IV Mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng trong đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội

Trong Giáo Hội như mầu nhiệm hiệp thông

13. Giáo Hội tự trình bầy mình như “một dân được làm nên một với sự hợp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (43), trong đó, mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng xuất hiện như được điều hướng vào việc tham dự trọn vẹn của tín hữu vào sự hiệp thông và sứ mệnh rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội. Ta được tiền định cách nhưng không để hưởng sự sống mới này nơi Chúa Kitô (Rm 8:29-31; Ep 1:4-5). Chúa Thánh Thần “tạo nên sự hiệp thông kỳ diệu này nơi các tín hữu. Người đem họ vào sự kết hợp thân mật với Chúa Kitô, đến nỗi Người là nguyên lý của sự hợp nhất trong Giáo Hội (44). Bên trong Giáo Hội, người ta được kêu gọi cùng nhau trở thành các chi thể của Chúa Kitô và bên trong sự hiệp thông của Giáo Hội, họ được hợp nhất với Chúa Kitô, như các chi thể của nhau. Hiệp thông luôn “là một sự tham dự kép rất quan yếu: tháp nhập các Kitô hữu vào đời sống Chúa Kitô, và toả lan đức ái giữa toàn thể các tín hữu ở đời này và đời sau. Hợp nhất với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô; và hợp nhất giữa các Kitô hữu trong Giáo Hội” (46). Trong chiều hướng này, mầu nhiệm Giáo Hội sáng lên “trong Chúa Kitô như một bí tích hay như một dấu chỉ và là dụng cụ của cả sự kết hợp hết sức mật thiết với Thiên Chúa và sự hợp nhất của toàn thể nhân loại” (47). Từ đó, ta có thể thấy: Giáo Hội, như một mầu nhiệm hiệp thông, có nguồn gốc bí tích: “Từ trong nền tảng, điều này có nghĩa là hiệp thông với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô, trong Chúa Thánh Thần. Sự hiệp thông này được thực hiện trong Lời Chúa và trong các bí tích. “Phép Rửa, kết hợp mật thiết với Phép Thêm Sức, là cửa ngõ bước vào và là nền tảng của hiệp thông trong Giáo Hội. Phép Thánh Thể là nguồn suối và là đỉnh cao của trọn bộ đời sống Kitô hữu” (48). Các bí tích khai tâm này tạo ra đời sống Kitô hữu và các hồng ân phẩm trật cũng như các hồng ân đặc sủng đều dựa vào chúng. Đời sống hiệp thông trong Giáo Hội, vốn được sắp đặt từ bên trong như thế, được sống trong một việc liên tục cung kính lắng nghe Lời Chúa và được nuôi dưỡng bằng các bí tích. Lời Chúa tự trình bầy với ta như được nối kết sâu xa với các bí tích, nhất là Phép Thánh Thể (49), trong chân trời Mạc Khải duy nhất có tính bí tích. Truyền thống Đông Phương nhìn lên Giáo Hội, nhiệm thể Chúa Kitô “được sinh động hóa” bởi Chúa Thánh Thần và thấy nơi Giáo Hội một sự hợp nhất có trật tự, một sự hợp nhất tự tỏ bầy cả trong bình diện các hồng ân của mình. Sự hiện diện hữu hiệu của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn các tín hữu (xem Rm 5:5) là nguyên nhân cội rễ của sự hợp nhất này ngay trong các biểu hiện đặc sủng (50). Các hồng ân đặc sủng ban cho các cá nhân thực sự thuộc về chính Giáo Hội và được sắp đặt cho một đời sống Giáo Hội thâm hậu hơn. Quan điểm này cũng có mặt trong các trước tác của Chân Phúc John Henry Newman: “Như thế, trái tim mọi Kitô hữu phải đại diện cho Giáo Hội Công Giáo thu nhỏ, vì Thánh Thần duy nhất đã biến cả toàn thể Giáo Hội và mọi chi thể của nó thành đền thờ của Người” (51). Do đó, tính sai lạc của bất cứ mâu thuẫn nào hay đặt cạnh nhau nào giữa các hồng ân phẩm trật và các hồng ân đặc sủng lại càng hiển nhiên hơn.

