THÁNH TÔMA AQUINÔ MỘT BẬC THẦY TU ĐỨC



Sự đóng góp của Thánh Tôma Aquinô cho Giáo-Hội và cho nền văn học Tây phương vô cùng phong phú nên rất khó mà bàn luận về ngài khi không thấu hiểu ngài một cách trọn vẹn. Ngài là một triết gia, khoa học gia, một nhà thần bí, thần học gia, nhà chú giải Thánh kinh, và trên tất cả, ngài là một vị Thánh. Tước hiệu cuối cùng nầy là điều được khảo sát nhiều nhất đồng thời cũng là điểm rạng rỡ nhất. Khi người ta diễn giải Thánh Tôma như là một triết gia duy lý hay thần học gia, người ta đã đánh mất tâm điểm nóng bỏng của tất cả những gì ngài đã viết. Thánh Tôma Aquinô là một vị Thánh yêu mến Chúa Giêsu Kitô một cách rất sâu đậm và hình ảnh Chúa Kitô tỏa lan trong những tác phẩm triết lý, thần học và thánh kinh của ngài. Trên tất cả, Thánh Tôma Aquinô là một bậc thầy tu đức tuyệt hảo, nêu cao thần tượng của Ngôi Lời Nhập Thể và kêu mời người khác hội nhập vào quyền lực biến đổi của thần lực đó.

Vào cuối đời ngài, sau khi đã cố công sáng tác một văn bản về nhiệm tích Thánh Thể, trong một cử chỉ kiên cường có tính cách thiêng liêng tuy không thích hợp với bản tính trầm tĩnh của ngài, Thánh Tôma đã ném quyển sách dưới chân tượng Thánh giá, kêu xin Chúa Kitô phán đoán. Theo những điều ghi chép đáng tin cậy, một tiếng nói vọng ra từ thánh tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh cho biết Thánh Tôma đã viết đúng những gì liên quan đến nhiệm tích Thánh Thể và ban cho ngài một phần thưởng để đền bù những công lao khó nhọc của ngài. Tiếng nói đó hỏi: "Con muốn điều gì?" Thánh nhân trả lời: "Nil nisi te" (không gì ngoài Chúa ra). Điều đó xác tín cuộc đối thoại thần bí giữa Thầy (Chúa Kitô) và đệ tử (chính ngài) là một thứ chìa khóa giải thích toàn bộ cuộc đời và tư tưởng của Thánh Tôma Aquinô: ngài không muốn gì hơn Chúa Kitô, không muốn gì khác Chúa Kitô, không muốn gì kém Chúa Kitô. Ngài cố gắng bước đi trong lối đi dành cho đệ tử và tất cả những tác phẩm của ngài chỉ nhằm một mục đích là chỉ lối đi đó cho những người khác.

Nhiều người sẽ không đồng ý như vậy vì, theo họ, những tác phẩm khô khan, bí hiểm, đôi khi khó lĩnh hội của Thánh Tôma Aquinô khó có thể làm cho ngài mang tước hiệu bậc thầy tu đức được. Lối hành văn nặng về triết lý và quá trừu tượng của ngài xem ra hoàn toàn đối nghịch với lối sống có tính cách cá nhân, hoàn toàn trần thế, dễ dàng xúc động của những văn hào tu đức được nhiều người biết đến như Meister Eckhart hay Thánh Gioan Thánh Giá. Thật ra, điểm thích thú ở đây là cả Eckhart lẫn Thánh Gioan Thánh Giá đều thấm nhuần sâu đậm nền thần học của Thánh Tôma Aquinô. Eckhart đã thay thế Thánh Tôma giữ chức giáo sư thần học tại Đại Học Paris và đã đào sâu nguồn mạch minh triết của ngài. Và những thi ca thần bí của Thánh Gioan Thánh Giá đã được sáng tác qua cấu trúc thần học của Thánh Tôma.

Họ không chấp nhận Thánh Tôma là một bậc thầy tu đức chỉ vì họ không đồng quan điểm về một vài luận thuyết căn bản của ngài đối với vai trò và mục đích của nền thần học. Nhiều bình luận gia - gồm có Paul Tillich (Tin Lành) và Hans Urs von Balthasar (Công giáo) - đã nhận xét rằng một sự chuyển hướng lớn lao và giả định đã xảy ra khoảng năm 1300. Vào thời kỳ đó, thần học được xem như một môn học thuần túy ở đại học và biệt lập với điều mà ngày nay thường gọi là tu đức. Phần đông những thần bí gia, những thi sĩ và những vị linh hướng tu đức nổi tiếng của thời hậu Trung Cổ có khuynh hướng không muốn trở thành những thần học gia; họ thà lánh xa những trung tâm tư tưởng "khoa học" và theo một nghĩa nào đó, họ thích đi vào lối sống hầm trú hơn.

