- quyền tài phán trên lãnh thổ nước Xiêm.
• Hiến pháp cho Hội dòng những người Mến Thánh Giá (ngoài ba lời hứa cổ truyền là khó nghèo, khiết trinh, vâng lời,…còn thêm: sự từ bỏ hết sự đời, sự tuân phục hoàn toàn với Giáo Hoàng, không tìm kiếm bất cứ một lợi nhuận nào, cầu kinh 3 giờ mỗi ngày, chay tịnh suốt đời, cữ rượu…);
• Kêu gọi cho có những tông đồ thừa sai mới.

Một trong hai Ðức cha phải đích thân tiếp xúc với Tòa Thánh. Sau nhiều trao đổi và phân tích, Ðức cha Pallu chấp nhận làm việc này. Mọi người đều đồng ý. Ngài khởi hành ngày 17.01.1665, rời Ayuthia, đi Âu Châu, về La Mã.

Ở lại Xiêm, Ðc Lambert một mình trên « đồng lúa » phải lo rất nhiều chuyện, đặc biệt ngài đã khôn khéo thực hiện được nhiều việc, trong đó những việc chính sau đây:

• 1665, Lập chủng viện ở Xiêm
• 1665, Gởi các thừa sai Chevreuil, Hainques, Brindeau đi truyền đạo ở Ðàng Trong
• 1666, Gửi thừa sai Deydier đi truyền đạo ở Ðàng Ngoài
• 1668, Truyền chức linh mục cho các thầy giảng Việt Nam
• 1669, Ði kinh lý Ðàng Ngoài và họp Công Ðồng Phố Hiến 1670
• 1669-70, Lập Dòng Nữ Mến Thánh Giá
• 1671, 1676, Ði kinh lý Ðàng trong và họp Công Ðồng Hội An 1672

Ðó là những công trình mục vụ của hai Ðức Cha Pierre Lambert de la Motte và François Pallu cho cành đồng truyền giáo Việt Nam. Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu. Nhưng trước đó, chúng ta thử xem qua tình hình công giáo ở Việt Nam vào khoảng năm 1665.

Theo tài liệu lịch sử, Ðạo công giáo du nhập vào Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1533 với một người Âu châu tên là Inêkhu. Cũng từ ngày ấy, « dưới thời Lê Trang Tông tức là vào khoảng 1533 lúc mà giáo sĩ Inêkhu đến truyền giáo, đã có lệnh cấm đạo »

Sau đó, từ ngày các cha Dòng Tên vào Cửa Hàn vào năm 1615, khi ít, khi nhiều, khi nhẹ nhàng, khi gắt gao, các lệnh trục xuất giáo sĩ, cấm đạo, bách đạo, …đã hầu như liên tục được quyết định, phổ biến và thi hành.

Ở Ðàng Trong, Thời Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1615-1635), ba lệnh trục xuất đã được ban hành: 1617, lệnh trục xuất 2 cha Dòng Tên là cha Buzomi và cha Pina; lệnh cấm đạo vào năm 1625; lệnh trục xuất các cha Dòng Tên năm 1629. Thời Thượng Vương Nguyễn Phúc Lan (1635-1648), hai lệnh trục xuất đã được ban hành vào năm 1635 và 1639; Nhiều vụ xử án tử đạo đã xẩy ra: Thầy Anrê Phú Yên bị xử chết vì đạo ngày 26.07.1644; mấy ngày sau, 35 trên 36 người công giáo bị bắt vì đạo tại Qui Nhơn, đã can cường xưng đạo; Ngày 15.07.1645, hai Thầy giảng Inhaxiô và Vinxensô bị tử đạo vì đã xưng đạo; Ngày 04.07.1646, cuộc tử đạo của ông Trùm Augustinô và ông Alexi và cuộc xưng đạo của 6 giáo dân Quảng Bình. Thời Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648-1687), Phêrô Nết bị tử đạo vì xưng đạo 1657; Những cuộc bách hại dữ dội từ năm 1661-1665 và cuộc xưng đạo của bốn anh hùng xứ Quảng Nam 11-5-1663; Cuộc bách đạo tháng 12-1664 và lệnh trục xuất vào tháng 02 năm 1665 ba cha dòng Tên cuối cùng: cha Dominico Fuciti, Pedro Marques và F. Ignace Baudet. Chấm dứt thời kỳ khai phá của các cha dòng Tên ở Ðàng Trong; Cuộc xưng đạo và tử đạo của 12 vị anh hùng giáo dân tại Quảng Nam (ngày 31-1-1665); Cuộc xưng đạo và tử đạo của các anh hùng giáo dân tại Quảng Nghĩa (6-2-1665);

