Sáng thứ Bẩy, 20 tháng Giêng, lúc 7h40 Ðức Thánh Cha đã đáp máy bay từ thủ đô Lima đến thành phố Trujillo cách đó 490 cây số về hướng bắc để cử hành thánh lễ lúc 10h tại quảng trường Huanchaco cạnh bờ biển.

Ban chiều, lúc 3h, ngài viếng nhà thờ chính tòa địa phương và gặp gỡ các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh thuộc giáo tỉnh miền bắc Peru tại Chủng viện thánh Carlo và Marcelo vào lúc 3h30.

Hơn một giờ sau đó, lúc 4h45, Ðức Thánh Cha chủ sự buổi cử hành phụng vụ kính Ðức Mẹ Hải Cảng ở quảng trường quân đội.

Trong bài giảng tại đây, Đức Thánh Cha nói:


Anh chị em thân mến,

Tôi xin cảm tạ Đức Cha Héctor Miguel vì những lời chúc mừng của ngài nhân danh toàn thể dân Chúa hành hương trên những miền đất này.

Trong quảng trường xinh đẹp và lịch sử này của Trujillo, nơi từng đánh thức những giấc mơ tự do cho tất cả người Peru, hôm nay chúng ta tụ họp để gặp “Mẹ thân yêu của Otuzco”. Tôi biết rằng nhiều người trong số anh chị em đã phải đi một quãng đường dài để có mặt ngày hôm nay, tụ tập dưới ánh mắt của Mẹ. Quảng trường này đã trở thành một ngôi đền lộ thiên, nơi tất cả chúng ta muốn để cho Mẹ nhìn chúng ta bằng ánh mắt từ mẫu và dịu dàng. Mẹ là một người mẹ biết rõ con tim của những đứa con Peru của mình từ miền bắc đất nước và từ rất nhiều nơi khác; Mẹ đã nhìn thấy nước mắt của anh chị em, tiếng cười của anh chị em, và những ước vọng của anh chị em. Trong quảng trường này, chúng ta muốn vinh danh ký ức của một dân tộc biết rằng Đức Maria là một người Mẹ không từ bỏ con cái mình.

“Ngôi Nhà” này được trang trí theo một phong cách lễ hội đặc biệt. Chúng ta được bao quanh bởi hình ảnh các linh địa khắp miền này. Tôi nghiêm cẩn kính chào Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của Cửa Khẩu Otuzco, cùng với Thánh Giá Rất Thánh Chalpón miền Chiclayo, Chúa Phù Hộ các Tù Nhân miền Ayabaca, Đức Mẹ Giàu Lòng Xót Thương miền Paita, Chúa Giêsu Hài Đồng Ban Phép Lạ miền Eten, Đức Mẹ Sầu Bi miền Cajamarca, Đức Bà Lên Trời miền Cutervo, Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội miền Chota, Đức Bà Đầy Ơn Phúc miền Huamachuco, Thánh Turibius thành Mogrovejo ở miền Tayabamba (Huamachuco), Đức Nữ Đồng Trinh miền Chachapoyas, Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội miền Usquil, Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu miền Huanchoco, và di hài các Thánh Tử Đạo Dòng Anh Em Hèn Mọn miền Chimbote.

Mỗi cộng đồng, mỗi góc nhỏ bé của vùng đất này, đều được đi kèm với gương mặt của một vị thánh, và với tình yêu dành cho Chúa Giêsu Kitô và Mẹ Người. Thật thế, bất cứ nơi nào có một cộng đồng, bất cứ nơi nào có cuộc sống và những con tim mong muốn tìm được những lý do để hy vọng, để hát múa và nhảy mừng, để có một cuộc sống tốt đẹp... thì nơi đó có Chúa, nơi đó chúng ta tìm thấy Mẹ của Người, và ở đó cũng có gương của tất cả những vị thánh giúp chúng ta vui mừng trong hy vọng.