Tóm lại, mối tương quan giữa các hồng ân đặc sủng và cơ cấu bí tích của Giáo Hội xác nhận tính đồng yếu tính giữa các hồng ân phẩm trật (trong bản chất bền vững, thường hằng và bất khả thu hồi của chúng) và các hồng ân đặc sủng. Cho dù các hình thức lịch sử của những hồng ân đặc sủng không có chi bảo đảm là cứ y như nhau mọi thời (52), tuy nhiên, chiều kích đặc sủng thì sẽ không bao giờ thiếu trong đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội.

Bản sắc của các hồng ân phẩm trật

14. Để thánh hóa mọi thành viên của Dân Chúa và vì sứ mệnh của Giáo Hội trên thế giới, trong số các hồng ân đa dạng, phải dành “vị trí đặc biệt cho ơn làm Tông Đồ mà chính Chúa Thánh Thần đã buộc cả những người được ban đặc sủng cũng phải lệ thuộc thẩm quyền của các ngài” (53). Chính Chúa Giêsu Kitô cũng muốn phải có các hồng ân phẩm trật để bảo đảm sự hiện diện liên tục việc Người làm trung gian cứu rỗi duy nhất: “Các Tông Đồ được Chúa Kitô phong phú hóa bằng việc tuôn đổ cách đặc biệt Chúa Thánh Thần trên các ngài (xem Cv 1:8; 2:4; Ga 20:22-23), và các ngài chuyển giao hồng ân Chúa Thánh Thần này cho các người phụ tá các ngài bằng cách đặt tay (xem 1Tm 4:14; 2Tm 1:6-7)” (54). Do đó, việc trao ban các hồng ân phẩm trật có nguồn gốc trước nhất nơi tính viên mãn của bí tích Truyền Chức Thánh, được ban phát lúc truyền chức giám mục. Việc truyền chức này “cùng với chức vụ thánh hóa, cũng trao ban chức vụ giảng dậy và cai quản, một chức vụ, tuy thế, do chính bản chất của nó, chỉ có thể thi hành trong tình hiệp thông có tính phẩm trật với đầu và các thành viên của hợp đoàn” (55). Vì lý do này: “nơi các giám mục, do đó, tức các vị mà các linh mục vốn là trợ tá, Chúa Giêsu Kitô của chúng ta […] hiện diện giữa những người tin […] qua thừa tác vụ tuyệt diệu của các ngài, Người rao giảng Lời Chúa cho mọi dân tộc và không ngừng ban các bí tích đức tin cho những người tin, qua hành động đầy tình cha con của các ngài (xem 1Cr 4:15). Người tháp nhập các chi thể mới vào Nhiệm Thể Người qua việc tái sinh thiên giới, và sau cùng qua sự khôn ngoan và cẩn trọng của các ngài, Người điều hướng và hướng dẫn Dân Tân Ước trong cuộc hành trình của họ về hạnh phúc đời đời” (56). Truyền thống Kitô Giáo Đông Phương, vốn có nhiều nối kết quan yếu với các giáo phụ, đọc tất cả những điều này qua ý niệm taxis hết sức đặc trưng.Theo Thánh Basilêô Cả, việc xếp đặt Giáo Hội cho có trật tự hiển nhiên là công trình của Chúa Thánh Thần. Trật tự (taxis) này, một trật tự được Thánh Phaolô dùng để liệt kê các đặc sủng (xem 1Cr 12:28), là trật tự “phù hợp với sự phân phát các hồng ân của Chúa Thánh Thần” (57) và theo trật tự này, hồng ân Tông Đồ đứng hàng đầu. Khởi đi từ việc truyền chức giám mục, người ta cũng có thể hiểu các hồng ân phẩm trật trong tương quan với các thứ bậc khác của bí tích truyền chức thánh; trên hết, trong tương quan với các linh mục, những vị “được thánh hiến để rao giảng Tin Mừng và chăn dắt các tín hữu cũng như cử hành việc thờ phượng Thiên Chúa”, và là những vị “thánh hóa và cai quản thành phần trong đoàn chiên của Chúa được trao phó cho các vị”, dưới thẩm quyền của vị giám mục. Về phần các vị, các vị phải trở nên “một khuôn mẫu cho đoàn chiên”, để các vị có thể “dẫn dắt và phục vụ cộng đồng địa phương của các vị”(58). Trong bí tích truyền chức thánh, các giám mục và linh mục, nhờ việc xức dầu linh mục, “nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô Linh Mục một cách khiến các vị có thể hành động nhân danh Chúa Kitô là Đầu” (59). Người ta phải thêm vào các hồng ân này các hồng ân ban cho các phó tế “trên họ có việc đặt tay ‘không phải để làm linh mục, nhưng để đảm nhiệm thừa tác phục vụ’” và là những người “nhờ được tăng cường bởi ơn sủng bí tích, và trong sự hiệp thông với giám mục và đoàn linh mục của ngài, họ phục vụ trong chức phó tế lo phụng vụ, lời Chúa, và đức ái đối với Dân Chúa” (60). Tóm lại, các hồng ân phẩm trật dành riêng cho bí tích truyền chức thánh, trong các thứ bậc khác nhau, đã được trao ban để Giáo Hội như một hiệp thông không bao giờ không cung hiến cho mỗi thành viên trong đoàn tín hữu một quà phúc ơn sủng khách quan trong các bí tích, và nhờ thế, đem lại cho họ cả việc công bố Tin Mừng lẫn việc chăm sóc mục vụ hợp qui định.

