Ngày Chúa Nhật 11 tháng Tư, Chúa Nhật thứ Hai Mùa Phục sinh, Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phanxicô đã dâng thánh lễ trong một nhà thờ chứa thánh tích của cả Thánh Faustina Kowalska và Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

Đây là lần thứ hai trong liên tiếp 2 năm, Đức Thánh Cha Phanxicô dâng thánh lễ Lòng Chúa Thương Xót tại đây.

Chúa Nhật vừa qua đánh dấu kỷ niệm 21 năm lễ tuyên thánh cho Thánh Faustina, và cũng là 21 năm ngày Đức Gioan Phaolô II thiết định trong toàn thể Giáo Hội Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót vào Chúa Nhật thứ Hai Mùa Phục sinh.

Thánh lễ tại nhà thờ Santo Spirito in Sassia, là nhà thờ được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II biến thành đền thánh kính Lòng Chúa Thương Xót của giáo phận Rôma, đã được phát trên truyền hình và livestream vào lúc 10 giờ 30 sáng theo giờ địa phương.

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:

Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ nhiều lần. Kiên nhẫn an ủi trái tim đang thất vọng của họ. Sau khi sống lại, đây là cách thế Chúa “phục sinh các môn đệ”. Và các môn đệ, được Chúa Giêsu nâng dậy, đã thay đổi cuộc sống của mình. Trước đây, nhiều lời nói và nhiều gương sáng của Chúa đã không thể biến đổi các môn đệ. Bây giờ, vào ngày Phục sinh, một điều gì đó rất mới mẻ đã xảy ra. Và nó xảy ra như dấu chỉ của lòng thương xót. Chúa Giêsu nâng các môn đệ lên bằng lòng thương xót - nâng các ngài lên bằng lòng thương xót – và các ngài trở nên từ bi sau khi được thương xót. Rất khó trở nên có lòng thương xót nếu một người không nhận ra rằng mình đang được xót thương.

Trước hết các môn đệ được thương xót, qua ba ân sủng: Chúa Giêsu ban cho các ngài ơn bình an, sau đó là Thần Khí, và cuối cùng là những vết thương. Ngay từ đầu, Ngài mang lại cho các môn đệ ơn bình an. Những môn đệ này đã rất đau khổ. Họ đã nhốt mình trong nhà vì sợ hãi, vì sợ bị bắt và kết cục cũng sẽ như Thầy. Nhưng không chỉ đóng cửa nhà, các ngài còn đóng kín cửa tâm hồn trong sự hối hận. Các ngài đã bỏ rơi và chối Chúa Giêsu. Các ngài cảm thấy mình chẳng có khả năng gì, chẳng được ơn ích gì, và sai lầm. Chúa Giêsu đến và lặp lại hai lần: “Bình an cho anh em!”. Người không mang lại một sự bình an giúp loại bỏ những vấn đề bên ngoài, mà là một sự bình an giúp khơi dậy sự tự tin bên trong. Không phải bình an bên ngoài, mà là bình an trong lòng. Người nói: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” (Ga 20:21). Như thể Người đang nói: “Thầy sai anh em đi bởi vì Thầy tin tưởng anh em”. Những môn đệ thất vọng đó được làm hòa với chính mình. Sự bình an của Chúa Giêsu khiến họ chuyển từ hối hận sang sứ mệnh. Trên thực tế, sự bình an của Chúa Giêsu làm phát sinh sứ mệnh. Bình an của Chúa không phải là sự yên tĩnh, nó không phải là sự nhàn nhã, nhưng là sự đi ra khỏi chính mình. Sự bình an của Chúa Giêsu giải thoát khỏi sự khép kín làm tê liệt, và phá vỡ xiềng xích giam giữ trái tim. Và các môn đệ cảm thấy đầy lòng thương xót: họ cảm thấy rằng Thiên Chúa không lên án họ, không sỉ nhục họ, nhưng tin tưởng vào họ. Vâng, Người tin vào chúng tôi nhiều hơn chúng tôi tin vào chính mình. “Ngài yêu chúng ta nhiều hơn chúng ta yêu chính chúng ta” (xem Thánh John Henry Newman, Suy niệm và Tôn sùng, III, 12:2). Đối với Chúa không ai bất tài, không ai vô dụng, không ai bị loại trừ. Hôm nay Chúa Giêsu lặp lại một lần nữa: “Bình an cho anh em, là những người quý giá trong mắt Thầy. Bình an cho anh em, là những người quan trọng với Thầy. Bình an cho anh em, là những người có sứ mệnh. Không ai có thể làm điều đó thay cho anh em. Anh em là những người không thể thay thế được. Và Thầy tin vào anh em”.

