Lựa Chọn Kinh Nguyện Thánh Thể Nào Để Cử Hành?

Lm. Giuse Phạm Đình Ái, SSS

Sách lễ Rôma hiện nay có tới 13 Kinh nguyện Thánh Thể (=KNTT). Đó là: 1] Kinh nguyệnThánh Thể I; 2] Kinh nguyện Thánh Thể II; 3] Kinh nguyện Thánh Thể III; 4] Kinh nguyện Thánh Thể IV; 5] Kinh nguyện Thánh Thể Giao Hoà I; 6] Kinh nguyện Thánh Thể Giao Hoà II; 7] Kinh nguyện Thánh Thể - Cầu cho những nhu cầu khác nhau I; 8] Kinh nguyện Thánh Thể - Cầu cho những nhu cầu khác nhau II; 9] Kinh nguyện Thánh Thể - Cầu cho những nhu cầu khác nhau III; 10] Kinh nguyện Thánh Thể - Cầu cho những nhu cầu khác nhau IV; 11] Kinh nguyện Thánh Thể - Thánh lễ dành cho trẻ em I; 12] Kinh nguyện Thánh Thể - Thánh lễ dành ho trẻ em II; 13] Kinh nguyện Thánh Thể - Thánh lễ dành cho trẻ em III.

Việc lặp đi lặp lại cùng một bản văn KNTT có thể sẽ gây ra nhàm chán và giảm mất ý nghĩa của nó. Bởi vậy, tốt nhất là vị chủ tế nên sử dụng tất cả những chọn lựa Sách lễ Rôma đã cho dựa trên tiêu chuẩn là ngày lễ theo lịch phụng vụ, chủ đề của phụng vụ Lời Chúa, những biến cố quan trọng trong Giáo Hội và thế giới, nhu cầu mục vụ và tâm linh của cộng đoàn, nghĩa là việc chọn lựa phải làm sao để có thể mang lại hoa trái thiêng liêng nhiều nhất cho các tín hữu. Không nên chọn theo cách hú họa sau lời nguyện trên lễ vật như kiểu sấp ngửa đồng tiền hay quyết định vào phút chót (x. Joseph DeGrocco, A Pastoral Commentaty on the General Instruction of the Roman Missal, 197).

Kinh nguyện Thánh Thể I

Kinh nguyện Thánh Thể I có thể dùng lúc nào cũng được, nhưng do chiều dài và cấu trúc văn chương, Kinh nguyện Thánh Thể này không phải là “ứng viên” tốt cho ngày lễ Chúa Nhật. Tuy Kinh nguyện Thánh Thể I bao gồm những lời chuyển cầu dài nhưng lại thiếu yếu tố chúc tụng và tạ ơn. Mặt khác, Kinh nguyện Thánh Thể I có phần thêm vào cho những ngày lễ lớn - vì thế thích hợp sử dụng trong (QCSL 365a): [i] Lễ kính các Tông đồ hoặc vào những ngày lễ các Thánh được nêu tên trong Kinh nguyện Thánh Thể này; [ii] Các ngày Chúa Nhật, nếu không vì lý do mục vụ mà nên chọn Kinh nguyện Thánh Thể III.

Kinh nguyện Thánh Thể II

Kinh nguyện Thánh Thể II dựa trên bản văn Kinh hiến tế trong cuốn Truyền thống Tông đồ mà được coi là của thánh Hippôlytô hồi thế kỷ thứ III (215-220). Kinh nguyện Thánh Thể II quá ngắn cho lễ Chúa Nhật. Kinh nguyện Thánh Thể này được sử dụng rất thường xuyên vào các ngày trong tuần vì phần nào do ngắn gọn và cũng bởi vì kinh nguyện này được quy định dành cho những ngày nào không cử hành lễ đặc biệt. Kinh nguyện Thánh Thể II cũng có thể phù hợp với những lễ có kinh Tiền tụng riêng nhất là với những lời Tiền tụng nhắc lại vắn tắt mầu nhiệm cứu độ, ví dụ với những lời Tiền tụng chung hay dùng cho bài lễ “Thánh lễ cầu cho tín hữu qua đời”. Nên nhớ rằng chỉ với bài lễ “Thánh lễ cầu cho tín hữu qua đời” này (tức trong lễ phục màu tím) thì vị chủ tế mới có thể dùng công thức riêng được trù liệu giữa Kinh nguyện Thánh Thể II và sau câu “…và toàn thể hàng giáo sĩ” là: “Xin nhớ đến tôi tớ Chúa là T...”.[1]