Bản sắc các hồng ân đặc sủng

15. Trong việc thi hành các hồng ân phẩm trật, nếu việc cung hiến ơn sủng của Chúa Kitô cho toàn thể Dân Chúa suốt trong lịch sử được đảm bảo, thì mỗi cá nhân tín hữu vẫn được kêu gọi phải đích thân tiếp nhận và đáp lại ơn sủng này trong các hoàn cảnh cụ thể của đời sống họ. Do đó, các hồng ân đặc sủng được Chúa Thánh Thần ban phát tự do để ơn sủng bí tích có thể sinh hoa trái trong đời sống Kitô hữu nhiều cách khác nhau và ở mọi bình diện.

Vì các hồng ân này “hoàn toàn thích hợp và hữu ích cho nhu cầu Giáo Hội” (61), nhờ sự phong phú đa dạng của chúng, Dân Chúa có đủ khả năng sống sứ mệnh Tin Mừng của họ, biết biện phân các dấu chỉ của thời đại và biết giải thích chúng dưới ánh sáng Tin Mừng (62). Thực vậy, các hồng ân đặc sủng giúp các tín hữu khả năng đáp lại hồng ân cứu rỗi một cách hoàn toàn tự do và hoàn toàn thích ứng với thời đại. Nhờ cách này, chính họ trở nên hồng phúc yêu thương cho người khác và các chứng tá chân chính của Tin Mừng trước mặt toàn thể nhân loại.

Chia sẻ các hồng ân đặc sủng

16. Trong bối cảnh này, điều quan trọng là phải nhớ rằng các hồng ân đặc sủng hết sức đa dạng ngay trong chính chúng, không những vì đặc điểm chuyên biệt của chúng mà còn vì sự phân phát chúng trong cộng đồng Giáo Hội. Các hồng ân đặc sủng “được ban cho những con người cá thể, nhưng chúng cũng được những người khác chia sẻ, đến nỗi qua dòng thời gian, các đặc sủng ấy tồn tại như một di sản sống động và quý giá, tạo nên một liên hệ thiêng liêng đặc biệt giữa các cá nhân” (63). Mối tương quan giữa đặc tính cá nhân của đặc sủng và khả thể chia sẻ nó nói lên một yếu tố có tính quyết định trong tính năng động của nó, vì nó đụng tới một mối tương quan mà trong hiệp thông Giáo Hội vốn luôn liên kết cá nhân với cộng đồng (64). Khi được đem ra thi hành, các hồng ân đặc sủng có thể phát sinh ra sợi dây đồng cảm, gần gũi, và các tương quan thiêng liêng. Qua chúng, gia tài đặc sủng, phát sinh nơi con người của vị sáng lập, được chia sẻ và thâm hậu hóa, nhờ thế, đem lại sức sống cho các gia đình thiêng liêng đích thực. Các hiệp hội Giáo Hội mới này, trong các hình thức đa dạng của chúng, tự trình bầy mình như những hồng ân đặc sủng được chia sẻ. Các phong trào Giáo Hội và các cộng đồng mới cho thấy một đặc sủng sáng lập nhất định nào đó đã có thể tụ tập các tín hữu lại với nhau ra sao và giúp họ sống trọn ơn gọi Kitô hữu và bậc sống thích hợp của họ như thế nào trong việc phục vụ sứ mệnh Giáo Hội. Các hình thức lịch sử cụ thể của việc chia sẻ này có thể đa dạng; chính vì lý do này, như lịch sử linh đạo đã chứng minh, nhiều cơ sở khác nhau đã phát sinh từ một đặc sủng gốc duy nhất.

