1. Đức Giáo Hoàng Lêô nói với người cha đau buồn: 'Cái chết không bao giờ có lời cuối cùng'

Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã trả lời bức thư của một người cha đang đau buồn với lời động viên rằng “cái chết không bao giờ là lời cuối cùng”.

Trong số ra tháng 10 của tạp chí Piazza San Pietro, Đức Giáo Hoàng đã viết một lá thư cho Francesco, một người cha của bốn đứa con, người đã viết thư cho Đức Thánh Cha về cái chết của cậu con trai 12 tuổi của ông, Domenico Maria, do một căn bệnh đột ngột cách đây 18 năm.

Mặc dù thời gian đã trôi qua, người cha cho biết ông vẫn cảm thấy cái chết sớm của con trai mình như mới xảy ra ngày hôm qua.

“Thưa Đức Thánh Cha, lá thư này của con chỉ là một suy nghĩ, cũng như một lời tưởng nhớ dành cho con trai của chúng con, để Thiên Chúa, với lòng nhân từ và thương xót vô hạn của Người như một người Cha, có thể chào đón con vào vương quốc thiên đàng…” Francesco viết.

Trong câu trả lời của mình, Đức Giáo Hoàng Lêô nhắc nhở người cha rằng “điều quan trọng là phải luôn kết nối với Chúa, vượt qua nỗi đau lớn nhất với sự giúp đỡ của Ân sủng của Ngài, điều này luôn đến – hãy chắc chắn về điều đó – ngay cả trong những khoảnh khắc đen tối nhất”.

Đức Giáo Hoàng cũng nhắc lại ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, Đấng đồng hành với chúng ta trong suốt cuộc đời, bắt đầu từ Bí tích Rửa tội.

“Tất cả những điều này bắt đầu từ Bí tích Rửa tội của chúng ta và sẽ không bao giờ kết thúc,” ngài nói. “Bí tích Rửa tội dẫn chúng ta vào sự hiệp thông với Chúa Kitô và ban cho chúng ta sự sống đích thực, đồng thời cam kết từ bỏ nền văn hóa sự chết đang hiện diện rất rõ trong xã hội ta.”

“Nhưng cái chết không bao giờ có lời phán quyết cuối cùng! Lời phán quyết cuối cùng, mở ra cánh cửa đến cõi vĩnh hằng và niềm vui trường tồn mãi mãi, chính là sự phục sinh, không hề có sự nản lòng hay đau đớn nào giam cầm chúng ta trong nỗi khó khăn tột cùng là không tìm thấy ý nghĩa cho sự tồn tại của mình,” Đức Giáo Hoàng nói thêm.

Trong bức thư, Francesco mô tả tình yêu của con trai mình dành cho bóng đá và cộng đồng bạn bè mà cậu bé tìm thấy khi chơi môn thể thao này.

Đức Giáo Hoàng Lêô nói rằng “lời cầu nguyện đích thực, giống như môn thể thao đích thực, khi được thực hành cùng nhau, sẽ tạo ra mối liên kết và đoàn kết mãi mãi, cũng như nó đã đoàn kết Domenico Maria với tất cả những người trong 'đội' tình bạn chân chính của anh, với những mối liên kết vượt xa cái chết”.


Source:Catholic News Agency

2. Đức Giáo Hoàng Lêô XIV kêu gọi người Công Giáo ở Nga hãy làm gương về tình yêu thương, tình anh em và sự tôn trọng

Hôm thứ sáu, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã yêu cầu một nhóm người hành hương Công Giáo từ Nga, đang ở Rôma trong chuyến hành hương Năm Thánh, hãy trở thành tấm gương về tình yêu thương và tình anh em khi họ trở về nhà.

Trong diễn từ ngày 17 tháng 10 tại Vatican, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng sự hiện diện của những người hành hương Nga “là một phần trong hành trình của rất nhiều thế hệ” đã đến Rôma.

Đối với Đức Thánh Cha, “thành phố này có thể là biểu tượng của sự tồn tại của con người, trong đó những ‘tàn tích’ của những trải nghiệm quá khứ, nỗi đau khổ, sự bất định và lo lắng đan xen với đức tin ngày càng phát triển và trở nên tích cực trong đức ái.”

