Các khám phá khác của cuộc thăm dò bao gồm (xem hình 5):

Hình 5


Phần lớn người Hoa Kỳ trưởng thành nghĩ việc lạm dụng tình dục trẻ em không xẩy ra thường xuyên trong các khung cảnh tôn giáo hơn các khung cảnh phi tôn giáo. Đa số công luận (57%) nói việc lạm dụng tình dục trẻ em nơi các giáo sĩ và các nhà lãnh đạo tôn giáo khác cũng năng xẩy ra y như nơi các người trưởng thành khác làm việc với trẻ em, như các thầy giáo, huấn luyện viên hay huấn đạo viên cắm trại. Tuy nhiên, khoảng 1 phần 3 (34%) nghĩ việc lạm dụng tình dục trẻ em năng xẩy ra nơi các nhà lãnh đạo tôn giáo hơn nơi các người lớn làm việc với trẻ em, trong khi chỉ có 6% nghĩ ít năng xẩy ra hơn.

Công luận Hoa Kỳ quen thuộc với các báo cáo lạm dụng tình dục trong Giáo Hội Công Giáo nhiều hơn nhiều trong các tổ chức tôn giáo khác (3). Khoảng 7 trong 10 người Hoa Kỳ trưởng thành được thăm dò (71%) nói họ có nghe ít nhất một chút về lạm dụng tình dục và tác phong sai trái của các nhà lãnh đạo tôn giáo bên ngoài Giáo Hội Công Giáo, nhưng nhiều người nói rằng họ nghe một chút (51%) hơn là nghe nhiều (21%) về chuyện này. So sánh ra, 9 trong 10 người trưởng thành Hoa Kỳ (92%) có nghe ít nhất một chút về các báo cáo lạm dụng nơi các linh mục và giám mục Công Giáo, và phần lớn trong số họ (58% mọi người trưởng thành Hoa Kỳ) đã nghe khá nhiều.

Tương đối, ít người Hoa Kỳ nào từng tham dự các buổi phụng vụ tôn giáo một cách thường xuyên nào đó (vài lần trong năm hay nhiều hơn) nói họ có nghe hàng giáo sĩ tại nơi thờ phượng của họ nói đến lạm dụng, tấn công hay sách nhiễu tình dục (29%). Trong số các sứ điệp nghe được: 1 phần 4 (24%) nói họ có nghe hàng giáo sĩ của họ lên tiếng ủng hộ các nạn nhân bị lạm dụng tình dục, và 12% nói hàng giáo sĩ của họ báo động chống lại các lời cáo gian lạm dụng tình dục. Người Công Giáo có nhiều xác suất hơn những người tự nhận là Thệ Phản có nghe hàng giáo sĩ của họ lên tiếng về lạm dụng nói chung (41% nơi người Công Giáo so với 11%)

Phần lớn người Hoa Kỳ không gặp các lời tố cáo hành vi sai trái về tình dục trong chính các cộng đoàn của họ, nhưng một phần không nhỏ người trưởng thành Hoa Kỳ nói họ có kinh nghiệm trực tiếp về vấn đề này. Khoảng 1 trong 10 người (9%) nói họ đã tham dự một nơi thờ phượng trong đó hàng giáo sĩ hay các nhà lãnh đạo tôn giáo khác bị tố cáo có hành vi tình dục sai trái trong 5 năm vừa qua trong một hay nhiều cách sau đây: lăng nhăng ngoài hôn nhân (6%), lạm dụng tình dục trẻ em (4%), sách nhiễu tình dục bằng lời (4%) hoặc lạm dụng tình dục người đã trưởng thành (3%) (4). Một câu hỏi khác chỉ được đặt với người Công Giáo: Tại nhà thờ bạn thường lui tới nhất, có linh mục nào bị tố cáo dính líu vào một sinh hoạt tình dục với các linh mục khác không? Nhìn chung, 4% người Công Giáo nói một linh mục bị tố cáo việc này ở nhà thờ của họ, trong khi đại đa số không thấy thế (90%).

Phần còn lại của tường trình nhìn các vấn đề trên cách chi tiết hơn.

Các nhóm tôn giáo khác nhau nhìn việc giáo sĩ lạm dụng tình dục và có hành vi tình dục sai trái ra sao (xem hình 6)

Hình 6


Khoảng 9 trong 10 người trưởng thành Hoa Kỳ có nghe ít nhất một chút về các báo cáo gần đây về việc lạm dụng và tác phong sai trái về tình dục của các linh mục và Giám Mục Công Giáo. Điều này bao gồm đa số (58%) đã nghe “nhiều” về các báo cáo gần đây, 1 phần 3 (34%) có nghe “một chút”, và chỉ có 8% không nghe gì cả.

