Văn kiện GIÁO HỘI VÀ INTERNET

ÐẠO ÐỨC TRONG INTERNET

HỘI ÐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI


Nội Dung

I. Dẫn Nhập

II. Về Internet

III. Một số khía cạnh đáng quan tâm

IV. Ðề nghị và kết luận


I. Dẫn Nhập

Cuộc cách mạng trong truyền thông xã hội ngày nay liên quan đến một sự tái định hình căn bản những yếu tố mà qua đó con người cảm nhận thế giới chung quanh họ, xác nhận và biểu tỏ ra điều mà họ cảm nhận. Tình trạng sẵn sàng thường xuyên của hình ảnh và ý tưởng cùng với sự truyền đạt nhanh chóng ngay cả từ lục địa này sang lục địa khác, có những hệ quả sâu sắc, cả tích cực lẫn tiêu cực, đối với sự phát triển về phương diện tâm lý, đạo đức, và xã hội của cá nhân, cấu trúc và hoạt động của xã hội, sự giao lưu giữa các nền văn hóa, sự cảm nhận và truyền đạt các giá trị, thế giới quan, ý thức hệ và niềm tin tôn giáo"1

Tính xác thực của những lời này càng trở nên rõ ràng hơn bao giờ trong thập niên vừa qua. Ngày nay không cần vận dụng trí tưởng tượng xa vời cũng có thể hình dung trái đất như một quả cầu nối kết, vo ve với những chuyển dịch điện tử - một hành tinh líu lo được bọc trong bề ngoài tĩnh lặng của không gian. Câu hỏi thuộc phạm vi đạo đức là liệu rằng điều này có đóng góp vào sự hình thành nhân bản thực sự và giúp cá nhân cũng như các dân tộc nên đúng như phẩm giá cao trọng của họ không.

Và, cố nhiên, trong nhiều khía cạnh, câu trả lời là có. Những phương tiện truyền thông mới là những khí cụ mạnh mẽ cho giáo dục và cho sự phong phú văn hóa, cho hoạt động thương mại và sự tham gia chính trị, cho đối thoại giữa các nền văn hóa và cho sự hiểu biết và như chúng tôi nêu ra trong văn kiện đính kèm,2 chúng cũng phục vụ mục đích tôn giáo. Tuy nhiên, đồng tiền này còn một mặt nữa. Các phương tiện truyền thông có thể được dùng cho lợi ích của cá nhân và cộng đồng thì cũng có thể được dùng để khai thác, gây ảnh hưởng, thống trị và làm băng hoại.

2. Internet là phương tiện mới nhất và trong nhiều khía cạnh là mạnh mẽ nhất trong hàng ngũ các phương tiện truyền thông -điện tín, điện thoại, truyền thanh, truyền hình - mà đối với nhiều người đã giúp loại bỏ dần thời gian và không gian như những cản trở cho truyền thông trong suốt một thế kỷ rưỡi qua. Internet có những hệ quả to lớn cho cá nhân, quốc gia và thế giới.

Trong tài liệu này, chúng tôi muốn đưa ra một quan điểm Công Giáo về Internet, như là một khởi điểm cho sự tham gia của Giáo Hội trong cuộc đối thoại với những thành phần khác trong xã hội, đặc biệt với những nhóm tôn giáo khác, liên quan đến sự phát triển và sử dụng khí cụ kỹ thuật diệu kỳ này. Hiện nay, Internet đã được đưa vào sử dụng tốt đẹp trong nhiều lãnh vực, với lời hứa hẹn sẽ còn mang lại nhiều lợi ích hơn nữa, nhưng cũng có những tai hại gây ra do việc sử dụng không thích đáng. Internet sẽ là tốt hay xấu phần lớn là vấn đề lựa chọn - với những ai đang cân nhắc lựa chọn, Giáo Hội mang đến hai yếu tố quan trọng: cam kết của Giáo Hội đối với phẩm giá con người và truyền thống khôn ngoan về luân lý đã có từ lâu.

3. Cũng như đối với các phương tiện truyền thông khác, con người và cộng đồng nhân loại là trung tâm của đánh giá đạo đức về Internet. Khi đề cập đến thông điệp được truyền thông, tiến trình truyền thông, những vấn đề thuộc về cấu trúc và tổng thể trong truyền thông, "nguyên tắc đạo đức căn bản là điều này: Con người nhân bản và cộng đồng nhân bản là cùng đích và là sự đo lường việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội truyền thông phải là từ con người đến con người cho sự phát triển tổng thể của con người".4

Lợi ích chung - "tổng hợp các điều kiện xã hội cho phép con người, các nhóm hay các cá nhân, đạt đến sự viên mãn hoàn toàn hơn và dễ dàng hơn"5 - là nguyên tắc căn bản thứ hai cho sự đánh giá truyền thông xã hội. Lợi ích chung cần phải được hiểu bao gồm như một tổng thể những mục tiêu có giá trị mà các thành viên trong một cộng đồng gắn bó với nhau và là điều làm cho cộng đồng tồn tại để hiện thực hóa và chống đỡ. Lợi ích của các cá nhân tùy thuộc vào lợi ích chung của các cộng đồng của họ.

