Immensity
Bao la, mênh mông, vô biên. Là tính chất của hữu thể không thể đo đạc được, hoặc do bản tính của một hữu thể là thiêng liêng, chẳng hạn thiên thần hay linh hồn con người; hoặc bởi vì một đấng là siêu phàm và do yếu tính là vượt quá mọi chiều kích không gian. Từ ngữ này được Công đồng Lateran IV chọn để trả lời với lạc giáo Albi, vì lạc giáo này lập lại khái niệm của thuyết nhị nguyên về các thần chiếm cứ (và được vây quanh bởi) vùng trần gian và vùng các tinh tú. Trong lời đầu của Kinh Tin kính thế kỷ thứ nhất chúng ta đọc: “Trước hết chúng tôi tin có một Thiên Chúa duy nhất...Chúa bao gồm mọi sự, trong khi chỉ mình Chúa không bị bao gồm bởi gì cả” (Pastor Hermae, I, 1). (Từ nguyên Latinh immensus, không thể đo được, bao la.)
Immersion
Dìm, nhận chìm, nhúng. Là phương pháp Rửa tội bằng cách nhúng hay dìm ứng viên dưới nước, trong khi người Rửa tội đọc “Ta rửa con, nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.” Đây là một trong ba hình thức hợp lệ của việc Rửa tội, và là phương pháp thường dùng thời Giáo hội sơ khai. Phương pháp này vẫn thường dùng trong Giáo hội Đông phương và trong một số Hội thánh Tin Lành, nhất là phái Baptist. Giáo hội Công giáo trong lễ điển Latinh đã lại giới thiệu phương pháp này như một sự chọn lựa được phép làm, kể từ sau Công đông chung Vatican II.
Immodest Looks
Dáng vẻ khiếm nhả, bất lịch sự, vô liêm sỉ. Là cái nhìn ý thức vào một người, một hình ảnh hay một cảnh khêu gợi ham muốn nhục dục, mà người nhìn không có quyền luân lý để thực hiện hay không cần thực hiện. Bởi vì ham muốn nhục dục là thánh thiêng, mà chỉ có người kết hôn với nhau mới có quyền hưởng, nên sự cố ý nhìn cái gì đó để bị kích thích tính dục là một tội trọng. (Mt 5:28).
Immolation
Sát tế, hiến tế. Là sự tiêu diệt thật sự hoặc tương đương một vật cụ thể, như là một hành vi làm hy lễ. Khi sự tiêu diệt được thực hiện thật sự, vật được hòan tòan thay đổi, như khi một con vật bị giết hay rượu được đổ xuống. Còn khi sự tiêu diệt không được thực hiện nhưng chỉ là tương đương, điều này được gọi là mầu nhiệm hoặc tượng trưng, như xảy ra trong Hy tế Thánh lễ, trong đó sự truyền phép riêng biệt bánh và rượu tượng trưng cho sự phân ly của Mình Chúa và Máu Chúa trên đồi Canvê. Chúa Kitô không thật sự chết trong Thánh lễ, nhưng Chúa biểu lộ việc Chúa muốn chết một cách tượng trưng bởi sự truyền phép kép. (Từ nguyên Latinh immolatio, hy tế.)
Immoral
Vô luân, đồi bại. Là từ tương đương với phóng túng, dâm lọan, hoặc phóng đãng, hoặc hành động trái với các qui định đã chính thức hóa về cách cư xử.
Immoralism
Thuyết phi đạo đức. Không chỉ là dửng dưng luân lý, nhưng như trong thuyết của Nietzsche, là chống lại một cách tích cực các nguyên tắc luân lý truyền thống của Kitô giáo.
Immortality
Bất tử, bất hủ, bất diệt. Là sự không phải chết hoặc không phải phân hủy và tan rã. Chỉ có Chúa có sự bất tử tuyệt đối mà thôi, vì Chúa không có thân xác và sự thiêng liêng của Chúa là đời đời bởi yếu tính. Chúa không thể không hiện hữu; Chúa luôn hiện hữu và phải hiện hữu. Sự bất tử tự nhiên chỉ có nơi các hữu thể thiêng liêng, tức là thiên thần và linh hồn con người, đó là các hữu thể được tạo thành và hiện hữu, nhưng vì là đơn giản bởi bản tính và không có thân xác, họ sẽ không chết, mặc dầu nói một cách tuyệt đối, họ có thể bị hư vô hóa bởi một hành động của Chúa. Sự bất tử nhưng không là một ơn đặc biệt, được Chúa ban lúc nguyên thủy cho tổ tiên lòai người, và được Chúa Kitô tái lập như một lời hứa sau ngày tận thế. Điều này có nghĩa là khỏi sự chết thể xác và khỏi sự phân ly giữa hồn và xác.