Kinh Tiền tụng thuộc về Kinh nguyện Thánh Thể II tạo cảm giác giống như một “biểu thức đức tin” vắn gọn của cộng đoàn Tân Ước: thật vậy, kinh này rất giống kinh Tin kính (Credo) vẫn được đọc trong các Chúa Nhật và lễ trọng. Vì thế, chúng ta được khuyên là nên tránh đọc Kinh nguyện Thánh Thể II vào Chúa Nhật hoặc khi đã đọc kinh Tin kính rồi, để ngăn ngừa tình trạng trùng lặp không cần thiết.

Rất thông thường, chúng ta hay để phần Phụng vụ Lời Chúa (bài giảng) chiếm quá nhiều thời gian khiến cho Kinh nguyện Thánh Thể ngắn nhất này, tức là Kinh nguyện Thánh Thể II, ưa được chọn hơn trong bất cứ Thánh lễ nào. Tệ hơn nữa, sau đó, chúng ta lại đọc vội đọc vàng như thể muốn kết thúc kinh nguyện này cho mau chóng. Có lẽ, không nên biến Kinh nguyện Thánh Thể II trở thành một công cụ giải quyết vấn đề thời gian như vậy.

Nên nhớ rằng, cho dù cộng đoàn không trực tiếp thưa lên với Chúa trong Kinh nguyện Thánh Thể, đây vẫn là kinh nguyện của họ, được chủ tế đọc thay mặt họ. Vì thế, ngài nên cầu nguyện như thế nào để mọi người có cơ hội biến lời kinh này thành của mình. Họ biểu lộ sự đồng tình và tham gia nhiệt tình của mình vào Kinh nguyện Thánh Thể bằng cách hát lên những lời tung hô ca ngợi (Thánh, Thánh, Thánh [Santus]; Câu Tung hô Tưởng niệm [sau truyền phép], và lời thưa Amen [sau Vinh tụng ca kết thúc Kinh nguyện Thánh Thể]), nhưng sẽ tốt hơn nhiều nếu những câu tung hô này thực sự hoà điệu [trong trí óc và tâm hồn họ] với kinh nguyện đang được đọc (x. Erasto Fernandez, SSS, The Eucharist: Step by Step (2005), 98-101).

Kinh nguyện Thánh Thể III

Kinh nguyện Thánh Thể III chủ yếu dựa theo Lễ quy Rôma như thể viết lại Lễ quy Rôma với một cấu trúc khác vì tác giả căn cứ trên một số những phê bình và đề nghị đối với Lễ quy Rôma. Dom Vaggagini đã đứng ra tổng hợp những góp ý trên thành những ưu khuyết điểm của Kinh Tạ Ơn này. Giống như Lễ quy Rôma, Kinh nguyện Thánh Thể III không có kinh Tiền tụng riêng, do đó tùy theo lễ được cử hành, có thể chọn kinh Tiền tụng cho phù hợp.

Kinh nguyện Thánh Thể III có ba điểm nổi bật này: [i] Chúa Thánh Thần: Trong KNTT I, chúng ta thấy vai trò của Chúa Thánh Thần rất chìm, hầu như không được nói đến. Trong KNTT II, Chúa Thánh Thần được nói đến trong các lời khẩn cầu. Còn KNTT III làm nổi bật vai trò Chúa Thánh Thần trong công trình cứu độ, đặc biệt trong mầu nhiệm tạ ơn. Ngoài câu Vinh tụng ca như các KNTT khác, còn 4 lần nói đến Chúa Thánh Thần: Lời ca tụng của chủ tế; Khẩn cầu 1; Khẩn cầu 2; Cầu cho Hội Thánh; [ii] Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi: thực ra, khi nói về Chúa Thánh Thần, KNTT này cũng nói về toàn bộ mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Như vậy, chúng ta có thể nói KNTT III là một Kinh nguyện dâng lên Chúa Ba Ngôi; [iii] Hiến tế của Chúa Kitô và hiến tế của Hội Thánh: trong Thánh lễ, Hội Thánh hiến dâng Đức Kitô, dâng hiến tế của Người lên Chúa Cha. Nhưng Hội Thánh cũng liên kết với của lễ hiến tế của Đức Kitô để dâng chính mình. Hội Thánh có thể làm như vậy, vì trước kia trên thập giá Đức Kitô đã dâng mình cho Cha của Người và cùng một trật Người cũng dâng ta cùng với Người. Điều này ta thấy rõ trong các lời kinh tưởng niệm, khẩn cầu 2, tưởng nhớ các Thánh, cầu cho Hội Thánh.

