
Kathleen N. Hattrup, trong bản tin ngày 02/12/25, cho hay: Đức Giáo Hoàng Leo XIV khi rời Lebanon sau ba ngày đầy phấn khích nói rằng: Hòa bình là một con đường, không chỉ là một mục tiêu, gieo hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn.
Những hình ảnh từ Lebanon trong những ngày này có lẽ sẽ còn đọng lại trong lòng Đức Giáo Hoàng Leo -- và cả thế giới -- trong một thời gian dài. Hàng ngàn người xếp hàng trên mọi nẻo đường, những nụ cười và tiếng reo hò không ngớt, những giọt nước mắt... khi một dân tộc đã chịu đựng quá nhiều đau khổ, niềm vui dâng trào dường như đến mức đáng kinh ngạc. Tại sao lại có sự nhiệt tình đến vậy? Hay có lẽ còn hơn cả lý do tại sao... như thế nào?
Lebanon đã có một vị trí đặc biệt trong trái tim Đức Giáo Hoàng trong nhiều thập niên. Họ thường nhắc lại rằng, nó còn hơn cả một quốc gia. Nó là một "thông điệp" -- một thông điệp rằng sự chung sống là có thể. Rằng sự khác biệt không nhất thiết phải dẫn đến bạo lực.
Nhưng liệu Lebanon có thể một lần nữa trở thành thông điệp đó, cho chính mình, cho Trung Đông và cho toàn thế giới?
Sau những đau khổ của những năm qua, đặc biệt là vụ nổ bí ẩn tại cảng khiến hơn 200 người thiệt mạng vào tháng 8 năm 2020, và nơi Đức Giáo Hoàng đã đến thăm sáng nay, con đường phía trước thật khó khăn.
Trong Thánh lễ sáng nay, sự kiện công khai cuối cùng của ngài, Đức Giáo Hoàng Leo đã gợi ý rằng chìa khóa để xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn nằm ở con đường tri ân, ngay cả khi "bị tê liệt bởi sự bất lực trước cái ác và bị áp bức bởi quá nhiều hoàn cảnh khó khăn"... lòng tri ân sẽ giữ cho hy vọng luôn sống động và củng cố lòng can đảm.
Dưới đây là toàn văn bài giảng của ngài, và lời kêu gọi ngài đưa ra vào cuối Thánh lễ, dựa theo bản tiếng Anh của Tòa Thánh:
Anh chị em thân mến!
Cuối những ngày đầy nhiệt huyết này, mà chúng ta đã hân hoan chia sẻ cùng nhau, chúng ta tạ ơn Chúa vì muôn vàn ân sủng của lòng nhân từ, sự hiện diện của Người giữa chúng ta, Lời Chúa mà Người ban cho chúng ta dồi dào và đã cho phép chúng ta được ở bên nhau.
Như chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng dâng lời tạ ơn Chúa Cha và hướng về Người mà cầu nguyện: “Lạy Cha, Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha” (Lc 10,21).
Tuy nhiên, lời ngợi khen không phải lúc nào cũng tìm thấy chỗ đứng trong chúng ta. Đôi khi, bị đè nặng bởi những khó khăn của cuộc sống, lo lắng về bao vấn đề xung quanh, tê liệt vì bất lực trước cái ác và bị đè nặng bởi biết bao hoàn cảnh khó khăn, chúng ta dễ rơi vào tâm trạng cam chịu và than khóc hơn là kinh ngạc và biết ơn.
Hỡi người dân Lebanon thân mến, tôi mời gọi anh chị em hãy luôn vun trồng thái độ ngợi khen và biết ơn. Anh chị em là những người được đón nhận vẻ đẹp hiếm có mà Chúa đã tô điểm cho đất nước anh chị em. Đồng thời, anh chị em là những chứng nhân và nạn nhân của việc cái ác, dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể che khuất vẻ đẹp ấy như thế nào.
Từ quảng trường nhìn ra biển này, tôi cũng có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Lebanon được ca ngợi trong Kinh Thánh. Chúa đã trồng những cây hương nam cao lớn của Người tại đây, nuôi dưỡng và tưới mát chúng (x. Tv 104:16). Người đã làm cho trang phục của cô dâu trong sách Diễm Ca tỏa hương thơm ngát của vùng đất này (x. 4:11), và tại Giêrusalem, thành thánh được bao phủ bởi ánh sáng chờ đón Đấng Messia đến, Người đã loan báo: “Vinh quang của Lebanon sẽ đến với ngươi, hoàng đàn, du dương và thông, để tô điểm cho nơi thánh của Ta, và Ta sẽ tôn vinh nơi Ta đặt chân đến” (Is 60:13).