Immovable Mover
Nguyên động tác nhân bất biến. Thiên Chúa là nguyên nhân tối hậu của mọi động tác hay sự đổi thay trong vũ trụ, và Chúa vẫn là bất biến. Từ ngữ được sử dụng bởi Aristotle và sau đó bởi thánh Tôma Aquinas, có nghĩa là một động cơ bất biến, trong đó động cơ có nghĩa là đấng làm thay đổi, và bất biến là không thay đổi.
Immunity
Miễn trừ, đặc miễn, miễn dịch. Là sự miễn khỏi điều gì đó, vốn có thể là miễn khỏi một sự cần thiết đến trước, hoặc việc một người được miễn khỏi tham gia thực hiện các quyền tự nhiên hay quyền được trao. Từ ngữ thường được dùng để mô tả sự miễn dịch cho giáo sĩ và tu sĩ khỏi các nghĩa vụ dân sự (chẳng hạn quân dịch), vốn được xem là không tương hợp với bậc sống của họ. Trong luân lý, đặc miễn được áp dụng cho điều kiện của một số người, nhờ đó họ có thể chống lại các áp lực cho sự tòng phục một nền văn hoá thế tục hay một môi trường thế tục.
Immuration
Sự cấm cửa, sự cấm phòng, chôn kín. Là việc mộ tu sĩ đóng tượng trưng một cửa của phòng ở nội vi, một cách tự nguyện, khi tu sĩ này tham dự nghi thức phụng vụ qua một lỗ mở ở tường nhà nguyện. Trong một số trường hợp khá hiếm, thực phẩm, đèn và không khí được tiếp nhận qua một cửa sổ của ẩn viện, vốn được xây sát bên nhà nguyện. Từ ngữ trên cũng qui chiếu đến một phương pháp chôn cất, khi thi hài được đưa vào một căn phòng và bít kín phòng bằng xi măng, chẳng hạn nơi nào đất không thể dùng cho chôn cất được. Các xác ướp được lấy ra từ các nơi này được trưng bày, và được một số nhà luận chiến thiếu thận trọng nói một cách sai lầm rằng đó là “các nữ tu bị xây bít lại” hoặc “nạn nhân của tòa Thẩm tra”.
Immutability In Creatures
Sự bất biến trong tạo vật. Là sự không thể thay đổi được, vừa có nghĩa là không thay đổi vừa là không thể thay đổi hay không bị thay đổi. Sự bất biến trọn hảo chỉ có nơi Chúa mà thôi. Các thụ tạo dự phần ít hay nhiều vào sự bất biến của Chúa, khi họ là hòan hảo hơn trong hiện hữu của mình, giống như linh hồn so với thể xác; hoặc khi họ tiến trên đường trọn lành, như lúc tâm trí có được niềm tin lớn hơn hay ý chí có sức mạnh lớn hơn.
Immutability Of God
Tính bất biến của Chúa. Là sự bất biến tuyệt đối. Điều gì hay thay đổi là đổi từ điều kiện này sang điều kiện khác. Do kết quả của bản tính hữu hạn, mọi tại vật đều thay đổi. Chúa là bất biến bởi vì Chúa là vô hạn. Tính thay đổi hàm chứa tiềm năng, thành phần cấu tạo, và sự bất tòan, do đó không thể hòa giải được với Chúa là thực tại tinh tuyền, là Hữu thể tuyệt đối đơn thuần và tuyệt đối hoàn hảo. Khi Chúa hành động ngoài chính Chúa, như khi sáng tạo thế giới, Chúa không tạo ra một công hiệu mới trong chính Chúa, nhưng đi vào thực hiện ý định muôn đời của ý Chúa. Quyết định sáng tạo thế giới là đời đời và và bất biến cũng như Yếu tính của Chúa là bất biến; chỉ có hiệu quả của quyết định ấy, tức là thế giới tạo thành, là có thể thay đổi và không vĩnh viễn. (Từ nguyên Latinh immutabilis, có thể thay đổi; không thay đổi.)