Hết sức khuyến khích nên cầu nguyện và suy niệm dựa trên các Kinh nguyện Thánh Thể vào các dịp (x. QCSL 365c): [i] Chúa Nhật và lễ kính; [ii] Lễ kính nhớ các Thánh, lễ quan thày của giáo xứ hay đoàn thể vì Kinh nguyện Thánh Thể III được trù liệu để có thể nêu tên vị Thánh kính nhớ theo ngày hay thánh quan thày của bất cứ tổ chức nào nếu muốn; [iii] Ngày lễ Chúa Thánh Thần hay Lễ Chúa Ba Ngôi vì nội dung của Kinh nguyện Thánh Thể III hướng nhiều về Chúa Thánh Thần và Chúa Ba Ngôi; [iv] Khi muốn nhấn mạnh đến bản chất đại đồng của Công Giáo […không ngừng quy tụ một dân riêng, để từ đông sang tây họ dâng lên Chúa một hiến lễ tinh tuyền (Nghi thức Thánh lễ, số 108; x. Lawrence E. Mick (1997), Worshiping Well, 77).

Nếu đọc Kinh nguyện này trong Thánh lễ sử dụng bài lễ “Thánh lễ cầu cho tín hữu đã qua đời” (lễ phục tím), chủ tế mới có thể dùng công thức riêng cầu cho người quá cố, vào đúng chỗ của nó, nghĩa là sau những lời “xin thương đoàn tụ mọi con cái Cha đang tản mác khắp nơi về với Cha” (QCSL 365c).

Kinh nguyện Thánh Thể IV

Kinh nguyện Thánh Thể IV được các tín hữu biết đến một cách quen thuộc hơn như là một “Kinh nguyện Thánh Thể dài”. Tuy nhiên, đừng để độ dài của kinh này ngăn cản chúng ta không áp dụng một cách hiệu quả và thường xuyên hơn.

Tất nhiên, Kinh nguyện Thánh Thể IV hàm chứa nhiều chủ đề để giải thích, suy niệm và cầu nguyện. Thật đáng tiếc và là một sự mất mát lớn khi những chủ đề này lại thường không được chọn trong các bài giảng lễ, đặc biệt vào các Chúa Nhật (cho dù có thể chúng ta không sử dụng kinh nguyện này vào Chúa Nhật), hoặc những ngày khác trong đó ít nhiều cũng có một đám đông tín hữu thường xuyên tham dự. Việc giảng giải Kinh nguyện Thánh Thể IV có thể là một chương trình giáo lý khá đầy đủ liên quan đến lối sống Kitô hữu bởi vì Kinh nguyện Thánh Thể IV tích luỹ nhiều đoạn văn Kinh Thánh, đặc biệt Tin Mừng Gioan, nhiều đoạn văn giáo phụ, nhiều câu vay mượn các phụng vụ Đông phương cũng như Tây phương cổ. Đặc biệt, Kinh nguyện Thánh Thể này là một công trình độc đáo và am hợp với tín lý của Công đồng Vatican II được trình bày trong Hiến chế Lumen Gentium và Gaudium et Spes. Kinh nguyện Thánh Thể IV còn là một kinh nguyện đại kết có uy lực mạnh, vì nó gây được sự quý chuộng đối với cả những người có khuynh hướng Rôma lẫn những người theo truyền thống Đông phương. Từ khía cạnh này, chúng ta có thể giới thiệu cho giáo dân một số điều thuộc về di sản phong phú của các nền phụng vụ Đông phương.

Nên cầu nguyện bằng Kinh nguyện Thánh Thể IV (cũng như đối với tất cả các Kinh nguyện Thánh Thể khác) một cách chậm rãi và chăm chú chứ đừng vội vã đọc cho xong. Đặc biệt, vì Kinh nguyện Thánh Thể IV tương đối dài nên các thừa tác viên dễ có khuynh hướng đọc nhanh cho qua. Tuy nhiên, khi thực sự cầu nguyện một cách thành tâm và sốt sắng, tự thân Kinh nguyện Thánh Thể IV là một lời giáo huấn. Trong nỗ lực làm cho Thánh lễ trở nên có ý nghĩa và lợi ích hơn, chúng ta sẽ gặt hái thành công điều đó khi thật chú tâm vào các Kinh nguyện Thánh Thể nói chung, và Kinh nguyện Thánh Thể IV nói riêng.