Được thẩm quyền Giáo Hội thừa nhận

17. Trong số các hồng ân đặc sủng do Chúa Thánh Thần ban phát tự do, nhiều hồng ân được tiếp nhận và sống bởi những người trong cộng đồng Kitô Giáo không cần bất cứ qui luật đặc thù nào. Tuy nhiên, khi một hồng ân tự trình bầy mình như là “đặc sủng sáng lập” hay “đặc sủng nguyên khởi”, thì nó cần được thừa nhận cách chuyên biệt để sự phong phú của nó được minh tả trong hiệp thông Giáo Hội và được lưu truyền một cách trung thành với thời gian. Ở đây, ta thấy phát sinh trách nhiệm có tính quyết định phải biện phân, một trách vụ vốn thuộc các thẩm quyền Giáo Hội (65). Thừa nhận tính chân chính của một đặc sủng không luôn luôn là một trách vụ dễ dàng, tuy nhiên, đây là một phục vụ mang tính bổn phận mà các mục tử buộc phải chu toàn. Các tín hữu có “quyền đòi các mục tử thông tri về tính chính đáng của các đặc sủng và tính đáng tin cậy của những người tự cho mình đã lãnh nhận các đặc sủng này” (66). Để đạt mục tiêu này, các thẩm quyền Giáo Hội nên lưu ý tới bản chất khó có thể đoán trước của các đặc sủng được Chúa Thánh Thần linh hứng và đánh giá các đặc sủng này theo qui luật đức tin với ý hướng xây dựng Giáo Hội (67). Diễn trình này đòi hỏi nhiều thời gian. Nó đòi phải qua một thời kỳ thích đáng mới có thể chứng thực được một đặc sủng, vốn phải được đệ trình cho một cuộc biện phân nghiêm túc cho tới khi được thừa nhận là chân chính. Thực tại của nhóm phát sinh từ đặc sủng phải có thời gian thích đáng để lớn lên và trưởng thành. Thời gian này phải vượt quá thời kỳ hứng khởi lúc ban đầu cho tới khi một cấu hình ổn định xuất hiện.Trong suốt diễn trình chứng thực này, thẩm quyền của Giáo Hội phải đồng hành một cách nhân từ với nhóm mới mẻ này. Việc đồng hành của vị mục tử không bao giờ được giảm thiểu vì, tình yêu săn đón của Đấng Chăn Chiên Lành luôn đồng hành với đoàn chiên như thế nào, thì tình phụ tử của các vị trong Giáo Hội vốn được kêu gọi làm đại diện cho Đấng Chăn Chiên Lành cũng không bao giờ được suy tàn như thế.

