II. Biện phân ơn gọi của gia đình
II. 1 Gia đình và khoa sư phạm của Thiên Chúa
Cái nhìn của Chúa Giêsu là cái nhìn của lòng thương xót, một lòng thương xót đặt căn bản trên sự thật. Giáo huấn của Chúa Giêsu về hôn nhân và gia đình là từ sáng thế (xem Mt 19:3). Sự sống của con người nhân bản và của nhân loại là thành phần của một dự án lớn lao: dự án của chính Thiên Chúa hoá công. Cũng như trong mọi khía cạnh của đời sống, ta tìm được sự toàn vẹn và hạnh phúc của ta nếu biết tự ý và lồng mình một cách có ý thức vào trong dự án đầy khôn ngoan và yêu thương này. Nếu ta biết dùng hết khả năng tự nhiên của ta để đi tìm sự thật về hôn nhân và gia đình, và nếu ta biết lắng nghe các giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô, ta sẽ nắm được nó trong mọi nét viên mãn và thánh thiện của nó. Hôn nhân và gia đình sáng láng trong vẻ đẹp của chúng đến nỗi Thánh Phaolô cho đây là một mầu nhiệm lớn lao biểu lộ được tình yêu của Chúa Kitô đối với Giáo Hội (xem Eph. 5:32). Vẻ đẹp này không chỉ có ý nói đến một điều gì đó lôi cuốn mà vô ích lợi, nó không phải chỉ có giá trị thẩm mỹ, mà còn được nhận là một lợi ích chân thật, sâu sắc, khách quan trong đời người, một con đường đích thực dẫn tới hạnh phúc, mà đến lượt, nó còn làm cho hôn nhân bí tích thành một phương thế thánh hóa và là nguồn ơn thánh.
“Sự thật [như Công Đồng dạy] là thế này: chỉ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, mầu nhiệm con người mới nhận được ánh sáng. […] Chúa Kitô, Ađam cuối cùng, qua việc mạc khải mầu nhiệm Chúa Cha và tình yêu của Người, đã trọn vẹn mạc khải con người cho chính con người và làm cho ơn gọi tối hậu của họ ra rõ ràng” (Gaudium et spes 22). Do đó, dựa vào chìa khóa qui Kitô, ta cũng phải hiểu các đặc tính tự nhiên phong phú và đa dạng của hôn nhân (xem Tài Liệu Làm Việc, số 40).
II. 2 Chúa Giêsu và gia đình: ơn phúc và trách vụ bất khả tiêu
“Chính Chúa Giêsu, khi nhắc tới kế hoạch nguyên thủy của cặp vợ chồng nhân bản, đã tái khẳng định cuộc kết hợp bất khả tiêu giữa một người đàn ông và một người đàn bà, dù Người có nói với người biệt phái rằng ‘vì sự cứng lòng của các ông mà Môsê đã cho phép các ông ly dị vợ, nhưng từ nguyên thủy vốn không phải vậy’ (Mt 19:8). Tính bất khả tiêu của hôn nhân (‘sự gì Thiên Chúa đã liên kết, con người không được phân rẽ’Mt 19:6) phải được hiểu không như một ‘cái ách’ quàng lên con người mà như một ‘ơn phúc’ tặng cho người chồng và người vợ kết hợp trong hôn nhân. Chúa Giêsu đã sinh ra trong một gia đình; Người bắt đầu làm các dấu lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana và Người công bố ý nghĩa của hôn nhân như là sự viên mãn của một mạc khải nhằm khôi phục kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa (Mt 19:3). Tuy nhiên, cùng một lúc, Người đem những điều Người giảng dậy vào thực hành và biểu lộ ý nghĩa đích thực của lòng thương xót, được minh họa rõ rệt trong cuộc gặp gỡ người đàn bà Samaria (Ga 4:1-30) và với người đàn bà ngoại tình (Ga 8:1-11). Bằng cách nhìn người tội lỗi một cách yêu thương, Chúa Giêsu đã dẫn họ tới chỗ thống hối và hồi tâm (‘hãy đi và đừng phạm tội nữa’), vốn là căn bản để tha thứ” (Tài Liệu Làm Việc, số 41).
