NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO TRONG THIÊN KỶ MỚI

Nhân loại đã bước vào một thế kỷ mới và cũng là một thiên kỷ mới, những năm 2,000 hay Ðệ Tam Thiên Niên Kỷ. Trong sự chuẩn bị cho những trưởng thành nhân bản, người trẻ Công Giáo không thể không nghĩ đến những phần vụ mà bất cứ ai đã chịu phép Thánh Tẩy đều phải chấp hành: Ðem ánh sáng Tin Mừng đến mọi quốc gia và làm phép thánh tẩy (rửa tội) cho họ nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi. (Mt. 28:18-20). Ðể thực hiện điều này, ngoài nền giáo dục mà người trẻ đang hấp thụ tại học đường, mà hầu hết đều hướng về các khoa học kỹ thuật, họ còn cần phải trau dồi đời sống tinh thần. Ðời sống tinh thần đó phải được thăng bằng với cuộc sống hàng ngày trong xã hội. Nếu không, nguy cơ của sự phá sản tinh thần rất có thể sẽ xảy đến. Ðáng sợ hơn nữa, nếu những người khiếm khuyết về đời sống tinh thần lại nắm những vai trò then chốt trong giáo xứ, giáo hội, xã hội thì những hậu qủa giây chuyền chắc chắn sẽ xảy ra.

Ðể củng cố đời sống tinh thần, những người trẻ Công Giáo cần biết vị trí của mình và hướng đi của giáo hội trong tương lai. Cổ nhân đã dạy, “ôn cố tri tân”, học những cái đã xảy ra để biết hiện tại và thẩm định tương lai. Chúng ta sẽ thử nhìn qua những gì đã xảy ra ngay trong lòng giáo hội và những lý do của nó, để mong nhìn thấy được những gì có thể sẽ xảy đến mà tránh, cũng như tìm những phương thức thích hợp để nỗ lực xây dựng tương lai cho chính mình và cho giáo hội.

ÔN CỐ



Chúng ta sẽ đi ngược lại 2,000 năm lịch sử giáo hội Kitô, để thấy rằng các biến cố trọng đại nhất, hầu như đã xảy ra cứ sau mỗi 500 năm hay năm thế kỷ.

I. THẾ KỶ THỨ V: GIÁO HỘI SEMITIC

Sau Công Ðồng Chalcedon năm 451, một số giáo hội Kitô ở Trung Ðông và Bắc Phi Châu như Amenia, Persia, Syria, Egypt và Ethiopia đã từ chối những huấn dụ về Tín Lý của Công Ðồng. Tín lý đó dạy rằng Ðức Kitô là Chúa và là Người thật (Jn. 1:1-14). Họ đã tự tách rời khỏi hai trung tâm chính của Kitô giáo là Constantinople và Roma, để thành lập giáo hội “Tiền Công Ðồng Chalcedon” hay là các giáo hội Semitic. Sự phân chia này đã làm Kitô giáo mất hẳn một miền rộng lớn thuộc Ðông và Nam Ðịa Trung Hải. Tuy đã có lý do chính trị và địa phương liên hệ trong quyết định nói trên, nhưng sự phân chia đã thực sự làm các nguồn tư tưởng thần học của Tây Phương mất thăng bằng và nghiêng hẳn về phía các nguồn tư tưởng Hi Lạp (Greece). Những giáo hội Semitic hiện vẫn nay còn tồn tại, chạy dài từ miền Tây Ấn Ðộ đến Bắc Phi Châu và lên tới miền Nam nước Nga với trên 10 triệu Kitô hữu. Gần đây, một số trong những giáo hội này đã trở lại, hiệp thông với giáo hội Công giáo Roma.