Impanation
Nhập bính, thuyết lưỡng thể đồng tại. Một thuyết lạc giáo hoặc thuyết về sự hiện diện Thánh Thể, do một số nhà Cải cách Tin lành truyền dạy. Thuyết này cho rằng các lời truyền phép không thay đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô. Bản chất bánh và rượu vẫn còn, và có sự hiện diện nào đó không thể định nghĩa được của Chúa Kitô. Thuyết này lúc đầu do Osiander (1498-1552), một đồ đệ của Luther, chủ trương, và là một trong nhiều nỗ lực của các nhà Cải cách để giữ lại một sự “hiện diện thực sự” nào đó của Chúa Kitô trong phép Thánh Thể, trong khi chối bỏ sự biến thể. (Từ nguyên Latinh in-, trong + panis, bánh.)
Impassibility
Không thể đau khổ, bất khả thụ nạn. Phẩm tính của một thể xác vinh hóa, thóat khỏi bất cứ nỗi khổ thể lý nào, chẳng hạn đau buồn, bệnh tật, chấn thương hay sự chết. Nó có thể được định nghĩa như là không thể đau khổ và không thể chết (Kh 21:4). Lý do vốn có của sự bất khả thụ nạn là sự phục tùng hòan tòan của thể xác và tình cảm cho linh hồn. (Từ nguyên Latinh in-, không + passibilis, có thể đau khổ; không thể đau khổ.)
Impassibility, Original
Bất khả thụ nạn nguyên thủy. Là việc ông Adam và bà Eve được miễn sự đau khổ trước khi hai ông bà sa ngã. Ơn này được định nghĩa như là khả năng miễn khỏi đau khổ. Nó liên kết với sự bất tử thể xác.
Impeccability Of Christ
Tính không thể phạm tội của Chúa Kitô. Là việc Chúa Kitô tuyệt đối không thể phạm bất cứ tội nào. Việc Chúa Kitô được khỏi tội tổ tông đã được Công đồng Florence tuyên bố (Denzinger 1347), khỏi tội cá nhân được Công đồng Chalcedon tuyên bố (Denzinger 301), và Công đồng Constantinople II lên án thuyết cho rằng Chúa Kitô chỉ hòan toàn không phạm tội sau khi Ngài sống lại (Denzinger 434). (Từ nguyên Latinh im-, không + peccare, phạm tội: impeccabilitas, miễn mọi nguy cơ phạm tội.)
Impedient Impediment
Ngăn trở cản hôn. Là một ngăn trở ảnh hưởng đến một người hay hai người muốn kết hôn với nhau, và làm cho hôn nhân ấy là bất hợp pháp, trừ phi họ nhận được sự miễn chuẩn từ phía Giáo hội. Lúc ấy nếu họ kết hôn, hôn nhân mới thành sự. Còn gọi là ngăn trở tiêu hôn.
Impediment
Ngăn trở. Là bất cứ trở ngại nào cho sự tiến bộ hoặc họat động, và trong trật tự luân lý là bất cứ cái gì cản trở một người sống đời trọn lành, vốn được Chúa dành cho mình. Các ngăn trở này có thể là các quyến luyến thất thường, mặc dầu không là tội lỗi, với một thụ tạo nào đang đứng trên đường hòan tòan quy phục với ý Chúa. Trong thần học và giáo luật, một ngăn trở là bất cứ chướng ngại nào đối với tính hiệu lực hoặc tính hợp pháp của một hành động hoặc các hiệu quả của nó. (Từ nguyên Latinh impedimentum, một cản trở, chướng ngại; từ chữ impedire, vướng chân.)
Impending Death
Cái chết sắp đến, cái chết cận kề. Là sự chắc chắn của cái chết gần kề do bệnh nặng hoặc bị trọng thương. Trách nhiệm luân lý khi biết cái chết gần kề là có bổn phận chuẩn bị phần linh hồn để vào Nước Trời. Về phần bác sĩ, bác sĩ bị buộc về đức ái là phải thông báo cho người bệnh và thân nhân người ấy về cái chết sắp đến, để người này có thể thu xếp mọi chuyện đời và chuyện linh hồn mình. Bổn phận này không buộc bác sĩ không đưa ra lời cảnh báo mà không phiền phức nhiều. Liên quan các trẻ sơ sinh, bác sĩ nên lưu ý cho em bé được rửa tội nếu em đang trong cơn nguy tử, trừ phi người ta tiên liệu rằng hành vi này có thể thiệt hại nặng nề cho bác sĩ hay cho Giáo hội.