Dự án dành cho hôn nhân và gia đình này của Thiên Chúa đem lại khả thể viên mãn cho đời sống người ta, một khả thể hiện nay vẫn còn liên hệ, bất chấp các khó khăn gặp phải trong việc duy trì các cam kết vĩnh viễn. Các nhân đức trong đời sống vợ chồng và đời sống gia đình là: “… tôn trọng và tín thác lẫn nhau; chấp nhận và biết ơn lẫn nhau; kiên tâm và tha thứ” (Tài Liệu Làm Việc, số 43).
II. 3 Gia đình, hình ảnh Chúa Ba Ngôi
Hôn nhân và gia đình nói lên một cách đặc biệt rằng con người được dựng nên giống hình ảnh và họa ảnh Thiên Chúa. Trong bối cảnh này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc nhở rằng “… một mình người nam không phải là hình ảnh Thiên Chúa mà một mình người nữ cũng không phải là hình ảnh Thiên Chúa, nhưng người nam và người nữ như một cặp vợ chồng mới là hình ảnh Thiên Chúa. Sự khác nhau giữa người nam và người nữ không phải là để đối nghịch nhau hay để khuất phục nhau, mà là để hiệp thông và sinh sản, luôn theo hình ảnh và họa ảnh Thiên Chúa” (Triều kiến chung, 15 tháng Tư, 2015). Thực thế, bản chất bổ túc cho nhau trong đặc điểm kết hợp và sinh sản của hôn nhân đã được khắc ghi vào kế hoạch tạo dựng của Thiên Chúa (xem Tài Liệu Làm Việc, số 45).
Gia đình và hôn nhân đã được Chúa Kitô cứu chuộc (xem Eph 5: 21-32), cho phục hồi trở lại với hình ảnh Ba Ngôi Chí Thánh, một mầu nhiệm mà từ đó phát sinh ra mọi tình yêu đích thực. Việc này bao hàm cùng một lúc điều này: đối với người đã rửa tội, chúng là một ơn phúc và một cam kết đặc biệt.
II. 4 Gia đình trong Huấn Quyền Giáo Hội
Công Đồng Vatican II nhấn mạnh sự quan trọng của việc cổ vũ phẩm giá hôn nhân và gia đình (xem Gaudium et spes 47-52), khi nhắc lại sự kiện hôn nhân là một cộng đồng sự sống và tình yêu (xem GS 48). Thực vậy, tình yêu đích thực không bị giản lược vào một số yếu tố nào đó trong mối liên hệ mà bao hàm việc hiến thân cho nhau (xem GS 49). Như thế, các chiều kích tính dục và xúc cảm được bồi đắp trong cuộc sống hàng ngày. Trong Đấng Tạo Hóa, cặp vợ chồng nhân bản vốn đã là người mang chúc lành của Thiên Chúa. Thực vậy, trong Sách Sáng Thế, ta đọc thấy “Thiên Chúa tạo nên con người theo hình ảnh của Người, Người tạo nên họ theo hình ảnh của Người; Người dựng nên họ có nam có nữ. Và Thiên Chúa chúc phúc cho họ, và Người nói với họ: ‘hãy sinh sôi nẩy nở…’” (St 1:27-28). Rồi, trong việc nhập thể, Thiên Chúa mang lấy tình yêu nhân bản, thanh tẩy nó và đem nó tới chỗ thành toàn và ban cho hai vợ chồng, cùng với Thần Khí của Người, từng được ban trong bí tích Rửa Tội, khả năng thể hiện nó cách trọn vẹn và nhờ ơn thánh của Người, họ xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô và trở nên Giáo Hội tại gia (xem Lumen gentium 11; Tài Liệu Làm Việc 47).
II.5 Chiều kích truyền giáo của gia đình
Chiều kích truyền giáo của gia đình bắt nguồn từ bí tích Rửa Tội và được thể hiện trong cộng đồng Kitô hữu. Gia đình Kitô hữu, một Giáo Hội tại gia, đặt căn bản trên bí tích hôn nhân của hai Kitô hữu, từ bản chất, vốn có khuynh hướng loan truyền đức tin bằng cách chia sẻ nó cho nhiều người khác. Thực vậy, gia đình Kitô Giáo được mời gọi làm chứng cho Tin Mừng hoặc bằng cuộc sống phù hợp với Tin Mừng, hoặc bằng việc tuyên xưng truyền giáo. Các người phối ngẫu tăng cường đức tin cho nhau và thông truyền đức tin cho con cái mình, nhưng mặt khác, con cái, cùng với các thành viên khác của gia đình, cũng được mời gọi chia sẻ đức tin. Trong gia đình, bạn có thể trải nghiệm cách các người phối ngẫu khi yêu nhau, được thần khí Chúa Kitô tăng cường, sống ra sao ơn gọi nên thánh của họ. Như thế, theo lời Thánh Gioan Phaolô II đã nói trong tông huấn Familiaris consortio, gia đình đã tạo nên đường đi cho Giáo Hội (xem FC 13).