Nhân đức dẫn con người đến chỗ bảo vệ và đề cao lợi ích chung là tình liên đới. Ðó không phải là cảm giác về "một lòng trắc ẩn mơ hồ hay một nỗi buồn nông cạn" trước những hoạn nạn của người khác, nhưng là "một quyết tâm mạnh mẽ và bền bỉ cam kết chính mình cho lợi ích chung nghĩa là đứng về phía điều tốt cho mọi người và cho từng cá nhân, vì tất cả chúng ta thực sự có trách nhiệm với mọi người"6 Ðặc biệt là ngày nay tình liên đới có một chiều kích quốc tế rõ ràng và mạnh mẽ lợi ích chung chung toàn cầu là điều chính đáng phải đề cập đến và là điều bắt buộc ta phải hành động.

4. Lợi ích chung chung toàn cầu, nhân đức liên đới, cuộc cách mạng trong các phương tiện truyền thông đại chúng và kỹ thuật thông tin, và Internet tất cả đều liên quan đến tiến trình toàn cầu hóa.

Ở mức vĩ mô, kỹ thuật mới lèo lái và hỗ trợ cho toàn cầu hóa, tạo ra một tình trạng trong đó "thương mãi và truyền thông không còn bị giới hạn bởi những đường biên giới nữa".7 Ðiều này có những hậu quả hết sức quan trọng. Toàn cầu hóa có thể làm tăng sự phú cường và đẩy mạnh sự phát triển nó đem đến những thuận lợi như "năng suất và gia tăng sản lượng …sự đoàn kết mạnh hơn giữa các dân tộc …một sự phục vụ cho đại gia đình nhân loại tốt hơn"8 Nhưng những phúc lợi đến nay vẫn chưa được chia sẻ đồng đều. Nhiều cá nhân, công ty, và các quốc gia đã trở nên giàu sụ trong khi lại có những người khác bị tụt hậu đằng sau. Nhiều nước đã bị đào thải ra hoàn toàn khỏi tiến trình, bị từ chối một chỗ trong thế giới mới đang được hình thành. "Toàn cầu hóa, trong khi chuyển hóa sâu sắc những hệ thống kinh tế bằng cách tạo ra những khả năng tăng trưởng bất ngờ, cũng dẫn đến tình trạng nhiều người bị đẩy ra lề đường: thất nghiệp trong nhiều quốc gia phát triển cao và nạn nghèo đói tột cùng trong quá nhiều quốc gia Nam Bán Cầu tiếp tục gạt hàng triệu người nam nữ ra khỏi tiến bộ và thịnh vượng".9

Không có cách nào để biết rõ ràng liệu các xã hội đã bước vào tiến trình toàn cầu hóa đã lựa chọn điều này hoàn toàn tự do và được thông tin hay không. Thay vì vậy, "nhiều người, đặc biệt là những người bất lợi, cảm nhận điều này như một thứ gì đó áp đặt lên họ hơn là một tiến trình trong đó họ có thể tham gia cách tích cực".10

Trong nhiều phần của thế giới, toàn cầu hóa đang được thúc đẩy nhanh chóng, cuốn theo thay đổi xã hội. Ðây không phải chỉ là một tiến trình kinh tế nhưng là một tiến trình văn hóa, với những khía cạnh tích cực và tiêu cực. "Những ai có liên quan đến nó thường thấy toàn cầu hóa như là một trận lụt tàn hại đe dọa những chuẩn mực xã hội đã che chở cho họ và những điểm quy chiếu văn hóa đã dẫn đường cho họ trong cuộc sống…Những thay đổi trong kỹ thuật và trong những quan hệ công việc đã tiến quá mau không đợi cho các nền văn hóa kịp đáp trả".11

5. Một hệ quả chính của sự buông lỏng kỷ cương trong những năm gần đây là sự chuyển quyền từ các quốc gia sang những công ty đa quốc. Ðiều quan trọng là những công ty này phải được khuyến khích và giúp đỡ để dùng quyền của mình cho điều thiện của nhân loại và điều này dẫn đến nhu cầu truyền thông và đối thoại giữa họ với các thực thể liên quan như Giáo Hội.

Việc sử dụng kỹ thuật thông tin mới và Internet cần phải được thông tin và hướng dẫn bởi một cam kết mạnh mẽ thực hành tình liên đới để phục vụ lợi ích chung, trong và giữa các quốc gia. Kỹ thuật này có thể là một phương tiện để giải quyết những vấn đề của nhân loại, đề cao sự phát triển tổng thể của cá nhân, tạo ra một thế giới được cai trị bởi công chính, hòa bình và yêu thương. Ngày nay, hơn cả lúc Chỉ Thị Mục Vụ Về Các Phương Tiện Truyền Thông đưa ra điểm này cách đây hơn 30 năm, các phương tiện truyền thông có khả năng biến mọi người ở mọi nơi trên thế giới trở nên "một bạn hàng của nhân loại".12