Nhưng trước năm 1300, nghĩa là từ những thế kỷ đầu của Giáo Hội cho tới thời kỳ Thánh Tôma Aquinô, không có sự ly khai đáng kể nào giữa thần học (môn học về Chúa) và tu đức. Nhiều bậc thầy tu đức nổi tiếng của thời kỳ Giáo Phụ - Origen, Thánh Augustinô, Thánh Ambrôsiô - đều được gọi là thần học gia. Tất cả những khuôn mặt đó cuối cùng đều chỉ quan tâm đến việc biến đổi, hoán cải và cứu rỗi con người. Nền thần học của họ không phải là những ức đoán có tính cách trừu tượng vì lợi ích thần học, trái lại, đó là một đường lối hướng dẫn tu đức, một cố gắng khuyên nhủ người ta bắt chước lối sống của Chúa Kitô. Origen cũng như Thánh Augustinô hay Thánh Jerome không viết vì bổn phận bắt buộc hay để gây cảm kích nơi một cử tọa kinh viện. Ngược lại, trước tiên và trên hết, họ viết như chủ chăn, quan tâm một cách tha thiết đến phần rỗi các linh hồn. Ngay trong những tác phẩm của các Giáo Phụ thiên về triết học, có tính cách thách đố nhất - và có rất nhiều - không nhằm mục đích soi sáng khối óc mà để mở rộng con tim. Giả như có ai hỏi Thánh Augustinô làm thế nào phân biệt giữa những tác phẩm thần học và những tác phẩm tu đức của ngài, có lẽ thánh nhân sẽ lúng túng.

Dù ngài khác xa Thánh Augustinô và những Giáo Phụ khác về vài khía cạnh, Thánh Tôma Aquinô đã theo đúng truyền thống giáo phụ một cách vững vàng như trên. Như ngài đã đề cập đến trong chương thứ nhất của Summa Theologiae (Thần học yếu lược), mục đích của thần học là đưa người tín hữu thoát ra ngoài con người của họ ngõ hầu kết hợp với Thiên Chúa mà mình không thể ôm ấp một cách trọn vẹn. Tất cả những gì Thánh Tôma đã viết nhằm mục đích phục vụ sự cứu rỗi được cung hiến trong Chúa Giêsu Kitô. Trên tất cả, tư tưởng của ngài là một lối chỉ đạo, một chuỗi tiêu điểm trên hành trình trở về nhà Cha.


CUỘC ĐỜI VÀ TÁC PHẨM

Thánh Tôma sinh vào năm 1225 hay 1226 trong lâu đài của gia đình ở Roccasecca gần thành phố Aquinô nằm giữa Rome và Naples. Cha ngài là Landulf, một người quí tộc tầm thường và mẹ ngài là Theodora, thuộc dòng dõi quí tộc Norman và Neapolitan. Gia đình Thánh Tôma liên hệ một cách sâu xa vào những biến chuyển phức tạp của thời bấy giờ gây ra chống đối giữa giáo hoàng và hoàng đế Roma. Trong một cố gắng nhằm thăng tiến triển vọng của gia đình và thoa dịu giáo quyền, cậu bé năm tuổi Tôma đã được đưa vào đan viện Biển Đức ở Monte Cassino, để tiếp nhận nền học vấn căn bản và hy vọng cậu có thể trở thành đan viện phụ của tu viện có uy thế đó.

Rất nhiều nhà bình luận đã xem xét kỹ càng tầm mức quan trọng của thời gian Thánh Tôma lưu trú tại đan viện Biển Đức. Chính nơi đây ngài đã học hỏi những nguyên tắc sơ đẳng của đời sống chiêm niệm và cũng tại đó ngài đã say mê việc đọc Thánh kinh nhất là những Thánh vịnh. Khi trưởng thành Thánh Tôma đã hiểu rõ thần học cốt yếu phải là một sự triển khai "sacra pagina" (trang thánh) của Thánh kinh và ngài đã trình bày sự chiêm niệm như là một thành quả lớn lao nhất của con người. Không ai phủ nhận được những diễn tiến đó đã được bén rễ ở Monte Cassino. Một câu chuyện đã minh chứng điều đó. Khi mới lên năm, vị giáo sư thần học tương lai tham dự một lớp học giáo lý căn bản mà thầy dạy đã thường xuyên nhắc nhở đến Thiên Chúa một cách tự nhiên. Với tính lương thiện thẳng thắn và đầu óc tò mò bộc trực, cậu bé Tôma Aquinô đã đứng nhón chân lên và hỏi: "Nhưng thưa thầy, Thiên Chúa là gì?" Đó là câu hỏi mà ngài không ngớt đặt ra suốt cuộc đời ngài.