Chính trong khuôn khổ này, giáo huấn của Chân Phúc Phaolô VI rất thích đáng, khi nêu bật mối liên hệ thân mật giữa tình yêu vợ chồng và việc sinh sản sự sống (xem Humanae vitae). Ngày nay, sự thật này dường như càng đặc biệt quan trọng khi có quá nhiều khả năng kỹ thuật có thể tách biệt việc sinh sản ra khỏi tình yêu vợ chồng. Tình yêu mang ra sống trong hôn nhân và gia đình là nguyên lý sống trong xã hội, như Đức Bênêđíctô đã nhắc nhở trong thông điệp Caritas in veritate (số 44) của ngài. Thực vậy, gia đình là nơi con người học biết cảm nghiệm ích chung (xem Tài Liệu Làm Việc số 50). Giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng cũng thâm hậu hóa chiều kích thiêng liêng của đời sống gia đình, bắt đầu với việc khám phá lại việc gia đình cầu nguyện và cùng lắng nghe Lời Chúa. Cũng có tính nền tảng không kém là việc khám phá lại ngày Chúa Nhật như một dấu chỉ gốc gác sâu xa của gia đình trong thực tại Giáo Hội. Tính linh đạo của gia đình phải được nuôi dưỡng bằng các cảm nghiệm đức tin mạnh mẽ, nhất là bằng việc tham dự Thánh Thể (xem Tài Liệu Làm Việc số 51; LG ố 11). Trên hết, trong Thánh Thể Chúa Nhật, gia đình Kitô hữu công bố gia đình vĩ đại và dứt khoát kia mà tất cả chúng ta đều được mời gọi tham dự trong cuộc sống đời đời.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô, trong thông điệp Lumen Fidei của ngài, có nói tới các mối dây trong gia đình và đức tin, ngài nói: “đức tin không phải là nơi trú ẩn… nhưng là một điều thăng tiến đời ta. Nó làm ta ý thức được ơn gọi tuyệt vời, ơn gọi yêu thương. Nó bảo đảm với ta rằng tình yêu này đáng tin cậy và đáng ôm lấy, vì nó đặt căn bản trên lòng trung thành của Thiên Chúa, một lòng trung thành mạnh hơn mọi yếu đuối của ta” (LF số 53).
Sự hiến thân hỗ tương tạo ra hôn nhân, đối với các Kitô hữu vốn bắt nguồn từ ơn thánh của Phép Rửa, đã ổn định hóa mối liên kết nền tảng của mỗi người với Chúa Kitô trong Giáo Hội. Các người đính hôn hứa sẽ hiến thân hoàn toàn, sẽ chung thủy, và sẵn sàng đón nhận sự sống, các điều vốn được nhìn nhận như là các yếu tố tạo lập ra hôn nhân và là các ơn phúc Thiên Chúa ban cho họ, đã coi trọng cam kết của họ nhân danh Người và trước mặt Giáo Hội. Trong cuộc hôn nhân bí tích, Thiên Chúa thánh hiến tình yêu vợ chồng và củng cố tính bất khả tiêu của nó, giúp họ sống lòng chung thủy, sự bổ túc lẫn cho nhau và việc sẵn sàng chào đón sự sống của họ (xem Tài Liệu Làm Việc, số 54).
II. 6 Tính bất khả tiêu của hôn nhân và niềm vui sống với nhau
Giáo huấn của Chúa Kitô về tính bất khả tiêu của hôn nhân có tính rất khắt khe, tới chỗ tạo bối rối cho chính các môn đệ của Người (xem Mt 19:10). Các sách Tin Mừng và Thánh Phaolô đều đã quả quyết như nhau rằng việc rẫy vợ, một việc mà dân Do Thái vốn thực hành đầu tiên, không làm cho cuộc hôn nhân mới thành khả hữu đối với cả đôi bên. Lời quả quyết này, một lời quả quyết bất thường và hết sức khắt khe, vẫn tiếp diễn suốt trong các thế kỷ qua trong truyền thống kỷ luật của Giáo Hội, tạo ra một yếu tố khiến nhiều người muốn trở về với Kitô Giáo, một vấn đề kỷ luật cũng quan trọng gần như chế độ đa hôn và tính bất khả tiêu của hôn nhân (xem Mt 19:1-10; Mc 10:1-12; Lc 16:18; 1 Cor 7:10-16).
