Lịch Sử Kitô Học Thời Giáo Hội Sơ Khai



Nếu hiểu Kitô Học như một học lý đã được khai triển đầy đủ về con người và việc làm của Chúa Giê-su Kitô trong khuôn khổ một cái nhìn thần học và triết lý về thế giới, thì Kitô Học ấy chỉ đã được xây dựng dần dần trong diễn trình phát triển của Kitô giáo buổi sơ khai. Nhưng nếu hiểu Kitô Học như những phát biểu nào đó về ý nghĩa của Chúa Kitô cũng như ý nghĩa các biến cố trong đời sống của Người, thì đức tin Kitô giáo, ngay cả đức tin của chính Kitô giáo thời sơ khai kia, không thể nào có được mà không có một Kitô Học. Thực thế, theo nghĩa thứ nhất, Kitô Học luôn luôn tùy thuộc vào một suy tư triết lý của một thời đại nhất định nào đó; nhưng ngay trong nghĩa thứ hai, nó cũng đòi người ta phải vay mượn một số ý niệm và một số tước hiệu nào đó, cũng như phải giả thiết một vài quan điểm liên quan đến mối tương quan giữa Thiên Chúa và thế giới, giữa thời gian và cánh chung thế trần. Với một quan điểm như thế, câu hỏi chính liên quan đến Kitô Học buổi đầu Kitô giáo mà các nghiên cứu ngày nay cố gắng giải đáp chính là câu hỏi này: sự nhận thức về Chúa Giê-su lịch sử đã diễn biến nhanh chóng thành đức tin vào Con Thiên Chúa trên trời như thế nào? Ta biết rằng thế giới trong đó Kitô giáo xuất hiện vốn rất quen thuộc với những khuôn mặt cứu thế với các phẩm tính thần linh. Người Do thái chẳng hạn vẫn hằng mong chờ Đấng Thiên Sai hay Con Người; các dân ngoại trong thế giới Hy Lạp vốn tin có những thần linh được gửi từ trời xuống để mạc khải, còn các tôn giáo Đông Phương (Lưỡng Hà, Ba Tư) vốn có lòng tin vào những vị thiên sứ. Cho nên Kitô Học, một cách phát biểu sự gắn bó nội tâm đối với Chúa Giê-su và Phúc Âm của Người, chắc chắn đã phát xuất từ sự liên kết tức khắc khuôn mặt Chúa Giê-su vào các ý niệm ấy, hay từ việc hội nhập vào các ý niệm ấy từ từ qua giòng thời gian. Các học giả phần lớn đều nhất trí ở điểm đó. Tranh luận hay chăng chỉ là vấn đề tìm xem con người của Chúa Giê-su và các biến cố trong cuộc đời của Người đã đóng góp phần đáng kể ra sao vào cái Kitô Học kia. Tranh luận cũng còn trong việc tìm xem các ý niệm trên, tức các ý niệm mà các Kitô hữu vốn đã thừa tự được hoặc các ý niệm họ vay muợn được do ảnh hưởng các kinh nghiệm mới, phần nào thuộc nguồn Do Thái phần nào thuộc nguồn Hy Lạp. Sau cùng, là vấn đề thời điểm nào các ý niệm khác nhau kia đã được Kitô giáo tiếp nhận.