Sau chín năm sống ở đan viện Biển Đức, vì những lý do chính trị, Thánh Tôma bị bắt buộc phải rời tu viện và tiếp tục học triết lý ở Đại học thành Naples. Tại đây, ngài đã học với Peter của Aí-Nhĩ-Lan, một giáo sư đã dám giảng dạy về môn siêu hình học của Aristote, một triết gia mà tư tưởng đã bị nhiều Giáo hoàng lên án.

Thiết tưởng nên dừng lại nơi đây và suy nghĩ đôi chút về ảnh hưởng cách mạng của tư tưởng Aristote trên Kitô giáo thời bấy giờ. Vài tác phẩm của nhà đại triết gia Hy-Lạp - những tác phẩm đề cập đến những vấn đề ngữ pháp và luận lý - đã được biết đến từ lâu và diễn giải khắp Au châu, nhưng khởi đầu thế kỷ mười ba, những văn bản của Aristote về siêu hình học, sự hiện hữu của Thượng Đế và bản tính của linh hồn bắt đầu tràn vào thế giới Kitô giáo. Nhũng học thuyết đó xem ra đã làm xoi mòn những niềm tin căn bản của Kitô giáo liên quan đến linh hồn bất tử, sự sáng thế và siêu việt tính của Thiên Chúa, do đó những học thuyết nầy đương nhiên bị giáo quyền loại bỏ. Nhưng đối với một vài tư tưởng gia Kitô giáo, những tư tưởng của Aristote xem ra hấp dẫn, trình bày một cái nhìn hợp lý và khoa học đối với những câu hỏi lớn lao liên quan đến Thượng Đế và vũ trụ. Xem ra Aristote thúc giục người Kitô hữu hãy quay về với thế giới hiện thực, quay về với thế giới nầy để nhận ra những vận hành của Thượng Đế. Đối với vài triết gia Kitô giáo, tư tưởng của Aristote tựa hồ như một hơi thở của gió núi thổi bay những đám mây mù của một nền thần bí học thuộc về một thế giới khác mà đã từ lâu tạo nên đặc điểm của những ức đoán về thần học. Nói tóm lại, học thuyết của Aristote là một trào lưu phấn khởi nhưng cũng có phần cách mạng nguy hiểm đối với Kitô giáo vào đầu thế kỷ thứ mười ba và cậu thanh niên Tôma Aquinô là một trong những đồ đệ quan trong và hăng say nhất.

Cậu thanh niên cấp tiến đó còn trở nên phản văn hóa tột độ khi đã dấn thân vào một cuộc cách mạng lớn lao khác trong thời kỳ đó: phong trào hành khất. Khi còn là một sinh viên đại học ở Naples, Tôma Aquinô đã khoác áo dòng thuyết giảng hành khất của Thánh Đa-Minh. Cũng như Thánh Phanxicô thành Assisi, một người đương thời, Thánh Đa-Minh Guzman cảm thấy rằng Giáo Hội của Chúa Kitô cần phải lấy lại sức sống bằng cách trở về với năng lực căn bản và đơn thuần của sứ điệp Phúc Âm và do đó, ngài đã qui tụ quanh mình một nhóm huynh đệ chuyên sống đời khó nghèo, thuyết giảng và hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa. Thánh Đa-Minh đã gởi những đệ tử của mình đến những trung tâm thành phố lớn, nhất là những thành phố có những đại học lớn như Paris và Bologna, ở đó sự thuyết giảng của họ sẽ có ảnh hưởng sâu đậm nhất. Có lẽ đó là điều đã gây ấn tượng sâu sắc nhất - và cũng khó coi nhất - đối với các tu sĩ Đa-Minh vì họ là những tu sĩ hành khất hoàn toàn, những tu sĩ nghèo nàn đi gõ cửa nhà nầy đến nhà khác để ăn mày những thực phẩm và sự hỗ trợ về tài chánh một cách khiêm tốn và thành thật. Sự hiện diện của những tu sĩ hành khất đó, đối với một số người, là một sự nhắc nhở hùng hồn rằng nếp sống theo Phúc Âm vẫn còn được noi theo một cách sống động, nhưng đối với những người khác điều đó gây nên sửng sốt và khó giải thích.