Kinh nguyện Thánh Thể IV phải được sử dụng cùng với kinh Tiền tụng riêng của nó, vì Kinh nguyện Thánh Thể này gồm chứa sự công bố tuyệt vời về lịch sử cứu độ. Kinh nguyện Thánh Thể IV cung cấp một ngữ cảnh xuất sắc cho chúc tụng và tạ ơn. Kinh nguyện Thánh Thể IV cũng gồm chứa những cụm từ trong Tin Mừng theo Thánh Gioan và có thể được sử sụng rất tốt nếu muốn làm âm vang một vài khía cạnh của Tin Mừng theo ngày lễ. Tóm lại, Kinh nguyện Thánh Thể IV có thể sử dụng vào (QCSL 365d): [i] Các ngày Chúa Nhật Thường niên; [ii] Các Thánh lễ hàng ngày mùa Thường niên; [iii] Các Thánh lễ hàng ngày trong mùa Vọng và mùa Chay; [iv] Các Thánh lễ ngoại lịch - thậm chí nếu chữ đỏ chỉ định một kinh Tiền tụng khác. Vì cử hành Thánh lễ ngoại lịch chính là một sự chọn lựa, những yếu tố có thể thay đổi của Thánh lễ không buộc theo nghĩa chặt. Ví dụ: kinh Tiền tụng lễ Thánh Giuse buộc phải đọc vào ngày 19 tháng 3 - và hậu nhiên là Kinh nguyện Thánh Thể IV không thể sử dụng vào ngày đó. Tuy nhiên, cử hành Thánh lễ ngoại lịch kính Thánh Giuse vào bất cứ ngày nào, tùy nghi sử dụng kinh Tiền tụng về Thánh Giuse hay bất cứ kinh Tiền tụng hợp pháp khác; [v] Dường như Kinh nguyện Thánh Thể IV phù hợp hơn để cử hành Thánh lễ cho các nhóm nhỏ, đặc biệt cho những quan tâm và tìm biết hành động của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ. Nhất là, nếu nhóm nhỏ biết dành thì giờ và nỗ lực suy niệm Kinh nguyện Thánh Thể IV dựa trên những chủ đề ấy.

Về phương diện mục vụ, nên tôn trọng kinh Tiền tụng theo mùa trừ phi có lý do rất tốt đẹp nào khác để sử dụng Kinh nguyện Thánh Thể IV. Trong Kinh nguyện này, do cấu trúc của nó, không thể xen vào công thức riêng cầu cho người quá cố. Vì thế, nếu cử hành Thánh lễ với bài lễ “Thánh lễ cầu cho tín hữu đã qua đời” (lễ phục tím), không nên sử dụng Kinh nguyện Thánh Thể IV (QCSL 365d).

Kinh nguyện Thánh Thể Hòa giải

Hai mẫu Kinh nguyện Thánh Thể Hòa giải chứa đựng những tâm tình thích ứng với bầu khí mùa Chay, nhưng chúng cũng được sử dụng một cách lợi ích bất cứ khi nào Sách Thánh nói về sự tha thứ và hòa giải. Kinh nguyện Thánh Thể Hòa giải mẫu thứ II là một chọn lựa tốt vào những thời kỳ xã hội dân sự bất ổn, vì trong đó chúng ta cầu nguyện rằng “ngay giữa những xung đột và chia rẽ… xin Chúa biến đổi lòng trí chúng con suy nghĩ đến hòa bình”.

Được sử dụng trong các Thánh lễ nhấn mạnh một cách đặc biệt về mầu nhiệm hòa giải cho các tín hữu, Kinh nguyện Thánh Thể Hòa giải bao gồm những công thức dành cho những nhu cầu như: thăng tiến hòa hợp xã hội, hòa giải, công lý và hòa bình, vào những thời kỳ chiến tranh và hỗn loạn xã hội, tha thứ tội lỗi, gia tăng bác ái, mầu nhiệm thập giá, về Thánh Thể, về Máu Châu báu. Kinh nguyện Thánh Thể Hòa giải cũng phù hợp với các Thánh lễ trong mùa Chay.