Ðây là một viễn kiến đáng kinh ngạc. Internet có thể giúp hiện thực hóa viễn kiến này - cho những cá nhân, các nhóm, các nước, và nhân loại - chỉ khi nó được dùng trong ánh sáng của những nguyên tắc rõ ràng và lành mạnh, đặc biệt là tình liên đới. Việc dùng như thế là vì lợi ích của tất cả mọi người, vì "ngày nay chúng ta biết rõ một điều hơn trong quá khứ: chúng ta sẽ không bao giờ có hạnh phúc và bình an một mình, còn tệ hơn nhiều nữa nếu chống lại lẫn nhau".13 Ðiều này sẽ là một diễn đạt của linh đạo truyền thông bao hàm "khả năng nhìn thấy điều gì là tích cực trong người khác, để chào đón nó và ca ngợi nó như một món quà từ Thiên Chúa", cùng với khả năng "'chừa chỗ' cho anh chị em, 'mang gánh nặng cho nhau (Gal. 6, 2) và chống lại những cám dỗ sống ích kỷ thường xuyên đè nặng chúng ta".14

6. Sự phổ cập của Internet cũng đưa đến một số vấn nạn đạo đức như sự riêng tư, sự an toàn và bảo mật dữ liệu, tác quyền và luật về tài sản trí tuệ, tài liệu khiêu dâm, các trạm thông tin thù hận, tán phát tin đồn và thủ tiêu nhân cách dưới lớp ngụy trang là tin tức, và còn nhiều nữa. Chúng tôi sẽ nói vắn tắt về những vấn đề này bên dưới, trong khi nhìn nhận rằng chúng đòi những phân tích và thảo luận tiếp theo bởi những bên có liên quan. Tuy vậy, về cơ bản, chúng tôi không nhìn Internet như là một nguồn gây ra các vấn nạn chúng tôi xem nó như là một nguồn đem lại những lợi ích cho nhân loại. Nhưng những lợi ích này chỉ có thể hoàn toàn hiện thực khi các vấn nạn được giải quyết.

II. VỀ INTERNET

7. Internet có một số tính năng gây ấn tượng sâu sắc. Nó tức thời, trực tiếp, toàn cầu, phân quyền (decentralized), giao tiếp (interactive), có thể mở rộng vô hạn về nội dung và phạm vi, linh hoạt và có thể điều chỉnh ở một mức độ đáng kể. Internet là bình quyền (egalitarian), theo nghĩa là bất cứ ai với thiết bị cần thiết và một năng khiếu kỹ thuật khiêm nhường cũng có thể hiện diện cách tích cực trong không gian điện toán, công bố thông điệp của mình cho thế giới, và đòi hỏi được lắng nghe. Nó cho phép các cá nhân tham dự một cách ẩn danh, được chọn lựa vai trò, và hành động theo trí tưởng tượng và cũng cho phép việc gia nhập vào cộng đồng với những người khác và dự phần vào việc chia sẻ. Theo sở thích của người dùng, họ có thể tích cực tham gia hoặc để bị thu hút cách thụ động vào trong "một thế giới quá chú ý đến mình, tự quy chiếu về mình, của những kích thích với những hiệu ứng gần như mơ màng"15 Internet có thể được dùng để phá tan đi sự cô lập của các cá nhân và các tập thể hay còn khoét sâu thêm sự cô lập này.

8. Cấu hình kỹ thuật nền tảng của Internet có một ảnh hưởng đáng kể đến những khía cạnh đạo đức của nó: Người ta có khuynh hướng dùng nó theo cách thế nó đã được thiết kế, và thiết kế nó cho phù hợp với cách dùng như vậy. Hệ thống mới này thật ra đã có từ thời chiến tranh lạnh ở thập niên 1960, khi nó được thiết kế để chặn đứng cuộc tấn công nguyên tử bằng cách tạo ra những mạng lưới phân tán những máy điện toán chứa đựng những dữ liệu quan yếu. Phân quyền là chìa khóa của hệ thống, vì theo cách này, như đã được lý giải, việc thiệt hại của một hay ngay cả nhiều máy điện toán cũng không đến nỗi mất hết dữ liệu.

Một viễn kiến lý tưởng của việc trao đổi tự do những thông tin và ý tưởng đã đóng một vai trò đáng khen trong việc phát triển Internet. Tuy nhiên cấu hình phân quyền cũng như thiết kế phân quyền của Mạng Nhện Toàn Cầu (World Wide Web) vào cuối thập niên 1980 đã chứng tỏ sự đồng tình với ý tưởng chống lại bất cứ áp đặt luật lệ về trách nhiệm công cộng. Một chủ nghĩa cá nhân được phóng đại liên quan đến Internet vì thế ló dạng. Internet được đề cập đến như một lãnh địa mới, một vùng đất diệu kỳ của không gian điện toán, nơi mọi thứ phát biểu đều được cho phép và luật lệ duy nhất là sự tự do cá nhân hoàn toàn để làm theo ý thích. Dĩ nhiên, điều này nghĩa là chỉ cộng đồng mà quyền lợi và quan tâm của họ được nhìn nhận thực sự trong không gian điện toán mới là cộng đồng của những người tự do cấp tiến. Lối suy nghĩ này tiếp tục ảnh hưởng trong một số giới, đã được ủng hộ bởi những lý lẽ tự do rất quen thuộc đã được dùng để biện hộ cho tài liệu khiêu dâm và bạo lực trong các phương tiện truyền thông nói chung.16