1. Giáo Hội Sơ Khai



a. Các Tước Hiệu và ý niệm: Trước nhất là tước hiệu Con Người. Nếu nguyên khởi tước hiệu này, vốn được chính Chúa Giê-su long trọng áp dụng vào chính mình, có ý chỉ về một con người từ trời ngự xuống trên các đám mây, thì việc xưng Chúa Kitô bằng tước hiệu ấy hàm nghĩa lòng mong chờ việc Người “đến” trong vinh quang từ trời (parousia). Nhưng điều ấy giả thiết Người đã ở trên trời rồi (Lc 22:69; Cv 7:56), ngự bên tay phải Thiên Chúa và do đó, việc Người chết đâu có nghĩa là thất bại nữa, mà phải được tiếp nối bằng sự sống lại và tôn lên để ở cùng Thiên Chúa. Như thế việc áp dụng tước hiệu Con Người vào Chúa Giê-su đã đưa lại một giải thích chân thực cho cuộc khổ nạn của Người: Con Người phải bị ‘trao nộp’ vào tay thế gian (Mc 9:31; 10:33; 14:41; Lc 24:7; 1 Cor 11:23). Sự cần thiết ấy đã được phát biểu qua kiểu nói cuộc khổ nạn của Con Người ‘đã được chép’ (Mc 9:12), và kiểu nói đó đã được sử dụng làm chứng cớ Kitô Học dựa trên Cựu Ước. Vì thuật ngữ Con Người đã có một chỗ nhất định trong giòng văn khải huyền của Do Thái, nên việc sử dụng nó trong Kitô giáo cho người ta thấy khả thể có những liên kết với những nhóm vốn tư duy bằng các thuật ngữ cánh chung (tận cùng thế gian, tiền hiện hữu của Con Người). Hình ảnh về Con Người từ lâu vốn có liên hệ với hình ảnh về Đấng Được Xức Dầu (Messiah) trong Do Thái giáo (Enoch 37:71). Ý niệm sau sau đó đã thay đổi, và hiệu quả đầy đủ của việc thay đổi này đã được nhìn thấy rất rõ trong Kitô giáo sơ khai. Thực vậy, Đấng Được Xức Dầu không còn là người thuộc chi họ Đavít với sứ mệnh lên ngôi để thiết lập một vương quốc trường cửu và đầy phúc nữa, nếu Người là đấng sẽ đến như Con Người từ các tầng mây trời; và một miêu tả như trong sứ điệp thiên thần của Lc 1.32 cho ta cái cảm tưởng quá sớm và xem ra không phù hợp với thân phận lịch sử của Chúa Giê-su. Mc 12:35-37 còn có thể coi như một phản kháng chống lại hình ảnh truyền thống về Đấng Được Xức Dầu: không nên quá nhấn mạnh đến dòng dõi Đavít. Dưới ảnh hưởng cuộc đời lịch sử của Chúa Giê-su, các Kitô hữu tiên khởi đã đạt đến chỗ coi cuộc khổ nạn của Đấng Được Xức Dầu như là con đường dẫn đến vinh quang của Người (Lc 24:26; CV 3:18...) và quan niệm được rằng điều làm Người trở thành Đấng Được Xức Dầu chính là việc Người bước vào vinh quang và việc Người sẽ trở lại. Có lẽ có một số trong họ cho rằng Người chỉ trở thành Đấng Được Xức Dầu khi sống lại {Cv 2:36; 3:13; ở đây, bề ngoài xem ra có yếu tố của một Kitô Học theo hướng ‘thừa nhận’(adoptionist)}. Cái ý niệm về một Đấng Được Xức Dầu chịu khổ nạn dù có thể có trong Do Thái giáo cũng không thấy có chỗ đứng nào trong Kitô Học trên. Không một tài liệu Kitô giáo nào nhắc đến việc ấy.

Dù được nhắc đến rất ít, nhưng tước hiệu tôi tớ Thiên Chúa phải được coi như một tước hiệu của Chúa Giê-su từ rất lâu. Nó đã được dùng như một công thức nhất định trong các trình thuật sớm nhất (Cv 4:30; Didache 9:10; I Clement 59), và dường như các Kitô hữu quen dùng công thức này trong việc chữa bệnh. Theo Công vụ 3:13 và Mát-thêu 12:18, và luận đoán từ Hy ngữ là tiếng đã được sử dụng (pais chứ không phải lougos), tước hiệu này có ý chỉ về một dung mạo rất quen thuộc của người tôi tớ đau khổ của Gia-vê trong Isaia 42, và không phải tước hiệu chung chung theo kiểu đã dùng chỉ Đavít trong Lc 1:69. Do đó, nó không nhấn mạnh trước hết đến sự tùng phục, nhưng đến việc được Thiên Chúa chọn để chịu khổ nạn; phẩm giá thực sự của đấng được Thiên Chúa sai đến đã được phát biểu rất rõ trong tước hiệu này. Do đó, tước hiệu này, xét theo nguyên gốc, có thể đã chứa sẵn một giải thích cho mầu nhiệm thập giá cùng một cách như tước hiệu ‘Con Người’ vậy.

