Một ngày ngy đi thăm cung điện Vua Sultan Abu Bakar ở Pekan, Malaysia

Malaysia 11/4/2019 -- Khi nói về Malaysia thì đa số người tị nạn thường nghĩ tới những trại tị nạn như Pulau Bidong nghĩa là "đảo Bidong" là hải đảo nhỏ ở phía nam Biển Đông, thuộc bang Terengganu của Malaysia. Đảo này được biết đến chủ yếu vì đây mở trại tạm cư cho người Việt tỵ nạn trong những đợt vượt biên liên tiếp của thuyền nhân từ năm 1975 đến năm 1991. Đến 30 tháng 10 năm 1991 khi trại đóng cửa thì nơi đây đã tiếp đón 250.000 người tỵ nạn. Vào thời điểm đó, khoảng 9.000 người với hồ sơ không giải quyết được đều bị buộc trở về Việt Nam…

Xem Hình ảnh

Và vài năm nay tên một nữ công nhân Việt Nam là Đoàn Thị Hương một tên khá quen thuộc trên các trang báo và được cho là một trong 2 nghi phạm nữ trong vụ ám sát Kim Jong-nam tại Malaysia ngày 13 tháng 2 năm 2017, và mới đây không bị kết án tử hình như gia đình từng lo sợ.

Nếu nhìn về quá khứ xa thì một tên nổi bật khác có thể nói là một thiên tài và nhà bác học Việt Nam đã từng học tại Penang của Mãi Lai đó là Nguyễn Trường Tộ. Ông chịu ảnh hưởng của hai nền văn hóa Đông-Tây: Khổng học và Kitô giáo. Ông vừa mang trách nhiệm của một người Kitô hữu phải thực hiện lý tưởng giúp Giáo hội và xã hội; vừa mang trách nhiệm của một kẻ Sĩ đối với tổ quốc và dân tộc của mình theo tinh thần “trung quân, ái quốc” của nhà Nho.

Tưởng cũng nên ghi lại vài nét về ông Nguyễn Trường Tộ như sau: Ông sinh năm 1830 dưới thời vua Minh Mạng, gia đình theo đạo Công Giáo từ nhiều đời, quê quán tại xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, và qua đời ngày 22 tháng 11 năm 1871 tại Xã Đoài (nay thuộc xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An).

Theo lịch sử ghi lại thì từ nhỏ ông rất thông minh, học đâu nhớ đó. Ông học chữ Hán với thân phụ là Nguyễn Quốc Thư (làm nghề Đông y sĩ) sau đến học với những nhà Nho nổi tiếng như cụ Tú Tài Giai, cụ Cống Hữu và quan huyện Địa Linh về hưu. Trình độ Hán học của ông qua các bài điều trần chứng tỏ ông là một người có trình độ ngang với các vị khoa bảng thời đó. Nhưng vì ông là người Công Giáo, thời đó vua cấm Đạo, không cho người theo Đạo đi thi, nên ông không đỗ đạt gì.

Nổi tiếng hay chữ trong số những người Công Giáo thời đó, nên ông được Giám Mục Gauthier (Ngô Gia Hậu) ở Vinh mời dạy Hán văn cho các tu sĩ trong Chủng viện và cũng được Giám Mục dạy cho học tiếng Pháp. Là một người cầu tiến, ông đã chăm chú học Pháp văn, La-tinh. Chẳng bao lâu ông đã thành công, đọc được nhiều sách vở Tây Phương và nghiên cứu đủ mọi vấn đề như khoa học, triết học, lịch sử, địa lý, luật pháp, chính trị, văn hóa. Nói tóm lại về các kiến thức văn hóa Tây Phương và cả tình hình chính trị thế giới thời đó, ông đều am hiểu..

Ông đã được Giám Mục Gauthier tạo điều kiện cho đi ra nước ngoài để học hỏi. Ông đã đi qua các nơi như Hong kong, Singapore, Mã Lai (Poulo Penang), Pháp, Ý… Trong dịp yết kiến Đức Giáo Hoàng Pio thứ IX tại Roma (khoảng 1859-1861), ông được Đức Giáo Hoàng tặng cho 100 pho sách về tân học. Với số sách dồi dào mà Đức Giáo Hoàng tặng cho Nguyễn Trường Tộ, quả thực Người rất có thiện chí muốn giúp Việt Nam mở mang kiến thức thời đó.