“Và với niềm hy vọng không làm chúng ta thất vọng và khích lệ chúng ta, bởi vì ngay cả trên đống đổ nát, bất chấp tội lỗi và thù hận, Chúa vẫn có thể xây dựng một thế giới mới và một cuộc sống mới”, ngài nói thêm.

Đức Giám Mục Joseph Werth của Giáo phận Biến hình ở Novosibirsk, Nga, chia sẻ với EWTN News sau cuộc họp rằng Đức Giáo Hoàng Lêô đã dành thời gian chào đón toàn bộ nhóm khoảng 100 người hành hương, mặc dù theo lịch trình, ngài chỉ chào đón những người ngồi ở hàng ghế đầu.

“Đó là dấu hiệu cho thấy Đức Giáo Hoàng muốn dành thời gian cho chúng tôi,” Đức Cha Werth nói.

Đức Lêô khuyến khích những người Công Giáo từ Nga tiếp tục con đường sống theo Kitô giáo khi trở về quê hương, kêu gọi trách nhiệm của họ trong Giáo hội địa phương.

“Từ gia đình, từ giáo xứ và cộng đồng giáo phận của anh chị em, xin hãy nêu gương về tình yêu thương, tình huynh đệ, tình liên đới và sự tôn trọng lẫn nhau cho tất cả mọi người mà anh chị em cùng chung sống, làm việc và học tập”, ngài thúc giục họ.

Bằng cách này, ngài khẳng định rằng “ngọn lửa tình yêu Kitô giáo có thể được thắp lên, có khả năng sưởi ấm sự lạnh giá của những trái tim, ngay cả những trái tim chai đá nhất”.

Đức Giáo Hoàng đã nêu rõ, tại Rôma, “trái tim của tâm hồn Kitô giáo đập” và đó là nơi “các sự kiện của đức tin – được tiếp nhận và truyền lại từ thời các tông đồ, từ đó rất nhiều dân tộc và quốc gia đã uống say sưa và từ đó họ vẫn sống cho đến ngày nay – được đan xen với những mối quan tâm và cam kết của cuộc sống hàng ngày”.

Đức Lêô XIV cũng chỉ ra các tượng đài rải rác khắp Thành phố vĩnh cửu, “những dấu hiệu hữu hình của đức tin sống động, ăn sâu vào trái tim con người, có khả năng biến đổi lương tâm và thúc đẩy họ làm điều thiện”.

Ngài nhấn mạnh rằng mỗi người Công Giáo “là một viên đá sống trong tòa nhà Giáo hội”, dù nhỏ bé nhưng được Chúa đặt đúng chỗ, “sẽ đóng vai trò quan trọng trong sự ổn định của toàn bộ cấu trúc”.


Source:Catholic News Agency

3. Gặp gỡ 7 vị thánh mà Đức Giáo Hoàng Lêô XIV tuyên thánh vào ngày 19 tháng 10

Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã tuyên thánh cho bảy vị thánh mới vào Chúa Nhật, 19 Tháng Mười, bao gồm một luật sư người Ý đã từ bỏ Satan giáo và trở thành “một tông đồ của kinh mân côi”, một Đức Tổng Giám Mục người Armenia tử vì đạo và một người Venezuela được coi là “bác sĩ của người nghèo”.

Lễ tuyên thánh, trước đó đã được Đức Giáo Hoàng Phanxicô phê chuẩn, do Đức Giáo Hoàng Lêô XIV chủ trì vào ngày 19 tháng 10 tại Vatican. Nhóm này bao gồm ba nữ và bốn nam, cùng với hai vị tử đạo, ba giáo dân và hai vị sáng lập dòng tu. Trong số đó có vị thánh đầu tiên của Papua New Guinea và hai vị thánh đầu tiên đến từ Venezuela.