Sau đó người ta cảm thấy không thích tước hiệu ‘Tôi Tớ’ nữa vì nó đem lại cho Chúa Giê-su một vị thế quá thấp, nên người ta đã hiểu tước hiệu này như là ‘Con Thiên Chúa’ (pais cũng có thể có nghĩa là ‘con trẻ’); hiển nhiên điều đó đã được thấy trong lời kinh của Polycarp trong sách Cuộc Tử Đạo của Polycarp 20:2 (ở đây từ ngữ monogenis, con một, đã bổ nghĩa cho pais). Nhưng có lẽ vì khó có thể hiểu đồng nghĩa như thế, nên tước hiệu này mỗi ngày một ít được dùng đi và cuối cùng đã biến mất. Rất có thể tước hiệu Con Thiên Chúa khởi thủy mang theo ý niệm tuyển chọn. Vì Con Thiên Chúa vốn là một tước hiệu dành cho vua tại Phương Đông xưa, có liên hệ đến các thần thoại về nguồn gốc thần linh của vua chúa. Tuy nhiên khi đem áp dụng vào vua chúa Israel, như trong Tv 2:7, thì căn bản thần thoại đã biến đi, nhường chỗ cho ý niệm thừa nhận (adoption); “Con là con Ta, hôm nay Ta đã sinh ra con”, nghĩa là “kể từ hôm nay, con sẽ là con Ta”. Thánh vịnh này có lẽ đã được giải thích theo ý nghĩa xức dầu trong Do Thái giáo, và sau đó được gán cho ý nghĩa Kitô Học trong Kitô giáo. Trong trường hợp như vậy, giây phút bắt đầu tư cách làm con (sonship) có lẽ là lúc sống lại: như vậy Kitô Học ở đây rõ ràng theo khuynh hướng thừa nhận (adoptionist), theo đó Chúa Giê-su, khi sống ở thế gian, chỉ là một con người, nhưng lúc sống lại đã trở nên Con Thiên Chúa. Sau này, lúc Người chịu phép rửa đã được coi như giây phút Người bắt đầu là Con Thiên Chúa; chứng cớ tốt nhất của việc này là trình thuật cổ xưa nhất về việc Người chịu phép rửa. Đây là một truyền thống được bảo tồn bên ngoài các sách Phúc Âm ta hiện có và chỉ đến với chúng ta qua bản văn Phương tây của Lc 3:22; trong đó, tiếng từ trời nói với Chúa Giê-su chính là câu Tv 2:7 gồm cả chữ ‘hôm nay’ nữa. Nhưng ngay cả bản văn theo qui điển chính thức đi chăng nữa, tức câu ‘Con là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng’, thì vẫn mang theo ý niệm tuyển chọn chứ không hẳn ý niệm sinh ra hoặc giống nhau về bản tính với Thiên Chúa. Cho nên tước hiệu ấy cũng có ý nghĩa ‘thừa nhận’ đặc biệt vì công thức ‘con là con Ta’ trong thuật ngữ pháp chế đông phương vốn dùng để nhận ai làm con nuôi (‘con sẽ là con ta’). Và dù sao, ‘Con Thiên Chúa’ trong các văn bản xưa nhất của Kitô giáo chỉ là một thuật ngữ thay thế thuật ngữ Đấng Được Xức Dầu mà thôi, và quan điểm này chẳng hề suy suyển gì dù trong Cựu Ước, ‘Con Thiên Chúa’ không được dùng để chỉ Đấng Được Xức Dầu, và như chúng tôi được biết, không dùng trong bất cứ văn chương Do Thái giáo nào.