Từ đầu năm 1861 đến đầu năm 1866, Nguyễn Trường Tộ đã gởi cho triều đình Huế tất cả 11 văn bản. Nhưng văn bản gởi đi mà không được trả lời. Nguyễn Trường Tộ đã chờ đợi nơi vua Tự Đức với tất cả lòng thành của mình. Tiếc thay các vua thời đó không có đầu óc canh tân như Minh Trị Thiên Hoàng của Nhật, nên đã đề cho nước mất nhà tan Việt Nam trở nên lạc hậu so với các nước chung quanh thời đó…

Chúng tôi đặt chân đến thăm Malaysia bắt đầu tử cảng thành phố Kuantan. Thành phố Kuantan là thủ đô của Pahang. Tiểu bang lớn nhất trên Bán đảo Malay mang đến cho du khách cơ hội trải nghiệm lối sống thanh thản đáng ngạc nhiên.

Cảng Kuantan là một cảng đa năng ở Vùng Bờ biển phía Đông Malaysia, nằm khoảng 25 km về phía bắc của thành phố Kuantan. Trước đây được điều hành bởi thành phố Kuantan, nhưng từ năm 1998 cảng này đã được tư nhân hóa và hiện đang được điều hành bởi Kuantan Port Consortium.

Từ cảng này lái xe mất hơn 1 giờ tới thành phố hòang triều Royal Town Pekan, đây là một khu định cư giàu lịch sử ở tỉnh Pahang. Theo tài liệu từ thế kỷ 17, Pekan là thị trấn lâu đời nhất ở Pahang và có nhiều điểm thú vị cho du khách khám phá.

Thăm hoàng thành Pekan và Bảo tàng viện

Chúng tôi ghé thăm Bảo tàng Sultan Abu Bakar, nơi lưu trữ các hiện vật văn hóa và lịch sử phong phú của Penang và hoàng gia. Đang khi đi xem các đồ cổ và di tích nghệ thuật trong bảo tàng viện hoàng gia và viện nhằn chủng học: từ những chiếc lơm đánh cá cho tới các dụng cụ nhạc khí, đồ gốm, đồ đồng… chúng tôi chợt bắt gặp một “trống đồng” có ghi rõ là thuộc văn hóa Đông Sơn cách đây 2.500 năm. Nhìn vào bề mặt trống đồng thì lại thấy trạm trổ khác hẳn với các trống đồng tìm thấy ở Việt Nam. Tuy có hình ngôi sao ở giữa, nhưng không có hình người và chim nhảy múa…, nhưng chỉ là những nét kỷ hà xếp theo dọc theo nhau.

Tiếp đến đi thăm Cung điện vua Sultan Abu Bakar - nơi ở chính thức của quốc vương Penang. Tại đây du khách có thể chiêm ngưỡng những nét kiến trúc của người Malay. Ai cũng muốn chụp hình kỷ niệm tại cổng vòm tuyệt đẹp của cung điện.

Môn Polo là vua trong số các môn thể thao của Malaysia – đây là tàn dư ảnh hưởng còn lại về quá khứ thuộc địa mộtt thời. Từ Câu lạc bộ Polo Royal Pahang du khách quan sát sân chơi Royal Polo Field. Quốc vương Pahang là một người chơi polo cuồng nhiệt, và chuồng ngựa của vua cũng nằm gần đó.

Chuyến thăm tại Trung tâm Dệt lụa Hoàng gia Pahang giới thiệu về một loạt các sản phẩm lụa. Tại đây du khách có thể tìm hiểu cách tơ được dệt một cách có phương pháp bằng các kỹ thuật đã 200 năm qua như thế nào và được truyền qua nhiều thế hệ.

Điểm đáng chú ý khác là đền thờ Sri Muruga Hindu và Nhà thờ Hồi giáo Sultan Ahmad Shah. Nhà thờ Hồi giáo được xây dựng từ năm 1991 đến năm 1993 và được xây dựng theo phong cách Hồi giáo Ottoman-Moorish và nét Hồi giáo hiện đại, với bốn ngọn tháp giống như tên lửa và một mái vòm lớn và hai bên mái vòm nhỏ hơn.