Impenetrability
Tính bất khả xâm nhập, tính không xuyên qua được, tính chắn. Tính chất của một vật thể mở rộng, vốn làm cho vật thể khác không thể xâm nhập vào nó, để cả hai chiếm cùng một không gian trong cùng một thời gian.
Impenitence, Final
Bất hối khi lâm tử, chết dữ, chết không làm hòa với Chúa. Là khi chết mà không làm hòa với Chúa, hoặc do mất đức tin, hoặc do thất vọng, hoặc do từ chối tình thương của Chúa một cách phạm thượng.
Imperfect Contrition
Úy hối, ăn năn tội chẳng trọn, thống hối bất tòan. Là sự sầu buồn vì tội, được linh hoạt bởi một nguyên nhân siêu nhiên, vốn thấp kém hơn tình yêu vẹn toàn của Chúa. Một số nguyên nhân cho úy hối là sợ hình phạt hỏa ngục, sợ mất phúc thiên đàng, sợ Chúa trừng phạt ở đời này do tội mình phạm, sợ Chúa phán xét; ý thức sự bất tuân Chúa hoặc vô ơn với Chúa; nghĩ là mình mất công đức hay ơn thánh hóa. Còn gọi là sự ăn năn, úy hối là đủ cho sự tha tội trong bí tích Xá giải. Nó cũng đủ cho việc lãnh nhận hợp lệ và hữu hiệu bí tích Rửa tội cho người đến tuổi khôn. Nếu một người không thể đi xưng tội được, úy hối tha được các tội trọng nhờ bí tích Xức dầu Bệnh nhân.
Imperfection, Negative
Bất tòan thụ động, thiếu sót, khiếm khuyết. Là thiếu sự hoàn hảo lớn trong một hành vi con người, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng không được mong muốn một cách ý thức bởi người ấy. Do đó, việc bố thí cho người nghèo là một hành vi luân lý tốt. Việc bố thí cho người nghèo một số tiền nhiều hơn người khác cho thường là một sự trọn hảo lớn hơn; như thế tiền bố thí tự nó được xem là bất toàn thụ động. Các bất toàn thụ động là không có tội bởi vì chúng là không cố ý làm.
Imperfection, Positive
Bất tòan chủ động. Là thiếu sự hoàn hảo lớn trong một hành vi con người, vốn được thông báo rõ ràng và được chọn một cách tự do. Bất tòan chủ động xảy ra nếu người ta loại trừ một hành động tốt hơn một hành động khác, từ quan điểm của nội dung và ý nghĩa, hoặc thích hợp cách rõ ràng hơn với người thực hiện hành vi. Điều này có thể dựa trên một sự phân tích hành vi cách trực tiếp, hoặc dựa trên linh hứng của Chúa Thánh Thần. Nó hàm chứa sự chọn lựa giữa làm hay bỏ điều gì đó, hoặc giữa sự chấp nhận điểu gì tốt và từ chối điều gì tốt hơn. Sự từ chối này không thể do một nguyên nhân hợp lý. Nó chỉ có thể là một trong nhiều hình thức của tính ích kỷ, và do đó làm cho các bất toàn chủ động trở thành tội nhẹ. Một số thần học gia lý luận rằng, theo lý thuyết, các bất toàn chủ động có thể không là sai lầm về luân lý. Tuy nhiên trong thực hành, giáo lý thông thường cho rằng có ít nhất một nguyên nhân ích kỷ, và là có tội, khi một điều kém tốt hơn lại được chọn thay vì một điều tốt lớn hơn, vốn cũng có thể thực hiện vào lúc ấy.
Imperium
Hành vi chỉ huy, quyền tuyệt đối. Nói chính xác hơn, đây là quyền của chính quyền trong bất cứ xã hội nào để làm luật ràng buộc các thành phần của xã hội ấy trong lương tâm. Nó khởi đầu như một hành vi lý luận nơi người lãnh đạo đang tìm ích lợi chung, rồi quyết định biện pháp cần thiết nào để đạt tới ích lợi ấy, và cuối cùng ra lệnh rằng các biện pháp này cần được thực hiện mang lại hiệu quả. (Từ nguyên Latinh imperium, thủ lĩnh, quyền hoàng gia; đế quốc, vương quốc; chỉ huy.)