Việc quen thuộc với các báo cáo gần đây về lạm dụng và có tác phong sai trái về tình dục của các linh mục và Giám Mục Công Giáo có căn bản rộng rãi. Đại đa số lớn lao khắp các truyền thống Kitô giáo – không kể người Do Thái giáo và những người không thống thuộc tôn giáo – nói họ có nghe ít nhất một chút về các báo cáo gần đây, kể cả gần một nửa hay hơn trong mỗi nhóm có nghe “nhiều” về chúng.

Gần như mọi người Công Giáo bao gồm trong cuộc thăm dò này (95%) nói họ có nghe một điều gì đó về các báo cáo gần đây trong chính nhà thờ của họ, kể cả 6 trong 10 người đã nghe “nhiều”. Nhưng họ không nhiều xác suất nhất khi nói họ nghe nhiều về đề tài này: 7 trong 10 người trưởng thành theo Do Thái Giáo và một tỷ lệ gần như thế những người tự nhận mình là bất khả tri (agnostics) nghe nói nhiều về các báo cáo lạm dụng và hành vi sai trái của các linh mục và Giám Mục Công Giáo (xem hình 7).

Hình 7


Phần lớn người Hoa Kỳ cũng nói rằng họ có nghe một điều gì đó về các báo cáo lạm dụng và có hành vi sai trái về tình dục gần đây của các nhà lãnh đạo tôn giáo bên ngoài Giáo Hội Công Giáo, dù người Hoa Kỳ trưởng thành nói chung không quen thuộc với các báo cáo này như với các báo cáo liên quan đến các linh mục và giám mục Công Giáo (5). Đa số công chúng (71%) có nghe ít nhất “một chút” về các báo cáo lạm dụng trong các tín ngưỡng khác ngoài Công Giáo, nhưng những người nói có nghe một chút (51%) đông hơn những người có nghe nhiều (21%).

Trong các nhóm tôn giáo, người Công Giáo (cùng với người vô thần và bất khả tri) thuộc các nhóm có xác suất nhiều nhất có nghe một điều gì đó về các báo cáo lạm dụng của các nhà lãnh đạo tôn giáo ở bên ngoài Giáo Hội Công Giáo. Trong khi người Do Thái giáo thuộc một trong các nhóm có xác suất hơn cả có nghe về việc lạm dụng trong Giáo Hội Công Giáo, nhưng họ cũng ở trong số những người ít xác suất nhất nói rằng họ có nghe về việc lạm dụng của các nhà lãnh đạo không Công Giáo. Người Tin Lành và các người Thệ Phản chính dòng cũng ít có xác suất hơn một số nhóm khác có nghe một điều gì đó về các báo cáo lạm dụng tình dục ở bên ngoài Giáo Hội Công Giáo, với 2 phần 3 trong mỗi nhóm nói rằng họ có nghe ít nhất một chút (xem hình 8).

Hình 8


Khi đề cập đến các ý kiến về việc liệu các báo cáo lạm dụng và hành vi sai trái về tình dục của các linh mục và Giám Mục Công Giáo có phản ảnh các vấn đề đang tiếp diễn hay các sự việc đã xẩy ra trong quá khứ và phần lớn không xẩy ra nữa, đại đa số khắp các nhóm tôn giáo nói các báo cáo phản ảnh các vấn đề còn đang tiếp diễn. Chỉ có 1 trong 10 người Hoa Kỳ trưởng thành nói các báo cáo phản ảnh các sự việc phần lớn chỉ xẩy ra trong quá khứ.

Nhưng người Công Giáo Hoa Kỳ nổi bật về câu hỏi này. Trong khi phần lớn người Công Giáo nói việc giáo sĩ lạm dung tình dục là một vấn đề còn đang tiếp diễn (69%), gần 1 phần 4 (24%) nghĩ rằng việc lạm dụng và có tác phong sai trái về tình dục của các linh mục và Giám Mục Công Giáo phần lớn không còn xẩy ra nữa - một tỷ lệ lớn hơn trong bất cứ nhóm tôn giáo nào khác.

Ngược lại, các người vô thần đặc biệt có xác suất nghĩ rằng việc lạm dụng tình dục trong Giáo Hội Công Giáo là 1 vấn đề đang tiếp diễn. Chỉ có 3% những người tự nhận là vô thần nói các báo cáo lạm dụng phản ảnh sự việc xẩy ra trong quá khứ và phần lớn đã dừng lại, trong khi 9 trong 10 (93%) nghĩ có những vấn đề đang tiếp diễn (xem hình 9).