Giáo huấn này của Chúa Kitô liên quan tới hôn nhân thực là Tin Mừng và là một nguồn vui, cũng như là việc thể hiện trọn vẹn con người nhân bản và ơn gọi của họ bước vào các mối liên hệ bản thân cho không, hiến mình đi và được tiếp nhận trọn vẹn (xem Tài Liệu Làm Việc, số 55).
II. 7 Dự án của Đấng Tạo Hóa và hôn nhân tự nhiên
Ta nên nhớ rằng Giáo Hội luôn thừa nhận sự hiện hữu của cuộc hôn nhân đích thực, tự nhiên giữa hai người chưa rửa tội. Vì ngay từ khởi thủy của nhân loại, sự kết hợp như thế giữa một người đàn ông và một người đàn bà đã tương hợp với kế hoạch tạo dựng của Thiên Chúa rồi, và được Người chúc phúc (St 1:27-28). Do đó, trong thế giới ngày nay, trong số các cuộc hôn nhân đích thực, ta thấy nhiều cuộc hôn nhân tự nhiên và nhiều cuộc hôn nhân bí tích khác, được kết ước giữa những người đã rửa tội, bao hàm một ơn thánh dặc biệt (xem Tài Liệu Làm Việc, số 57). “Sự nghiêm chỉnh trong việc tuân theo kế hoạch này của Thiên Chúa và lòng can đảm cần có để làm chứng cho kế hoạch này cần được trân quí trong thời buổi này” (Tài Liệu Làm Việc, số 57).
II. 8 Lòng thương xót đối với các gia đình bị thương tích: sứ mệnh của Giáo Hội
Nhờ bí tích hôn nhân, gia đình Kitô hữu trở thành một thiện ích cho Giáo Hội, nhưng việc lồng nó vào bối cảnh Giáo Hội luôn là điều tốt cho gia đình vì được giúp đỡ trên các bình diện thiêng liêng và cộng đoàn bất chấp các khó khăn, và việc này giúp gìn giữ cuộc kết hợp vợ chồng và biện phân bất cứ nghĩa vụ liên hệ nào hay bất cứ thiếu sót nào.
Việc lồng một cách hữu cơ cả hôn nhân lẫn gia đình Kitô hữu vào thực tại Giáo Hội cũng đòi hỏi điều này: cộng đồng Giáo Hội phải lưu ý một cách thực tiễn và đầy lòng thương xót đối với các tín hữu đang sống chung hay những người đang sống trong cuộc hôn nhân phần đời mà thôi, vì họ chưa cảm thấy sẵn sàng để cử hành bí tích, vì các khó khăn phát sinh từ quyết định này hiện nay. Nếu cộng đồng chứng minh được mình có khả năng biểu lộ thái độ chào đón đối với những người này, trong các tình huống đa dạng của cuộc sống, và trình bầy mạch lạc sự thật về hôn nhân, thì việc này sẽ giúp các tín hữu ấy đạt được quyết định tiến tới cuộc hôn nhân bí tích.
II. 9 Lòng thương xót và chân lý mạc khải
Từ mối liên kết thân mật giữa bí tích hôn nhân và thực tại Giáo Hội, ta rút ra điều này: cộng đồng Giáo Hội có ơn gọi phải giúp đỡ cả những cặp và những gia đình Công Giáo đang gặp khủng hoảng. Giáo Hội có bổn phận chăm sóc tất cả những ai đang sống chung và đang sống trong các tình huống hôn nhân hay gia đình không thể trở thành cuộc hôn nhân thành sự, huống hồ là cuộc hôn nhân bí tích. “Ý thức rằng điều thương xót nhất là nói sự thật trong tình yêu, ta phải đi quá lòng cảm thương. Tình yêu thương xót, khi lôi cuốn và kết hợp, cũng biến đổi và nâng cao. Nó là một lời mời hoán cải (xem Ga 8:1-11)” (Tài Liệu Làm Việc, số 67).