Chúng ta hãy cùng tìm hiểu về những vị thánh tương lai này:

Thứ nhất, Thánh Bartolo Longo (sinh năm 1841 và qua đời năm 1926)

Bartolo Longo đã trải qua một trong những cuộc cải đạo ngoạn mục nhất trong lịch sử Giáo hội gần đây. Ông lớn lên trong một gia đình Công Giáo, nhưng sau khi học luật tại một trường đại học ở Naples, Ý, ông đã chuyển từ một tín hữu Công Giáo ngoan đạo sang tham gia các cuộc biểu tình chống giáo hoàng, rồi trở thành một người vô thần, rồi theo Satan giáo, và cuối cùng được “thụ phong” làm đạo sĩ Satan giáo.

Nhờ lời cầu nguyện của gia đình và sự ảnh hưởng của những người bạn sùng đạo, đặc biệt là Giáo sư Vincenzo Pepe và linh mục dòng Đaminh Alberto Radente, Longo đã trải qua một sự hoán cải sâu sắc, từ bỏ quá khứ và hoàn toàn quay trở lại với Giáo Hội Công Giáo.

Sau khi cải đạo, Longo dành trọn cuộc đời để quảng bá kinh Mân Côi và sứ điệp về lòng thương xót và hy vọng qua Đức Trinh Nữ Maria. Ngài định cư tại thị trấn nghèo khó Pompeii, nơi ngài bắt đầu trùng tu một nhà thờ đổ nát và không ngừng nỗ lực xây dựng một đền thánh dâng kính Đức Mẹ Mân Côi. Với sự hỗ trợ của các nhà hảo tâm và cộng đồng địa phương, ngài đã biến Pompeii thành một trung tâm sùng kính Công Giáo thịnh vượng. Những nỗ lực của ngài đã đạt đến đỉnh cao với việc xây dựng Đền thánh Đức Mẹ Mân Côi Pompeii, nơi vẫn tiếp tục là một địa điểm hành hương quan trọng cho đến ngày nay.

Bên cạnh công việc tôn giáo, Longo còn là một người đấu tranh không mệt mỏi cho công lý xã hội. Ngài thành lập các trường học, trại trẻ mồ côi và các tổ chức bác ái, đặc biệt là cho con em tù nhân, tin tưởng vào sức mạnh của giáo dục và lòng thương xót trong việc thay đổi cuộc sống.

Trong 20 năm cuối đời, Longo liên tục gặp vấn đề sức khỏe. Ngài qua đời vào ngày 5 tháng 10 năm 1926, và năm 1980 được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước, gọi ngài là “Tông đồ của Kinh Mân Côi”.

Thứ hai, Thánh Ignatius Choukrallah Maloyan (Đế quốc Ottoman, sinh năm 1869 và qua đời năm 1915)

Ignatius Maloyan là Tổng Giám Mục Công Giáo người Armenia của Mardin thuộc Đế chế Ottoman, người đã bị hành quyết trong cuộc diệt chủng người Armenia vì từ chối cải sang đạo Hồi và từ bỏ đức tin Kitô giáo của mình.

Năm 14 tuổi, Maloyan được gửi đến tu viện Bzommar-Liban. Năm 1896, ngài được thụ phong linh mục tại tu viện Bzommar và lấy tên là Ignatius để vinh danh vị tử đạo đáng kính của Antioch.

Từ năm 1892 đến năm 1910, Maloyan là linh mục giáo xứ ở Alexandria và Cairo, nơi danh tiếng của ngài lan rộng. Ngày 22 tháng 10 năm 1911, ngài được bổ nhiệm làm Đức Tổng Giám Mục Mardin.

Không lâu sau đó, Chiến tranh Thế giới thứ nhất bùng nổ và người Armenia ở Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu chịu đựng đau khổ tột cùng. Ngày 3 tháng 6 năm 1915, quân lính Thổ Nhĩ Kỳ đã xiềng xích Maloyan ra tòa cùng với 27 nhân vật Công Giáo Armenia khác. Trong phiên tòa, Mamdooh Bek, cảnh sát trưởng, đã yêu cầu Maloyan cải đạo sang Hồi giáo. Vị Đức Tổng Giám Mục trả lời rằng ngài sẽ không bao giờ phản bội Chúa Kitô và Giáo hội của Người, và sẵn sàng chịu đựng mọi hình phạt vì lòng trung thành của mình. Ngài bị cầm tù và thường xuyên bị đánh đập.