Xuyên xuất lộ trình lái xe, trên đường chúng tôi bắt gặp rất nhiều đền Hồi giáo, cái to cái nhỏ, giống như lái xe từ Biên Hòa lên Đình Quán trên đường có rất nhiều nhà thờ vậy.

Không ngờ dân Malaysia chịu ảnh hưởng sâu rộng của tôn giáo và văn minh Hồi giáo như vậy. Hầu hết người Malay là theo Hồi giáo và cấm không được cải đạo sang tôn giáo khác. Vào các viện bảo tàng hay các đền đài lớn thấy có nhiều chữ viết Ả rập, tôi mới hỏi người hướng dẫn du lịch, tại sao có nhiều chử Arap, vậy người Malay có biết đọc không? Ông ta trả lời rằng đây là như cổ ngữ Latinh trong Công Giáo, chỉ có các hiền triết hay các loại quí tộc đời xưa biết mà thôi. Cũng vậy, hiện Malay vẫn còn có ông Vua nhưng chỉ là bù nhìn chứ không có quyền hành gì cả!

Một chuyến thăm viếng rất ý nghĩa và tôi học hỏi được rất nhiều về lịch sử cũng như về tình hình tôn giáo của người Mã Lai.

Tình hình các tôn giáo tại Malaysia:

Malaysia là một quốc gia đa văn hóa và đa sắc tộc, có tôn giáo chính thức là Hồi giáo. Theo tTổng điều tra dân số và nhà ở năm 2010, 61,3% dân số theo đạo Hồi; Phật giáo 19,8 phần trăm; 9,2% Kitô giáo; 6,3% Ấn Độ giáo; và 3,4% tôn giáo truyền thống của Trung Quốc. Phần còn lại được tính bởi các tín ngưỡng khác, bao gồm Thuyết vật linh, Tôn giáo dân gian, Đạo Sikh, Tín ngưỡng Baha'i và các hệ thống tín ngưỡng khác. Số người vô thần tự mô tả ở Malaysia rất ít.

Hồi giáo ở Malaysia đa số là theo Sunni Shafi và việc thực hành Hồi giáo Shia bị chính phủ hạn chế rất nhiều. Hiến pháp Liên bang công nhậnLuật tối cao biến Hồi giáo thành "tôn giáo của Liên bang".

Người Trung Quốc Malaysia thực hành các tín ngưỡng khác nhau: Phật giáo Đại thừa và các tôn giáo truyền thống Trung Quốc (bao gồm Đạo giáo).

Ấn Độ giáo được thực hành bởi phần lớn người Ấn Độ Malaysia.

Kitô giáo đã thành lập tại một số cộng đồng, đặc biệt là ở Đông Malaysia. Kito giáo không gắn liền với bất kỳ nhóm dân tộc cụ thể.

Quan hệ giữa các nhóm tôn giáo khác nhau thường khá khoan dung. Những ngày lễ như Eids, Giáng sinh, Tết Nguyên đán và Deepavali đã được tuyên bố là ngày lễ quốc gia. Nhiều nhóm khác nhau đã được thành lập để cố gắng thúc đẩy sự hiểu biết tôn giáo giữa các nhóm khác nhau, với sự hài hòa tôn giáo được coi là ưu tiên của các chính trị gia Malaysia.

Hồi giáo ở Malaysia

Mặc dù hầu hết mọi người ở Malaya theo đạo Hồi vào thế kỷ 15, hình thức Hồi giáo khoan dung do người Sufi mang lại có nghĩa là nhiều tập tục truyền thống đã được đưa vào truyền thống Hồi giáo. Hồi giáo nói chung được thực hành tự do, mặc dù trong 20 năm qua, việc tuân thủ nghiêm ngặt thực hành Hồi giáo đã tăng lên. Bộ luật chính thức của đạo Hồi ở Malaysia là Sunni và việc thực hành bất kỳ hình thức Hồi giáo nào khác bị hạn chế rất nhiều.