II. 1 Gia đình và khoa sư phạm của Thiên Chúa
Cái nhìn của Chúa Giêsu là cái nhìn của lòng thương xót, một lòng thương xót đặt căn bản trên sự thật. Giáo huấn của Chúa Giêsu về hôn nhân và gia đình là từ sáng thế (xem Mt 19:3). Sự sống của con người nhân bản và của nhân loại là thành phần của một dự án lớn lao: dự án của chính Thiên Chúa hoá công. Cũng như trong mọi khía cạnh của đời sống, ta tìm được sự toàn vẹn và hạnh phúc của ta nếu biết tự ý và lồng mình một cách có ý thức vào trong dự án đầy khôn ngoan và yêu thương này. Nếu ta biết dùng hết khả năng tự nhiên của ta để đi tìm sự thật về hôn nhân và gia đình, và nếu ta biết lắng nghe các giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô, ta sẽ nắm được nó trong mọi nét viên mãn và thánh thiện của nó. Hôn nhân và gia đình sáng láng trong vẻ đẹp của chúng đến nỗi Thánh Phaolô cho đây là một mầu nhiệm lớn lao biểu lộ được tình yêu của Chúa Kitô đối với Giáo Hội (xem Eph. 5:32). Vẻ đẹp này không chỉ có ý nói đến một điều gì đó lôi cuốn mà vô ích lợi, nó không phải chỉ có giá trị thẩm mỹ, mà còn được nhận là một lợi ích chân thật, sâu sắc, khách quan trong đời người, một con đường đích thực dẫn tới hạnh phúc, mà đến lượt, nó còn làm cho hôn nhân bí tích thành một phương thế thánh hóa và là nguồn ơn thánh.
“Sự thật [như Công Đồng dạy] là thế này: chỉ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, mầu nhiệm con người mới nhận được ánh sáng. […] Chúa Kitô, Ađam cuối cùng, qua việc mạc khải mầu nhiệm Chúa Cha và tình yêu của Người, đã trọn vẹn mạc khải con người cho chính con người và làm cho ơn gọi tối hậu của họ ra rõ ràng” (Gaudium et spes 22). Do đó, dựa vào chìa khóa qui Kitô, ta cũng phải hiểu các đặc tính tự nhiên phong phú và đa dạng của hôn nhân (xem Tài Liệu Làm Việc, số 40).
II. 2 Chúa Giêsu và gia đình: ơn phúc và trách vụ bất khả tiêu
“Chính Chúa Giêsu, khi nhắc tới kế hoạch nguyên thủy của cặp vợ chồng nhân bản, đã tái khẳng định cuộc kết hợp bất khả tiêu giữa một người đàn ông và một người đàn bà, dù Người có nói với người biệt phái rằng ‘vì sự cứng lòng của các ông mà Môsê đã cho phép các ông ly dị vợ, nhưng từ nguyên thủy vốn không phải vậy’ (Mt 19:8). Tính bất khả tiêu của hôn nhân (‘sự gì Thiên Chúa đã liên kết, con người không được phân rẽ’Mt 19:6) phải được hiểu không như một ‘cái ách’ quàng lên con người mà như một ‘ơn phúc’ tặng cho người chồng và người vợ kết hợp trong hôn nhân. Chúa Giêsu đã sinh ra trong một gia đình; Người bắt đầu làm các dấu lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana và Người công bố ý nghĩa của hôn nhân như là sự viên mãn của một mạc khải nhằm khôi phục kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa (Mt 19:3). Tuy nhiên, cùng một lúc, Người đem những điều Người giảng dậy vào thực hành và biểu lộ ý nghĩa đích thực của lòng thương xót, được minh họa rõ rệt trong cuộc gặp gỡ người đàn bà Samaria (Ga 4:1-30) và với người đàn bà ngoại tình (Ga 8:1-11). Bằng cách nhìn người tội lỗi một cách yêu thương, Chúa Giêsu đã dẫn họ tới chỗ thống hối và hồi tâm (‘hãy đi và đừng phạm tội nữa’), vốn là căn bản để tha thứ” (Tài Liệu Làm Việc, số 41).