Khi trở thành tu sĩ Đa-Minh, Thánh Tôma đã lăn xả vào trào lưu hấp dẫn đó, trở về với nếp sống Phúc âm từ căn bản. Và vì vậy, như Joseph Pieper đã trình bày, Thánh Tôma đã kết hợp trong con người của ngài hai trào lưu cấp tiến của thời đại: đó là triết thuyết của Aristote và nếp sống đơn nghèo của Phúc Âm. Là một người cấp tiến theo triết thuyết của Aristote, ngài đã chọn lựa vũ trụ nầy, chọn lựa khoa học, lý trí, vẻ đẹp của cảm quan và như là một nhà cấp tiến đối với Phúc Am, ngài đã chọn lựa nếp sống tâm linh, sự tín thác và niềm tin sâu đậm nơi tình yêu Thiên Chúa. Đó là sự hội tụ tuyệt vời mà đối với nhiều người, đã tạo thành những cam kết có tính cách hỗ tương riêng biệt và đã tô điểm những sắc màu đặc biệt đối với tất cả những gì mà Thánh Tôma đã viết.

Khi Thánh Tôma gia nhập tu hội đặc biệt nầy vào năm 1244, khoác lên người bộ áo tu sĩ hành khất, dĩ nhiên ngài đã gây căm phẩn và thất vọng lớn lao cho gia đình ngài. Nên nhớ rằng họ hy vọng một ngày kia ngài sẽ trở lại Monte Cassino, một tu viện được thiết bị trang trọng và trù phú, như là một đan viện phụ của dòng dõi quí tộc. Ngược lại ngài đã gia nhập một tu hội cấp tiến có vẻ kỳ dị vừa mới chớm nở, bỏ hết của cải chức tước và địa vị. Chesterton khẳng định rằng đối với một người có tầm vóc như Thánh Tôma mà gia nhập nhóm tu sĩ Đa-Minh lúc khởi nguyên thì chẳng khác gì "bỏ nhà ra đi lập tổ uyên ương với một người dân du mục gypsy" - hoặc, theo ngôn ngữ tỉ giảo thời nay là gia nhập một giáo phái.

Trên đường đi đến Paris để học tập trở thành tu sĩ Đa-Minh theo đúng nghi thức, Thánh Tôma đã bị anh em ngài bắt cóc và buộc phải trở về nơi lâu đài của gia đình ở Roccasecca, tại đó ngài đã bị giam giữ như một tù nhân trong một tháp canh. Cha mẹ và anh em ngài hy vọng cuối cùng ngài sẽ bỏ lý tưởng của lứa tuổi thanh niên mà chọn lựa một chức nghiệp được kính trọng hơn, nhưng Thánh Tôma đã cương quyết khước từ mọi thứ dụ dỗ xảy ra nhan nhản trước mắt. Một truyền thuyết nổi tiếng cho thấy rằng tù nhân trẻ tuổi đó đã xua đuổi một cô gái giang hồ ra khỏi xà lim của mình, la hét và vung cao ngọn đuốc - khiến cô gái đó sợ chết điếng luôn. Một truyền thuyết khác kể rằng Thánh Tôma đã dùng thời gian ở trong chòi canh để ghi nhớ toàn bộ Thánh kinh. Điều đó không thể ngờ vực vì Thánh Tôma có một bộ óc phi thường. Thật ra, theo một vài nhân vật sinh sống đồng thời với ngài, từng ngàn câu trích dẫn từ Thánh kinh trong các tác phẩm của ngài đã được chọn lọc, không phải bằng tham khảo mà bằng trí nhớ, như thể thánh nhân đọc ra từ một quyẻn sách.

Cuối cùng tu sĩ hành khất trẻ tuổi được thả ra và cho phép theo đuổi việc tu học của Dòng Đa-Minh. Nhận thấy khả năng vượt bực của ngài, các bề trên đã gởi tu sĩ trẻ tuổi đó đến kinh thành của Kitô giáo mà trình độ trí thức không ai phủ nhận được: đó là kinh thành ánh sáng Paris. Vào giữa thế kỷ mười ba, Đại Học Paris là một kim nam châm thu hút học giả khắp nơi từ châu Âu đến nghe và tranh cải với những bộ óc đương thời xuất chúng nhất về thần học và triết lý. Những sinh viên trẻ tuổi và ngang ngạnh sống trong những ký túc xá chen chúc nhau bên tả ngạn sông Seine đã tham dự những buổi thuyết trình trong nhà, nhưng cũng rất thường khi ở ngoài đường, nghe nhiều giáo sư khác nhau trình bày luận thuyết của mình ở ngoài trời. Thời trang thần học của kinh thành Paris - hoài nghi và duy lý - tiêu biểu cho một sự xa dần đường hướng ưu thế, có tính cách tu viện và bảo thủ hơn. Ở trong những trường ốc của Khu Latin, xem ra bất cứ câu hỏi nào, cho dù táo bạo đến đâu, đều được tấn công một cách thỏa đáng.