Hình 9


Vào khoảng một nửa người Hoa Kỳ trưởng thành (48%) nói việc lạm dụng và hành vi sai trái về tình dục thông thường nơi các linh mục và Giám Mục Công Giáo hơn là nơi các truyền thống tôn giáo khác, trong khi một tỷ lệ tương tự (47%) nói nó thông thường như nhau khắp các nhóm tôn giáo. Rất ít người Hoa Kỳ (3%) nói việc lạm dụng tình dục ít thông thường trong Giáo Hội Công Giáo hơn trong các truyền thống tôn giáo khác.

Tuy nhiên, người Công Giáo rõ ràng ngiêng về một bên của vấn đề này. Chỉ có 1 phần 3 người Công Giáo Hoa Kỳ nghĩ việc lạm dụng tình dục thông thường cách đặc biệt trong Giáo Hội Công Giáo, trong khi đa số (61%) nói việc lạm dụng thông thường như nhau nơi các nhà lãnh đạo trong các tôn giáo khác – tỷ lệ cao nhất những người có quan điểm này trong số mọi nhóm tôn giáo chính ở Hoa Kỳ.

Trong khi người Do Thái giáo có xác suất đặc biệt nói rằng việc lạm dụng và có tác phong sai trái về tình dục thông thường hơn nơi các linh mục và Giám Mục Công Giáo (72%). Khoảng 6 trong 10 người Thệ Phản tin lành và hơn một nửa người Thệ Phản chính dòng có cùng quan điểm. Các người trưởng thành không thống thuộc tôn giáo có khuynh hướng chia rẽ nhau trong ý kiến của họ (xem hình 10).

Hình 10


Cuộc khảo sát cũng hỏi về việc lạm dụng tình dục trẻ em ở những nơi phi tôn giáo (6). Nhìn chung, phần lớn người lớn ở Hoa Kỳ (57%) nói rằng lạm dụng tình dục trẻ em cũng phổ biến ở những người lớn làm việc với trẻ em trong các môi trường thế tục (như thầy giáo, huấn luyện viên hoặc cố vấn trại) như giữa các giáo sĩ và các nhà lãnh đạo tôn giáo khác. Một phần ba (34%) cho rằng lạm dụng tình dục trẻ em là phổ biến hơn trong số các nhà lãnh đạo tôn giáo, và 6% cho rằng nó ít phổ biến hơn.

Một lần nữa, người Công Giáo đặc biệt có xác suất nói lạm dụng tình dục trẻ em không phải là vấn đề độc đáo đối với giáo sĩ, nhưng, đúng hơn, cũng phổ biến như những người lớn khác làm việc với trẻ em. Trọn hai phần ba người Công Giáo (68%) có nhận định này; chỉ 22% nói rằng lạm dụng tình dục phổ biến hơn nơi các nhà lãnh đạo tôn giáo.

Ở đầu kia của phổ hệ, người Do Thái, người vô thần và bất khả tri có nhiều xác suất nói lạm dụng tình dục trẻ em là việc đặc biệt phổ biến nơi các giáo sĩ và các nhà lãnh đạo tôn giáo khác. Khoảng một nửa số người Do Thái (53%) và vô thần (51%) và một tỷ lệ tương tự của những người bất khả tri (46%) cho rằng lạm dụng tình dục trẻ em là vấn đề lớn nơi các nhà lãnh đạo tôn giáo hơn những người trưởng thành khác.

Các phân nhóm Công Giáo nhìn sự phổ biến của lạm dụng tình dục trong các môi trường tôn giáo và phi tôn giáo ra sao (xem hình 11)

Hình 11


Một phần tư người Công Giáo nghĩ rằng các báo cáo gần đây về lạm dụng và có tác phong sai trái về tình dục của các linh mục và giám mục Công Giáo phản ánh những điều xảy ra trong quá khứ và hầu hết không còn xảy ra nữa, trong khi bảy phần mười nói rằng những vấn đề này vẫn còn đang tiếp diễn.

Trong khi đa số các phân nhóm Công Giáo nói rằng các báo cáo lạm dụng gần đây phản ảnh các vấn đề đang tiếp diễn, có một số phân cách trong ý kiến. Người Công Giáo tham dự Thánh lễ hàng tuần có nhiều xác suất hơn những người tham dự ít thường xuyên hơn trong việc nói rằng vấn đề này chỉ diễn ra trong quá khứ. Trọn một phần ba người Công Giáo tham dự thánh lễ nói rằng các báo cáo về lạm dụng tình dục phản ảnh các sự kiện trong quá khứ nhưng nay không còn xảy ra nữa, so với một phần năm những người tham dự ít hơn.