Luật pháp và chính trị

Malaysia là một xã hội đa tôn giáo, hiến pháp Malaysia không bảo đảm tự do tôn giáo, Hồi giáo là tôn giáo chính thức của liên bang. Không người Malay nào được phép rời khỏi đạo Hồi, trong khi những người Hồi giáo không phải người Malay tìm cách truyền đạo cần có sự cho phép của tòa án sharia, điều này không bao giờ được cấp. Tín ngưỡng tôn giáo theo dòng tộc. Các ngày lễ đã được tuyên bố cho các ngày lễ thánh trong nhiều tôn giáo, mặc dù chỉ có Hồi giáo có nhiều hơn một ngày lễ quốc gia. Việc một tôn giáo có được sự chấp thuận của chính phủ hay không được xác định bởi Cơ quan đăng ký xã hội, một phần của Bộ Nội vụ. Chỉ khi được chấp thuận, họ mới đủ điều kiện nhận trợ cấp chính phủ.

Chính phủ tin rằng hiến pháp cung cấp một sự bảo đảm đủ mạnh mẽ về tự do tôn giáo và không nên thay đổi. Một số hạn chế được thực hiện trên các văn bản tiếng Mã Lai từ các tôn giáo không theo đạo Hồi ở Bán đảo Malaysia, tuy nhiên có nhiều hạn chế hơn ở Đông Malaysia. Hijab là bắt buộc đối với người không theo đạo Hồi trong một số tình huống nhất định. Thẻ căn cước MyKad cho biết người sở hữu có phải là người Hồi giáo hay không.

Vì Hồi giáo là quốc giáo, chính phủ hỗ trợ tài chính cho các cơ sở Hồi giáo và buộc hình thức Hồi giáo Sunni. Chính phủ các bang áp đặt một số luật Hồi giáo đối với người Hồi giáo, và chính phủ sẽ cấp các khoản tài trợ cho các trường Hồi giáo tư nhân cho phép chương trình giảng dạy và giám sát được chính phủ phê duyệt. Chính phủ cũng gián tiếp tài trợ cho các cộng đồng phi Hồi giáo, mặc dù ở mức độ nhỏ hơn nhiều. Chính phủ can thiệp vào các hoạt động tôn giáo của các cộng đồng phi Hồi giáo. Các trường công lập cung cấp một khóa hướng dẫn tôn giáo Hồi giáo bắt buộc đối với sinh viên Hồi giáo và sinh viên không theo đạo Hồi tham gia khóa học về đạo đức và đạo đức.

Chính phủ cấm mọi ấn phẩm mà họ cảm thấy sẽ kích động sự bất hòa về chủng tộc hoặc tôn giáo, và đã yêu cầu các vấn đề tôn giáo không được thảo luận trước công chúng do sự nhạy cảm của họ. Chính phủ tuyên bố không ai bị bắt theo Đạo luật An ninh Nội bộ vì lý do tôn giáo. Chính phủ có thể phá hủy các nơi thờ tôn giáo chưa đăng ký, và vì thế các tổ chức phi chính phủ đã phàn nàn về việc phá hủy các ngôi đền Hindu chưa đăng ký. Chúng thường được xây dựng trên các đồn điền thuộc sở hữu tư nhân trước khi giành độc lập vào năm 1957. Xung đột giữa chính phủ liên bang và chính quyền liên quan đến thẩm quyền tôn giáo dẫn đến tốc độ cải cách và phát triển luật pháp chậm chạp liên quan đến Hồi giáo. Các nhóm tôn giáo khác, chẳng hạn như Hội đồng tư vấn Phật giáo Malaysia, Kitô giáo, Ấn Độ giáo, đạo Sikh và Đạo giáo, đã hỗ trợ các cuộc biểu tình chính trị.

Chủ nghĩa thế tục

Mặc dù công nhận Hồi giáo là quốc giáo trong hiến pháp, nhưng khi hiến pháp ra đời, có nói được ghi nhận rõ ràng rằng tình trạng này chỉ là một biểu tượng. Nó không được coi là một cái gì đó được sử dụng như là một cơ sở của pháp luật, ngoại trừ một số người theo chủ nghĩa dân tộc Malay. Hiện tại tòa án Shariah và luật Hồi giáo có quyền tối cao.