Các tiêu chuẩn để biện phân các hồng ân đặc sủng

18. Trong bối cảnh đó, điều hữu ích là ghi nhớ một số tiêu chuẩn, như đã được Huấn Quyền của Giáo Hội đưa ra trong mấy năm gần đây, để biện phân các hồng ân đặc sủng nơi các hiệp hội Giáo Hội. Các tiêu chuẩn này nhằm mục đích giúp việc thừa nhận bản chất Giáo Hội chân chính của các đặc sủng.

a) Tính ưu vị của lời mời gọi mọi Kitô hữu nên thánh. Mọi thực thể phát sinh từ việc cùng chia sẻ một đặc sủng chân chính luôn luôn phải phục vụ việc nên thánh trong Giáo Hội và, do đó, việc gia tăng đức ái và thực sự tiến tới sự hoàn thiện của yêu thương (68).

b) Cam kết loan truyền Tin Mừng. Các đặc sủng chân chính “là các hồng ân của Chúa Thánh Thần được tháp nhập vào thân thể Giáo Hội, được lôi cuốn vào tâm điểm là chính Chúa Kitô và sau đó, được tuôn vào lực đẩy rao giảng Tin Mừng” (69). Theo cách này, chúng phải có đặc điểm “phù hợp với và tham dự vào các mục tiêu tông đồ của Giáo Hội” và biểu lộ “một lòng nhiệt thành truyền giáo làm gia tăng tính hữu hiệu của chúng như các yếu tố tham dự vào việc tái phúc âm hóa” (70).

c) Tuyên xưng đức tin Công Giáo. Mọi thực thể đặc sủng phải là nơi để giáo dục đức tin trong tính viên mãn của nó bằng cách “tuân theo và tuyên xưng sự thật về Chúa Kitô, về Giáo Hội và nhân loại, trong sự vâng lời Huấn Quyền Giáo Hội, như Giáo Hội giải thích nó” (71); vì lý do này, họ phải tránh việc phiêu lưu “vượt quá (proagon) tín lý và cộng đồng Giáo Hội”. Thực vậy, nếu “người ta không ở trong những điều này, họ không hợp nhất với Thiên Chúa và với Chúa Giêsu Kitô” (xem 2Ga 9) (72).

d) Làm chứng cho việc hiệp thông thực sự với toàn thể Giáo Hội. Điều này đòi một “tương quan con thảo với Đức Giáo Hoàng, hoàn toàn gắn bó với niềm tin rằng ngài là tâm điểm hợp nhất vĩnh cửu và hữu hình của Giáo Hội hoàn vũ, và với giám mục địa phương, ngài là ‘nguyên tắc và nền tảng hữu hình của hợp nhất’ trong các Giáo Hội đặc thù” (73). Điều này hàm nghĩa một lòng “sẵn sàng trung thành tuân theo các giáo huấn tín lý và các sáng kiến mục vụ” (74), cũng như “một lòng sẵn sàng tham dự vào chương trình và hoạt động của Giáo Hội trên các bình diện địa phương, quốc gia và quốc tế; một cam kết đối với việc giảng dạy giáo lý và một khả năng dạy dỗ và đào tạo các Kitô hữu” (75).

e) Nhìn nhận và trân qúi tính bổ túc hỗ tương của các thành phần đặc sủng khác trong Giáo Hội. Từ tiêu chuẩn này, phát sinh lòng sẵn sàng hợp tác hỗ tương (76). Thực vậy, “một dấu chỉ chắc chắn của tính chân chính nơi một đặc sủng là đặc tính Giáo Hội của nó, khả năng của nó trong việc được tháp nhập một cách hài hòa vào đời sống của dân thánh thiện và trung thành của Thiên Chúa vì ích lợi của mọi người. Điều gì thực sự mới mẻ do Chúa Thánh Thần đem đến cũng không cần phải che phủ các hồng ân và các nền linh đạo khác được người ta cảm nhận” (77).

f) Chấp nhận các giây phút bị thử thách trong lúc biện phân các đặc sủng. Vì một hồng ân đặc sủng có thể bao hàm “một yếu tố có tính độc đáo thưc sự và có tính sáng kiến đặc biệt nào đó đối với đời sống thiêng liêng của Giáo Hội” và ở chung quanh nó, “sự việc có thể có phần rắc rối”, thành thử một trong các tiêu chuẩn xác nhận tính chân chính là “lòng khiêm nhường chịu đựng nghịch cảnh” sao cho “mối tương quan thực sự giữa một đặc sủng chân chính, với viễn tượng mới mẻ của nó, và sự đau khổ nội tâm, mang theo được một lịch sử không thay đổi của sợi dây nối kết giữa đặc sủng và thập giá” (78). Bất cứ sự căng thẳng nào có thể phát sinh cũng đều là một lời kêu gọi phải thực hành lòng bác ái lớn hơn, nhằm hướng tới một hiệp thông và hợp nhất Giáo Hội sâu sắc hơn là hiện có.