II. THẾ KỶ XI: GIÁO HỘI ĐÔNG PHƯƠNG (CONSTANTINOPLE)

Sau nhiều năm rạn nứt giữa Ðông và Tây, giữa những giáo hội nói tiếng Hi Lạp và các giáo hội dùng tiếng La Tinh, năm 1045, sự gì người ta e rằng phải đến, đã đến. Ðức Hồng Y Humbert đã đọc bản án truất phép thông công toàn thể các giáo hội Ðông Phương (Orthodox, trung tâm là Constantinople, ngày nay là thành phố Istanbul của Turkey). Ðể đáp lại, Thượng Phụ Michael Cerularius và công đồng của ông cũng lên án phạt các giáo hội Tây Phương (Roma).

Ðã có những nguyên do chính đưa đến sự phân chia này. Về chính trị: Kể từ khi có các cuộc xâm lăng của dân Bắc Âu, đến việc thành lập đế quốc Roma, việc đội vương miện cho vua Charlemagne của Pháp, đã làm cho Ðông Phương bất bình. Ðến khi vua Otto I (Đức) chiếm thành Roma năm 962 và áp đảo Ðức Giáo Hoàng, thì các giáo hội Ðông Phương không còn hoàn toàn thần phục ÐGH nữa.

Về văn hóa: Tây Phương đã bị ảnh hưởng sự tục hóa của dân man di (Barbarians, BắcÂu) và chính họ cũng đã muốn có một nền văn hóa riêng, thay vì phải chấp nhận nền văn hóa “thuộc địa” của Hi Lạp. Lối thực hành trong đời sống hàng ngày cũng thấy có những dị biệt. Thí dụ: các LM Ðông Phương để râu dài, còn những LM ở Tây Phương lại cạo nhẵn. Ðông Phương dùng bánh có men trong phép Thánh Thể, trong khi Tây Phương chỉ dùng bánh không men. Từ đó đã nảy sinh thêm những nghi kỵ và đưa đến sự bất tín lẫn nhau.

Về Thần Học: Ðông Phương thiên về chiêm niệm, suy gẫm những mầu nhiệm của Chúa qua sự mạc khải của Ngôi Con trong mầu nhiệm nhân bản của giáo hội. Họ cũng phát triển khoa thần học về Thiên Chúa Ba Ngôi (Holy Trinity) và môn Kitô học (Christology). Trong khi đó, Tây Phương đã đi hẳn về phần nổi bề ngoài, chú trọng nhiều đến ý nghĩa của mầu nhiệm cứu chuộc, về đời sống trong giáo hội và đời sống bí tích. Giáo hội là gì? Thế nào là ân sủng?... Đó là những vấn nạn đã được giáo hội Tây Phương tìm cách trả lời.

Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất trong sự phân chia này là sự bất đồng về quyền bính của Ðức Giáo Hoàng. Ðối với Tây Phương, ÐGH là người kế vị của thánh Phêrô, cai quản toàn giáo hội, có quyền tuyệt đối. Trong khi đó, Ðông Phương chỉ coi chức giáo hoàng (giám mục thành Roma) như giám mục của một địa phận, đồng thời điều hợp các giáo hội khác của giáo hội hoàn vũ như một vị chủ tịch của một liên đoàn ái hữu. Như vậy, Ngài không có quyền tuyệt đối.

III. THẾ KỶ XVI: SỰ PHÂN LY CỦA GIÁO HỘI TÂY PHƯƠNG

Sự phân chia lần này đã ảnh hưởng đến tận nền móng của giáo hội Công giáo. Từ bên ngoài, các quốc gia chống đối lẫn nhau, đến bên trong các cộng đồng địa phương cũng có người theo phe này kẻ theo phái khác. Khởi đi từ đêm 30 tháng 10 năm 1517, khi Martin Luther dán 95 tiểu án chống giáo hội, nói chung; và lề lối ban các ơn đại xá, tiểu xá, nói riêng. Ông cho rằng con người không thể “mua” ơn tha tội của Chúa bằng các việc đền tội, nhưng con người được trở nên công chính do ơn sủng đến từ niềm tin vào Ðức Kitô. Ðáng tiếc thay, sự chống đối đơn thuần này đã được một số lãnh chúa ở Ðức ủng hộ, vì lúc ấy giáo hội đang có nhiều đất đai ở vùng này, nếu ủng hộ Luther, họ sẽ chiếm được số đất đai đó. Một vài người khác như John Calvin ở Pháp và Zwingli ở Zurich, Thụy Sĩ, cũng trình bày những tư tưởng thần học của họ và từ chối quyền bính của Ðức Giáo Hoàng ở Roma (ảnh hưởng từ cuộc phân chia Ðông - Tây). Trong khi đó, giáo hội Công Giáo Roma đã tung ra nền thần học chống lại các thần học cải cách (Counter-Reformation Theology) và loại trừ tất cả những ai không tuân phục quyền bính ÐGH.

