Bài này được viết bởi thông tín viên Delia Gallagher, là người phỏng vấn Ông Russell Shaw nhận định về hiện trạng Giáo Hội tại Hoa Kỳ vào thời điểm đó.

ROME, 25-3-2004 -- Ông Russell Shaw khi đó là thư ký đặc trách về vấn đề báo chí của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ từ năm 1969 đến 1987. Ông là tác giả của 16 cuốn sách, cuốn sách mới nhất của Ông có tiêu đề “Ơn gọi cá nhân: Thiên Chúa kêu gọi mọi người bằng chính tên của họ,” được xuất bản vào năm ngoái do tờ Báo Khách Viếng Thăm Ngày Chủ Nhật (Our Sunday Visitor). Sự hiểu biết sâu rộng về lề lối hoạt động của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ và sự uyên thâm của Ông với tư cách là một nhà báo và là một cây viết về Công Giáo có tên tuổi, đã giúp Ông trở thành một nhà bình luận viên đầy thế lực khi bàn về cuộc khủng hoảng của Giáo Hội Công Giáo tại Hoa Kỳ thời nay. Ông vừa đến Rôma để thuyết giảng trong suốt một tuần, tại đó, Ông thành thật chia sẽ với một nhóm báo chí của Vaticăn về những quan điểm của Ông về “sự ướt át, mềm dẻo” tại một số chủng viện ở Hoa Kỳ, sự thiếu hợp nhất trong việc đào tạo với Vaticăn (the Vatican’s “uncollegiality”), và tương lai của Đạo Công Giáo tại Hoa Kỳ. Tôi hỏi Ông Shaw về đâu là những nguyên do cơ bản của vụ xì-căng-đàn lạm dụng tính dục.

Ông nói, “Khoảng hai tuần trước tại Hoa Kỳ, tôi có đọc được một bản tin của hãng thông tấn Associated Press về một câu chuyện xảy ra tại địa phận Springfield, thuộc tiểu bang Massachusetts, thì đó là một trong những câu chuyện hiếm hoi mà có ai đó vô tình nói về cách thức sống thật, để từ đó chúng ta có thể tự nói với chính mình rằng, “Ồ Chúa ơi! Thật đúng vậy sao!”” Vị Giám Mục tại Sprinfield đã từ nhiệm vì những cáo buộc về lạm dụng tính dục chống lại Ngài, và một vị linh mục lão thành của địa phận được đặt lên làm giám quản tạm thời cho địa phận, Ông Shaw kể ra như vậy. “Và chính vì thế vị Đức Ông này bị hãng tin AP chính dẫn lời nhận xét của mình khi nói tới vần đề lạm dụng tính dục và vì chân thật, nên vị Đức Ông này đã nói rất nhiều từ, chẳng hạn như, ông biết không, khi tôi còn ở trong chủng viện từ những năm của 1950 và 1960, ai ai cũng xem chuyện đó là thường tình. Tôi muốn ám chỉ rằng – và đây tôi trích dẫn lại nguyên văn câu nói của vị Đức Ông đó là “thời đó nếu một linh mục có một chút hành vi tình dục gì đó với một thanh niên, thì chẳng có gì là xấu xa cả.” Thế sau đó, hãng tin AP đưa ra một câu chuyện vào chính ngày hôm sau là như cách để bào chửa. Cửa thiên đàng chắc hẳn phải mở cửa cho vị Đức Ông xấu số đó bởi vì vị đó đã bị hãng tin trích dẫn lại bằng cách nói rằng “Tôi không muốn ám chí đó là chuyện đứng đắn!” Sau khi đọc câu chuyện đó xong, tôi tự nói với chính bản thân mình, trời ơi, tôi chắc rằng đó chính là lời giải thích tại sao đã xãy ra những vụ lạm dụng, vì lời phát biểu đó đã hàm chứa tất cả rồi! Có nghĩa là trong phạm vi của các chủng viện tại Mỹ và trong giới tu sĩ, hành động vi phạm tính dục đó là chuyện thường tình, và chẳng có gì là xấu cả.”