Cùng với anh chị em, tôi xin tán tụng Chúa vì Ngài đã ghé mắt nhìn chúng ta. Ngài tìm cách tốt nhất để lôi kéo đến gần Ngài mỗi người để họ có thể đón nhận Ngài. Đó là nguồn gốc của cơ man những lời cầu và danh xưng đa dạng của Ngài. Những danh xưng này thể hiện mong muốn của Thiên Chúa được gần gũi mỗi con tim, để ngôn ngữ tình yêu của Thiên Chúa luôn được nói bằng tiếng địa phương; không có cách nào khác để làm điều đó, và hơn thế nữa, điều ấy linh hứng cho hy vọng khi thấy Đức Mẹ dùng những đặc điểm của con cái mình, cách ăn mặc và phương ngữ của họ, để làm cho họ cùng chia sẻ trong phúc lành của Mẹ. Đức Maria sẽ luôn là một người Mẹ đa sắc tộc, bởi vì trong trái tim của Mẹ, tất cả các chủng tộc đều tìm thấy một chỗ cho mình, vì tình yêu tìm kiếm mọi cách để có thể yêu và được yêu. Tất cả những hình ảnh này nhắc nhở chúng ta về tình yêu từ ái mà với tình yêu đó Thiên Chúa muốn gần gũi với mọi làng mạc và mọi gia đình, với anh, với chị, với em, với tôi, và tất cả mọi người.

Tôi biết tình yêu mà anh chị em dành cho Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của Cửa Khẩu Otuzco. Hôm nay, cùng với các anh chị em, tôi muốn tuyên bố rằng Đức Mẹ Cửa Khẩu là “Mẹ thương xót và hy vọng”. Đức Mẹ, là Đấng trải qua nhiều thế kỷ đã cho thấy tình yêu của Mẹ dành cho những đứa con của mảnh đất này khi Mẹ được đặt tại một cửa ngõ, Mẹ đã bênh vực và bảo vệ họ trước những mối đe dọa, và đánh thức tình yêu của tất cả người Peru cả cho đến thời đại hôm nay của chúng ta.

Đức Maria tiếp tục bảo vệ chúng ta và chỉ ra cánh cổng mở ra cho chúng ta con đường dẫn đến cuộc sống đích thực, đến Sự Sống không qua đi. Mẹ đi bên cạnh mỗi một người con của Mẹ, để dẫn họ về nhà. Mẹ đồng hành cùng chúng ta đến Cửa đem lại Sự Sống, vì Chúa Giêsu không muốn ai đứng ở ngoài, trong giá lạnh. Như thế, Mẹ tháp tùng “khát vọng của đông đảo những người muốn quay trở lại nhà Cha, Đấng đang chờ đợi sự trở lại của họ” [1], nhưng thường thì họ không biết phải làm sao. Như Thánh Bernard đã nói: “Bạn cảm thấy xa đất liền, bị nhận chìm bởi những đợt sóng của thế gian này, giữa chập chùng bão tố: hãy nhìn lên Ngôi sao và kêu khẩn cùng Đức Maria” [2]. Mẹ sẽ cho chúng ta thấy đường về nhà. Mẹ đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu, là Cổng Thương xót.

Năm 2015, chúng ta đã có niềm vui cử mừng Năm Thánh Lòng Thương Xót. Trong năm đó, tôi mời gọi tất cả các tín hữu đi qua Cửa Lòng Thương Xót, “qua đó bất kỳ ai bước vào sẽ cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa, Đấng an ủi, tha thứ và gieo niềm hy vọng” [3]. Tôi muốn lặp lại với anh chị em lúc này đây cùng một niềm hy vọng ấy: “Tôi mong muốn xiết bao những năm tới sẽ được dâng lên cho lòng thương xót, để chúng ta có thể đi ra đến với mỗi người nam nữ, mang đến cho họ sự thiện hảo và dịu dàng của Thiên Chúa” [4] Tôi ước ao biết bao là mảnh đất này, nơi luôn gắn bó với Mẹ thương xót và hy vọng, có thể được dư dật những sự tốt lành của Thiên Chúa và tình yêu dịu dàng của Người và mang tình yêu ấy đi khắp nơi. Anh chị em thân mến, không có thuốc men nào tốt hơn có thể chữa nhiều vết thương cho bằng một con tim biết thương xót, một con tim từ bi trước những nỗi buồn và bất hạnh, một trái tim đầy thương xót trước những sai lầm của con người và ước vọng muốn thay đổi của họ, mà không biết bắt đầu từ đâu.