Dự án dành cho hôn nhân và gia đình này của Thiên Chúa đem lại khả thể viên mãn cho đời sống người ta, một khả thể hiện nay vẫn còn liên hệ, bất chấp các khó khăn gặp phải trong việc duy trì các cam kết vĩnh viễn. Các nhân đức trong đời sống vợ chồng và đời sống gia đình là: “… tôn trọng và tín thác lẫn nhau; chấp nhận và biết ơn lẫn nhau; kiên tâm và tha thứ” (Tài Liệu Làm Việc, số 43).
II. 3 Gia đình, hình ảnh Chúa Ba Ngôi
Hôn nhân và gia đình nói lên một cách đặc biệt rằng con người được dựng nên giống hình ảnh và họa ảnh Thiên Chúa. Trong bối cảnh này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc nhở rằng “… một mình người nam không phải là hình ảnh Thiên Chúa mà một mình người nữ cũng không phải là hình ảnh Thiên Chúa, nhưng người nam và người nữ như một cặp vợ chồng mới là hình ảnh Thiên Chúa. Sự khác nhau giữa người nam và người nữ không phải là để đối nghịch nhau hay để khuất phục nhau, mà là để hiệp thông và sinh sản, luôn theo hình ảnh và họa ảnh Thiên Chúa” (Triều kiến chung, 15 tháng Tư, 2015). Thực thế, bản chất bổ túc cho nhau trong đặc điểm kết hợp và sinh sản của hôn nhân đã được khắc ghi vào kế hoạch tạo dựng của Thiên Chúa (xem Tài Liệu Làm Việc, số 45).
Gia đình và hôn nhân đã được Chúa Kitô cứu chuộc (xem Eph 5: 21-32), cho phục hồi trở lại với hình ảnh Ba Ngôi Chí Thánh, một mầu nhiệm mà từ đó phát sinh ra mọi tình yêu đích thực. Việc này bao hàm cùng một lúc điều này: đối với người đã rửa tội, chúng là một ơn phúc và một cam kết đặc biệt.
II. 4 Gia đình trong Huấn Quyền Giáo Hội
Công Đồng Vatican II nhấn mạnh sự quan trọng của việc cổ vũ phẩm giá hôn nhân và gia đình (xem Gaudium et spes 47-52), khi nhắc lại sự kiện hôn nhân là một cộng đồng sự sống và tình yêu (xem GS 48). Thực vậy, tình yêu đích thực không bị giản lược vào một số yếu tố nào đó trong mối liên hệ mà bao hàm việc hiến thân cho nhau (xem GS 49). Như thế, các chiều kích tính dục và xúc cảm được bồi đắp trong cuộc sống hàng ngày. Trong Đấng Tạo Hóa, cặp vợ chồng nhân bản vốn đã là người mang chúc lành của Thiên Chúa. Thực vậy, trong Sách Sáng Thế, ta đọc thấy “Thiên Chúa tạo nên con người theo hình ảnh của Người, Người tạo nên họ theo hình ảnh của Người; Người dựng nên họ có nam có nữ. Và Thiên Chúa chúc phúc cho họ, và Người nói với họ: ‘hãy sinh sôi nẩy nở…’” (St 1:27-28). Rồi, trong việc nhập thể, Thiên Chúa mang lấy tình yêu nhân bản, thanh tẩy nó và đem nó tới chỗ thành toàn và ban cho hai vợ chồng, cùng với Thần Khí của Người, từng được ban trong bí tích Rửa Tội, khả năng thể hiện nó cách trọn vẹn và nhờ ơn thánh của Người, họ xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô và trở nên Giáo Hội tại gia (xem Lumen gentium 11; Tài Liệu Làm Việc 47).
II.5 Chiều kích truyền giáo của gia đình
Chiều kích truyền giáo của gia đình bắt nguồn từ bí tích Rửa Tội và được thể hiện trong cộng đồng Kitô hữu. Gia đình Kitô hữu, một Giáo Hội tại gia, đặt căn bản trên bí tích hôn nhân của hai Kitô hữu, từ bản chất, vốn có khuynh hướng loan truyền đức tin bằng cách chia sẻ nó cho nhiều người khác. Thực vậy, gia đình Kitô Giáo được mời gọi làm chứng cho Tin Mừng hoặc bằng cuộc sống phù hợp với Tin Mừng, hoặc bằng việc tuyên xưng truyền giáo. Các người phối ngẫu tăng cường đức tin cho nhau và thông truyền đức tin cho con cái mình, nhưng mặt khác, con cái, cùng với các thành viên khác của gia đình, cũng được mời gọi chia sẻ đức tin. Trong gia đình, bạn có thể trải nghiệm cách các người phối ngẫu khi yêu nhau, được thần khí Chúa Kitô tăng cường, sống ra sao ơn gọi nên thánh của họ. Như thế, theo lời Thánh Gioan Phaolô II đã nói trong tông huấn Familiaris consortio, gia đình đã tạo nên đường đi cho Giáo Hội (xem FC 13).