Mặc dù những người theo chủ nghĩa cá nhân cấp tiến và những người kinh doanh hiển nhiên là hai nhóm rất khác nhau có một sự hội tụ quyền lợi giữa những người muốn Internet là nơi mà gần như mọi thứ phát biểu, bất kể xấu xa và phá hoại cỡ nào, và những ai muốn Internet là phương tiện cho hoạt động thương mại không bị làm khó dễ trên một mô hình tân tự do mà "xem lợi nhuận và quy luật thị trường như những tham số duy nhất, bất kể sự thương tổn về phẩm giá và sự tôn trọng phải có đối với cá nhân và các dân tộc"17

9. Sự bùng nổ của kỹ thuật thông tin đã gia tăng khả năng truyền thông của một số cá nhân và tập thể có thuận lợi lên gấp nhiều lần. Internet có thể phục vụ con người khi tự do và dân chủ được dùng có trách nhiệm, mở rộng những chọn lựa có thể trong cuộc sống muôn mầu, mở ra những chân trời giáo dục và văn hóa, phá tan chia rẽ, đề cao sự phát triển con người trong nhiều cách thế khác nhau. "Sự di chuyển tự do của hình ảnh và văn bản trên phạm vi toàn cầu đang chuyển hóa không chỉ những quan hệ chính trị và kinh tế giữa các dân tộc, nhưng ngay cả nhận thức của chúng ta về thế giới. Nó mở ra một loạt những khả năng cho đến nay vẫn chưa thể nghĩ ra".18 Khi được đặt trên những giá trị cùng chia sẻ bắt nguồn từ bản tính của con người, cuộc đối thoại giữa các nền văn hóa thực hiện bởi Internet và các phương tiện truyền thông xã hội khác có thể là "một phương tiện thuận lợi cho việc xây dựng nền văn minh tình thương".19

Nhưng đó không phải là toàn bộ câu chuyện. "Thật là nghịch lý khi chính những lực có thể dẫn đến sự truyền thông tốt hơn lại cũng có thể dẫn đến sự gia tăng khuynh hướng thu hẹp vào chính mình và trở nên xa lạ với người khác".20 Internet có thể hiệp nhất con người, nhưng cũng có thể chia rẽ họ thành những cá nhân hay như những nhóm nghi kî lẫn nhau, tách biệt bởi ý thức hệ, chính trị, của cải, chủng tộc, khác biệt thế hệ, và ngay cả tôn giáo. Internet đã được dùng trong những cách thế ngạo mạn, gần như một thứ vũ khí chiến tranh, và người ta nói về nguy hiểm của "khủng bố điện toán". Thật là một bi kịch nếu khí cụ truyền thông này với vô số tiềm năng mang con người lại với nhau bị lật lại nguồn gốc ban đầu của nó trong thời chiến tranh lạnh và trở nên một đấu trường xung đột quốc tế.

III. NHỮNG KHÍA CẠNH ÐÁNG QUAN TÂM

10. Một số những ưu tư về Internet vẫn chưa tường minh trong những điều đã đề cập cho đến nay.

Một trong những điều quan trọng nhất liên quan đến điều mà ngày nay người ta gọi là sự "chia cách điện số" (digital divide) - một dạng thức phân biệt giữa người giàu và người nghèo, trong nội bộ các nước cũng như giữa các nước với nhau, trên cơ sở tiếp cận hay thiếu sự tiếp cận với kỹ thuật thông tin mới. Trong nghĩa này, nó là một phiên bản cập nhật hóa của một chia cách cũ giữa "người giàu thông tin" và "người nghèo thông tin"

Thuật ngữ "chia cách điện số" nhấn mạnh sự kiện là các cá nhân, tập thể, và các quốc gia cần có sự tiếp cận với kỹ thuật mới để chia sẻ các lợi ích đã hứa hẹn của toàn cầu hóa và sự phát triển, và không để bị tụt hậu hơn nữa. Khách quan mà nói "cách biệt giữa những người hưởng lợi từ những phương tiện mới của thông tin và diễn đạt và những người không được tiếp cận với chúng …không trở nên một nguồn khó khắc phục khác của sự bất bình đẳng và phân biệt"21 Cần tìm ra những cách thức để làm cho Internet có thể được tiếp cận bởi những nhóm kém thuận lợi hơn, hoặc là trực tiếp hoặc là tối thiểu qua việc liên kết với các phương tiện truyền thông truyền thống rẻ tiền hơn. Không gian điện toán cần phải trở thành một tài nguyên thông tin và dịch vụ hoàn chỉnh không mất tiền cho mọi người với nhiều ngôn ngữ khác nhau. Những cơ quan công cộng có một trách nhiệm đặc biệt để thiết lập và duy trì những trạm thông tin như vậy.

Trong lúc nền kinh tế toàn cầu mới đang hình thành, Giáo Hội lo lắng sao cho "người thắng cuộc trong tiến trình này là nhân loại như một tổng thể" chứ không chỉ "một thế lực giàu có kiểm soát khoa học, kỹ thuật, và các nguồn tài nguyên của hành tinh này" nghĩa là Giáo Hội ước ao "một tiến trình toàn cầu hóa phục vụ toàn bộ con người và mọi người".22

Trong mối liên hệ này, cần nhớ rằng các nguyên nhân và hậu quả của sự chia cách không phải chỉ là kinh tế nhưng còn là kỹ thuật, xã hội và văn hóa. Do đó, chẳng hạn nếu sự chia cách của Internet gây bất lợi cho nữ giới, sự chia cách này phải được san bằng.

11. Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến những chiều kích văn hóa của những gì đang diễn ra. Cụ thể, như những khí cụ mạnh mẽ của tiến trình toàn cầu hóa, kỹ thuật thông tin mới và Internet đang truyền đi và giúp làm cho thấm sâu một nhóm những giá trị văn hóa - những lối nghĩ về những quan hệ xã hội, gia đình, tôn giáo, tình trạng nhân loại - mà sự mới mẻ và ồn ào của chúng có thể thách thức và đè bẹp những nền văn hóa truyền thống.

Ðối thoại và làm giàu các nền văn hóa lẽ đương nhiên là được mong muốn nhiều hơn. Thật vậy, "ngày nay, đối thoại giữa các nền văn hóa là đặc biệt cần thiết vì hệ quả của kỹ thuật truyền thông mới trên đời sống cá nhân và các dân tộc".23 Nhưng đó phải là một con đường hai chiều. Các nền văn hóa có rất nhiều điều để học lẫn nhau, và đơn giản áp đặt thế giới quan, giá trị và ngay cả ngôn ngữ của một nền văn hóa lên một nền văn hóa khác không phải là đối thoại nhưng là chủ nghĩa đế quốc về văn hóa".

Sự thống trị về văn hóa là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng khi nền văn hóa thống trị mang những giá trị sai lạc đối kháng với bản thiện của cá nhân và tập thể. Nổi bật trong các vấn nạn là việc Internet, cùng với những phương tiện truyền thông xã hội khác, đang truyền đi thông điệp mang nặng tính chất của nền văn hóa thế tục Tây phương đến con người và các xã hội mà trong nhiều trường hợp chưa chuẩn bị để đánh giá và đối phó với nó. Nhiều vấn nạn nghiêm trọng xảy ra - chẳng hạn những vấn nạn liên quan đến đời sống hôn nhân và gia đình, trong khi gia đình và hôn nhân đang trải qua "một cuộc khủng hoảng tận gốc và lan rộng"24 trong nhiều phần của thế giới.

Nhạy cảm văn hóa và sự tôn trọng đối với các giá trị và niềm tin của các dân tộc khác là bắt buộc trong những trường hợp này. Ðối thoại giữa các nền văn hóa theo hướng "giữ gìn sự khác biệt của các nền văn hóa như những diễn đạt lịch sử và sáng tạo của sự hiệp nhất sâu xa trong gia đình nhân loại, và … nuôi dưỡng sự hiểu biết và giao tiếp giữa chúng"25 là cần thiết để xây dựng và bảo tồn ý thức về tình liên đới quốc tế.

12. Vấn đề tự do phát biểu trên Internet cũng phức tạp tương tự và gây ra một nhóm những quan ngại khác.

Chúng tôi mạnh mẽ ủng hộ tự do phát biểu và tự do trao đổi ý kiến. Tự do tìm kiếm và hiểu biết sự thật là một nhân quyền căn bản,26 và tự do phát biểu là một đá tảng của nề dân chủ. "Con người có quyền tìm kiếm sự thật, bày tỏ và công bố ý kiến, miễn là anh ta tôn trọng trật tự luân lý và ích lợi chung…anh ta phải được cung cấp thông tin trung thực về những vấn đề liên quan đến lợi ích chung".27 Và ý kiến công chúng, "một diễn đạt cần thiết của bản tính con người được tổ chức thành xã hội" tuyệt đối đòi hỏi "tự do phát biểu ý tưởng và thái độ".28

Trong ánh sáng của những yêu cầu thuộc về lợi ích chung này, chúng tôi lên án những cố gắng của các nhà chức trách muốn ngăn cản sự tiếp cận với thông tin - trên Internet hay trong các phương tiện truyền thông xã hội khác - bởi vì họ thấy nó đe dọa hay gây khó chịu cho họ, và họ muốn khống chế công chúng bằng tuyên truyền và thông tin sai lạc, hay muốn ngăn cản quyền tự do phát biểu và có ý kiến hợp pháp. Trong vấn đề này, những chế độ độc tài cho đến nay là những kẻ vi phạm tệ hại nhất nhưng vấn đề cũng xảy ra tại các xứ sở dân chủ tự do, nơi việc truy cập vào các phương tiện truyền thông để phát biểu chính trị thường tùy thuộc vào sự giàu có, và các chính trị gia cũng như các cố vấn của họ vi phạm tính trung thực và công bằng bằng cách xuyên tạc đối phương và làm giảm nhẹ các vấn nạn đến mức lừa bịp khôn khéo.

13. Trong môi trường mới này, nghề làm báo cũng đang trải qua những thay đổi sâu sắc. Sự phối hợp giữa những kỹ thuật mới và toàn cầu hóa đã "gia tăng những quyền lực của giới truyền thông, nhưng cũng làm cho họ lệï thuộc nhiều hơn vào các áp lực ý thức hệ và thương mãi",29 và điều này cũng đúng với nghề làm báo.