Ở Ðàng Ngoài. Thời Trịnh Tráng (1627-1658), lệnh cấm đạo đầu tiên và trục xuất hai cha Ðắc Lộ và Marques năm 1629; Ðức tin sắt đá của các tân tòng: Ông Phanxicô bị tử đạo, Cô Daria, Cậu Phanxicô; Vào cuối năm 1632 có cuộc cấm đạo và bắt hai cha Amaral và Reggio ở Thanh Hóa do một Vương Phi sùng Phật, ghét đạo Công Giáo; Hai năm 1635 và 1636 xứ Bắc gặp nhiều tai ương. Trịnh Tráng lại ra lệnh cấm đạo; Năm 1638 tại Nghệ An và Thanh Hóa, Cha Majorica và làng Kẻ Rùm bị bách hại; Năm 1643 bất thình lình Trịnh Tráng ra lệnh cấm đạo. Ông cấm dân chúng không được giao tiếp với các vị thừa sai, "những người đã cả gan dậy dân chúng tà đạo và những điều mê tín dối trá", lại truyền thiêu hủy tất cả các ảnh tượng, sách vở và đồ đạo. Dưới Thời Trịnh Tạc (1658-1682), Ðầu năm 1658, các quan cố vấn thỉnh cầu Chúa Trịnh chấn chỉnh quốc gia và nghiêm cấm đạo Công Giáo, Tháng 4 năm đó, Trịnh Tạc ra lệnh trục xuất 6 cha Dòng Tên, giam lỏng 2 cha mới tới; Lệnh trục xuất những cha dòng Tên cuối cùng vào ngày 12.11.1663, chám dứt thời kỳ khai phá của dòng Tên tại Ðàng Ngoài; lệnh cấm đạo Công Giáo và các đạo khác; Ba sắc lệnh năm 1669: Ngày 13-5, Chúa Trịnh ra lệnh cấm đạo Công Giáo. Lệnh được quan Tiêu Bút giao cho viên trấn thủ Nam Ðịnh là ông Gia Thước để thi hành. Lệnh viết: Ðối với những người giữ đạo Hoa Lang từ lâu đã có lệnh cấm, phải canh giữ nghiêm ngặt để không ai trong thần dân theo đạo này. Xét kỹ các tầu buôn của Bồ Ðào Nha để tịch thu các đồ dùng và các sách đạo. Ðối với những ai còn tiếp tục đi lại với họ thì phải giáo dục họ, đưa về đàng chánh, nếu không thì phải trừng trị họ theo luật lệ. Tại Thanh Hoá ngày 13-5; Ngày 14-6 sắc lệnh cấm đạo có tên là Phương Truyền được công bố. Sắc lệnh viết: Hội đồng cố vấn theo lệnh của Hoàng Thượng truyền cho các quan thuộc mọi trấn phải ngăn cấm đạo Hoa Lang, là thứ đạo đồi tệ lừa dối dân chúng. Những người ngu dốt không biết gì nên đã tin theo. Năm Canh Dần đã có lệnh vua cấm các người Bồ Ðào Nha lừa dối dân chúng, làm nhà thờ và hội họp nam nữ vô luân. Vậy các nhà thờ này phải triệt hạ trong toàn lãnh thổ và từ đây về sau nếu bắt gặp bất cứ ai hội họp theo thói cũ, hoặc mang những đồ đạo Hoa Lang thì phải tịch thu các ảnh đạo, đánh đòn 50 trượng rồi tha về. Lệnh truyền cho quan nha hiến tại các trấn phải sai lính đi các làng, huyện xem xét. Nếu bắt gặp người nào thì phải bắt họ từ bỏ hẳn thói xấu ấy và tuân giữ các tục lệ của quốc gia. Nếu các lính này không thi hành, hoặc xách nhiễu nhân dân để đòi tiền thì phải trừng phạt. Ban hành năm vua Cảnh Trị thứ 7, ngày 16-5-1669 (14-6 Dương Lịch); Ngày 29-6 một lệnh mới nội dung cũng như trên nhưng được ủy thác cho quan Tiết Chế thi hành để nhổ tận gốc đạo mới này.

Ngày 11.12.1663, các cha dòng Tên cuối cùng bị trục xuất khỏi Ðàng Ngoài. Tháng 02 năm 1665, ba cha dòng Tên cuói cùng bị trục xuất khỏi Ðàng Trong.

Dẫu gặp nhiều khó khăn, do sự chê bai và ganh ghét của các nhà sư hay quan lại, do sự ngăn cản, cấm kỵ và bách hại của triều đình hay quan quyền, hoàng thân,… đạo công giáo, như đáp lại một nhu cầu tự nhiên hay thiêng liêng nào đó, vẫn thu hút nhiều người việt nam trở lại, trong đó có nhiều người không ngại xưng đạo, dẫu có bị tử hình.

Ðó là lý do khiến việc truyền đạo của các cha Dòng Tên đã đem lại một kết quả tốt đẹp, kể từ lúc các ngài bắt đầu vào Cửa Hàn năm 1615. « Sau 37 năm truyền giáo ở Ðàng Ngoài (25 linh mục và 5 trợ sĩ) và 50 năm truyền giáo ở Ðàng Trong (39 linh mục và 1 trợ sĩ), các thừa sai Dòng Tên đã rửa tội khoảng 100.000 tín hữu (20.000 ở Ðàng Trong và 80.000 ở Ðàng Ngoài) ».

Ý Chúa nhiệm mầu, chính vào những lúc khó khăn này, lúc mà tất cả các cha dòng Tên cuối cùng bị trục xuất khỏi Ðàng Ngoài vào năm 1663 và Ðàng Trong vào năm 1665, thì những linh mục thừa sai hải ngoại Paris đầu tiên đã được Ðức Cha Lambert de la Motte gởi đến Ðàng Trong: Và cũng chính vào giai đoạn ngặt ngèo này mà cha chính François Deydier Phan đã được gởi đến Ðàng Ngoài vào năm 1666.

Ðến tiếp nối và tăng cường công việc truyền giáo của các cha dòng Tên ở Việt Nam, Các thừa sai hải ngoại Paris sẽ làm được gì cho giáo hội ở đây ?

Paris, ngày 06 thang 03 năm 2008