Tiếp đến, Chúa Giêsu thương xót các môn đệ bằng cách ban Chúa Thánh Thần cho họ. Ngài ban Thánh Thần để các ngài có năng quyền tha tội (xem câu 22-23). Các môn đệ là những người có tội, họ đã chạy trốn bỏ rơi Thầy. Và tội lỗi ám ảnh, cái ác có giá của nó. Tội lỗi của chúng ta, theo Thánh Vịnh (xem 51: 5), luôn ở trước mặt chúng ta. Chúng ta không thể hủy bỏ nó một mình. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể loại trừ, chỉ có Ngài với lòng thương xót mới làm cho chúng ta thoát ra khỏi những đau khổ sâu xa nhất của chúng ta. Giống như những môn đệ đó, chúng ta cần cho phép mình được tha thứ, và nói từ tận đáy lòng: “Lạy Chúa, xin thứ tha tội lỗi con”. Hãy mở rộng trái tim để cho phép mình được tha thứ. Sự tha thứ trong Chúa Thánh Thần là ân sủng Phục sinh để được phục sinh từ bên trong. Chúng ta hãy xin ơn đón nhận Người, đón nhận bí tích tha tội. Và xin ơn để hiểu rằng ở trung tâm của bí tích hòa giải không phải là chúng ta với tội lỗi của mình, mà là Thiên Chúa với lòng thương xót của Người. Chúng ta không đi xưng tội để suy sụp, nhưng để làm cho chúng ta được phục hồi. Chúng ta cần đến bí tích hòa giải rất nhiều, tất cả mọi người đều cần. Chúng ta cần bí tích hòa giải như những đứa trẻ nhỏ, mỗi khi ngã, chúng cần được bố mẹ nâng lên. Chúng ta cũng thường xuyên sa ngã. Và bàn tay của Chúa Cha đã sẵn sàng để giúp chúng ta đứng dậy và tiếp tục bước đi. Bàn tay an toàn và đáng tin cậy này là bí tích hòa giải. Đó là Bí tích nâng chúng ta lên, không để chúng ta nằm trên mặt đất mà khóc trên những sàn cứng của những sa ngã. Đó là bí tích của sự phục sinh, đó là lòng thương xót thuần khiết. Và bất cứ ai nhận được bí tích hòa giải phải làm cho chính mình cảm nhận được sự ngọt ngào của lòng thương xót. Và đây là cách của các cha giải tội khi tiếp nhận lời xưng thú của mọi người: hãy làm cho mọi người cảm nhận được sự ngọt ngào của lòng thương xót của Chúa Giêsu, Đấng đã tha thứ mọi sự. Chúa tha thứ mọi sự.

Sau khi sự bình an trong lòng được phục hồi và sự tha thứ nâng các môn đệ đứng dậy, đây là ân sủng thứ ba mà Chúa Giêsu thương xót các môn đệ: Ngài ban cho họ những vết thương. Từ những vết thương đó, chúng ta được chữa lành (x. 1 Pt 2:24; Is 53:5). Nhưng làm thế nào để một vết thương có thể chữa lành chúng ta? Thưa: với lòng thương xót. Trong những vết thương đó, giống như Tông đồ Tôma, chúng ta chạm vào bằng bàn tay của mình để thấy rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến tận sâu thẳm, rằng Người đã biến vết thương của chúng ta thành của riêng Người, rằng Người đã mang những yếu đuối của chúng ta vào cơ thể của Người. Những vết thương này là những kênh thông thoáng giữa Ngài và chúng ta, là những kênh thương xót đổ xuống trên những đau khổ của chúng ta. Những vết thương này là những con đường mà Thiên Chúa đã mở rộng cho chúng ta để chúng ta bước vào sự dịu dàng của Ngài và chạm vào Nhiệm thể Ngài bằng đôi tay của chúng ta. Và chúng ta không còn chút nghi ngờ nào về lòng thương xót của Người. Bằng cách yêu mến, hôn lên vết thương của Người, chúng ta khám phá ra rằng tất cả những nhược điểm của chúng ta đều được hoan nghênh trong sự dịu dàng của Người. Điều này xảy ra trong mọi Thánh lễ, nơi Chúa Giêsu dâng hiến cho chúng ta Thân thể bị thương và đã phục sinh của Người: chúng ta chạm vào Người và Người chạm vào cuộc đời của chúng ta. Và điều đó làm cho Thiên đường xuống trong chúng ta. Những vết thương phát sáng của Người xuyên thủng bóng tối mà chúng ta mang bên trong. Và chúng ta, giống như Thánh Tôma, tìm thấy Chúa, chúng ta khám phá ra Ngài thân mật và gần gũi, và xúc động khi nói với Ngài: “Lạy Chúa và là Chúa của con!” (Ga 20:28). Và mọi thứ đều bắt nguồn từ đây, từ ơn của người được thương xót. Từ đây bắt đầu cuộc hành trình của Kitô hữu. Mặt khác, nếu chúng ta dựa vào khả năng của mình, vào hiệu quả của các công trình và dự án của chúng ta, chúng ta sẽ không tiến xa được. Chỉ khi chúng ta chào đón tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta mới có thể ban tặng một điều gì đó mới mẻ cho thế giới.