Impetration
Khẩn nguyện, khẩn đắc, cầu xin. Là một trong các hoa trái của cầu nguyện và việc lành, nhất là một trong bốn mục đích của Hiến lễ Tạ ơn. Sự khẩn nguyện với chuẩn bị tốt và hoàn thành các điều kiện qui định sẽ nhận được từ Chúa những gì mình cầu xin, miễn là có ích thiêng liêng cho chúng ta. Đó là lời cầu xin được bảo đảm. (Từ nguyên Latinh impetratio, hành vi sở hữu bằng lời xin hoặc sự khẩn nài.)
Imposition Of Hands
Nghi thức đặt tay, sự đặt tay. Là sự đặt tay lên một người hay vật để chuyển thông một ân huệ, quyền hành, bổn phận hoặc chúc phúc. Các tổ phụ trong Cựu Ước dùng việc đặt tay để chúc lành cho con cái, tấn phong các thượng tế, và trong việc hy tế. Trong Tân Ước người ta thấy rằng Chúa Kitô đặt tay khi làm phép lạ, và các thánh Tông đồ đặt tay khi ban các Bí tích, nhất là khi truyền chức Linh mục. Hiện nay phụng vụ Công giáo dùng việc đặt tay khi rửa rội công khai, phép thêm sức, xức dầu bệnh nhân và truyền chức thánh; trong các nghi thức và làm phép khác, chẳng hạn trừ quỷ, và trước khi truyền phép linh mục đặt tay trên bánh và rượu.
Impotence
Bất lực, bệnh liệt dương. Là sự không có khả năng giao hợp. Bất lực, cũng như vô sinh, cản trở hành vi truyền giống, nghĩa là sự giao hợp vợ chồng. Sự bất lực, nếu xảy ra trước hôn nhân và lâu dài, dù là lỗi của người nam hay người nữ, dù là người kia biết hay không, dù là tuyệt đối hay tương đối, sẽ vô hiệu hóa hôn nhân theo luật tự nhiên. Sự bất lực tuyệt đối cản trở việc giao hợp với mọi người, trong khi sự bất lực tương đối chỉ cản trở việc giao hợp với một người hay một số người.
Imprecatory Psalms
Thánh vịnh trị ác. Là các thánh vịnh trong đó tác gỉa thánh vịnh đưa ra lời nguyền rủa với kẻ thù của Chúa và của dân Chúa, như khi David cầu nguyện: “Ước chi chẳng còn ai tình nghĩa gì với nó, chẳng người nào thương lũ con nó mồ côi, dòng dõi nó bị tru di tam tộc, sau một đời, tên tuổi bị xoá nhoà!” (Tv 109:12-13). Những lời trị ác này nên được xem như là cách diễn tả mãnh liệt trong lối nói của người Đông phương, và được viết ra theo thần hứng. Chúng không chỉ là lời của tác giả nhân linh để xin Chúa trừng phạt kẻ làm sự dữ, mà còn trong từ ngữ sứ ngôn, chúng tiên báo ý định của Chúa, nghĩa là việc Chúa sẽ làm đối với nhưng kẻ kháng cự ý Chúa. (Từ nguyên Latinh in- + precari, cầu xin: imprecor, kêu xin, khẩn cầu.)
Imprimatur
Imprimatur, cho phép in, chuẩn ấn. Từ ngữ Latinh có nghĩa là “cho phép in”, tức là sự chấp thuận của một giám mục đối với việc in một tác phẩm công giáo. Các tác giả cần phải xin imprimatur, hoặc từ vị Giám mục nơi họ cư trú, hoặc nơi tác phẩm sẽ được in, hoặc nơi đã in tác phẩm. Nói chung chữ imprimatur, cùng với danh tính của Giám mục và ngày ngài chấp thuận, phải được in ở trang đầu sách. Theo một sắc lệnh của Thánh bộ Giáo lý Đức tin (1975), “Các Mục tử của Giáo hội có bổn phận và có quyền cảnh giác để cho đức tin và luân lý của tín hữu không bị tác hại bởi các tác phẩm; và do đó các ngài phải yêu cầu rằng việc xuất bản các sách liên quan đến đức tin và luân lý phải đệ trình để được Giáo hội xem xét và chấp thuận, và các ngài cũng phải lên án các sách và tác phẩm công kích đức tin và luân lý.” (Từ nguyên Latinh imprimere, in ấn, in dấu.)