Khi đến tân Nhã-Điển ở Paris năm 1245, chàng thanh niên Tôma Aquinô đã tìm gặp khung cảnh nhà mình. Ngài cũng đã tìm gặp một bậc thầy và cố vấn ở nơi Thánh Albert, một khoa học gia và triết gia Đa-Minh mà, ngay trong đời ngài đã được gọi là "Thánh Albert cả". Thánh Tôma cũng tiếp tục học hỏi ngấm ngầm triết thuyết của Aristote một cách hăng say hơn nữa, việc học mà ngài đã khởi đầu với Peter của Ai-Nhĩ-Lan. Năm 1248, Thánh Tôma theo Thánh Albert đến Cologne, trở thành người phụ tá và tập sự về mặt trí thức cho bậc vĩ nhân đó. Khi đang học tập ở Cologne, Thánh Tôma luôn tỏ ra ít nói và ẩn dật, được tặng cho biệt hiệu là "con bò đần độn của Sicily". Khi Thánh Albert nghe điều đó, ngài đã nói với các sinh viên khác rằng: "Cha quả quyết với các con ngày kia tiếng rống của con bò đó sẽ vang khắp mặt đất."

Năm 1252, Thánh Tôma trở lại Paris để bắt đầu học chương trình tiến sĩ thần học. Trong bốn năm, ngài học Kinh Thánh. Năm 1256, Thánh Tôma trở thành giáo sư thần học và bắt đầu giảng dạy ở Paris.

Thiết tưởng rất quan trọng nên dừng lại đây để xem xét trọng trách của một giáo sư thần học vào thời đại Thánh Tôma như thế nào và để hiểu rõ thực chất của vai trò đó, tức là tóm thâu được tâm điểm của những công trình nghiên cứu về thần học của Thánh Tôma. Trọng trách trước tiên của một giáo sư thần học ở Paris là thuyết giảng, điều đó cũng đủ thích thú rồi. Chia sẻ Lời Chúa vì lợi ích của sinh viên ở phân khoa đại học được xem như là công tác tột bực của vị giáo sư. Chính khuynh hướng thuyết giảng đó cũng được tìm thấy trong những tác phẩm trừu tượng và khó hiểu nhất của Thánh Tôma. Đứng trên cương vị giáo sư thần học, mục tiêu của ngài không bao giờ chỉ đơn thuần thỏa mãn sự hiếu kỳ của khối óc, cho bằng nhằm thay đổi đời sống của thính giả, biến đổi tâm hồn họ, nói tắt một lời, đưa họ đến phần rỗi linh hồn.

Nhiệm vụ thứ hai của giáo sư thần học là chú giải Thánh kinh. Nhiệm vụ chính trong vai trò giáo sư đại học của Thánh Tôma không nhằm giảng dạy triết lý, siêu hình học hay cả thần học, nhưng thật ra nhằm soi sáng và dẫn giải trang sách thánh (sacra pagina) của Thánh kinh. Thật thích thú và cũng rất đáng tiếc - là giữa những tác phẩm của Thánh Tôma ít được biết đến nhất đó là những văn phẩm chú giải Thánh kinh, trọng tâm trước tác của ngài, ít ra trên nguyên tắc.

Trọng trách thứ ba và cuối cùng của vị thầy (magister) là đặt ra và giải đáp những câu hỏi gay cấn xuất phát từ những chú giải Thánh kinh. Diễn đàn chính yếu của việc thăm dò có tích cách thần học đó là một biến cố mà các học giả Trung Cổ gọi là quaestio disputata, nghĩa là tranh luận chung quanh một nan đề. Một "nan đề tranh luận" thường xảy ra nơi công cộng, ông thầy điều khiển một nhóm sinh viên đông đảo và đôi khi to tiếng lộn xộn. Trong một cuộc trao đổi sống động, ông thầy vui vẻ đón nhận những ý kiến phản đối vọng lên từ phía hội trường, ứng đối với hết khả năng và sau cùng đưa ra giải đáp cho vấn nạn trong tầm tay của mình, có thể được vỗ tay tán thưởng hay phải chịu đựng những tiếng la ó từ dưới hội trường đưa lên. Thánh Tôma Aquinô là bậc thầy được kính trọng nhất trong những buổi "nan đề tranh luận" ở kinh thành Paris. Dĩ nhiên nhiều giáo sư cố tránh thứ diễn đàn đó, vừa bị thần kinh căng thẳng tột độ vừa không tránh khỏi lúng túng, nhưng Thánh Tôma xem ra vượt thắng dễ dàng, tranh luận thường xuyên hơn bất cứ đồng nghiệp nào.