Trong lịch sử Malaysia được coi là thế tục, với thủ tướng đầu tiên tuyên bố "đất nước này không phải là một quốc gia Hồi giáo như thường được hiểu. Vào tháng 9 năm 2001, cuộc tranh luận đã được đưa ra bởi thông báo của Thủ tướng Mahathir Mohamad rằng Malaysia đã là một Nhà nước Hồi giáo. Năm 2007, Thủ tướng Abdullah Ahmad Badawi lần đầu tiên gọi Malaysia là một quốc gia Hồi giáo. Đầu tháng đó, ông đã đưa ra một tuyên bố khác, nói rằng Malaysia không phải là một quốc gia thần quyền hay thế tục.

Một tuyên bố tương tự đã được Thủ tướng đưa ra vào ngày 12 tháng 3 Năm 2009, khi ông tuyên bố Malaysia là một quốc gia "Hồi giáo”.

Tự do tôn giáo ở Malaysia

Tự do tôn giáo, mặc dù được bảo đảm trong hiến pháp, phải đối mặt với nhiều hạn chế ở Malaysia. Về mặt pháp lý, một người Mã Lai ở Malaysia phải là người Hồi giáo. Người không phải người Malaysia được tự do chuyển đổi giữa các tôn giáo. Nỗ lực của người Hồi giáo để chuyển đổi sang các tôn giáo khác bị chính quyền bang trừng phạt, với các hình phạt từ phạt tiền đến phạt tù. Chính phủ liên bang không can thiệp vào các tranh chấp pháp lý về cải đạo, để lại cho tòa án. Các tòa án thế tục của Malaysia đã phán quyết họ không có thẩm quyền quyết định những trường hợp này, đưa họ đến các tòa án Syariah. Các tòa án Hồi giáo đã nhất trí phán quyết rằng tất cả người dân tộc Mã Lai phải vẫn là người Hồi giáo. Ngay cả những người không phải người Malaysia đã chuyển đổi sang đạo Hồi cũng không được phép rời khỏi đạo Hồi và những đứa trẻ sinh ra từ cha mẹ Hồi giáo được coi là người Hồi giáo. Một người không theo đạo Hồi muốn kết hôn với người Hồi giáo trước tiên phải chuyển sang đạo Hồi.

Cuộc tranh luận về luật về chuyển đổi đã diễn ra mạnh mẽ trong giới học thuật và chính trị, với nhiều người không theo đạo Hồi chống lại luật pháp mâu thuẫn với nhóm Hồi giáo, những người ủng hộ mạnh mẽ luật pháp, khiến chính phủ rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Việc phổ biến bất kỳ tài liệu tôn giáo phi Hồi giáo nào cho người Hồi giáo là bất hợp pháp. Đảng PAS mong muốn án tử hình được ban hành đối với người Hồi giáo cố gắng chuyển đổi, như một phần trong mong muốn cuối cùng của họ là biến Malaysia thành một quốc gia Hồi giáo.

Phật giáo và tôn giáo Trung Quốc

Nhiều người Trung Quốc Malaysia thực hành các tín ngưỡng khác nhau, bao gồm Đại thừa và các giáo phái khác của Phật giáo, các tôn giáo dân gian Trung Quốc, Nho giáo và Đạo giáo. Mặc dù Phật giáo có ảnh hưởng trước khi đạo Hồi xuất hiện, nhưng phần lớn dân số Trung Quốc hiện tại đã đến trong thời kỳ người Anh quốc cai trị Malaysia. Tết Nguyên Đán được tổ chức như một ngày lễ quốc gia. Đối với nhiều người Trung Quốc, tôn giáo là một phần thiết yếu trong đời sống văn hóa của họ.

Khoảng 19% dân số hiện tại tự phân loại mình là Phật tử. Mỗi tòa nhà tôn giáo đều tự trị, và hầu hết người Hoa gốc Malaysia theo chi nhánh Đại thừa, trong khi các dân tộc thiểu số Thái Lan và Sinhala ở Malaysia theo chi nhánh Therevada. Một Hội đồng Phật giáo Malaysia đã được thành lập để thúc đẩy nghiên cứu và thực hành Phật giáo và thúc đẩy sự đoàn kết giữa các Phật tử Malaysia. Ngày Vesak là một ngày lễ quốc gia, và lễ kỷ niệm chung diễn ra tại Kuala Lumpur và Selangor bởi cả hai nhánh của Phật giáo.