Imprimi Potest
Imprimi Potest, có thể in được. Là sự cho phép của bề trên đối với một tu sĩ của mình, để tu sĩ này có thể in sách vở về đề tài tôn giáo. Việc này hàm ý có sự chấp thuận của bề trên về cuốn sách, và mở đường cho việc giám mục cấp phép imprimatur (cho phép in).
Imprudence
Khinh suất, bất cẩn, không thận trọng, không dè dặt, không ngoan. Là các tội trái với đức khôn ngoan thận trọng, hoặc do khiếm khuyết hoặc do thái quá. Các tội do khiếm khuyết là: liều lĩnh, tức là hành động trước khi xem xét cẩn thận; sự khinh xuất, vốn không xem xét các hoàn cảnh cần thiết trước khi hành động; và sự chểnh mảng, vốn không cho tâm trí đủ giờ suy nghĩ chín chắn. Các tội do sự thái quá là: không thận trọng về thể xác, vốn nôn nóng tìm phương tiện để làm vui lòng mình mà không tìm phương tiện như Chúa đòi hỏi; tính tinh ranh, vốn tìm các phương tiện láu cá để đạt mục đích của mình; và sự lo lắng không thích hợp về tương lai đời tạm này, với kết quả là lơ là trong việc tìm đời sống vĩnh cửu và nhu cầu của linh hồn. (Từ nguyên Latinh improvidentia, muốn thấy trước; imprudentia, thiếu thấy trước trong trật tự thực tiễn.)
Impulse
Xung năng, xung động, sự thúc đẩy. Là bất cứ sự thúc giục bất ngờ và vô lý nào cho hành động, thường do một cảm xúc tạo ra. Các nung năng là tự nhiên khi có thể được giải thích qua các tư tưởng hoặc tình cảm đến trước đó. Các xung năng là siêu nhiên khi chúng hướng về sự lành mà không rõ nguyên nhân, nhất là khi chiều hướng nổi lên trong bối cảnh cầu nguyện hoặc qui phục thánh ý Chúa. Chúng cũng có thể là ngoại nhiên và có ma quỷ xúi giục, như khi chúng thúc bách một người với cường độ thật lớn để làm một sự gì xúc phạm, chẳng hạn nói phạm thượng. (Từ nguyên Latinh impellere, thúc bách, kích thích, thuyết phục, từ chữ im-, về + pellere, lái, hướng.)
Impure Desires
Ước muốn dơ bẩn, ước muốn ô uế, ước muốn dâm ô. Là các xung năng hướng về tình dục mà một người sẽ không đầu hàng cách chủ tâm, mặc dầu hành động bề ngoài không được thực hiện. Do đó sự ngoại tình, gian dâm và các thác loạn tình dục khác, khi được ước muốn cách trọn vẹn, đã là tội trọng do dù đó là cảm nghiệm trong tư tưởng.
Impure Thoughts
Tư tưởng dâm ô. Là các tư tưởng gợi dục mà một người có thể không ấp ủ cách chủ tâm, bởi vì chúng dẫn đến ước muốn tội lỗi để phạm tội ngoại tình, gian dâm, thủ dâm hoặc đồng tính luyến ái.
Impurity
Sự dơ bẩn, sự ô uế, tội nhục dục. Là từ ngữ chung dành cho các tội nhục dục, dù là bề trong hay bề ngòai. Các tội bề trong của nhục dục là tư tưởng hay thèm muốn chưa thể hiện ra bề ngoài. Chúng có thể mang nhiều hình thức, nghĩa là tìm khoái lạc trong hình ảnh tưởng tượng, vui nhớ lại các gian dâm tội lỗi đã hưởng, mơ ước khoái lạc nhục dục không được phép. Ngoài các điều này, các tội nhục dục là tội bề ngoài.
Imputability
Quy tội, sự có thể quy trách, khả quy trách. Là trách nhiệm luân lý đối với hành động của con người. Một người chỉ phải chịu trách nhiệm trước mặt Chúa về các hành vi cố ý của mình. Đó là các hành vi được thực hiện với sự hiểu biết đầy đủ về điều đang làm và với sự đồng ý của ý chí. Để đánh gía sự quy trách cho một hành động đặc biệt, người ta phải xem xét mức độ chủ tâm có liên quan vào đó. Nếu sự hiểu biết của người ấy vào bản chất của hành động hoặc sự đồng ý của người ấy là giảm bớt, sự quy trách cho người ấy cũng giảm bớt. Thần học luân lý công giáo nhìn nhận sáu ngăn trở cho sự quy trách đầy đủ, đó là: vô tri, sợ hãi, đam mê, thói quen, bạo lực và rối loạn tâm thần. (Từ nguyên Latinh in-, trong + putare, xem xét: imputare, gán cho, quy cho.)