Tuy nhiên, vẻ đẹp này bị lu mờ bởi nghèo đói và đau khổ, những vết thương đã in đậm dấu ấn lịch sử của anh chị em. Về vấn đề này, tôi vừa đến thăm cảng để cầu nguyện tại nơi xảy ra vụ nổ. Vẻ đẹp của đất nước anh chị em cũng bị lu mờ bởi nhiều vấn đề đang đè nặng lên anh chị em, bối cảnh chính trị mong manh và thường bất ổn, cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng đang đè nặng lên anh chị em, và bạo lực cùng các cuộc xung đột đã khơi dậy những nỗi sợ hãi xưa cũ.
Trong bối cảnh như vậy, lòng biết ơn dễ dàng nhường chỗ cho sự vỡ mộng, những bài ca ngợi khen không tìm được chỗ đứng trong sự hoang vắng của con tim, và hy vọng bị khô héo bởi sự bất định và hoang mang.
Tuy nhiên, Lời Chúa mời gọi chúng ta tìm kiếm những đốm sáng nhỏ bé giữa màn đêm, vừa để mở lòng biết ơn, vừa thúc đẩy chúng ta dấn thân vì vùng đất này.
Như chúng ta đã nghe, lý do Chúa Giêsu tạ ơn Chúa Cha không phải vì những công trình phi thường của Người, mà vì Người tỏ lộ sự vĩ đại của Người cách đặc biệt cho những người bé mọn và khiêm nhường, cho những người không được chú ý, dường như chẳng có giá trị gì, không có tiếng nói. Vương quốc mà Chúa Giêsu đến để khai mở thực sự được đánh dấu bằng chính đặc điểm mà tiên tri Isaia đã mô tả: đó là một chồi non, một cành nhỏ mọc ra từ thân cây (x. Is 11:1). Đó là một dấu chỉ nhỏ bé của hy vọng, hứa hẹn sự tái sinh khi mọi thứ khác dường như đang chết dần. Thật vậy, sự xuất hiện của Đấng Mê-xi-a đã được báo trước trong sự nhỏ bé của một chồi non, bởi vì Người chỉ có thể được nhận ra bởi những người nhỏ bé, bởi những ai khiêm nhường biết cách nhận ra những chi tiết và dấu vết ẩn giấu của Chúa trong một câu chuyện dường như đã bị lãng quên.
Đó cũng là một dấu chỉ cho chúng ta, để chúng ta có thể có đôi mắt có khả năng nhận ra sự nhỏ bé của mầm non đang nhú lên và lớn lên ngay cả giữa một giai đoạn đau thương. Ngay cả ở đây và bây giờ, chúng ta có thể thấy những ánh sáng nhỏ bé tỏa sáng trong đêm tối, những mầm non đang nhú lên và những hạt giống nhỏ bé được gieo trồng trong khu vườn khô cằn của thời đại lịch sử này. Tôi nghĩ đến đức tin chân thành và đích thực của anh chị em, được bén rễ trong gia đình anh chị em và được nuôi dưỡng bởi các trường học Kitô giáo. Tôi nghĩ đến công việc không ngừng của các giáo xứ, dòng tu và phong trào để đáp ứng những thắc mắc và nhu cầu của người dân. Tôi nghĩ đến nhiều linh mục và tu sĩ đang tận tụy với sứ mệnh của mình giữa muôn vàn khó khăn, và đến những giáo dân tận tụy với các công việc từ thiện và việc loan báo Tin Mừng trong xã hội. Vì những ánh sáng này đang nỗ lực soi sáng bóng tối của màn đêm, và vì những mầm non nhỏ bé và vô hình này, tuy nhiên, vẫn mở ra hy vọng cho tương lai, hôm nay chúng ta cùng Chúa Giêsu nói: "Lạy Cha, chúng con ngợi khen Cha!" Chúng con tạ ơn Cha vì Cha luôn ở cùng chúng con và không để chúng con nao núng”.
Đồng thời, lòng biết ơn này không được chỉ là một niềm an ủi tự vấn và ảo tưởng. Nó phải dẫn chúng ta đến một sự biến đổi trong tâm hồn, một sự hoán cải cuộc sống và một sự nhận thức rằng Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta chính là để sống trong ánh sáng đức tin, lời hứa của hy vọng và niềm vui của đức ái. Do đó, tất cả chúng ta được kêu gọi vun trồng những mầm non này, không nản lòng, không khuất phục trước luận lý học bạo lực và sùng bái tiền bạc, và không cam chịu trước sự lan tràn của tội ác.