Tác phẩm nổi tiếng nhất của Thánh Tôma - đại tác phẩm Summa theologiae hay Thần Học Yếu Lược - là một phản ảnh của phương pháp đó. Trong Summa, Thánh Tôma đã nêu lên vấn nạn nầy đến vấn nạn khác mà không nao núng, đưa ra bác khước nầy đến bác khước khác mà không hề lay chuyển, để rồi cuối cùng đưa ra giải đáp có tích cách quyết định. Đối với một số người, phương pháp đó xem ra chán ngấy và khô khan tột độ. Nhưng chẳng qua đó là một sự hiểu lầm, vì ẩn náu dưới những trang uyên bác đó, người ta phải nhận ra những liên hệ có tính cách Thánh kinh và thuyết giảng mà những trang đó đã được viết ra.

Thánh Tôma đã giảng dạy ở Paris từ 1256 đến 1259 và trong thời gian đó ngài đã bắt đầu viết tác phẩm Summa contra gentiles (Giản lược về phương cách chống Dân Ngoại) mà nhiều người cho đó là quyển sách gối đầu các thừa sai Kitô giáo đã dùng khi thi hành công tác truyền giáo ở giữa những người Hồi giáo. Năm 1259, Thánh Tôma Aquinô trở về quê hương mình là nước Ý-Đại-Lợi và, trong mười năm, ngài đã phục vụ ở tòa án Giáo hoàng như là thần học gia chính thức tại Anagni, Orvieto, Viterbo và Rome. Chính trong những năm nầy mà ngài đã trước tác nhiều nhất. Ngài đã viết những sách chú giải Thánh kinh, những Nan Đề Tranh Luận và nhiều sách chú giải dày cộm về các tác phẩm của Aristote. Vào giữa năm 1260, Thánh Tôma bắt đầu viết kiệt tác phẩm Summa Theologiae.

Năm 1269, Thánh Tôma Aquinô trở lại Paris lần thứ hai và lưu lại kinh thành ánh sáng cho tới năm 1272. Kế đó ngài rảo bước khắp Âu châu lần nữa và cuối cùng ngài định cư ở Naples là nơi ngài sinh trưởng, tiếp tục sáng tác kiệt tác phẩm Summa cho tới ít lâu trước khi qua đời vào năm 1274.

Nhiều người ngạc nhiên về hiệu suất vượt bực của Thánh Tôma Aquinô (những tác phẩm của ngài gom góp lại gần năm mươi quyển sách) trong một thời gian tương đối ngắn ngủi. Dĩ nhiên ngài là một thiên tài hiếm có nhưng ngài cũng là một con người có lối sống kỷ cương tột độ. Ngài bắt đầu bằng hai Thánh lễ mỗi ngày, một Thánh lễ do ngài dâng tiến, một Thánh lễ do ngài tham dự và suốt ngày ngài dọc sách, giảng dạy, viết lách không ngừng. Người ta kể lại rằng ngài đọc nhiều tác phẩm khác nhau cho cả ba thư ký cùng một lúc, lần lượt từ người nầy sang người khác một cách có phương pháp và ít khi giòng tư tưởng của ngài bị gián đoạn. Ngài thường nghỉ trưa chút ít và lắm khi đọc to những luận thuyết trong giấc ngủ. Có thể nói được thánh nhân là một người "nghiện việc", ít khi ngài nghỉ ngơi hay bỏ dở công việc đang làm; luôn luôn nung nấu tâm can với hoài bão hiểu biết về Thiên Chúa. Thánh Tôma đã hăng say mà không ngừng nghỉ và hẳn nhiên điều đó có phần nguy hiểm.