Ông Shaw nói tiếp, “Mọi chuyện bắt đầu trở nên chua xót hơn đối với nền thần học luân lý vào cuối những năm 1960. Nhưng nó rất là tệ hại vào những năm 1950 và những chuyện như thế đã bắt đầu rỉ qua các chủng viện. Trở lại những năm của thập niên 50, khi đó chúng ta đã bắt đầu có những hình ảnh trái ngược. Một số chủng sinh và một số địa phận vẫn còn lành mạnh về những chuyện đó, còn một số khác thì bắt đầu tệ hại vô cùng. Vì thế vấn đề ngang nhiên được đưa ra ngay trước những cuộc xáo trộn của thập niên 60 và cuộc cách mạng về dục tính đã đi ngược lại với thần học và thông điệp về ‘Đạo Đức Con Người’ (Humanae Vitae) lúc đó đã gây ra nhiều tranh cãi. Và khi đem ra áp dụng những điều khoản của thông điệp đó vào một tình trạng vốn đã đầy dẫy sư nhiễu nhương và ướt át như thế tại một số chủng viện về chuyện linh mục độc thân và những nghĩa vụ của linh mục, khi đó chúng ta có thể nhận ra một cách khách quan rằng đó là lý do tại sao tai họa đó, cuối cùng cũng đã phải xãy ra.”

Ông phê bình cách thức phản ứng đáp lại của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ về sự khủng hoảng của nạn lạm dụng tính dục và nhận thấy thời điểm có liên quan đến việc tung ra bản báo cáo điều tra của John Jay thuộc phân khoa điều tra tội phạm, tại Vatican là hoàn toàn sai lầm.

Ông nói, “Tôi không nghĩ là chính sách mà các Giám Mục Hoa Kỳ đem ra áp dụng vào năm 2002 là một chính sách tốt. Tôi nghĩ có một vài điểm trục trặc trầm trọng, và nếu Vaticăn, cùng chia sẽ chung với quan điểm đó, mà thật sự là Vaticăn đã, thì chính tôi và Vatican đã có cùng chung một ý tưởng rằng có một sự dè dặt rất quan trọng về chính sách lạm dụng tính dục của các Giám Mục Hoa Kỳ. Nhưng cũng may, chính sách đó sẽ được duyệt xét lại và tất cả đều có một cái nhìn tổng quan xem xét lại. Chống lại với lập luận đó, tôi nghĩ là thật là kỳ cục trong khi các Giám Mục Hoa Kỳ đang chuẩn bị tung ra bản nghiên cứu mới về những vụ lạm dụng tính dục xảy ra suốt nữa thế kỷ qua tại Hoa Kỳ, thì Vaticăn cũng chọn ngay thời điểm đó để tung ra những tài liệu biên bản của hiện trạng lạm dụng tính dục. Các giới chức không Công Giáo như các chuyên gia về tâm thần học, các nhà xã hội học, vân vân, những người cực lực chỉ trích chính sách mà các Giám Mục Hoa Kỳ đem ra thi hành. Thì qua những cuộc tranh luận như vậy, đôi lúc tôi đứng về phía các Giám Mục Hoa Kỳ, lúc khác, tôi lại nghiêng về phía Vaticăn, nhưng trong trường hợp này, tôi nghiêng về phía các Giám Mục Hoa Kỳ. Đúng ra chúng ta phải là một Giáo Hội huynh đệ tương đồng và hiệp nhất, dù có chủ ý hay không, đôi lúc tôi cảm thấy mình như tách rời và không hiệp nhất với Vaticăn.”

Ông Shaw nói tiếp, “Giáo Hội đã bị tổn hại trầm trọng qua biến cố này. Và tại Vatican, nó cũng sẽ bị tổn hại, cũng như tại Hoa Kỳ, xứ sở của tôi, các vị đó đã gây ra nhiều thiệt hại trầm trọng cho Giáo Hội. Đôi lúc qua trực cảm tôi thầm nghĩ, “tại sao những người Mỹ điên rồ đó, không biết cách câm miệng lại?” Vì tôi nghĩ, đó không phải là quan điểm chung mà ai cũng đều có thể chấp nhận được, tôi biết được điều đó, thế nhưng tôi nghĩ là quan điểm đó hiện đã có tại Vaticăn này rồi, và đó chính là một thái độ vốn đã được phổ biến từ rất lâu tại Giáo Hội ở đất nước Hoa Kỳ. Vì thế, là một người giáo dân Công Giáo tôi nghĩ mình phải có quyền và trách nhiệm nói ra sự thật và nói với các vị lãnh đạo Giáo Hội, “Thôi nào, các vị, hãy chấm dứt ngay vào việc bắn tỉa lẫn nhau đi. Vì chưng đó là quyền lợi chung của Giáo Hội, một Giáo Hội vốn đang ở trong trạng thái lâm nguy rồi.”