Lòng thương xót đang hoạt động, vì “chúng ta đã biết rằng Thiên Chúa cúi xuống vì chúng ta (xem Hôsê 11: 4), để chúng ta có thể bắt chước Người mà cúi xuống anh chị em mình”, [5] trước hết là cho những ai đang đau khổ nhất. Và giống như Đức Maria, chú tâm đến những ai thiếu rượu mừng, như đã xảy ra trong tiệc cưới Cana.

Hướng nhìn lên Đức Maria, tôi không muốn kết thúc ở đây mà không yêu cầu tất cả chúng ta hãy suy nghĩ về những bà mẹ và những bà nội, bà ngoại của đất nước này; họ là động lực thực sự cho cuộc sống và các gia đình Peru. Peru sẽ như thế nào, nếu không có những bà mẹ và những người bà! Cuộc sống của chúng ta sẽ như thế nào nếu không có họ! Tình yêu của chúng ta dành cho Đức Maria phải giúp chúng ta cảm thấy được sự trân trọng và lòng biết ơn đối với những người phụ nữ, những người mẹ và người bà của chúng ta, những người là một pháo đài cho cuộc sống tại các thành phố của chúng ta. Gần như luôn im lặng, họ đưa cuộc sống tiến về phía trước. Đó là sự im lặng và sức mạnh của hy vọng. Cảm ơn chứng tá của các vị. Trân quý và tri ân. Nhưng khi suy nghĩ về những người mẹ và những người bà của chúng ta, tôi muốn mời anh chị em chống lại tai ương đang ảnh hưởng đến lục địa Mỹ Châu của chúng ta: nhiều trường hợp các phụ nữ đã bị giết. Và nhiều tình huống bạo lực được giữ im lặng phía sau rất nhiều những bức tường. Tôi yêu cầu anh chị em chiến đấu chống lại nguồn đau khổ này bằng cách kêu gọi xây dựng pháp luật và một nền văn hoá phản đối mọi hình thức bạo lực.

Anh chị em thân mến, Đức Mẹ Cửa Khẩu, Mẹ Thương Xót và Niềm Hy vọng, chỉ cho chúng ta thấy con đường và chỉ ra cách phòng vệ tốt nhất chống lại cái ác của sự dửng dưng và vô cảm. Mẹ đưa chúng ta đến với Con Mẹ và khuyến khích chúng ta đề cao và truyền bá “một nền văn hoá thương xót dựa trên sự tái khám phá cuộc gặp gỡ với tha nhân, một nền văn hoá mà không ai nhìn vào người khác với sự thờ ơ hoặc quay lưng đi trước những đau khổ của anh chị em mình”. [6]

[1] Tông Thư Misericordia et Misera (Lòng Thương Xót và Nỗi Khốn Cùng) vào lúc kết thúc Năm Thánh Lòng Thương Xót (20 Tháng 11 năm 2016), số 16.
[2] Bài Giảng sau Kinh Truyền Tin 17: PL 183, 70.
[3] Tông Chiếu Misericordiae Vultus (Khuôn Mặt Xót Thương) (ngày 11 tháng 4 năm 2015), số 3.
[4] thượng dẫn., 5.
[5] Tông Thư Misericordia et Misera (Lòng Thương Xót và Nỗi Khốn Cùng) vào lúc kết thúc Năm Thánh Lòng Thương Xót (20 Tháng 11 năm 2016), số 16.
[6] thượng dẫn., 20.