Nhiều giai thoại liên quan đến những "cơn sốt" trừu tượng của thánh nhân đã được nhắc đến. Nhiều người đương thời kể lại rằng Thánh Tôma hoàn toàn không hay biết những gì đặt để trước mặt ngài trên bàn ăn, có người còn xác nhận rằng một tu huynh phải coi chừng thánh nhân kẻo ngài bỏ vào miệng những thứ không ăn được. Theo một chuyện khác kể lại thì ngài có thể chịu đựng một sự trị liệu rất đau đớn đến chảy máu ra mà không rên siết vì ngài chìm đắm trong sự chiêm niệm. Một câu chuyện thích thú kể lại việc thánh nhân được mời dự tiệc với vua Louis thứ IX, một vì Vua thánh của nước Pháp. Mặc dù ngài không muốn nhưng vì các đấng bề trên đốc thúc, Thánh Tôma đã chấp nhận lời mời dự tiệc với nhà vua. Giữa câu chuyện đang sôi nổi và dí dỏm, nhà hiền triết ngồi trong tư thế trầm mặc lơ đãng, bị chi phối bởi thế giới tư tưởng như thường lệ. Rồi bất chợt, thánh Tôma đấm mạnh xuống bàn làm tung tóe ly thìa chén muỗng, trước sự kinh hoàng bối rối của các thực khách. Chắc hẳn thánh nhân cứ tưởng mình đang còn ở trong tư phòng tu viện nên ngài đã nói: "Vậy là giải quyết vụ Manichees rồi." Trong buổi quốc yến với hoàng đế nước Pháp, Thánh Tôma cứ nghĩ ngợi trong đầu óc và đã đưa ra một luận thuyết để bác khước thuyết nhị nguyên của nhóm lạc giáo Manichees. Một tu huynh Đa-Minh đã nhắc nhở thánh nhân một cách nghiêm nghị rằng cơn bộc phát của ngài là một sự xúc phạm đến hoàng đế, nhưng chính vua Louis thì lại quan tâm đến sự thật hơn là nghi lễ nên đã cho vời một người thư ký đến để chép lại luận thuyết của nhà tu sĩ hành khất kẻo bị lãng quên.

Thánh Tôma là một nhà thần bí, một người mà cuộc sống, theo đúng nghĩa, luôn kết hợp với Thiên Chúa, ở trong trạng thái xuất thần. Nhiều tu huynh của ngài kể lại rằng trong khi đang dâng Thánh Lễ, Thánh Tôma bật khóc nức nở một cách sống động, qua cảm nghiệm sự Thương Khó của Chúa Kitô mà ngài đang dâng hiến và tưởng niệm. Vị tu huynh phụ tá và thân thiết với ngài là Reginald ở Piperno, cho biết Thánh Tôma đã giải quyết những nan đề về mặt trí thức không phải đơn thuần bằng tư tưởng mà còn bằng lời cầu nguyện nữa. Khi phải đối đầu với những vấn đề thần học hóc búa một cách đặc biệt, Thánh Tôma đã dựa đầu vào nhà tạm và với nước mắt ràn rụa, ngài đã van xin Chúa ban cho ngài nguồn cảm hứng. Nếu đọc lại các văn bản của ngài một cách cẩn trọng và chăm chú, người ta sẽ thấy, thật là nghịch lý, niềm xúc cảm có tính cách thần bí và xuất thần đó đã bàng bạc trong những văn phẩm của ngài mà ai ai cũng công nhận là khô khan và khúc chiết.

Khi thuật lại cuộc đời và linh đạo của Thánh Tôma sẽ bị thiếu sót nếu không nhắc nhở đến một biến cố xảy ra không lâu trước khi ngài qua đời. Ở thành Naples, nhân lễ Thánh Nicholas, ngày 6 tháng 12 năm 1273, cứ theo thường lệ, Thánh Tôma dâng Thánh Lễ trước sự hiện diện của tu huynh Reginald. Một điều hết sức khác thường đã xảy ra trong Thánh Lễ đó, bởi vì về sau, Thánh Tôma đã phá lệ mà ngài tuân thủ trong hai thập niên vừa qua. Theo một nguồn tin, ngài đã "gác bút", khước từ việc viết lách, việc đọc bài cho người khác sao chép. Khi tu huynh phụ tá hối thúc, Thánh Tôma chỉ trả lời gọn lỏn là ngài không thể tiếp tục được nữa. Vì sợ thầy mình có thể bị tinh thần rối loạn, vị tu huynh trẻ tuổi cứ năn nỉ cho tới khi Thánh Tôma phải trả lời một cách ẩn nhẩn rằng: "Thầy Reginald ơi, cha không thể tiếp tục được nữa vì tất cả những gì cha đã viết giờ đây đối với cha đều như rơm rạ hết."

Đối với nhiều người, đó là những lời lẽ hùng hồn nhất mà Thánh Tôma Aquinô chưa bao giờ thốt lên. Sau khi đã viết ra từng chục ngàn trang sách nói về Thiên Chúa, vị thầy vĩ đại đó bỗng nhiên im bặt, quả quyết rằng những gì mình đã viết ra chỉ để vứt bỏ, không hơn không kém, cố thuyết phục rằng cuối cùng không có gì có thể nắm bắt được Thượng Đế, một Đấng hoàn toàn xa lạ và lảng tránh. Có người ức đoán rằng Thánh Tôma có thể bị chứng biến động não (sự thật cho thấy ngài đã bị mất thăng bằng về thể lý sau biến cố mồng 6 tháng Mười Hai). Người khác lại cho rằng ngài bị chứng suy nhược tâm thần (nhiều triệu chứng nơi ngài phù hợp với những biến chứng đó như tiêu tan nghị lực, sa sút tinh thần trầm trọng, kể cả sự khủng hoảng ở giữa đời người). Cho dù giải thích thế nào đi nữa, việc ngài trở nên thinh lặng lạ thường vẫn còn nguyên vẹn.