Internet là một khí cụ có hiệu quả cao trong việc đem tin tức và thông tin nhanh chóng đến với con người. Nhưng sự cạnh tranh kinh tế và bản chất mọi múi giờ (round-the-clock) của báo chí Internet cũng đóng góp vào xu hướng giật gân và tung tin đồn vào sự pha trộn giữa tin tức, quảng cáo, và giải trí cũng như vào một sự xuống dốc hiển nhiên trong các bản báo cáo và những bài bình luận đứng đắn. Báo chí trung thực là cần thiết cho lợi ích chung trong các nước và trong cộng đồng quốc tế. Những vấn đề hiển nhiên hiện nay trong việc thực hành nghề báo trên Internet đòi hỏi sự sửa sai nhanh chóng bởi chính các ký giả.

Lượng thông tin choáng ngợp trên Internet, nhiều thứ chưa được đánh giá về phương diện chính xác và tầm quan trọng, là một vấn đề cho nhiều người. Nhưng chúng tôi cũng quan tâm đến trường hợp người ta có thể dùng khả năng kỹ thuật của phương tiện truyền thông này cho việc cắt xén thông tin đơn giản là để thiết lập những rào cản điện tử chống lại những ý tưởng không quen thuộc. Ðó sẽ là một sự phát triển không lành mạnh trong một thế giới đa nguyên nơi con người cần phải vươn lên trong việc hiểu biết lẫn nhau. Trong khi những người dùng Internet có bổn phận phải chọn lọc và thực hiện kỷ luật tự giác, điều đó không thể dẫn đến mức cực đoan là đặt bức tường ngăn cách giữa họ và những người khác. Những hệ quả của Internet cho sự phát triển tâm lý và sức khoẻ cũng cần phải được tiếp tục nghiên cứu, bao gồm cả khả năng rằng việc chìm đắm quá lâu trong thế giới ảo của không gian điện toán có thể gây hại cho một số người. Dù có rất nhiều thuận lợi trong khả năng, kỹ thuật đem đến cho con người "những gói thông tin và những dịch vụ được thiết kế riêng biệt cho họ", điều này cũng "đưa đến một câu hỏi không thể trốn tránh được: Liệu khán giả của tương lai có trở nên một số đông khán giả của chỉ một người? … Tình liên đới sẽ đi về đâu? … Tình yêu sẽ đi về đâu? … trong một thế giới như thế?"30

14. Dọc theo những vấn đề chúng ta phải đương đầu với tự do phát biểu, sự toàn vẹn và chính xác của tin tức, và sự chia sẻ những ý tưởng và thông tin là một nhóm quan ngại khác gây nên bởi chủ nghĩa tự do. Ý thức hệ của chủ nghĩa tự do cấp tiến vừa sai lại vừa rất tai hại - đặc biệt, cho việc hợp pháp hóa tự do phát biểu để phục vụ cho sự thật. Sai lầm nằm ở chỗ đề cao tự do "đến một mức nó trở thành tuyệt đối, để rồi thành nguồn gốc của những giá trị … Trong cách thế này, những yêu sách không thể tránh khỏi về sự thật biến mất, nhường chỗ của chúng cho các tiêu chuẩn thành thật, xác thực và 'an bình với chính mình'".31 Không có chỗ cho cộng đồng chân thật, lợi ích chung, và tình liên đới trong cách nghĩ này.

IV NHỮNG ÐỀ NGHỊ VÀ KẾT LUẬN

15. Như chúng ta đã thấy, nhân đức liên đới là thước đo sự phục vụ của Internet cho lợi ích chung. Thật là phải lẽ khi thêm vào trong bối cảnh này một câu hỏi đạo đức: "Các phương tiện truyền thông đang được dùng cho điều thiện hay điều ác?"32

Nhiều cá nhân và tập thể chia sẻ trách nhiệm trong vấn đề này - chẳng hạn, các công ty đa quốc đã nói ở trên. Tất cả những người dùng Internet buộc phải dùng nó trong một cách thế hiểu biết và kỷ luật, vì những mục đích luân lý tốt các cha mẹ phải hướng dẫn và giám sát việc sử dụng của con cái.33 Trường học và các cơ sở giáo dục khác và những chương trình dành cho trẻ em và người lớn cần cung cấp việc đào tạo việc dùng Internet cách nhạy bén như một phần của một chương trình giáo dục truyền thông hoàn chỉnh bao gồm không chỉ việc huấn luyện những năng khiếu kỹ thuật - 'điện toán vỡ lòng' và những khóa tương tự - nhưng còn là một khả năng hiểu biết và đánh giá sắc bén nội dung. Những ai mà quyết định và hành động của họ đóng góp vào việc định dạng cấu trúc và nội dung của Internet có một bổn phận đặc biệt nghiêm trọng phải thực thi tình liên đới trong việc phục vụ lợi ích chung.

16. Việc kiểm duyệt trước của chính quyền phải được bác bỏ "kiểm duyệt … chỉ nên được dùng trong trường hợp tối cần thiết".34 Nhưng Internet không thể là một ngoại lệ so với các phương tiện truyền thông khác trong việc áp dụng các luật lệ hợp lý nhằm chống lại việc kêu gọi thù hận, nhục mạ, gian lận, tài liệu khiêu dâm trẻ em và tài liệu khiêu dâm nói chung, và các vi phạm khác. Hành vi kể là tội phạm trong những bối cảnh khác cũng kể là tội phạm trong bối cảnh của không gian điện toán, và các nhà chức trách dân sự có bổn phận và quyền để áp đặt những luật lệ ấy. Những quy định mới cũng có thể là cần thiết để đối phó với những tội ác đặc biệt trên Internet như việc reo rắc virus điện toán, ăn cắp tài liệu chứa đựng trên các đĩa cứng, và những việc tương tự.