Mỗi người phải làm phần việc của mình, và chúng ta phải đoàn kết nỗ lực để vùng đất này có thể trở lại vinh quang trước đây. Giải trừ vũ khí trong trái tim chúng ta là cách duy nhất để làm điều này. Chúng ta hãy cởi bỏ lớp áo giáp chia rẽ sắc tộc và chính trị, mở rộng các tín ngưỡng tôn giáo của chúng ta cho sự gặp gỡ lẫn nhau và khơi dậy trong lòng chúng ta giấc mơ về một Lebanon thống nhất. Một Lebanon nơi hòa bình và công lý ngự trị, nơi mọi người nhìn nhận nhau là anh chị em, và cuối cùng, nơi lời tiên tri I-sai-a có thể được ứng nghiệm: “Sói sẽ sống với chiên con, báo nằm với dê con, bê và sư tử sẽ cùng gặm cỏ” (Is 11:6).
Đây là giấc mơ được giao phó cho anh chị em; đó là điều Thiên Chúa của hòa bình đặt vào tay anh chị em. Lebanon, hãy đứng lên! Hãy là mái nhà của công lý và tình huynh đệ! Hãy là dấu chỉ tiên tri về hòa bình cho toàn thể Vùng Mặt Trời Mọc!
Anh chị em thân mến, tôi cũng muốn lặp lại lời của Chúa Giê-su: “Lạy Cha, con ngợi khen Cha.” Tôi dâng lời cảm tạ lên Chúa vì đã chia sẻ những ngày này với anh chị em. Trong khi mang trong lòng những đau khổ và hy vọng của anh chị em, tôi cầu nguyện để vùng đất Mặt Trời Mọc này luôn được soi sáng bởi đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô, mặt trời của công lý. Tôi cũng cầu nguyện rằng nhờ ân sủng của Chúa Ki-tô, Lebanon sẽ kiên trì trong niềm hy vọng không bao giờ làm anh chị em thất vọng.
_________________
Lời kêu gọi cuối Thánh Lễ
Anh chị em thân mến,
Trong những ngày này của chuyến Tông du đầu tiên, được thực hiện trong Năm Thánh này, tôi muốn đến Trung Đông như một người hành hương hy vọng, cầu xin Thiên Chúa ban ơn hòa bình cho vùng đất yêu dấu này, nơi đang chìm ngập trong bất ổn, chiến tranh và đau khổ.
Anh chị em Kitô hữu của Vùng Mặt Trời Mọc thân mến, khi những nỗ lực vì hòa bình của anh chị em chậm chạp, tôi mời gọi anh chị em hãy hướng mắt về Chúa, Đấng đang đến! Chúng ta hãy hướng về Người với hy vọng và lòng can đảm, mời gọi mọi người bước đi trên con đường chung sống, huynh đệ và hòa bình. Hãy là những người kiến tạo hòa bình, sứ giả hòa bình, chứng nhân hòa bình!
Trung Đông cần những cách tiếp cận mới, để từ bỏ tư duy trả thù và bạo lực, vượt qua những chia rẽ chính trị, xã hội và tôn giáo, và mở ra những chương mới nhân danh hòa giải và hòa bình. Con đường thù địch và hủy diệt lẫn nhau trong nỗi kinh hoàng của chiến tranh đã đi quá xa, với những hậu quả đáng tiếc đang hiện hữu trước mắt mọi người. Chúng ta cần thay đổi hướng đi, chúng ta cần nuôi dưỡng trái tim mình hướng đến hòa bình.
Từ quảng trường này, tôi cầu nguyện cho Trung Đông và tất cả những người dân đang đau khổ vì chiến tranh. Tôi cũng cầu nguyện cho một giải pháp hòa bình cho các tranh chấp chính trị hiện nay ở Guinea-Bissau. Tôi cũng không quên các nạn nhân và gia đình thân yêu của họ trong vụ hỏa hoạn ở Hồng Kông.
Tôi đặc biệt cầu nguyện cho đất nước Lebanon yêu dấu! Tôi một lần nữa kêu gọi cộng đồng quốc tế không quản ngại nỗ lực thúc đẩy các tiến trình đối thoại và hòa giải. Tôi chân thành kêu gọi những người nắm giữ quyền lực chính trị và xã hội, ở đây và ở tất cả các quốc gia đang bị chiến tranh và bạo lực tàn phá: hãy lắng nghe tiếng kêu của nhân dân các bạn, những người đang kêu gọi hòa bình! Tất cả chúng ta hãy dấn thân phục vụ sự sống, lợi ích chung và sự phát triển toàn diện của con người.
Cuối cùng, tôi xin nhắc lại với anh chị em Kitô hữu vùng Mặt Trời Mọc, những công dân của vùng đất này trên mọi phương diện: hãy can đảm lên! Toàn thể Giáo hội hướng về anh chị em với tình cảm trìu mến và ngưỡng mộ. Nguyện xin Đức Trinh Nữ Maria, Đức Mẹ Harissa, luôn che chở anh chị em.