Ngoài ra còn có sự phân chia dọc theo chủng tộc và sắc tộc. Người Công Giáo da trắng có xác suất cao gần gấp đôi so với người Công Giáo nói tiếng Tây Ban Nha trong việc nghĩ rằng báo cáo về lạm dụng tình dục trong Giáo hội phản ảnh những điều không còn xảy ra nữa (29% so với 15%) (xem hình 12).

Hình 12


Trong khi đó, hầu hết người Công Giáo (61%) nói rằng lạm dụng và có tác phong sai trái về tình dục cũng phổ biến trong các truyền thống tôn giáo khác như trong Giáo Hội Công Giáo, trong khi một phần ba nghĩ rằng lạm dụng tình dục phổ biến hơn trong Giáo Hội Công Giáo. Khuôn mẫu này cũng được phản ảnh trong các phân nhóm Công Giáo, nhưng, một lần nữa, quan điểm có thay đổi tùy theo sự tham dự Thánh Lễ và sắc tộc.

Khoảng một trong bốn người Công Giáo Hoa Kỳ tham dự Thánh lễ hàng tuần (23%) cho rằng lạm dụng phổ biến trong Giáo Hội Công Giáo hơn trong các truyền thống tôn giáo khác. Khi so sánh, gần bốn trong số mười người Công Giáo ít tham dự Thánh lễ thường xuyên hơn (37%) nói rằng lạm dụng và có hành vi sai trái về tình dục đặc biệt phổ biến nơi các linh mục và giám mục Công Giáo.

Trong số những người Công Giáo da trắng, bốn phần mười (39%) cho rằng lạm dụng tình dục phổ biến nơi các nhà lãnh đạo Công Giáo hơn nơi các nhà lãnh đạo trong các truyền thống tôn giáo khác. Nhưng người Công Giáo nói tiếng Tây Ban Nha ít có xác suất nói lạm dụng phổ biến hơn trong Giáo Hội Công Giáo. Một phần năm trong nhóm này (22%) nói lạm dụng tình dục phổ biến hơn nơi các linh mục và giám mục Công Giáo, trong khi 69% cho rằng đó là một vấn đề cũng phổ biến trong các truyền thống tôn giáo khác (xem hình 13).

Hình 13


Về câu hỏi liệu lạm dụng tình dục trẻ em có phổ biến nơi các nhà lãnh đạo tôn giáo hơn nơi những người lớn khác làm việc với trẻ em hay không, có sự đồng thuận giữa những người Công Giáo. Hai phần ba nói rằng lạm dụng tình dục là phổ biến như nhau nơi các nhà lãnh đạo tôn giáo và nơi những người lớn khác làm việc với trẻ em (68%). Ý kiến của người Công Giáo da trắng và Công Giáo nói tiếng Tây Ban Nha phản ánh ý kiến của dân số Công Giáo nói chung.

Tuy nhiên, các ý kiến phần nào có khác nhau giữa những người Công Giáo tham dự Thánh lễ hàng tuần và những người ít tham dự hơn. Đa số ở cả hai nhóm cho rằng lạm dụng tình dục trẻ em phổ biến như nhau nơi các giáo sĩ và nơi những người lớn khác, nhưng những người ít tham gia thường xuyên hơn 9% có xác suất nhiều hơn những người tham dự hàng tuần trong việc nói rằng lạm dụng tình dục phổ biến hơn nơi các giáo sĩ (24% so với 15%) .

Ở những nơi thờ phượng của Hoa Kỳ, hầu hết không nghe nói về lạm dụng tình dục (xem hình 14).

Hình 14


Những người lớn ở Hoa Kỳ nói rằng họ tham gia các buổi lễ tôn giáo vài lần một năm hoặc thường xuyên hơn được hỏi liệu các giáo sĩ hoặc các nhà lãnh đạo tôn giáo khác tại nơi thờ phượng của họ có lên tiếng nói về sách nhiễu, tấn công hoặc lạm dụng tình dục. Trong nhóm này, khoảng ba phần mười nói rằng các giáo sĩ của họ có lên tiếng nói về lạm dụng tình dục (29%) trong khi hai phần ba nói rằng họ không nghe thấy giáo sĩ của họ nói gì về chủ đề này (68%).

Khi nói đến những thông điệp mà những người đi nhà thờ nghe được, một phần tư nói rằng các giáo sĩ của họ đã lên tiếng ủng hộ các nạn nhân bị lạm dụng tình dục, và 12% nói rằng các giáo sĩ của họ đã cảnh cáo chống lại những tố cáo gian về lạm dụng.