Luật lệ trên Internet đáng ao ước, và về nguyên tắc việc tự tuân theo kỷ luật kỹ nghệ là tốt nhất. "Giải pháp cho nhiều vấn đề nảy sinh từ thương mại hóa và tư nhân hóa vô luật lệ không nằm trong tình trạng kiểm soát truyền thông nhưng trong việc kỷ luật hơn theo các tiêu chuẩn phục vụ công chúng và trong trách nhiệm lớn hơn với công chúng".35 Các quy tắc về đạo đức kỹ nghệ có thể đóng một vai trò hữu ích, miễn là chúng có ý định đứng đắn, và phải bao gồm các đại diện của công chúng trong việc hình thành và thực thi đồng thời song song với việc khích lệ những người làm truyền thông có trách nhiệm, cần thi hành những kỷ luật thích hợp cho những sự vi phạm, bao gồm cả việc phê bình công khai.36 Nhiều trường hợp đôi khi có thể phải cần đến sự can thiệp của nhà nước: chẳng hạn, bằng cách thiết lập những ban cố vấn tiêu biểu cho những ý kiến khác nhau trong cộng đồng.37

17. Tinh chất đa quốc và cầu nối biên giới của Internet, và vai trò của nó trong tiến trình toàn cầu hóa đòi hỏi sự hợp tác quốc tế trong việc định ra các tiêu chuẩn và thiết lập những cơ chế để đề cao và bảo vệ lợi ích chung trên toàn cầu.38 Liên quan đến kỹ thuật truyền thông, cũng như nhiều thứ khác, "có một nhu cầu cấp bách cho sự bình đẳng ở cấp quốc tế".39 Hành động quả quyết trong lãnh vực tư cũng như công là cần thiết để san bằng và cuối cùng loại trừ sự chia cách điện số.

Nhiều vấn đề khó khăn liên quan đến Internet đòi hỏi một sự nhất trí quốc tế: chẳng hạn, làm sao bảo vệ sự riêng tư của các cá nhân và các tập thể lương thiện mà không ngăn cản các cơ quan thi hành pháp luật và lực lượng an ninh theo dõi các tội phạm và bọn khủng bố làm sao bảo vệ tác quyền và quyền sở hữu tài sản trí tuệ mà không hạn chế ciệc truy nhập tới tài liệu trong lãnh vực công cộng (public domain) - và làm sao để định nghĩa chính cụm từ "lãnh vực công cộng" làm sao thiết kế và duy trì những kho chứa thông tin bề thế miễn phí cho mọi người với nhiều ngôn ngữ khác nhau làm sao bảo vệ quyền của nữ giới liên quan đến việc truy nhập vào Internet và những khía cạnh khác của kỹ thuật thông tin mới. Cách riêng, vấn đề làm sao san bằng chia cách điện số giữa kẻ giàu thông tin và kẻ nghèo thông tin rất cần một chú ý khẩn cấp trong các khía cạnh kỹ thuật, giáo dục và văn hóa.

Ngày nay, có một "ý thức lớn dần về tình liên đới quốc tế" đem lại cách riêng cho hệ thống Liên Hiệp Quốc "một cơ hội duy nhất để đóng góp vào sự hoàn cầu hóa tình liên đới bằng cách phục vụ như một nơi hội họp cho các quốc gia và xã hội dân sự và như một nơi hội tụ các quan tâm và nhu cầu khác nhau. .. Sự hợp tác giữa các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ sẽ giúp bảo đảm rằng lợi ích của các nước - dù là hợp pháp - và của các nhóm khác trong các nước đó, sẽ không được nêu ra hay bảo vệ với cái giá là sự chà đạp lợi ích hay quyền lợi của các dân tộc khác, đặc biệt những dân tộc kém may mắn".40 Trong chiều hướng này, chúng tôi hy vọng rằng Hội Nghị Thượng Ðỉnh về Xã Hội Thông Tin được dự trù diễn ra vào năm 2003 sẽ tạo ra một đóng góp tích cực cho sự bàn thảo về những vấn đề này.

18. Như chúng tôi đã nêu lên ở trên, một văn kiện đính kèm với văn kiện này gọi là "Giáo Hội Và Internet" đề cập đặc biệt đến việc sử dụng Internet của Giáo Hội và vai trò của Internet trong đời sống Giáo Hội. Ở đây chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng Giáo Hội Công Giáo, cùng với các thực thể tôn giáo khác, cần có một một sự hiện diện hữu hình và tích cực trên Internet và trở nên một bên trong cuộc đối thoại công khai về sự phát triển của nó. "Giáo Hội không giả định vai trò thống soái trong những quyết định và lựa chọn này, nhưng Giáo Hội mong giúp được bằng cách chỉ ra những tiêu chuẩn đạo đức và luân lý liên hệ đến tiến trình này - những tiêu chuẩn có thể tìm thấy trong những giá trị nhân bản và Kitô Giáo".41

Internet có thể tạo ra những đóng góp có giá trị rất lớn lao cho cuộc sống con người. Nó có thể đẩy mạnh thịnh vượng và hòa bình, sự tăng trưởng tri thức và sáng tạo, hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc và các quốc gia trên một quy mô toàn cầu.

