Thăm Santarem và tìm hiểu về lịch sử thương mại trên sôngAmazon

Thành phố Santarem nằm bên cạnh sông Tapajós ở sâu bên trong sông Amazon giữa thành phố Manaus và Belém, cách cả hai nơi khoảng 800 cây số. Santarém là một nơi oi bức thuộc vùng núi rừng, nhưng là điểm hấp dẫn du khách vì từ đó có thể đi đến tham quan những điểm thú vị khác ở chung quanh.

Hình ảnh

Đầu tiên nơi này được thành lập như một cứ điểm truyền giáo của các Cha Dòng Tên vào năm 1661. Rồi dần dần phát triển mạnh và cao độ nhất là thời kỳ nhờ cấy cây sao su và ngành là nhựa cao su bùng nổ mà thành phố trở nên phồn thịnh. Nhưng cũng giống số phận của thành Belem nằm ở cửa sông Amazon, khi ngành cao su thất thế thì thị trấn cũng tụt dù.

Thị trấn này một lần nữa có hy vọng lóe sáng khi hãng xe hơi của Henry Ford ở Mỹ chọn làm thí điểm thử nghiệm xây dựng Fordlândia (thành phố Ford) như một tương lai ngoạn mục giữa rừng thiêng! Một giấc mộng không tưởng! Cố gắng này đã thất bại khởi đi từ năm 1928 tới năm 1945 (tàn tích của Fordlândia ngày nay còn có thể thấy được nếu dùng thuyền đ về phía hạ lưu bờ sông khoảng mất 12 giờ).

Tour du lịch của chúng tôi bắt đầu tại một địa điểm dọc theo bờ sông nhộn nhịp. Thuyền là phương tiện vận chuyển chính ở Amazon. Đủ mọi loại thuyền lớn bé khác nhau dùng cho du lịch và cho đánh cá. Tầu chở hàng hóa, sản phẩm và hành khách trong hình dạng và điều kiện khác nhau.

Trung tâm thương mại thành phố là một điểm nóng du lịch, du khách đi một vòng chợ cá với đủ loại cá lớn bé khác nhau và cả những thứ cá mà chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy trước. Hướng dẫn viên cho biết trong dòng sông Amazon có đến 3000 loại cá khác nhau. Quảng trường Ngư phủ Fisherman là điểm hấp dẫn, gần đó có tượng thánh Phêrô ngư phủ trông ra biển mà chung quanh quảng trường này có rất nhiều cây xoài sai trái. Đi đâu trong thành phố trên đường nào chúng tôi cũng cây xoài với trái nặng chịu.

Tiếp đến chúng tôi thăm nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Conceicao - tòa nhà lâu đời nhất ở Santarém có niên đại từ năm 1761, mà bên trong nhà thờ tự hào có một cây thánh giá được nhà khoa học Đức Frederic von Martius tặng vào năm 1846, ông là một thành viên của Viện Khoa học Munich.

Tiếp theo, tham quan Bảo tàng Joao Fona Museum, tọa lạc trong Tòa thị chính cũ. Bao quanh tòa nhà là các đường phố hẹp của phố cổ. Bảo tàng đáng giá này gìn giữ những khám phá cổ học về những dụng cụ người tiền sử dùng và đồ gốm, trang sức, dụng cụ mà những người bộ lạc đã từng sinh sống trong vùng này: có dụng cụ thời đồ đá, bình chôn người chết, các cổ vật, vật dụng và đặc biệt đồ gốm của Tapajos cổ đại. Ngoài ra còn có nhiều hiện vật thế kỷ 19 và các ấn phẩm trưng bày ở đây.

Từ một tòa nhà xây nhô ra bờ sông gần đó, du khách có thể quan sát Dòng Nước gặp nhau của 2 dòng sông: nước bùn lầy của sông Amazon và làn nước xanh của sông Rio Tapajós. Hai dòng nước vẫn chảy song song bên bên cạnh nhiều dặm trước khi màu sắc đặc biệt của chúng pha trộn và cuối cùng kết hợp. Hiện tượng thiên nhiên này là điểm lôi cuốn tuyệt vời của thành phố. Sở dĩ xẩy ra như vậy vì nước phù sa mầu nâu của sông Amazon chảy với tốc độ nhanh và mạnh, đang khi đó nước ủa dòng Tapajas chảy chậm êm đềm và có hợp chất nước khác, do vậy sau một thời gian chung đụng thì mới kết hợp nhau.