Vào tháng giêng năm 1274, Thánh Tôma thăm viếng chị ngài nhưng rất khó khăn để ngài có thể nói lên vài lời. Chị ngài đã mô tả ngài như là stupefactus (sững sờ hay không còn cảm quan). Theo vài nguồn tin ghi lại thì chính trong cuộc thăm viếng đó mà Thánh Tôma đã nói với thầy Reginald là những công trình trước tác của ngài đều vô nghĩa "so với những gì đã được mạc khải cho ngài." Nếu đúng như thế thì sự im lặng của Thánh Tôma đã mang một tính cách kỳ lạ và thần bí hơn.

Được triệu hồi để tham dự Công Đồng Lyons vào những tháng đầu năm 1274, Thánh Tôma đã vì vâng lời mà lên đường sang Pháp nhưng đã lâm trọng bệnh giữa đường. Biết trước mình sắp ly trần, Thánh Tôma xin được đem đến tu viện Xitô ở Fassanuova. Tại đó ngài đã nhắm mắt lìa đời ngày 7 tháng Ba, mấy ngày trước khi ngài viết xong tác phẩm dẫn giải về Sách Diễm Ca.


ĐƯỜNG LỐI TU ĐỨC CỦA THÁNH TÔMA

Thật thích thú khi thấy Thánh Tôma thường dùng chữ "đường" hay "lối" (via) trong những văn bản của ngài. Toàn bộ đại kiệt tác phẩm của ngài, quyển Summa theologiae đã được cấu trúc theo con đường dẫn dắt từ Thiên Chúa đến trần thế (exitus) và con đường từ trần thế trở về với Thiên Chúa (reditus). Và hai con đường đó hội tụ ở trong một Đấng đã tự gọi mình là Con Đường, tức Chúa Giêsu Kitô. Chỉ gần đây những môn học về Thánh Tôma mà trọng tâm là Chúa Kitô mới được nhấn mạnh một cách thích đáng. Chúa Kitô không phải là một lời giải thích đến sau cùng đối với thánh nhân mà là nền tảng và cao điểm của toàn bộ thần học của ngài.

Hết mọi người sống đời Kitô hữu đều bắt đầu bởi Chúa Giêsu vì ở trong Ngài đã hội tụ hai trạng thái xuất thần, một thuộc về Thiên Chúa, một thuộc về con người. Đối với Thánh Tôma khía cạnh gây ấn tượng sâu sắc nhất và mãnh liệt nhất của sự Nhập Thể là sự gây kinh ngạc của mầu nhiệm đó. Thiên Chúa quyết định hội nhập với con người, mặc lấy chính xác thịt của chúng ta, ở trong không gian và thời gian, ở trong mọi hoàn cảnh yếu đuối và khốn cùng của thân phận hữu hạn chúng ta, đó là điều mà chỉ có sự ngạc nhiên mới giải thích thỏa đáng mà thôi. Thiên Chúa hẵn là một thực hữu kỳ lạ hơn, quyền năng hơn, kỳ diệu hơn điều chúng ta có thể tưởng tượng. DùThiên Chúa không cần đến chúng ta, dù Thiên Chúa hoàn toàn tự mãn, tuy nhiên Thiên Chúa đã vượt thoát ra ngoài bản ngã của Ngài, trong một trạng thái xuất thần vượt ra ngoài mọi suy tưởng để trở nên một người có nhân loại tính như chúng ta. Đó là điều mà Thánh Tôma đã gọi là một đặc tính vượt mức, không thể lớn hơn được nữa.

Thần học của Thánh Tôma có đặc tính bí nhiệm, nguyện cầu và biến hóa. Mục tiêu tối hậu của nền thần học đó là để "hiểu biết " Thiên Chúa, để nên một với Thiên Chúa trong một sự hiệp thông ân tình, thay đổi cuộc sống một cách trọn vẹn.


_____________________________________________________________



Ghi chú : Phỏng theo sách "Thomas Aquinas, Spiritual Master" của linh mục Robert Barron do nhà xuất bản "The Crossroad Publishing Company" ở Nữu Ước ấn hành năm 1998.

(BÀI NẦY ĐÃ ĐƯỢC ĐĂNG TRÊN "SỨ-ĐIỆP" SỐ 9 - BỘ 5 - 2002 VÀ TRÊN "DẤN THÂN" SỐ 9 - BỘ IV - THÁNG 5 & 6 - 2002)