Mặc dầu bất đồng với một số giải pháp được đề ra bởi các Đức Giám Mục Hoa Kỳ, nhưng ông Shaw đã khen ngợi nổ lực của các vị trong việc nhìn thấu vào vấn đề. Ông nói, “Tôi có khuynh hướng nghĩ rằng xem thấu qua một chút thì cũng giống như là việc mang thai, chúng ta không thể nào mang thai một chút và xuyên thấu qua một chút được. Tôi muốn thấy các Giám Mục Hoa Kỳ áp dụng chính sách xuyên thấu này cho toàn bộ Giáo Hội, chứ không phải chỉ có một phần nào đó để đối phó lại với giới báo chí. Và tôi cũng còn nghĩ rằng sẽ là lành mạnh hơn nếu đem nó ra áp dụng cho tất cả những mối quan hệ giữa các thành viên của Giáo Hội. Những sự dấu diếm không cần thiết, phần lớn lý giải tại sao vụ xì-căng-đang xảy ra một cách tệ hại như vậy. Nếu những năm trước đây, không có những sự dấu diếm không cần thiết này, thì vấn đề không phải trở nên quá trầm trọng như hiện nay.”

Ông Shaw cũng đồng ý rằng có một số Giám Mục hiện thời bị bất công kết tội là có dính dáng đến cuộc khủng hoảng về tính dục mà không đưa ra một hành động kỷ luật gì cả, nhưng thật ra 20 năm trước đây khi những kẻ lạm dụng phạm tội, thì lúc đó các Ngài chưa phải là Giám Mục. Ông nói “Theo tôi thật là quá đáng khi nói rằng sự khủng hoảng về lạm dụng tính dục tại Hoa Kỳ phần lớn chính là hệ quả của việc làm cẩu thả và quản lý lõng lẽo của các thế hệ Giám Mục trước kia và thế hệ Giám Mục thời này phải lãnh đủ. Chẳng có ai hài lòng về việc phải lo làm sạch những điều sai trái của những người khác cả.” Cuộc khủng hoảng thật sự, theo ông Shaw, đã diễn ra vào khoảng 30 đến 40 năm về trước trong lịch sử của Công Giáo tại Hoa Kỳ, cuộc khủng hoảng về lạm dụng tính dục đã “gây di căn” cho một cuộc khủng hoảng không chỉ có liên quan đến những hành vi tội phạm của các linh mục mà thôi đâu. Ông nói, “Có một câu hỏi mà không có ai đả động tới, mà chính tôi đã nhiều lần nêu ra, đó là: Thế về những cuộc lạm dụng tính dục bởi các giáo sĩ tại Hoa Kỳ mà nó không được xem là tội phạm thì sao, tức là nó không hề liên hệ tới các trẻ em nhưng liên hệ tới những người lớn cùng đồng tình? Nó vô tình không phải phạm vào luật lệ, nhưng nó lại là một thứ tội trọng. Không ai đề cập đến chuyện đó cả.” Là một giáo dân Công Giáo, ông Shaw nghĩ, điều đó cũng là một dấu chỉ cho cuộc khủng hoảng chung. “Nhìn chung, nếu người Công Giáo Hoa Kỳ tin vào những cuộc thăm dò trưng cầu dân ý, thì tôi nghĩ họ sẽ đeo đuổi về điều này, vì lẽ, ở Hoa Kỳ này, đạo đức về tính dục đã bị trần tục hóa từ rất lâu rồi. Thông điệp về ‘Đạo Đức Con Người’ đã bị phản bác kịch liệt về cả mặt lý thuyết lẫn thực hành đối với người Công Giáo Hoa Kỳ. Tỉ lệ phá thai trong một số nhỏ Công Giáo tại Hoa Kỳ là rất cao. Về mặt đạo đức tính dục hay thái độ lạm dụng tính dục, thì người Công Giáo Hoa Kỳ chẳng khác nào người không Công Giáo và đó chẳng phải là một bức tranh tươi sáng cho lắm.” Và hệ quả của những vụ lạm dụng tính dục chính là vấn đề tài chánh: các địa phận đang phải trả những khoản tiền lớn để dàn xếp các vụ kiện. Ông Shaw nghĩ đó không phải là chuyện tệ hại cho lắm. Ông nói, “Giáo Hội Công Giáo tại Hoa Kỳ là một Giáo Hội mà qua nhiều thập niên đã quá say mê về tiền bạc và quá say mê trong việc biết rằng tiền bạc không thể nào mang lại được sự yên ủi. Nói như vậy trông có vẽ là lỗ mãng, nhưng thật ra chính bản thân tôi, tôi rất rất buồn về cách dàn xếp những vụ kiện tụng vừa qua để một đống tiền chui vào túi các luật sư, và vì thế, nhìn chung tôi chẳng thấy có xót xa tí nào khi thấy tiền bị mất đi. Tôi nghĩ là về lâu về dài, sẽ tốt cho Giáo Hội nếu như Giáo Hội có ít tiền và có lẽ, khi đó sẽ ít có những vụ khủng hoảng như vừa rồi.”