Rời thị trấn, chúng tôi đến thăm nhà làm bột khoai sắn mì, địa phương gọi là Casa da Farinha. Nơi đây du khách cũng quan sát được những loại thực phẩm quan trọng đối với người dân địa phương, và làm thế nào họ làm cho lương thực sắn thành những món ăn dinh dưỡng. Ngoài ra còn có trình bầy về những hoa trái sẵn có trong rừng và du khách có thể thưởng thức và nếm cho biết mùi vị.

Cuối cùng chúng tôi có cơ hội bước vào một khu vực rừng già, quan sát các loại cây, đặc biệt là những câu sao su một thời đã làm cho dân Santarem trù phú.

Ngày nay, Santarém kinh doanh phát đạt ngành du lịch nhờ dòng sông Tapajós có nguồn nước trong veo. Bờ sông dài khoảng 105 km (65 dặm) với các bãi tắm cát vàng giống như tranh vẽ hoàn hảo, từ đây đi thăm các vùng lân cận.

Điểm du lịch có tên Alter do Chao, là niềm mơ ước của người Brazil muốn tìm đến nơi này vì nó được ví là vùng biển Caribbean của Brazil.

Ngoài ra rừng công viên quốc gia Floresta Nacional (FLONA) của Tapajós rộng chừng 2.100 km vuông (811 dặm vuông) là vùng đất được bảo quản các đặc tính thiên nhiên tinh tuyền vẻ đẹp của Amazon vẻ đẹp. Trong rừng tự hào có loại cây Samauma lớn và một vài doanh nghiệp đang phát triển du lịch sinh thái.

Thành phố Santarém cũng tự hào có một đường đi dạo thoải mái bên bờ sông.

Tình hình dân số thời thuộc địa:

Các cuộc nổi dậy ở Cabanagem (1835-1840) cho là trực tiếp chống lại giai cấp thống trị của người trắng. Người ta ước tính rằng 30-40% dân số ở vùng Grao và Para, tức khoảng 100.000 người đã chết.

Tổng dân số thuộc lưu vực sông Amazon vào năm 1850 có lẽ là 300.000 người, trong đó khoảng hai phần ba là người châu Âu và người nô lệ, nô lệ lên tới khoảng 25.000 người.

Thành phố thương mại chính của Amazon lúc đó là Para (nay là Belém mà chúng tôi đã thăm 2 tuân trước), có từ 10.000 đến 12.000 người, bao gồm cả những người nô lệ.

Các thị trấn của Manáos, tại Manaus, tại cửa sông Rio Negro, có dân số từ 1.000 đến 1.500. Tất cả các làng còn lại, như xa như Tabatinga, trên biên giới của Brazil Peru, là tương đối nhỏ.

Vài nét về lịch sử thương mại trên dòng sông Amazon sau thời thuộc địa

Vào ngày 06 tháng 9 năm 1850, Hoàng đế Pedro II của Brazil ra đạo một luật cho phép các tầu chạy bằng hơi nước nóng được phép đi lại trên sông Amazon và đặt Bá tước Irineu Evangelista de Sousa của Maua có nhiệm vụ thực hiện hiệu lực.

Ông Sousa đã tổ chức công ty "Companhia de Navegação e Comércio do Amazonas" ở Rio de Janeiro vào năm 1852; trong năm sau bắt đầu hoạt động với 4 tầu nhỏ có tên: Monarca, Cameta, Marajó và Rio Negro.

Lúc đầu, các tuyến tầu đi lại chủ yếu giới hạn trên các sông chính, và thậm chí vào năm 1857 có hợp đồng của chính phủ chỉ định nghĩa vụ của công ty cchỉ cần thực hiện một chuyến đi mỗi tháng giữa Para và Manaus, và với tầu công suất 200 tấn hàng; một tầu thứ hai đi 6 chuyến hàng một năm giữa Manaus và Tabatinga; tầu thứ ba chở hai chuyến hàng một tháng giữa Para và Cameta. Đây là bước đầu tiên trong việc buồn bán thương mại trên sông Amazon.