Các ngôi đền của Trung Quốc chủ yếu là các vị thần được lưu giữ từ các tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến của Trung Quốc. Malaysia có hơn 150 đền thờ Đạo giáo.

Ấn Độ giáo ở Malaysia

Phần lớn người Tamils chiếm 9% dân số Malaysia theo đạo Hindu. Ấn Độ giáo có ảnh hưởng trước Hồi giáo, nhưng các tín đồ hiện nay hầu hết là người gốc từ các cộng đồng di cư từ Tamil Nadu đến Malaya để làm việc trên các đồn điền cao su của Anh. Một cộng đồng nhỏ người di cư từ Bắc Ấn Độ cũng tồn tại.

Các ngôi đền đô thị thường được dành riêng cho một vị thần duy nhất, trong khi các ngôi đền ở nông thôn thường là nơi có nhiều vị thần khác nhau. Hầu hết được mang theo người nhập cư. Hầu hết các ngôi đền theo truyền thống Saivite từ miền Nam Ấn Độ, để thờ thần Siva. Ngày lễ của người Thái ở Thaipusam và Deepavali là một ngày lễ quốc gia. [10] Thực hành tôn giáo Hindu có mối liên hệ chặt chẽ với bản sắc văn hóa của người Ấn Độ Malaysia. Những người chuyển đổi sang tôn giáo khác có thể bị gia đình và cộng đồng Ấn Độ tẩy chay.

Kitô giáo ở Malaysia

Khoảng 10% dân số Malaysia là Kitô hữu, chủ yếu là người Bumiputera không phải người Malay, cũng bao gồm một số dân tộc thiểu số Malaysia gốc Hoa và Malaysia. Các giáo hội phổ biến nhất là Anh giáo và Công Giáo. Hầu hết các Kitô hữu sống ở Đông Malaysia.

Các thương nhân có liên kết với Kitô giáo từ Trung Đông đã đến Malaysia ngày nay vào thế kỷ thứ 7. Công Giáo được người Bồ Đào Nha đưa vào thế kỷ 15, tiếp theo là đạo Tin lành với người Hà Lan vào năm 1641. Khi ảnh hưởng của Bồ Đào Nha suy giảm đạo Tin lành bắt đầu làm lu mờ đạo Công Giáo. Kitô giáo lan rộng hơn nữa thông qua các nhà truyền giáo đến trong thời kỳ cai trị của Anh vào thế kỷ 19 và giới thiệu Kitô giáo đến Đông Malaysia.

Kitô giáo đã bị hạn chế khi Malaysia trở nên Hồi giáo hơn. Những hạn chế đã được đặt vào việc xây dựng các nhà thờ mới, mặc dù những nhà thờ hiện có được phép hoạt động. Kitô hữu không được phép cải đạo người Hồi giáo.

Việc sử dụng từ "Allah" trong tiếng Mã Lai cho Thiên Chúa đã gây ra tranh chấp ở Malaysia, với Kinh thánh tiếng Malay bị cấm do sử dụng từ này. Tuy nhiên Kinh thánh bằng ngôn ngữ Iban bản địa đã được cho phép, vì ngôn ngữ đó không có từ thay thế ngoài "Allah" cho Thiên Chúa.

Công Giáo tại Malaysia

Khoảng 5,7% dân số Singapore, hoặc khoảng 300.000 người, là người Công Giáo. Người Công Giáo chủ yếu là người gốc Trung Quốc, cùng với một người Âu Á, người Philippines, Ấn Độ, Indonesia và thiểu số châu Âu da trắng.