Imputation
Quy gán, qui trách. Là sự khen ngợi gán cho, hay thường dùng hơn, là sự quy gán cho một người để xem liệu người ấy chịu trách nhiệm thật sự hay không. Trong thần học Cải cách, đó là thuyết nói rằng tội lỗi là không quy gán cho những người được tiền định để cứu độ, do sự thánh thiện của Chúa Kitô. Từ ngữ này đôi khi được áp dụng cho Chúa Kitô trong hướng ngược lại. Chúa tự cho phép mình được xem như người tội lỗi mặc dầu Chúa là vô tội, và sự quy gán hạ mình như thế đáng để cứu chuộc loài người.
Imputed Justice
Công chính qui thuộc. Là một thuyết Cải cách cho rằng Thiên Chúa ngưng quy gán cho người tội lỗi về các tội lỗi của người ấy, bởi vì công nghiệp của Chúa là quy gán cho người được công chính hóa. Thuyết này bị Công đồng Trent lên án, khi công đồng tuyên bố rằng, qua sự công chính hóa, người có tội không còn được xem là người có tội (do công nghiệp quy gán của Chúa Kitô), nhưng đã trở nên con cái Chúa, có ơn thánh hóa và có quyền thừa hưởng Nước Trời.
Inalienable Rights
Quyền không chuyển nhượng được. Là quyền không thể từ chối về luân lý. Các quyền này không thể bị lấy đi hoặc cho đi một cách hợp pháp, bởi vì chúng là cần thiết để đạt tới vận mạng của mình, hoặc chu toàn một bổn phận luân lý. Một thí dụ cho các quyền này là quyền sống.
In Articulo Mortis
In Articulo Mortis, trong giờ lâm tử, khi lâm chung, giây phút lâm chung. Là vào thời khắc trước khi chết. Cụm từ này áp dụng đặc biệt cho một trạng thái có ý nghĩa trong đó một người còn có sự nhận thức rõ ràng, để thực hiện điều gì đó, chẳng hạn nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi, hoặc ăn năn sám hối đột xuất, khi mình sắp đi vào cõi đời đời.
Incardination
Nhập tịch. Là sự gia nhập theo giáo luật của một giáo sĩ vảo một giáo phận, với quyền lợi và nghĩa vụ tương ứng dưới quyền một đấng bản quyền địa phương. Trước kia việc nhập tịch này khởi đầu, khi một chủng sinh giáo phận nhận phép Cắt tóc. Từ Công đồng chung Vatican II, với việc hủy bỏ các chức nhỏ và chức Phụ phó tế, dưới thời Đức Giáo hoàng Phaolô VI, sự nhập tịch giáo phận được tính khi một chủng sinh được truyền chức Phó tế.
Incarnation
Sự nhập thể. Là sự kết hiệp của thiên tính Con Thiên Chúa với bản tính loài người trong con người Chúa Giêsu Kitô. Con Thiên Chúa lấy thịt, thể xác, linh hồn như chúng ta, và sống giữa chúng ta như một người như chúng ta để cứu chuộc chúng ta. Bản tính Thiên Chúa của Con Chúa kết hiệp một cách bản thể với bản tính con người chúng ta. Trước kia lễ Truyền Tin được gọi là lễ Nhập thể. Trong các Giáo hội Đông phương, mầu nhiệm này được kính nhớ bằng một lễ đặc biệt vào ngày 25-12. (Từ nguyên Latinh incarnatio; từ chữ in-, trong + caro, xác thịt: incarnare, nhập thể.)