g) Phải có các hoa trái thiêng liêng như đức ái, niềm vui, hòa bình và trưởng thành nào đó về nhân bản (Xem Gl 5:22); ước ao được “sống đời sống của Giáo Hội cách mãnh liệt hơn “ (79), ước ao được “lắng nghe và suy niệm lời Chúa” nhiều hơn (80); “đánh giá cao một cách đổi mới việc cầu nguyện, việc chiêm niệm, sinh hoạt phụng vụ và bí tích, đánh thức ơn gọi hôn nhân Kitô Giáo, chức linh mục thừa tác và đời sống thánh hiến” (81).

h) Chiều kích xã hội của việc rao giảng Tin Mừng. Điều cũng cần thiết là thừa nhận rằng, nhờ sự thúc đẩy của đức ái, “giáo huấn sơ truyền (kerygma) vốn có một nội dung xã hội rõ ràng: đời sống cộng đồng và việc nối kết với người khác nằm ngay ở tâm điểm của Tin Mừng” (82). Tiêu chuẩn biện phân này, một tiêu chuẩn không chỉ giới hạn vào các thực thể giáo dân trong Giáo Hội, vốn nhấn mạnh tới sự nhất thiết phải là “các cửa ngõ phong phú cho việc tham gia và tình liên đới trong việc tạo ra các điều kiện sống công bình và yêu thương hơn trong xã hội” (83). Về phương diện này, “lòng ước ao được hiện diện như Kitô hữu trong các khung cảnh khác nhau của dời sống xã hội và việc tạo ra cũng như đánh thức các công trình bác ái, văn hóa và thiêng liêng; tinh thần không dính bén và đức khó nghèo thiêng liêng dẫn tới một lòng quảng đại lớn hơn trong tình bác ái với mọi người” thẩy đều quan trọng (84). Qui chiếu vào Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội cũng là một nhân tố có tính quyết định (85). Cách riêng, “đức tin của chúng ta vào Chúa Kitô, Đấng đã trở nên nghèo, và luôn gần gũi người nghèo và người bị xua đuổi, là căn bản đối với quan tâm của chúng ta đối với việc phát triển toàn diện các thành viên bị lãng quên nhất của xã hội” (86). Điều này không thể thiếu nơi một thực thể có tính Giáo Hội chân chính.

Kỳ sau: V. Thực hành trong Giáo Hội liên hệ tới mối tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và các hồng ân phẩm trật

_____________________________________________________________________________________________________________

[43] Thánh Cyprianô thành Carthage, De oratione dominica, 23: PL 4, 553; xem Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 4.

[44] Công Đồng Vatican II, Sắc lệnh Unitatis Redintegratio, 2.

[45] Xem Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tuyên Bố Dominus Iesus, 16: AAS 92 (2000), 757: “Sự viên mãn của mầu nhiệm cứu rỗi của Chúa Kitô cũng thuộc về Giáo Hội, vốn kết hợp bất khả phân với Chúa của mình”.

[46] Đức Phaolô VI, Bài Giáo Lý (8 tháng 6, 1966): Insegnamenti 4 (1966), 794.

[47] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 1.

[48] Kỳ Họp Toàn Thể Đặc Biệt Lần Thứ Hai Thượng Hội Đồng Giám Mục, Ecclesia sub Verbo mysteria Christi celebrans pro salute mundi (Giáo Hội dưới Ngôi Lời, mầu nhiệm Chúa Kitô cử hành để cứu rỗi thế gian). Phúc trình sau cùng (7 tháng 12, 1985), II, C, 1: Enchiridion Vaticanum, 9, 1800; Xem Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Thư Communionis Notio (28 tháng 5, 1992), 4-5: AAS 85 (1993), 839-841.