Bên cạnh những tước hiệu trên, một vài hiện tượng trong sinh hoạt của Giáo Hội sơ khai có thể dùng làm nguồn gốc cho một Kitô học sớm nhất: dùng tên Giêsu để chữa bệnh; chứng cớ không phải chỉ có trong các trình thuật của Tông Đồ Công Vụ, mà còn trong các bản kinh như trong Cv 4:30 nữa: ‘và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, nhân danh tôi tớ thánh của Ngài là Chúa Giê-su’. Cũng thế, các phép rửa đã được thực hiện nhân danh Chúa Giê-su và các bữa ăn thánh đã được cử hành trong niềm mong chờ Con Người sẽ đến. Tất cả các hiện tượng ấy đều là bằng chứng về một Kitô Học của thời ấy khi các môn đệ và các tín hữu của Chúa Giê-su không nghĩ về vị thầy của mình như một người đã chết và đã đi khỏi, nhưng nhờ việc sống lại của Người mà biết được rằng Người đã được nâng lên ở với Thiên Chúa, và ý thức rõ rằng quyền lực của Người vẫn còn hiện diện cách đầy hiệu quả nơi họ như một bảo đảm rằng họ sẽ được tái hợp với Người trong tương lai. Niềm xác tín về vương quốc đang đến ấy đã nối kết việc Thiên Chúa can thiệp đem lại giải thoát trong quá khứ với việc hoàn tất ơn cứu độ trong tương lai; thời gian hiện tại do đó mang theo mình đặc tính trung điểm (intermediate), và những gì trước đó họ cảm nghiệm trong cuộc đời của Chúa Giê-su đều được giải thích dưới ánh sáng của tương lai. Điều này giải thích tại sao ngay cả những người đã cùng ăn uống với Chúa Giê-su cũng nghĩ về Người dưới ánh sáng của thứ Kitô Học đơn giản này.

b. Nguồn Gốc Từ Cuộc Sống Lịch Sử Của Chúa Giêsu: Ta không còn tránh né được câu hỏi các môn đệ Chúa Giê-su đã nắm được các quan điểm Kitô Học nêu trên vào lúc nào. Muốn trả lời câu hỏi này, thiết tưởng ta cần trả lời câu hỏi khác: chính Chúa Giê-su đã chấp nhận đến mức nào tước hiệu Đấng Được Xức Dầu? Nếu ta quan niệm rằng các môn đệ Chúa Giê-su không thể làm ngơ câu hỏi liệu Người có phải là Đấng Được Xức Dầu hay không, và nếu ít nhất cuộc hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giê-su khiến người ta phải chú mục đến một chuyển dịch xức dầu, thì điều ấy hẳn phải hàm ý chính Chúa Giê-su đã tự nhận mình là Đấng Được Xức Dầu và do đó các môn đệ đều nhìn nhận Người như vậy. Hậu quả là các môn đệ hẳn đã nghĩ về con người của Người qua lăng kính chờ mong Đấng Được Xức Dầu ngay lúc Người còn tại thế; các hoài mong này mang hình thức gì thì ta không rõ, nhưng chắc chắn không nhất thiết chỉ là một thứ quân chủ quốc gia. Ta có thể quả quyết hơn nếu ta biết Chúa Giê-su đã dự ứng ra sao cái kết quả không mấy thành công trong chuyến lên Giêrusalem của Người. Nếu đã dự đoán được điều ấy thì hẳn Người đã liên kết hai ý niệm Xức Dầu và thống khổ lại với nhau như thuật ngữ giá chuộc muôn người trong Mc 10:45, một thuật ngữ hết sức đặc thù và có tính Kitô giáo về hình thức. Căn bản bên trong giòng tư tưởng Do Thái của thuật ngữ trên có thể tìm thấy nơi Is 53 và 4, Mcb. 6:29 và 17:22. Tuy nhiên ta vẫn không rõ Người đã liên kết các ý niệm đó đến mức nào; việc liên kết này có thể đã không gây được ấn tượng quan trọng nào nơi các môn đệ, vì các ông rất ngạc nhiên khi thấy Người chịu đau khổ và chịu chết. Chúng tôi nhắc đến những điều này chỉ để chứng tỏ rằng hạt giống phát sinh ra tư tưởng Kitô Học có thể đã có trong cuộc đời của Chúa Giê-su. Thêm vào đó, chúng tôi cũng xin nhắc đến mối liên hệ hết sức đặc biệt của các môn đệ đối với vị thầy của họ, một mối liên hệ rất khó so sánh với tình thầy trò theo nghĩa Tây phương. Vì mối liên hệ ấy nói lên sự tôn kính nể sợ của những môn đồ cảm thấy sững sờ trước sự cao cả của một vị thánh đang hiện diện giữa họ nhưng chính vị thánh ấy xét ngay trong thẩm cung bản nhiên lại vẫn là một người xa lạ đối với họ.