Các môn đệ cũng vậy: được thương xót, họ trở nên thương xót. Chúng ta thấy điều đó trong bài đọc thứ nhất. Sách Tông đồ Công vụ kể lại rằng “không ai coi tài sản của mình là thuộc về mình, nhưng giữa họ mọi sự là của chung” (4:32). Đó không phải là chủ nghĩa cộng sản, nó là Kitô giáo thuần túy. Và càng ngạc nhiên hơn nếu chúng ta nghĩ rằng chính những môn đệ ấy trước đó ít lâu đã cãi nhau về phần thưởng và danh hiệu, xem ai là người trọng nhất trong số họ (x. Mc 10:37; Lc 22:24). Bây giờ họ chia sẻ mọi thứ, họ “chỉ có một lòng một ý” (Cv 4:32). Làm thế nào mà họ thay đổi nhanh như thế? Thưa: Họ nhìn thấy nơi người kia, cùng một lòng thương xót đã biến đổi cuộc đời họ. Họ khám phá ra rằng họ có sứ mệnh chung, họ có chung sự tha thứ và Nhiệm thể của Chúa Giêsu. Ví thế, chia sẻ của cải thế gian gần như là một hệ quả tự nhiên. Đoạn văn sau đó nói rằng “không ai trong số họ thiếu thốn” (câu 34). Nỗi sợ hãi của họ đã tan biến khi chạm vào vết thương của Chúa, giờ đây họ không ngại chữa lành vết thương cho người thiếu thốn. Bởi vì ở đó họ nhìn thấy Chúa Giêsu. Bởi vì có Chúa Giêsu, trong những vết thương của người thiếu thốn.

Anh chị em thân mến,

Anh chị em có muốn thấy bằng chứng rằng Chúa đã chạm vào cuộc đời anh chị em không? Muốn thấy điều đó, anh chị em hãy tự hỏi xem mình có nghiêng người xuống trên những vết thương của người khác không. Hôm nay là ngày để tự hỏi: “Tôi, là người đã nhận được sự bình an của Thiên Chúa rất nhiều lần, là người đã nhận được sự tha thứ và lòng thương xót của Ngài rất nhiều lần, tôi có thương xót người khác không? Tôi, là người đã nhiều lần được nuôi dưỡng bằng Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, tôi có làm gì để nuôi người nghèo không?” Chúng ta đừng thờ ơ. Chúng ta đừng có một niềm tin nửa vời, nhận thì được nhưng cho thì không, đón nhận món quà nhưng không tự biến nó thành một món quà. Chúng ta đã được thương xót, chúng ta phải trở nên nhân từ. Bởi vì nếu tình yêu kết thúc trong chính chúng ta, niềm tin sẽ cạn kiệt trong một sự gần gũi vô sinh. Nếu không có những người khác, tình yêu trở thành một thứ hồn lìa khỏi xác. Không có các công việc của lòng thương xót tình yêu sẽ chết (xem Jas 2:17). Anh chị em thân mến, chúng ta hãy để cho mình được phục sinh nhờ sự bình an, sự tha thứ và những vết thương của Chúa Giêsu nhân từ. Và chúng ta cầu xin ơn để trở thành chứng nhân của lòng thương xót. Chỉ bằng cách này, đức tin mới sống động. Và cuộc sống mới nhất quán. Chỉ bằng cách này, chúng ta mới có thể loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa, là Tin Mừng của lòng thương xót.
Source:Libreria Editrice Vaticana