[49] Xem Đức Bênêđíctô XVI, Tông Huấn Verbum Domini (30 tháng 9, 2010), 54: AAS 102 (2010), 733-734; Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, 174: AAS 105 (2013), 1092-1093.

[50] Xem Thánh Basilêô thành Cesarea, De Spiritu Sancto, 26: PG 32, 181.

[51] J.H. Newman, Sermons Bearing on Subjects of the Day, London 1869, 132.

[52] Lời khẳng định điển hình về vấn đề này liên quan tới Đời Sống Thánh Hiến có thể tìm thấy trong Đức Gioan Phaolô II, Bài Giáo Lý (28 tháng 9, 1994), 5: Insegnamenti 17/2 (1994), 404-405.

[53] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 7.

[54] Đã dẫn., 21.

[55] Đã dẫn.

[56] Đã dẫn.

[57] Thánh Basilêô thành Cesarea, De Spiritu Sancto, 16, 38: PG 32, 137.

[58] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 28.

[59] Đã dẫn, Sắc Lệnh Presybyterium Ordinis, 2.

[60] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 29.

[61] Đã dẫn, 12.

[62] Xem Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes, 4, 11.

[63] Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Christifideles Laici, 24: AAS 81 (1989), 434.

[64] Xem Đã dẫn, 29: AAS 81 (1989), 443-446.

[65] Xem Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium,, 12.

[66] Đức Gioan Phaolô II, Bài Giáo Lý (9 tháng 3, 1994), 6: Insegnamenti 17/1 (1994), 641.

[67] Xem Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo, 799 tt; Thánh Bộ Các Viện Đời Sống Thánh Hiến và Các Hội Đời Sống Tông Đồ, Chỉ Thị Mutuae Relationes, 51: AAS 70 (1978), 499-500; Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Vita Consecrata, 48: AAS 88 (1996), 421-422; Đã dẫn, Bài Giáo Lý (24 tháng 6, 1992), 6: Insegnamenti 15/1 (1992), 1935-1936.

[68] Xem Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, 39-42; Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Christifideles Laici, 30: AAS 81 (1989), 446.

[69] Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, 130: AAS 105 (2013), 1074.

[70] Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Christifideles Laici, 30: AAS 81 (1989), 447; Xem Đức Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, 58: AAS 68 (1976), 49.

[71] Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Christifideles Laici, 30: AAS 81 (1989), 446-447.

[72] Đức Phanxicô, Bài Giảng Lễ Hiện Xuống (19 tháng 5, 2013), Insegnamenti 1 (2013), 208.

[73] Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Christifideles Laici, 30: AAS 81 (1989), 447; Xem Đức Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, 58: AAS 68 (1976), 48.

[74] Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Christifideles Laici, 30: AAS 81 (1989), 447.

[75] Đã dẫn: AAS 81 (1989), 448.

[76] Xem Đã dẫn: AAS 81 (1989), 447.

[77] Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, 130: AAS 105 (2013), 1074-1075.

[78] Thánh Bộ Các Viện Đời Sống Thánh Hiến và Các Hội Đời Sống Tông Đồ, Chỉ Thị Mutuae Relationes, 12: AAS 70 (1978), 480-481; Xem Đức Gioan Phaolô II, Diễn Văn Dịp gặp Các Phong Trào Giáo Hội và Cộng Đồng Mới ngày Vọng Lễ Hiện Xuống (30 tháng 5, 1998), 6: Insegnamenti 21/1 (1998), 1122.

[79] Đức Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, 58: AAS 68 (1976), 48.

[80] Đã dẫn; Xem Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, 174-175: AAS 105 (2013), 1092-1093.

[81] Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Christifideles Laici, 30: AAS 81 (1989), 448.

[82] Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, 177: AAS 105 (2013), 1094.

[83] Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Christifideles Laici, 30: AAS 81 (1989), 448.

[84] Đã dẫn.

[85] Xem Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, 184, 221: AAS 105 (2013), 1097, 1110-1111.

[86] Đã dẫn, 186: AAS 105 (2013), 1098.