Nguồn gốc đích thực phát sinh ra mọi Kitô Học phải được tìm thấy trong các biến cố xẩy ra sau cái chết của Chúa Giê-su. Theo một truyền thống cổ xưa nhất (1 Cor 15:3...; Mc 14:28; Ga 21), niềm xác tín rằng Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chết không dựa vào hiện tượng căn mồ trống, điều mà thánh Phao-lô không bao giờ nhắc đến, mà là dựa vào các lần hiện ra của Thầy, đấng mà các môn đệ tin là đã chết. Từ những lần hiện ra ấy, các ông kết luận rằng Chúa Giê-su không nằm vùi trong sự chết, nhưng đã được đưa vào vinh quang của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là giáo huấn của Chúa Giê-su đúng, nước Thiên Chúa quả đang đến, và giai đoạn cuối cùng của thời gian với lời hứa kẻ chết sống lại đã bắt đầu đến cùng với việc sống lại của Chúa Giê-su. Do đó, việc sống lại của Người không phải là một biến cố không có chỗ đứng trong thế giới quan của các môn đệ, ngược lại, nó là hậu quả ‘đúng’ của những điều họ đã cảm nghiệm. Bên trên cái cảm nghiệm ấy, điều kỳ thú và đầy hứa hẹn là việc nhìn nhận rằng mặc dù bề ngoài xem ra như thất bại, Phúc Âm và vương quốc của Chúa Giê-su nay đã được Thiên Chúa xác nhận. Chỉ đến nay, các môn đệ mới cảm thấy tự tin là họ đã hiểu đầy đủ ý nghĩa những việc Chúa Giê-su đã làm, cũng như tầm quan trọng trong con người và định mệnh của Người. Như thế, đức tin vào sự sống lại chính là khởi đầu của mọi Kitô Học. Vì sự thay đổi có tính quyết định đầu tiên trong mối liên hệ của các môn đệ đối với Thầy của họ là ý niệm mạc khải về nước Thiên Chúa, lần đầu tiên tỏ lộ cho ho, nay đã trở thành điều chắc chắn, một sự chắc chắn tóm lược hết những gì đã xẩy đến với họ cũng như hết những gì họ vốn trông chờ, một giải thích cho quá khứ và một hy vọng cho tương lai.

2. Kitô giáo khuynh hướng Hy Lạp trước thời thánh Phao-lô



a.Tôn Thờ Chúa Giêsu Như 'Chúa': Sự thay đổi thứ hai trong mối liên hệ chính là việc chuyển hướng nhấn mạnh đến hiện tại hơn là tương lai; một Giáo Hội vốn mong chờ ơn cứu độ nay trở thành một Giáo Hội đã nắm được ơn cứu độ ấy; Con Người, Đấng được chờ mong sẽ đến trong các tầng mây trời, nay, dù niềm chờ mong kia vẫn còn đó, được coi đang hiện diện trong Giáo Hội, đang cai trị Giáo Hội, và đang được tôn thờ trong phụng vụ của Giáo Hội. Mối liên hệ này được diễn tả một cách đặc biệt qua một tước hiệu mới, tước hiệu Chúa, trong Hy ngữ là kyrios, một tước hiệu sau đó đã trở nên hết sức phổ quát trong các Giáo Hội nói tiếng Hy Lạp. Trong các tôn giáo của các xứ lân cận, tước hiệu này từ lâu vốn có nghĩa đặc biệt chỉ tước hiệu thần minh. Tại Ai Cập, từ ‘Chúa’ phần lớn dùng để chỉ vương quyền của thần minh đối với thế giới. Khi dịch Cựu Ước sang tiếng Hy Lạp, các dịch giả người Ai Cập sử dụng tước hiệu kyrios thay thánh danh Yahweh, có thể họ đã nghĩ đến tập tục của người Do Thái thường đọc trại Yahweh thành adonai (Chúa) vì lý do húy kính. Nhưng trong các đoạn văn này, họ lại không chuyển dịch từ adonai như họ vẫn thường làm ở những bản văn khác, nhưng đã thay nó bằng từ kyrios. Điều ấy cho thấy cái âm của từ này hẳn phải có tầm quan trọng đối với họ vì họ chủ ý nghĩ đến vương quyền thần linh đối với thế giới, như chính Philo đã xác nhận trong De Plantatione 86. Ngược lại, tại Syria, ‘Chúa’ trời là vị thần mà mọi người chúng ta đều là ‘nô bộc’; như thế tước hiệu này liên hệ mật thiết với ý niệm phục mệnh, tôn thờ mà các thần dân phải có đối với ‘Chúa’ của họ. Khi Giáo Hội Kitô thờ phượng ‘Chúa’ của mình dĩ nhiên họ không nghĩ ngay đến vấn đề vương quyền đối với trần gian cho bằng đến nghĩa vụ thờ kính tôn giáo, nhưng sau đó khi đọc các đoạn văn Cựu Ước bằng tiếng Hy Lạp, trong đó ‘Chúa’ của họ được gán cho tước hiệu kyrios, dần dần họ đã liên kết được ý nghĩa vũ trụ học với ý nghĩa thờ kính kia. Đàng khác, việc sử dụng tước hiệu ‘Chúa’ trong việc thờ kính hoàng đế xem ra có liên hệ đến tập quán của người Ai Cập. Dù sao, nếu không phải là nguyên nhân, thì tập quán của người Ai Cập quen gọi vị vua đang cai trị mình là ‘Chúa’ có nhiều điểm tương đồng với tập quán của Kitô giáo. Thực thế, trong cả hai trường hợp, một con người lịch sử đã được tôn vinh là Thiên Chúa qua việc sử dụng tước hiệu này. Chỉ sau khi ý thức được nét tương tự đó, Kitô giáo mới ráng làm rõ nghĩa việc sử dụng tước hiệu này.