Incarnational
Nhập thể, nhập thế. Giống như Chúa Kitô, là Thiên Chúa làm người, nhập thể là sự thích nghi của thiên tính với nhân tính, của sự bất diệt với đời tạm này, trong giáo huấn và giảng dạy của Tin Mừng. Luôn luôn không thỏa hiệp với chân lý mặc khải, đây là sự sẵn sàng của Giáo hội để điều chỉnh sứ điệp của mình với nền văn hóa của các dân tộc, như Chúa Kitô đã nhập thể không chỉ trong bản tính con người mà Ngài đã chọn với tư cách là Thiên Chúa, nhưng còn trong xã hội và thời đại Ngài đã sống nữa. (Từ nguyên Latinh incarnare, nhập thể; chữ Latinh in- + caro, xác thịt.)
Incense
Hương trầm. Là nhựa thơm hoặc trầm thơm dưới dạng bột, tỏa ra khói thơm khi được đốt lên. Khi được làm phép, nó là á bí tích tượng trưng. Việc đốt hương diễn tả sự nhiệt tình hoặc sự hăng hái; hương thơm diễn tả nhân đức; khói bay lên diễn tả lời cầu nguyện của con người bay lên tới Chúa. Hương trầm được dùng trong Thánh lễ, để xông sách Tin Mừng, bàn thờ, người dự lễ, các thừa tác viên và bánh cùng rượu; trước khi truyền phép; khi chầu Phép Lành; trong khi rước kiệu; và trong nghi thức làm phép xác. Khi sắp được sử dụng, hương trầm được chứa trong tàu đựng bằng kim loại, có dáng cái chén, và được đốt trong bình hương hoặc lư hương. Năm hạt hương trầm lớn được gắn vào Cây Nến Phục Sinh trong lễ Vọng Phục Sinh để tượng trưng Năm Vết Thương của Đấng Cứu Thế Phục Sinh. Ở một số quốc gia, hương trầm được đặt trong một bình hương cố định để cháy từ từ trước Mình Thánh Chúa, khi Mình Thánh được đặt để chầu hoặc khi Mình Thánh ở trong Nhà tạm. (Từ nguyên Latinh incensum, trầm hương; nghĩa đen là vật đốt cháy; từ chữ incendere, đốt lên.)
Incense Boat
Tàu hương. Là một bình thánh, có hình thuôn, chứa hương trầm và hương trầm được múc qua bình hương bằng một cái muỗng.
Incentive
Sự khích lệ, sự khuyến khích, sự động viên. Là cái gì hoặc điều gì kích thích người ta hành động. Nó là khác với động cơ, vốn là ở trong tâm trí như một nguyên nhân mục đích để làm điều gì hoặc kiềm chế không làm điều gì. Trong khi đó sự khích lệ là nằm trong ý chí hoặc tình cảm, chẳng hạn tình thương, sự căm ghét hoặc thiên hướng, và do đó thúc đẩy (hoặc mời gọi) người ta hành động. Hiện sủng như sự cảm hứng có thể được mô tả như một sự khích lệ siêu nhiên.
Incest
Lọan luân. Là sự giao hợp giữa hai người có quan hệ họ máu hoặc dây hôn phối, và bị Giáo hội cấm kết hôn. Đây là tội, vừa trái với đức trong sạch, vừa trái với đức hiếu thảo hoặc kính trọng với người có liên hệ gần gũi với ta. Ngoài ra, giữa cha mẹ và con cái, hoặc giữa anh chị em, còn có thêm tội chống lại tự nhiên. (Từ nguyên Latinh in-, không + castus, trong sạch: incestus, loạn luân, dâm ô.)
In Commendam
In Commendam, sự ủy thác. Là có được các lợi lộc từ một bổng lộc Giáo hội một cách tạm thời, trong thời trống ngôi của đấng bản quyền. Rốt cuộc từ ngữ này qui chiếu đến các bổng lộc mà Giám mục hay chức sắc khác hưởng bên ngòai giáo phận, hoặc qui chiếu đến việc giáo dân nào đó có thể hưởng lợi nhuận từ các bổng lộc ấy mà không có thẩm quyền thiêng liêng, hoặc trong thực tế không bao giờ nhìn xem hoặc đi thăm bổng lộc ấy. Nhiều luật Giáo hội đã tìm cách hạn chế thói tục này, do các lạm dụng đã xảy ra, từ thời Giáo hội sơ khai đến thế kỷ thứ tám.
Incommunicable Attribute
Ưu phẩm bất khả thông, ưu phẩm không thể truyền đạt. Là tính tòan hảo của Chúa, chỉ có Chúa sở hữu mà thôi, cũng như tính vô biên, tính toàn tri hoặc tính diện diện khắp mọi nơi (toàn tại) của Chúa.