Ngày 10 tháng 6, quân Thổ Nhĩ Kỳ đã tập hợp 447 người Armenia và đưa họ đến một vùng đất hoang vắng. Trong suốt thời gian thử thách, Đức Đức Tổng Giám Mục đã động viên những người tập trung hãy kiên định đức tin và cùng họ cầu nguyện để họ can đảm chấp nhận sự tử đạo.

Sau hai giờ đi bộ, trần truồng và bị xiềng xích, các tù nhân bị lính giết chết ngay trước mặt Maloyan. Bek một lần nữa yêu cầu Đức Tổng Giám Mục cải đạo sang Hồi giáo. Ngài từ chối và bị Bek bắn chết vào đúng ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu.

Trước khi bị giết, Maloyan đã nói: “Tôi coi việc đổ máu vì đức tin của mình là mong muốn ngọt ngào nhất trong trái tim tôi, bởi vì tôi biết rõ rằng nếu tôi bị tra tấn vì tình yêu dành cho người đã chết vì tôi, tôi sẽ là một trong những người có được niềm vui và hạnh phúc, và tôi sẽ được nhìn thấy Chúa và Thiên Chúa của tôi ở trên đó.”

Ngài được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị phong chân phước vào ngày 7 tháng 10 năm 2001.

Thứ Ba, Thánh Peter To Rot (Papua New Guinea, sinh năm 1912 và qua đời năm 1945)

Peter To Rot, một giáo lý viên giáo dân ở Papua New Guinea, đã tử đạo trong thời kỳ Nhật Bản xâm lược vào Thế chiến II. Khi vị linh mục Công Giáo trong làng của ông bị đưa đến trại lao động Nhật Bản, vị linh mục đã giao cho To Rot phụ trách việc dạy giáo lý cho làng và dặn dò ông trước khi bị đưa đi: “Hãy giúp đỡ họ, để họ không quên Chúa.”

Bất chấp sự đàn áp của Nhật Bản, To Rot vẫn hoạt động bí mật để giữ vững đức tin. Ngài là người bảo vệ tuyệt vời cho hôn nhân Kitô giáo, đấu tranh chống lại luật pháp Nhật Bản, vốn cho phép đàn ông lấy vợ hai.

Vào cuối chiến tranh, các quy định chống lại tự do tôn giáo càng trở nên nghiêm ngặt hơn, với bất kỳ hình thức cầu nguyện nào đều bị cấm. To Rot bị bắt và bị đưa vào trại lao động khổ sai vào năm 1944 vì liên tục bất tuân lệnh. Năm 1945, ngài bị xử tử bằng cách tiêm thuốc độc và được coi là một vị tử đạo vì đức tin Công Giáo. Ngài được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước vào ngày 17 Tháng Giêng năm 1995. Ngài sẽ là vị thánh đầu tiên của Papua New Guinea.

Thứ Tư, Thánh José Gregorio Hernández (Venezuela, sinh năm 1864 và qua đời năm 1919)

José Gregorio Hernández, một bác sĩ, nhà khoa học và giáo dân người Venezuela, được tôn kính là “bác sĩ của người nghèo”.

Sinh ngày 26 tháng 10 năm 1864 tại Isnotú, bang Trujillo của Venezuela, cậu mất mẹ khi mới 8 tuổi.

Cậu học y khoa ở Caracas và nhận được tài trợ của chính phủ để tiếp tục học hai năm tại Paris vào năm 1889. Sau khi trở về Venezuela, Hernández trở thành giáo sư tại Đại học Trung tâm Caracas, nơi ông bắt đầu mỗi bài học bằng dấu thánh giá.

Hernández tham dự thánh lễ hàng ngày, mang thuốc men và chăm sóc người nghèo, và tuyên khấn Dòng Ba Phanxicô. Năm 1908, ngài từ bỏ nghề tu và gia nhập một tu viện kín dòng Carthusian ở Farneta, Ý. Tuy nhiên, chín tháng sau, ngài lâm bệnh và bề trên ra lệnh cho ngài trở về Venezuela để dưỡng bệnh.