Người ta có thể hỏi liệu việc tôn thờ Chúa Giê-su như ‘Chúa’ có liên hệ gì đến một dạng huyền nhiệm học (mysticism) nào đó trước thời thánh Phao-lô hay không. Ta biết thánh Phao-lô vốn dùng kiểu nói ‘trong Chúa’ (như Rm 16) trong đó ‘ở trong Chúa’ chỉ có nghĩa là ‘thành một Kitô hữu’, một công thức vốn đã thịnh hành trước thời thánh nhân. Như vậy điều ấy có nghĩa là bất cứ ai tham dự vào việc thờ phượng Kitô giáo đều cũng trở thành chi thể trong huyền thể Chúa Kitô, và do đó đều ở ‘trong Chúa’. Một thứ huyền nhiệm học có tính tế tự cũng có thể đã phát sinh với ý niệm cho rằng phép rửa tội có nghĩa là được an táng và được sống lại từ cõi chết với Chúa Kitô, một ý niệm mà trong Rm 6:3,4, rõ ràng thánh Phao-lô cho là rất quen thuộc với Giáo Hội tại thành Rôma, nhưng không hẳn quen thuộc với chính bản thân Ngài.

b.Nguồn Gốc Việc Thờ Phượng Chúa Kitô: Như thế, không kể các ý niệm đặc biệt đối với thánh Phao-lô, ta có thể lần trở lại các ý niệm khác nhau, tuy không luôn luôn nhất quán với nhau, nhưng đã diễn tả được tầm quan trọng của Chúa Kitô như đấng đang hiện diện ở đây và lúc này: đó là việc thờ phượng ‘Chúa’ với nghĩa tế tự, và ở một vài nơi khác, việc thờ phượng ‘con chiên’, việc cử hành cuộc thống khổ và việc sống lại của Người như những biến cố trong đời một vị thần linh, trong phép rửa và dĩ nhiên trong Thánh Thể nữa, và huyền nhiệm học có tính tế tự về việc ‘ở trong Chúa’. Theo các ý niệm đã được trình bày trên đây (nói về mạc khải), người ta không chờ đợi Chúa Kitô có đầy đủ vinh quang Thiên Chúa trước thế mạt; các quan điểm nhắc đến ở đây trình bày Chúa Kitô như Chúa của Giáo Hội, được tôn thờ như Thiên Chúa, ngay trong thời gian hiện tại. Câu tuyên xưng ‘Chúa Giê-su là Chúa’ (1 Cor 12:3; Rm 10:9; Pl. 2:11) có nghĩa là nhân danh Chúa Giê-su, là ‘tên trọng hơn hết các tên’ tức tước hiệu ‘Chúa’, mọi đầu gối đều phải bái qùy (kể cả các thiên thần), và do đó tước hiệu Chúa có ngay trong lúc này.