Sự thành công của liên doanh nêu trên tạo cơ hội để khai thác kinh tế vùng Amazon, và một công ty thứ hai sớm mở thương mại trên các sông: Madeira, Purus và Negro; công ty thứ ba thiết lập một đường vận chuyển giữa Para và Manaus; và công ty thứ tư thấy có lợi nhuận khi phục vụ trên các tuyến tầu tại các sông nhỏ.

Trong cùng thời gian đó, Công ty Amazonas tăng thêm đội tàu của mình. Trong khi đó, các cá nhân kinh doanh và chạy tàu hơi nước nhỏ của riêng mình trên các sông chính cũng như trên nhiều nhánh sông nhỏ.

Vào ngày 31 tháng 7 năm 1867 của chính phủ Brazil, liên tục ép của các cường quốc hàng hải và các nước bao quanh lưu vực sông Amazon, đặc biệt là Peru, ra lệnh mở cửa các nhánh sông của Amazon để tất cả các nước có thể đi lại, nhưng họ lại hạn chế một số điểm giới hạn rõ ràng như sau: Tabatinga trên sông Amazon; Cameta trên sông Tocantins; Santarém trên sông Tapajós; Borba trên trên sông Madeira, và Manaus trên sôngRio Negro. Nghị định này của Brazil có hiệu lực vào ngày 07 tháng 9 năm 1867.

Một phần nhờ vào sự phát triển buôn bán kết hợp giữa tàu chạy hơi nước cùng với các nhu cầu quốc tế cần tiểu thụ nhựa cây cao su, thành phố của Peru là Iquitos đã trở thành một trung tâm quốc tế phát triển mạnh về thương mại. Các công ty nước ngoài đặt trụ sở ở Iquitos, và từ đó họ kiểm soát việc khai thác cao su.

Vào năm 1851 ở Iquitos chỉ có dân số 200 người, nhưng năm 1900 dân số lên tới 20.000 người. Trong những năm 1860, khoảng 3.000 tấn cao su đã được xuất khẩu hàng năm, và năm 1911 xuất khẩu hàng năm đã tăng lên đến 44.000 tấn, chiếm 9,3% kim ngạch xuất khẩu của Peru

Trong thời gian ngành cao su bùng nổ người ta cũng ước tính rằng bệnh tật được người Âu châu nhập cư đưa vào như sốt phát ban smallpox và sốt rét, đã giết chết 40.000 người dân Amazonian bản địa. Vì họ không có kháng độc tố bệnh này.

Việc buôn bán thương mại nước ngoài trực tiếp đầu tiên với Manaus bắt khoảng năm 1874. Thương mại địa phương dọc theo con sông Amazon đã được thực hiện bởi những người Anh quốc tiếp nối của Công ty- the Amazonas Company -- Amazon Steam Navigation cũng như nhiều tầu hơi nhỏ, thuộc các công ty tham khác gia vào việc thương mại cao su.

Bước sang thế kỷ 20, xuất khẩu của các lưu vực sông Amazon là cao su, hạt cacao, các loại hạt dẻ Brazil và một số sản phẩm khác có tầm quan trọng thứ yếu, chẳng hạn như tấm da và các sản phẩm rừng kỳ lạ (nhựa, vỏ cây, võng dệt, lông chim được đánh giá cao, và động vật sống) và hàng hóa được làm thành từ gỗ và vàng.

Khảo cứu khoa học

Các nhà nghiên cứu và khám phá khoa học liên quan tới động vật và thực vật đầu tiên vùng sông Amazon và lưu vực xảy ra trong nửa thứ hai của thế kỷ 18 đến nửa đầu thế kỷ 19. Các nhà khảo cứu đó gồm có những vị sau đây:

• Charles Marie de La Condamine khám phá sông trong 1743.
• Alexander von Humboldt, 1799-1804
• Johann Baptist von Spix và Carl Friedrich Philipp von Martius, 1817-1820
• Henry Walter Bates và Alfred Russel Wallace, 1848-1859