Sau một thời gian, Hernández nhận ra rằng ý Chúa muốn ông tiếp tục sống đời giáo dân. Ông quyết định thúc đẩy sự thánh thiện như một người Công Giáo gương mẫu bằng cách trở thành bác sĩ và tôn vinh Chúa bằng cách phục vụ người bệnh. Ông dành trọn tâm huyết cho nghiên cứu học thuật và ngày càng dấn thân phục vụ người nghèo.

Một ngày nọ, khi đang đi lấy thuốc cho một bà lão nghèo, bác sĩ bị xe tông. Ông qua đời tại bệnh viện vào ngày 29 tháng 6 năm 1919. Ngài được Đức Giáo Hoàng Phanxicô phong chân phước vào ngày 30 tháng 4 năm 2021.

Thứ Năm, Thánh Maria Troncatti (sinh năm 1883 và qua đời năm 1969)

Maria Troncatti, một nữ tu dòng Salêdiêng người Ý, đã dành gần năm thập niên làm nhà truyền giáo ở rừng mưa Amazon của Ecuador, chung sống với người dân bản địa Shuar.

Lớn lên ở Ý, Troncatti đã bộc lộ niềm đam mê với đời sống tu trì ngay từ nhỏ. Cô tuyên khấn lần đầu với tư cách là thành viên của Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu, còn được gọi là Dòng Nữ Tu Salêdiêng Don Bosco, vào năm 1908.

Trong Thế chiến thứ nhất, Sơ Maria được đào tạo về chăm sóc sức khỏe và làm y tá Hội Hồng Thập Tự tại một bệnh viện quân y. Năm 1925, Sơ bắt đầu sứ mệnh phục vụ người da đỏ Shuar trong rừng Amazon ở phía đông nam Ecuador. Trong suốt 44 năm, Sơ được mọi người trong làng gọi là “Madrecita” hay “người mẹ nhỏ bé”. Sơ không chỉ phục vụ với tư cách là bác sĩ phẫu thuật, nha sĩ, y tá, bác sĩ chỉnh hình và bác sĩ gây mê, mà còn là một giáo lý viên trung thành chia sẻ Phúc Âm với tất cả những người mà Sơ phục vụ.

Sơ Maria qua đời ở tuổi 86 vào ngày 25 tháng 8 năm 1969 trong một vụ tai nạn máy bay. Sơ được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 phong chân phước vào năm 2012.

Thứ Sáu, Thánh María del Carmen Rendiles Martínez (sinh năm 1903 và qua đời năm 1977)

Carmen Elena Rendiles Martínez sinh ra tại Caracas, Venezuela, không có cánh tay trái và được lắp cánh tay giả để sử dụng trong suốt cuộc đời.

Năm 1918, Martínez bắt đầu cảm thấy ơn gọi tu trì, nhưng khuyết tật bị một số dòng tu thời đó coi là lý do bị từ chối. Cuối cùng, cô gia nhập Dòng Tôi Tớ Thánh Thể vào năm 1927 và lấy tên là María Carmen. Cô từng nói: “Tôi muốn nên thánh. Tôi muốn nói như Thánh Phaolô: Không còn là tôi sống, nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi.”

Khi cộng đoàn của bà đòi quyền tự chủ từ nhà dòng mẹ ở Pháp vào năm 1965, bà đã thành lập Dòng Tôi Tớ Chúa Giêsu tại Caracas để tiếp tục sứ mệnh sùng kính Thánh Thể. Bà giữ chức vụ bề trên tổng quyền của dòng từ năm 1969 khi được bổ nhiệm cho đến khi qua đời năm 1977 vì bệnh cúm.

Bà được Đức Thánh Cha Phanxicô phong chân phước vào năm 2018 và sẽ trở thành nữ thánh đầu tiên của Venezuela.