Chính trong khuôn khổ này, giáo huấn của Chân Phúc Phaolô VI rất thích đáng, khi nêu bật mối liên hệ thân mật giữa tình yêu vợ chồng và việc sinh sản sự sống (xem Humanae vitae). Ngày nay, sự thật này dường như càng đặc biệt quan trọng khi có quá nhiều khả năng kỹ thuật có thể tách biệt việc sinh sản ra khỏi tình yêu vợ chồng. Tình yêu mang ra sống trong hôn nhân và gia đình là nguyên lý sống trong xã hội, như Đức Bênêđíctô đã nhắc nhở trong thông điệp Caritas in veritate (số 44) của ngài. Thực vậy, gia đình là nơi con người học biết cảm nghiệm ích chung (xem Tài Liệu Làm Việc số 50). Giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng cũng thâm hậu hóa chiều kích thiêng liêng của đời sống gia đình, bắt đầu với việc khám phá lại việc gia đình cầu nguyện và cùng lắng nghe Lời Chúa. Cũng có tính nền tảng không kém là việc khám phá lại ngày Chúa Nhật như một dấu chỉ gốc gác sâu xa của gia đình trong thực tại Giáo Hội. Tính linh đạo của gia đình phải được nuôi dưỡng bằng các cảm nghiệm đức tin mạnh mẽ, nhất là bằng việc tham dự Thánh Thể (xem Tài Liệu Làm Việc số 51; LG ố 11). Trên hết, trong Thánh Thể Chúa Nhật, gia đình Kitô hữu công bố gia đình vĩ đại và dứt khoát kia mà tất cả chúng ta đều được mời gọi tham dự trong cuộc sống đời đời.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô, trong thông điệp Lumen Fidei của ngài, có nói tới các mối dây trong gia đình và đức tin, ngài nói: “đức tin không phải là nơi trú ẩn… nhưng là một điều thăng tiến đời ta. Nó làm ta ý thức được ơn gọi tuyệt vời, ơn gọi yêu thương. Nó bảo đảm với ta rằng tình yêu này đáng tin cậy và đáng ôm lấy, vì nó đặt căn bản trên lòng trung thành của Thiên Chúa, một lòng trung thành mạnh hơn mọi yếu đuối của ta” (LF số 53).
Sự hiến thân hỗ tương tạo ra hôn nhân, đối với các Kitô hữu vốn bắt nguồn từ ơn thánh của Phép Rửa, đã ổn định hóa mối liên kết nền tảng của mỗi người với Chúa Kitô trong Giáo Hội. Các người đính hôn hứa sẽ hiến thân hoàn toàn, sẽ chung thủy, và sẵn sàng đón nhận sự sống, các điều vốn được nhìn nhận như là các yếu tố tạo lập ra hôn nhân và là các ơn phúc Thiên Chúa ban cho họ, đã coi trọng cam kết của họ nhân danh Người và trước mặt Giáo Hội. Trong cuộc hôn nhân bí tích, Thiên Chúa thánh hiến tình yêu vợ chồng và củng cố tính bất khả tiêu của nó, giúp họ sống lòng chung thủy, sự bổ túc lẫn cho nhau và việc sẵn sàng chào đón sự sống của họ (xem Tài Liệu Làm Việc, số 54).
II. 6 Tính bất khả tiêu của hôn nhân và niềm vui sống với nhau
Giáo huấn của Chúa Kitô về tính bất khả tiêu của hôn nhân có tính rất khắt khe, tới chỗ tạo bối rối cho chính các môn đệ của Người (xem Mt 19:10). Các sách Tin Mừng và Thánh Phaolô đều đã quả quyết như nhau rằng việc rẫy vợ, một việc mà dân Do Thái vốn thực hành đầu tiên, không làm cho cuộc hôn nhân mới thành khả hữu đối với cả đôi bên. Lời quả quyết này, một lời quả quyết bất thường và hết sức khắt khe, vẫn tiếp diễn suốt trong các thế kỷ qua trong truyền thống kỷ luật của Giáo Hội, tạo ra một yếu tố khiến nhiều người muốn trở về với Kitô Giáo, một vấn đề kỷ luật cũng quan trọng gần như chế độ đa hôn và tính bất khả tiêu của hôn nhân (xem Mt 19:1-10; Mc 10:1-12; Lc 16:18; 1 Cor 7:10-16).