Công Giáo bắt nguồn từ Giáo phận Malacca được thành lập ở Bồ Đào Nha ngay sau cuộc chinh phạt Malacca do đô đốc Affonso de Albuquerque vào năm 1511. Người ta tin rằng linh mục Công Giáo đầu tiên đặt chân đến Singapore vào năm 1821 để đáp ứng nhu cầu của cộng đồng đang phát triển bao gồm phần lớn của người châu Âu và một số người Trung Quốc; tuy nhiên, có khả năng đã có những nhà truyền giáo Bồ Đào Nha hoạt động ra khỏi Malacca ở Singapore trong thời kỳ Bồ Đào Nha.

Được công nhận là người sáng lập Giáo Hội Công Giáo tại đây, Cha Jean-Marie Beurel đáng chú ý vì đã khởi xướng việc xây dựng một số nhà thờ Công Giáo, như Nhà thờ Mục tử nhân lành và thành lập các trường Truyền giáo đầu tiên ở Singapore. Trong số các trường truyền giáo ban đầu, Viện Saint Joseph, được thành lập năm 1852, được chăm sóc bởi các anh em Lasan trong khi Tu viện của Chúa Giêsu Hài Đồng, được thành lập năm 1854, được chăm sóc bởi các Nữ tu của Chúa Giêsu Hài Đồng. Các tổ chức này phục vụ cho sinh viên của tất cả các tín ngưỡng và nguồn gốc và nhiều người không Công Giáo sau đó đã trở thành người cải đạo.

Trong lịch sử, các cộng đồng Công Giáo được phân chia theo dòng chủng tộc - tập trung dọc theo toàn bộ chiều dài của đường Queen trong thị trấn: Đại đa số người Công Giáo trong những năm đầu của Singapore sẽ bao gồm những người Âu Á, những người chủ yếu nằm ở khu vực đường Waterloo St và Serangoon và là thành viên của Nhà thờ St Joseph (143 Victoria St, phía sau Queen St), cựu Phái bộ Bồ Đào Nha nhà thờ, cùng với hai trường học, Trường nam sinh St Anthony và Tu viện St Anthony.

Người Công Giáo Việt Nam tại Malaysia

Trong số các bang của Malaysia nhận công nhân Việt Nam, Johor là bang có nhiều công nhân Việt Nam nhất. Ước tính có đến hơn 20 ngàn công nhân Việt Nam đang làm việc tại bang này. Riêng tại bang Johor, giáp biên giới Singapore, đã có đến 10 nhóm người Công Giáo VN đã được thành lập và mỗi nhóm quy tụ từ 50 đến 100 người. Vì các nhóm này đang trong giai đoạn sơ khai nên không có các cơ sở và cũng chưa được tổ chức một cách quy cũ và thường xuyên. Vào Chúa Nhật thứ hai và thứ tư trong tháng, cộng đoàn có thánh lễ bằng tiếng Việt và các sinh hoạt khác tại đây.

Và vì nhu cầu càng ngày càng lớn, Đức Cha Paul Tan, phụ trách Ủy ban Di dân của Hội Đồng Giám mục Malaysia đã chính thức mời cha Đợt sang làm tuyên úy cho công nhân Việt Nam tại Malaysia.

Cha Trần Văn Đợt, thuộc dòng Tên, người Úc, và hiện làm tuyên úy cho công nhân Việt Nam tại Malaysia, các giáo xứ Malaysia (chủ yếu gốc Hoa và Ấn độ) cho các nhóm người Việt mượn nhà thờ và các cơ sở để dâng lễ và sinh hoạt. Cha Đợt là linh mục đầu tiên được chính thức cử làm tuyên úy cho công nhân Việt Nam tại Malaysia. Trước đây, thỉng thoảng cũng có một số linh mục tới Malaysia dâng lễ nhưng chỉ ở lại trong một thời gian ngắn rồi đi.

Ở Malaysia, ngoài các thánh lễ và các sinh hoạt khác nhau sau và trước thánh lễ, các công nhân không có điều kiện và hơn nữa cũng vì vấn đề an ninh, họ không dám đi chơi một nơi nào khác. Vì vậy, ngoài công việc ở xưởng, nhà máy của mình và các thánh lễ, hay sinh hoạt tại các nhóm, công nhân ít đi đâu.

Lm. John Trần Công Nghị

(Nguồn từ các tài liệu khác nhau, du lịch, chính quyền và từ internet)