Thứ Bẩy, Thánh Vincenza Maria Poloni (sinh năm 1802 và qua đời năm 1855)

Vincenza Maria Poloni, một nữ tu người Ý, đã thành lập Dòng Nữ tu Lòng Thương Xót Verona để chăm sóc người nghèo, người bệnh và người già.

Sinh ra là con út trong gia đình có 12 anh chị em, bà đã nhận ra ơn gọi của mình dưới sự hướng dẫn của Chân phước Charles Steeb khi bà dành thời gian làm việc với người nghèo, người già và người bệnh mãn tính.

Năm 1836, trong trận dịch tả, bà đã làm việc không mệt mỏi tại các khoa cấp cứu, bất chấp nguy cơ sức khỏe của chính mình. Năm 1840, bà dành toàn bộ thời gian chăm sóc người bệnh và người già, và bắt đầu sống một lối sống tương tự như một nữ tu - cầu nguyện sốt sắng, tuân thủ nghiêm ngặt lịch trình, và hết lòng phục vụ người khác.

Vào ngày 10 tháng 9 năm 1848, Poloni thành lập Dòng Nữ tu Thương xót Verona và lấy tên là Vincenza Maria. Khẩu hiệu của bà, “Phục vụ Chúa Kitô nơi Người Nghèo”, đã trở thành nền tảng cho dòng tu của bà, hiện có mặt trên ba châu lục. Bà qua đời vào ngày 11 tháng 11 năm 1855, do một khối u đã lan rộng khắp cơ thể. Bà được phong chân phước vào năm 2008.

4. Việc các nhà thần học, học giả phủ nhận sự đồng trinh của Đức Maria là một 'thách thức' đối với Giáo hội

Cha Stefano Cecchin, Dòng Anh Em Hèn Mọn, chủ tịch Học viện Giáo hoàng Quốc tế về Đức Mẹ, gọi tắt là PAMI theo tên viết tắt tiếng Ý, đơn vị báo cáo trực tiếp với Giáo triều Rôma, cho biết trong một cuộc phỏng vấn gần đây rằng Giáo hội đang phải đối mặt với những thách thức dai dẳng liên quan đến sự thật về Đức Trinh Nữ Maria.

Cha Cecchin nói với ACI Prensa, đối tác tin tức tiếng Tây Ban Nha của CNA, rằng PAMI phải đối mặt với những thách thức hàng ngày từ những người theo đạo Tin lành cũng như một số nhóm nhất định trong Giáo Hội Công Giáo, cả công khai lẫn gián tiếp, những người phủ nhận tín điều về sự đồng trinh của Đức Maria được thiết lập tại Công đồng Êphêsô năm 431 sau Chúa Giáng Sinh và Công đồng Latêranô năm 649.

“Có những nhà thần học và học giả Kinh thánh cho rằng sự đồng trinh của Đức Mẹ Maria là một huyền thoại, và điều này rất nguy hiểm vì… các Giáo phụ, và thậm chí cả Kinh Quran, đều bảo vệ sự đồng trinh của Đức Mẹ Maria”, vị linh mục tuyên bố.

Ma quỷ đứng sau các cuộc tấn công vào Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội

Cha Cecchin là chuyên gia về Thánh mẫu học và tín điều Vô nhiễm Nguyên tội, ám chỉ việc Đức Maria được bảo toàn khỏi tội tổ tông ngay từ khi thụ thai trong lòng mẹ và được Đức Giáo Hoàng Piô thứ IX chính thức tuyên bố vào ngày 8 tháng 12 năm 1854.

Cha Cecchin giải thích rằng Đức Maria luôn là mục tiêu tấn công của ma quỷ, đặc biệt là vì vai trò của Đức Mẹ trong chương trình cứu rỗi.

“ Ma quỷ hoạt động rất mạnh; tôi đã thấy điều đó rất nhiều lần, đặc biệt nó chống lại tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội,” ngài nói. “Tôi thấy hắn tiếp tục tấn công hình ảnh Đức Maria, và ngay lúc này hắn đang tấn công Đức Maria ngay trong Giáo hội, với những kẻ, chẳng hạn, nói rằng Đức Maria không còn đồng trinh.”