Giáo huấn này của Chúa Kitô liên quan tới hôn nhân thực là Tin Mừng và là một nguồn vui, cũng như là việc thể hiện trọn vẹn con người nhân bản và ơn gọi của họ bước vào các mối liên hệ bản thân cho không, hiến mình đi và được tiếp nhận trọn vẹn (xem Tài Liệu Làm Việc, số 55).
II. 7 Dự án của Đấng Tạo Hóa và hôn nhân tự nhiên
Ta nên nhớ rằng Giáo Hội luôn thừa nhận sự hiện hữu của cuộc hôn nhân đích thực, tự nhiên giữa hai người chưa rửa tội. Vì ngay từ khởi thủy của nhân loại, sự kết hợp như thế giữa một người đàn ông và một người đàn bà đã tương hợp với kế hoạch tạo dựng của Thiên Chúa rồi, và được Người chúc phúc (St 1:27-28). Do đó, trong thế giới ngày nay, trong số các cuộc hôn nhân đích thực, ta thấy nhiều cuộc hôn nhân tự nhiên và nhiều cuộc hôn nhân bí tích khác, được kết ước giữa những người đã rửa tội, bao hàm một ơn thánh dặc biệt (xem Tài Liệu Làm Việc, số 57). “Sự nghiêm chỉnh trong việc tuân theo kế hoạch này của Thiên Chúa và lòng can đảm cần có để làm chứng cho kế hoạch này cần được trân quí trong thời buổi này” (Tài Liệu Làm Việc, số 57).
II. 8 Lòng thương xót đối với các gia đình bị thương tích: sứ mệnh của Giáo Hội
Nhờ bí tích hôn nhân, gia đình Kitô hữu trở thành một thiện ích cho Giáo Hội, nhưng việc lồng nó vào bối cảnh Giáo Hội luôn là điều tốt cho gia đình vì được giúp đỡ trên các bình diện thiêng liêng và cộng đoàn bất chấp các khó khăn, và việc này giúp gìn giữ cuộc kết hợp vợ chồng và biện phân bất cứ nghĩa vụ liên hệ nào hay bất cứ thiếu sót nào.
Việc lồng một cách hữu cơ cả hôn nhân lẫn gia đình Kitô hữu vào thực tại Giáo Hội cũng đòi hỏi điều này: cộng đồng Giáo Hội phải lưu ý một cách thực tiễn và đầy lòng thương xót đối với các tín hữu đang sống chung hay những người đang sống trong cuộc hôn nhân phần đời mà thôi, vì họ chưa cảm thấy sẵn sàng để cử hành bí tích, vì các khó khăn phát sinh từ quyết định này hiện nay. Nếu cộng đồng chứng minh được mình có khả năng biểu lộ thái độ chào đón đối với những người này, trong các tình huống đa dạng của cuộc sống, và trình bầy mạch lạc sự thật về hôn nhân, thì việc này sẽ giúp các tín hữu ấy đạt được quyết định tiến tới cuộc hôn nhân bí tích.
II. 9 Lòng thương xót và chân lý mạc khải
Từ mối liên kết thân mật giữa bí tích hôn nhân và thực tại Giáo Hội, ta rút ra điều này: cộng đồng Giáo Hội có ơn gọi phải giúp đỡ cả những cặp và những gia đình Công Giáo đang gặp khủng hoảng. Giáo Hội có bổn phận chăm sóc tất cả những ai đang sống chung và đang sống trong các tình huống hôn nhân hay gia đình không thể trở thành cuộc hôn nhân thành sự, huống hồ là cuộc hôn nhân bí tích. “Ý thức rằng điều thương xót nhất là nói sự thật trong tình yêu, ta phải đi quá lòng cảm thương. Tình yêu thương xót, khi lôi cuốn và kết hợp, cũng biến đổi và nâng cao. Nó là một lời mời hoán cải (xem Ga 8:1-11)” (Tài Liệu Làm Việc, số 67).