Vấn đề là mối liên hệ mới với Chúa Kitô tức việc liên kết Kitô Học vào hiện tại này đã có từ lúc nào. Các nét riêng rẽ tạo ra toàn bộ bức tranh có thể dễ dàng tìm thấy vết tích trong Giáo Hội sơ khai tại Palestine (ý niệm ‘con chiên’ chẳng hạn, để chỉ Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi con người); còn việc giải thích cái chết và việc Người sống lại theo chiều hướng mầu nhiệm, thì môi trường ngoại giáo có nhiều ảnh hưởng. Vấn đề gây tranh luận nóng bỏng nhất là vấn đề ấn định thời điểm phát sinh ra tước hiệu ‘Chúa’ theo nghĩa long trọng tức nghĩa tôn giáo. Khảo sát kỹ các văn bản, người ta thấy tước hiệu này lần đầu tiên trở nên quen thuộc nơi các Giáo Hội nói tiếng Hy Lạp. Trong các trình thuật của Phúc Âm nhất lãm, tước hiệu này chỉ xuất hiện dần dần; trong Maccô, tước hiệu này ít khi có ý nghĩa long trọng, ngoại trừ đoạn 11:3 (nhưng trong cả đoạn này người ta cũng hoài nghi không chắc nó có ý nghĩa tôn giáo hay không), nhưng trong Gioan, và đặc biệt trong Luca, tước hiệu ấy được nhắc đến nhiều. Mặt khác, cũng trong các Giáo Hội nói tiếng Hy Lạp, tước hiệu ‘Đấng Được Xức Dầu’ (Messiah) bắt đầu nhường chỗ cho tước hiệu ‘Chúa’. Đấng Được Xức Dầu được dịch sang tiếng Hylạp là christos nhưng khi chuyển từ Hy Lạp qua La-tinh, tước hiệu này chỉ được chuyển âm thành christus chứ không được dịch nghĩa; điều ấy cho thấy cùng với giòng thời gian, tước hiệu ‘Kitô’đã được coi như một tên riêng, không được coi là một tứơc hiệu nữa vì đã được tước hiệu kyrios thay thế rồi. Như vậy xem ra ý nghĩa lớn lao của tước hiệu long trọng ‘Chúa’ đã có nơi các Giáo Hội nói tiếng Hy Lạp trước thời thánh Phao-lô (như Antiokia và Damascô), dù không có chứng cớ gì là chính họ đã tạo nên. Việc sử dụng thuật ngữ ‘đấng Kitô đức Chúa’ trong trình thuật giáng sinh (Lc 2:11) cho thấy nó có thể phát xuất từ Palestine; có người cho công thức bằng tiếng Aramaic ‘Maranatha’ (Lạy Chúa, xin hãy đến) là công thức có trong 1 Cor 16:22 và Didache 10:6 cũng phát xuất từ Palestine. Nhưng thực ra, ta không biết rõ nguyên lai công thức này. Chỉ biết rằng việc cầu nguyện cùng Chúa Giê-su có rất sớm, giữa cả những Kitô hữu nói tiếng Aramaic. Quan điểm này tìm thấy chứng cớ do sự kiện thánh Phao-lô miêu tả các Kitô hữu như những người hằng ‘kêu cầu danh Chúa Giê-su Kitô Chúa chúng ta’ (1 Cor 1:2), một kiểu nói đã quá quen thuộc đến nỗi được dùng làm lời mào đầu cho một bức thư. Con Người được người ta chờ mong đến từ trời, và Chúa của Giáo Hội đang ở với Thiên Chúa có thể được kêu tên và được cầu khấn trong kinh cầu mà không làm hại chi đến tôn giáo độc thần hoặc làm lu mờ ký ức về cuộc sống trần thế của Chúa Giê-su. Dù cấu trúc lịch sử ấy không đầy đủ chi tiết, người ta vẫn có cảm tưởng rằng các khai triển căn bản về Kitô Học đã có sẵn trước thời thánh Phao-lô, nhưng chắc chắn không hoàn toàn do Giáo Hội tại Giêrusalem, vì Kitô giáo Hy Lạp đóng vai trò quan trọng trong diễn trình ấy.

Viết theo Martin Dibelius, trong Twentieth Century Theology in the Making , do Jaroslav Pelikan chủ biên

Bản tiếng Anh của R.A. Wilson Fontana

(Còn tiếp)