Ngài chỉ ra rằng: “Cuộc tấn công đầu tiên nhắm vào Chúa Kitô là cuộc tấn công vào sự trinh tiết của Đức Maria, nhằm cho rằng Chúa Giêsu không phải là con trai đích thực của Chúa. Nếu chúng ta nghi ngờ sự trinh tiết của Đức Maria, chúng ta đã đặt toàn bộ Kitô giáo vào vòng nghi ngờ,”

Cha Cecchin nhắc lại rằng, xét theo góc nhìn Kinh Thánh và thần học, Đức Maria chiếm một vị trí độc nhất trong lịch sử cứu độ với tư cách là Mẹ Thiên Chúa và là hình ảnh của Giáo hội. Ngài giải thích rằng vai trò của Đức Maria không chỉ giới hạn trong mầu nhiệm Nhập Thể trong quá khứ, mà Đức Maria vẫn tiếp tục hoạt động trong đời sống thiêng liêng của các tín hữu.

“Vấn đề là không phải chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa, mà chính Người tìm kiếm chúng ta. Và đó là lý do tại sao, sau khi Chúa Giêsu lên trời, các thiên thần đã nói rằng các tông đồ sẽ không gặp lại Người cho đến khi Người trở lại vào ngày vinh quang. Nhưng Chúa Giêsu đã trao phó Giáo hội cho Đức Maria: 'Này là mẹ của con.' Đó là lý do tại sao Đức Maria tiếp tục chăm sóc chúng ta và cố gắng đưa chúng ta trở về với Người”, ngài giải thích.

'Chúa không muốn bất kỳ ai phải xuống địa ngục'

Giám đốc PAMI, đơn vị chịu trách nhiệm điều phối tất cả các học giả và hiệp hội về Đức Mẹ trên toàn thế giới, nhấn mạnh rằng các cuộc hiện ra của Đức Mẹ và lời kêu gọi hoán cải phải được hiểu là biểu hiện của lòng thương xót của Chúa, chứ không phải là biểu hiện của nỗi sợ hãi hay hình phạt.

“Tất cả những lần hiện ra, những lời kêu gọi của Mẹ về hỏa ngục, không phải để dọa nạt chúng ta, mà là để cải hóa chúng ta, bởi vì Chúa không muốn trừng phạt chúng ta; Ngài muốn cải hóa chúng ta. Đây là một điểm cơ bản được dạy trong Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo. Chúa không muốn bất kỳ ai phải xuống hỏa ngục, nhưng nếu bạn không cư xử tốt, bạn sẽ phải xuống hỏa ngục, bởi vì hỏa ngục hiện hữu và không hề trống rỗng”, ngài giải thích.

Cha Cecchin cũng nhấn mạnh rằng việc bảo vệ tín điều Đức Mẹ Maria không phải là vấn đề thứ yếu hay mang tính sùng kính, mà là một trụ cột của thông điệp Kitô giáo. Ngài nhắc lại rằng, theo Thánh Ignatius thành Antioch, một môn đệ của Thánh Phêrô và là một trong những Giáo phụ đầu tiên của Giáo hội, việc phủ nhận sự đồng trinh của Đức Maria đồng nghĩa với việc làm nguy hại đến chân lý về sự nhập thể của Con Thiên Chúa.

Cha Cecchin nói: “Thánh Inhaxiô thành Antiôkia nói về Đức Maria và sự đồng trinh của Mẹ. Đó là lý do tại sao việc tự giáo dục bản thân là rất quan trọng và nhận ra rằng tầm nhìn Phanxicô của chúng ta, theo đó Thiên Chúa mong muốn ơn cứu độ cho tất cả mọi người, thúc đẩy chúng ta truyền giáo. Công cuộc truyền giáo mà chúng ta đề xuất hôm nay là một công cuộc truyền giáo về Đức Maria.”

Vị tu sĩ lưu ý rằng trong suốt lịch sử của Giáo hội, những tranh cãi và tà giáo cũng là cơ hội để đào sâu hơn vào chân lý.