Mặc dù các Kinh nguyện Thánh Thể Hòa giải có kinh Tiền tụng riêng, nhưng được phép sử dụng với kinh Tiền tụng khác có nói đến các chủ đề thống hối và trở lại, chẳng hạn với các kinh Tiền tụng mùa Chay.

Từ những điều đã nói, chúng ta có thể sử dụng những Kinh nguyện Thánh Thể Hòa giải trong mùa Chay, trong ngày thường cũng như ngày Chúa Nhật, miễn là tôn trọng những kinh Tiền tụng riêng phải được sử dụng trong những Chúa Nhật mùa Chay nào đó.

Kinh nguyện Thánh Thể Hòa giải thường chứng tỏ rất hữu ích trong những dịp tĩnh tâm và linh thao, vì đây là thời gian đôn đốc người ta đến hòa giải với Chúa và khám phá lòng thương xót của Ngài.

Kinh nguyện Thánh Thể - Thánh lễ Trẻ em

Nếu trẻ em chiếm phần lớn trong cộng đồng thì có thể sử dụng một trong 3 mẫu Kinh nguyện Thánh Thể - Thánh lễ Trẻ em. Kinh nguyện Thánh Thể - Thánh lễ Trẻ em mẫu I thích hợp hơn với các em vừa mới được giới thiệu về Bí tích Thánh Thể; Kinh nguyện Thánh Thể - Thánh lễ Trẻ Em mẫu II và III thích hợp hơn với các trẻ đã được học biết về các Bí tích và làm quen với Phụng vụ Thánh lễ.

Kinh nguyện Thánh Thể Cho Những Nhu Cầu Khác Nhau

Những Kinh nguyện Thánh Thể này có thể được chọn sử dụng khi một trong những Thánh lễ cho những nhu cầu khác nhau được cử hành. Một cách cụ thể hơn, chúng ta theo sát hướng dẫn trong Nghi thức Thánh lễ như sau: [i] Mẫu thứ I “Hội Thánh Trên đường Hiệp nhất”. Thích hợp với các bài lễ: cầu cho Hội Thánh, cho Đức Giáo Hoàng, cho Đức Giám Mục, cho việc bầu chọn Đức Giáo Hoàng hay Đức Giám Mục, cho Công nghị hay Thượng Hội đồng, cầu cho các linh mục, linh mục cầu cho chính mình hoặc cho các thừa tác viên của Hội Thánh, trong các cuộc hội họp thiêng liêng hay mục vụ; [ii] Mẫu thứ II “Thiên Chúa Dẫn Đưa Hội Thánh Trên Đường Cứu Độ”. Thích hợp để dùng với các bài lễ: cầu cho Hội Thánh, cầu cho ơn gọi chức thánh, cầu cho giáo dân, cầu cho gia đình, cầu cho tu sĩ, cầu cho ơn gọi đời sống tu trì, xin ơn đức ái, cầu cho những người thân và bạn hữu và để tạ ơn Chúa; [iii] Mẫu thứ III “Chúa Giêsu Là Đường Dẫn Tới Chúa Cha”. Thích hợp để dùng với các bài lễ: cầu cho việc Phúc Âm hoá các dân tộc, cầu cho các Kitô hữu chịu đau khổ vì bị bách hại, cầu cho quê hương hay thành phố, cầu cho nhà cầm quyền, cầu cho hội nghị các vị lãnh đạo các quốc gia, cầu cho năm mới và cầu cho sự thăng tiến các dân tộc; [iv] Mẫu thứ IV “Chúa Giêsu Đi Khắp Nơi Ban Phát Ơn Lành”. Thích hợp để dùng với các bài lễ: cầu cho những người di dân và bị lưu đày, cầu cho những người lao nhọc trong thời lỳ đói khổ hay bị đói kém, cầu cho những người gây đau khổ cho chúng ta, cầu cho những người bị giam giữ, cầu cho các tù nhân, cầu cho những người đau yếu, cầu cho những người hấp hối, xin ơn chết lành và cầu cho bất cứ nhu cầu nào.

[1] Xc. QCSL 365b; Paul Turner, Let Us Pray (Philippines: St. Pauls, 2007), no. 527.

LM Giuse Phạm Đình Ái, SSS