Vào khoảng giữa tháng sáu này, các Giám Mục Hoa Kỳ sẽ tụ tập về Denver, thủ đô của tiểu bang Colorado trong một cuộc họp đặc biệt được tổ chức cứ sau vài năm, với những cuộc thảo luận đóng kín cửa, sẽ có một kế hoạch được đưa ra về sự khủng hoảng lớn rộng cho nền Công Giáo tại Hoa Kỳ ngày nay. Ông Shaw tóm lược những hành động chính mà các Giám Mục sẽ bàn đến đó là:

1. Xin phép Đức Giáo Hoàng về một hội đồng toàn thể mới tại Hoa Kỳ

Ông Shaw nói, “Theo tôi biết thì cuộc họp của hội đồng toàn thể lần cuối cùng diễn ra là vào cuối thế kỷ 19, tức vào năm 1873. Như thế thì đây sẽ là một hội đồng toàn thể lần thứ 4 và các Giám Mục sẽ đưa ra một nghị trình thảo luận lớn rộng có liên quan đến những vấn đề của luân lý tính dục nhằm đem ra áp dụng cho các linh mục vì nhìn chung nó cũng sẽ được đem ra áp dụng cho tất cả những người Công Giáo và có liên quan đến sự đón nhận đích thực của Công Đồng Chung Vaticăn 2, những điều mà chưa được đem ra áp dụng tại Hoa Kỳ.”

2. Xin phép Đức Giáo Hoàng về việc tổ chức một Thượng Hội Đồng Giám Mục của vùng, sẽ diễn ra tại Rôma duới sự chủ trì của Đức Giáo Hoàng

Theo như nhận xét của ông Shaw thì “Lợi thế của Thượng Hội Đồng Giám Mục của vùng là chỉ những tham dự viên phải là các Giám Mục mà thôi. Và đó là cuộc họp đóng kín cửa. Phiên họp tổng thể, theo như những khoản luật của Giáo Hội mà tôi đã đọc qua, sẽ gồm có khoảng 2,000 người, như thế là rất đông để các Giám Mục có được một cuộc họp mang tính hiệu quả và xác thực hơn.”

3. Đảo ngược lại tất cả mọi sáng kiến mới không rõ ràng của Hội Đồng Giám Mục

Ông Shaw nói, “Mặc dù tôi làm việc với Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ như là thư ký phụ trách về báo chí trong hơn 18 năm qua và tôi hoàn toàn biết rất rõ rằng là nhu cầu và giá trị của những cuộc họp của Hội Đồng Giám Mục trong thời đại ngày nay là rất cần thiết, tuy nhiên, trong ba điều mà tôi trình bày ở trên, thì đây là điều tôi không mấy tán thành, nếu không nói đúng ra, là tôi chống lại. Lý do chỉ đơn giản như thế này. Chúng ta giao một cuộc khủng hoảng cho một nhóm các hội đồng vốn hành động rất chậm chạp và phức tạp, và một nhóm nhân viên vốn rất năng động và có cam kết rất cao trong Giáo Hội nhưng ai nấy đều có cách làm việc của riêng họ, chẳng có ai giống ai cả. Tôi không nghĩ đó là cách tạo ra một hành động nghĩ suy năng động mới mà các Giám Mục đang tìm kiếm.” Những đề nghị của cuộc họp tại Denver sẽ được bỏ phiếu vào tháng 11 nhân kỳ họp thường niên của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ tại thủ đô Washington. Do đó, theo ông Shaw, “Vì thế vào khoảng cuối năm này chúng ta mới có thể biết được các vị Giám Mục Hoa Kỳ sẽ phải hành động ra sao đối với cuộc khủng hoảng. Và trong lúc này, chúng ta có lý do để đi ra ngoài chơi và nhảy nhót trên đường phố hay là chúng ta có lý do để đóng gói quần áo và tro bụi.”