“Ví dụ, trong cuộc đấu tranh liên quan đến tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, có những người nghĩ một đằng, và những người khác nghĩ một nẻo. Giáo Hội luôn sống động, và chúng ta thường thấy rằng, trong lịch sử, những kẻ dị giáo giúp chúng ta đào sâu hơn vào chân lý. Họ là động lực để chúng ta đào sâu hơn, nhưng chúng ta phải bảo vệ chân lý,” ngài khẳng định.

Đền thờ là nơi chữa lành

Năm 2023, Vatican đã thành lập Đài quan sát quốc tế về hiện tượng hiện ra và huyền bí thuộc PAMI, với sứ mệnh nghiên cứu và phân định mà không đưa ra phán quyết.

“Nhiệm vụ duy nhất của nó là nghiên cứu, chứ không phải đưa ra ý kiến”, vị tu sĩ dòng Phanxicô người Ý nhấn mạnh, đồng thời lưu ý rằng các cuộc hiện ra luôn tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử. “Tất cả các đền thờ đều có một câu chuyện đằng sau, một trải nghiệm gặp gỡ thần thánh.”

Ngài nói thêm: “Chúng tôi muốn các đền thờ không chỉ là nơi cầu nguyện mà còn là nơi chữa lành”.

Hiện nay, Đài quan sát quốc tế về hiện tượng hiện ra và huyền bí đang tiến hành phân tích thần học và lịch sử về các đền thờ Đức Mẹ.

“Chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu các thánh địa từ Nazareth, nơi lưu giữ thánh tích của Đức Trinh Nữ, sau đó được đưa đến Constantinople, đến Blacherne... Chúng tôi đã thấy rằng vào thời Trung cổ, luôn có những lần hiện ra nhỏ là nguồn gốc của các thánh địa mà chúng ta có trên khắp thế giới”, ngài giải thích.

Với Guadalupe, những cuộc hiện ra vĩ đại bắt đầu

Theo thời gian, những biểu hiện đức tin này ngày càng mang tính phổ quát. Theo Cecchin, sự kiện Đức Mẹ hiện ra với Thánh Juan Diego, một người da đỏ, vào năm 1531 đã mở đầu cho một chuỗi dài những lần hiện ra vĩ đại khác.

“Những lần hiện ra đầu tiên mang tính địa phương hơn một chút, nhưng với Guadalupe, những lần hiện ra thu hút sự chú ý của các quốc gia, các châu lục bắt đầu. Rồi đến Lourdes, Fatima, Medjugorje, Kibeho… tất cả những lần hiện ra vĩ đại này đều thu hút mọi người bởi vì đền thánh luôn là một nơi đặc biệt mà Đức Mẹ muốn được chứng kiến, như trong tất cả các lần hiện ra, việc xây dựng một đền thánh,” ngài giải thích.

Cha Cecchin chỉ ra rằng, theo quan điểm Kinh thánh, các đền thờ luôn là nơi gặp gỡ.

“Trong Cựu Ước, trong những lần hiện ra của Thiên Chúa, luôn có một nơi chốn, một đền thánh. Vì vậy, đền thánh trở thành khoảnh khắc gặp gỡ Thiên Chúa qua Đức Maria, điều mà Đức Phaolô VI gọi là phòng khám tâm linh. Đó là lý do tại sao chúng ta thực sự muốn các đền thánh không chỉ là nơi cầu nguyện mà còn là nơi chữa lành, an lành, bởi vì Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: 'Hãy rao giảng và chữa lành'“, ngài nhấn mạnh.

Công việc của PAMI mở rộng sang việc thành lập các trung tâm nghiên cứu và thúc đẩy đối thoại liên tôn và đại kết.

“Nhiệm vụ của chúng tôi là thành lập các trung tâm và hiệp hội để nghiên cứu về Đức Mẹ Maria trong nhiều nền văn hóa khác nhau cũng như trong cuộc đối thoại với các giáo hội Kitô giáo và các tôn giáo khác, vì Đức Mẹ Maria đóng vai trò cơ bản này trong lịch sử Giáo hội”, ngài giải thích.


Source:Catholic News Agency