Nó cũng có thể giúp những người nam người nữ trong sự tìm kiếm lâu dài của họ để hiểu biết chính mình. Trong mọi thời đại, kể cả thời đại của chúng ta, người ta thường hỏi cùng những câu hỏi căn bản: "Tôi là ai? Tôi từ đâu đến và tôi sẽ đi về đâu? Tại sao có sự dữ? Cái gì diễn ra sau cuộc sống này?"42. Giáo Hội không thể áp đặt những câu trả lời, nhưng Giáo Hội có thể - và phải - công bố với thế giới những câu trả lời mà Giáo Hội đã nhận được và hôm nay, như luôn mãi, Giáo Hội mang đến một đấng tối hậu trả lời thỏa mãn những câu hỏi sâu xa nhất về cuộc đời - Ðức Giêsu Kitô, đấng "mạc khải hoàn toàn cho con người về chính Ngài và đưa ra ánh sáng ơn gọi cao trọng nhất của Ngài"43 Như chính thế giới hôm nay, thế giới truyền thông, bao gồm cả Internet, đã được mang bởi Ðức Kitô, dù còn lộn xộn nhưng thực sự, vào bên trong biên giới của Nước Chúa và đặt để cho việc phục vụ lời cứu độ. Tuy nhiên, "thay vì giảm bớt những lo toan phát triển trái đất này, niềm trông mong một thế giới mới cần thúc giục chúng ta, vì chính nơi đây thân thể của một nhân loại mới lớn dần, tiên báo cách này cách khác thời đại đang tiến đến gần".44

Thành Vatican, Tháng 2 Ngày 22, Năm 2002, Lễ Kính Ngai Tòa Thánh Phêrô Tông Ðồ.

+ John P. Foley

Chủ Tịch

+ Pierfranco Pastore

Thư Ký

(1) Pontifical Council for Social Communications, Pastoral Instruction Aetatis Novae on Social Communications on the twentieth anniversary of Communio et progressio, n. 4.

(2) Pontifical Council for Social Communications, The Church and Internet.

(3) Cf. Pontifical Council for Social Communications, Ethics in Communications, n. 5.

(4) Ibid., n. 21.

(5) Vatican Council II, Gaudium et spes, n. 26 cf. Catechism of the Catholic Church, n. 1906.

(6) John Paul II, Sollicitudo rei socialis, n. 38.

(7) John Paul II, Address to the Pontifical Academy of Social Sciences, n. 2, April 27, 2001.

(8) John Paul II, Post-Synodal Apostolic Exhortation Ecclesia in America, n. 20.

(9) John Paul II, Address to the Diplomatic Corps Accredited to the Holy See, n. 3, January 10, 2000.

(10) Address to the Pontifical Academy of Social Sciences, n. 2.

(11) Ibid., n. 3.

(12) Pontifical Commission for Social Communications, Pastoral Instruction on the Means of Social Communication, Communio et progressio, n. 19.

(13) Address to the Diplomatic Corps, n. 4.

(14) John Paul II, Apostolic Letter Novo millennio ineunte, n. 43.

(15) Ethics in Communications, n. 2.

(16) Pontifical Council for Social Communications, Pornography and Violence in the Communications Media: A Pastoral Response, n. 20.

(17) Ecclesia in America, n. 56.

(18) Message for the Celebration of the World Day of Peace 2001, n. 11.

(19) Ibid., n. 16.

(20) John Paul II, Message for the 33rd World Communications Day, n. 4, January 24, 1999.

(21) John Paul II, Message for the 31st World Day of Communications, 1997.

(22) Address to the Pontifical Academy of Social Sciences, n. 5.

(23) Ibid., n. 11.

(24) Novo millennio ineunte, n. 47.

(25) Message for the World Day of Peace 2001, n. 10.

(26) John Paul II, Centesimus annus, n. 47.

(27) Gaudium et spes, n. 59.

(28) Communio et progressio, nn. 25, 26.

(29) John Paul II, Address to the Jubilee of Journalists, n. 2, June 4, 2000.

(30) Ethics in Communications, n. 29.

(31) John Paul II, Veritatis splendor, n. 32.

(32) Ethics in Communications, n. 1.

(33) Cf. John Paul II, Post-Synodal Apostolic Exhortation Familiaris consortio, n. 76.

(34) Communio et progressio, n. 86.

(35) Aetatis Novae, n. 5.

(36) Cf. Communio et progressio, n. 79.

(37) Ibid., n. 88.

(38) Cf. Address to the Pontifical Academy of Social Sciences, n. 2.

(39) Ethics in Communications, n. 22.

(40) John Paul II, Address to the UN Secretary General and to the Administrative Committee on Coordination of the United Nations, nn. 2, 3, April 7, 2000.

(41) Aetatis Novae, n. 12.

(42) John Paul II, Encyclical Letter Fides et ratio, n. 1.

(43) Gaudium et spes, n. 22.

(44) Ibid., n. 39.