Trong số những người tham gia các buổi lễ tôn giáo ít nhất một vài lần một năm, một phần mười nói rằng các giáo sĩ của họ đã lên tiếng để vừa ủng hộ các nạn nhân bị lạm dụng tình dục vừa cảnh cáo chống lại các tố cáo gian. Đối với những người tham dự thường xuyên nhưng chỉ nghe một loại thông điệp từ các giáo sĩ của họ, nhiều người chỉ nghe về việc hỗ trợ nạn nhân (14%) hơn là về những tố cáo gian (2%).

Có những khuôn mẫu tương tự nơi các nhóm tôn giáo, ngoại trừ người Công Giáo. Người Công Giáo có nhiều xác suất hơn các Kitô hữu Hoa Kỳ khác trong việc nghe các giáo sĩ nói về lạm dụng tình dục nói chung (41% trong số người Công Giáo so với 27% trong số người Thệ Phản). Và những người Công Giáo tham dự Thánh lễ ít nhất vài lần trong một năm có nhiều xác suất trong việc nói rằng họ chỉ nghe giáo sĩ của họ nói về việc hỗ trợ nạn nhân (24%), so với tỷ lệ nhỏ hơn nơi những người Thệ Phản (11%) (xem hình 15).

Hình 15


Người Công Giáo cũng được hỏi liệu họ có thảo luận các báo cáo gần đây về việc lạm dụng của các linh mục và giám mục Công Giáo với gia đình, bạn bè hoặc người quen. Nhìn chung, khoảng một nửa số người Công Giáo nói rằng họ đã nói ít nhất một chút đến các báo cáo gần đây về lạm dụng tình dục, bao gồm 10% nói họ đã nói “nhiều” về điều này, và 37% nói họ đã nói “một chút” về điều này. Một tỷ lệ tương tự (47%) nói rằng họ chưa nói nhiều hay không nói chi cả về vấn đề này.

Sáu trong mười người tham dự thánh lễ thường xuyên nói rằng họ đã nói chuyện với những người khác ít nhất một chút về các báo cáo lạm dụng gần đây (58%), trong khi bốn trong số mười người không nói chuyện với người khác nhiều hay không nói gì cả (40%). Khi so sánh, một tỷ lệ nhỏ hơn nơi những người ít tham dự thường xuyên hơn nói rằng họ đã nói chuyện ít nhất một chút với gia đình, bạn bè hoặc người quen về các báo cáo gần đây về lạm dụng và có tác phong sai trái về tình dục (42%).

Chú thích:

3. Giáo Hội Công Giáo không phải là truyền thống tôn giáo duy nhất trong đó, các nhà lãnh đạo đã phải đối diện với những cáo buộc lạm dụng và có hành vi sai trái về tình dục. Thí dụ, một cuộc điều tra gần đây đã tiết lộ nhiều năm có hành vi sai trái trong Công Hội Baptist Miền Nam (Southern Baptist Convention).

4. Các số liệu này dựa trên mọi người trưởng thành Hoa Kỳ, nhưng các câu hỏi chỉ được hỏi những người nói, trong một cuộc thăm dò trước đây, rằng họ thống thuộc một tôn giáo hoặc họ tham dự các buổi lễ tôn giáo vài lần một năm hoặc thường xuyên hơn. Điều có thể là những người không nhận được câu hỏi này (những người nói tôn giáo của họ là vô thần, bất khả tri hay “không là gì, đặc biệt” và nói họ hiếm khi hoặc không bao giờ tham dự các buổi lễ tôn giáo) vào một thời điểm nào đó, có tham dự một nơi thờ phượng trong đó, nhà lãnh đạo tôn giáo bị tố cáo có hành vi sai trái về tình dục nhưng từ đó đã ngừng tham gia các buổi lễ tôn giáo hoặc ngừng tự nhận diện mình với một đức tin tôn giáo.

5. Trong số các nhóm tôn giáo từng bị cáo buộc lạm dụng tình dục trong những năm gần đây - chỉ nêu một vài tên - là Công hội Baptist Miền Nam ở Mỹ, Giáo hội Anh, cộng đồng Do Thái cực Chính thống ở Brooklyn và Nhân chứng Giêhôva.

6. Thí dụ, Nam hướng đạo sinh đã thừa nhận hàng ngàn cáo buộc lạm dụng tình dục trong nhiều thập niên và hàng trăm vận động viên thể dục đã cáo buộc lạm dụng tình dục liên quan đến chương trình Thể dục dụng cụ Hoa Kỳ.