Cũng nên nhắc thêm về trường hợp của Anh Giáo. Sự thoát ly của giáo hội này đã không gây ra bởi các lý do thần học hoặc văn hóa, nhưng chỉ vì vua Henry VIII muốn ly dị bà vợ chính thức (bà này đã không thể sinh con cho ông) để cưới bà vợ lẽ, là góa phụ của anh mình. Dĩ nhiên là ÐGH Clement VII đã không cho phép, nên năm 1534, ông ta đã đưa cả nước Anh ly khai giáo hội Công Giáo Roma. Tuy nhiên, qua nhiều cuộc bách đạo, vẫn còn rất nhiều tín hữu người nước Anh, trung kiên với giáo hội Roma và dạy dỗ con cháu giữ vững niềm tin cho đến ngày nay.

Những người theo Luther, Calvin và Zwingli đã tiếp tục các giáo hội Tin Lành, hay Thệ Phản (Protestants). Vì không có một hệ thống tổ chức chặt chẽ, nên sự phân chia trong chính hàng ngũ của họ vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Hiện có trên 300 giáo phái Tin Lành khác nhau với một tổng số khoảng 400 trăm triệu Kitô hữu trên thế giới.

Bỏ qua chuyện buồn phân chia, chúng ta có thể nhìn thấy những điểm tích cực khởi đi từ sự phân ly này. Ðó là dấu hiệu kết thúc thời Trung Cổ, và nền văn minh Tây Phương đã tiến vào thời Phục Hưng (Renaissance). Con người đã thay đổi toàn diện trong thời kỳ này: từ hành vi, tư tưởng đến cảm xúc... Tất cả đã được diễn đạt qua triết học và nghệ thuật. Sự thành công của khoa học và các cuộc thám hiểm lại càng làm gia tăng các thay đổi. Tuy nhiên, cuộc phục hưng cũng đưa con người trở lại với những gia sản cổ truyền của mình.

TRI TÂN



Chúng ta đã đi qua những mốc chính trong lịch sử của giáo hội. Ðiều đó có giúp chúng ta hiểu biết hơn về hiện tại không? Nhất là chúng ta lại đang ở giai đoạn cuối của chu kỳ năm thế kỷ, những năm 2000’s. Đã ba lần bị phân chia, liệu giáo hội có bị xâu xé thêm lần nữa? Chuyện gì đã và đang xảy đến cho giáo hội và thế giới hôm nay?

I. CÔNG ÐỒNG VATICAN II

Một Ðại Công Ðồng đã đổi mới hẳn đời sống đức tin của giáo hội Công Giáo trong hậu bán thế kỷ XX, Công Ðồng Vatican II, 1961-1965. Ðiểm đặc biệt chúng ta cần để ý là CÐ Vatican II đã khởi xướng những cuộc hoà giải với nhiều giáo hội Kitô khác trên toàn thế giới. Năm 1965, ÐGH Phaolô VI đã cùng Thượng Phụ Giáo Chủ Ðông Phương (Eastern Orthodox) xóa án phạt truất phép thông công mà hai giáo hội đã giáng lên nhau từ năm 1054. Tháng 10, 1971, ÐGH Phaolô VI đã cùng Thượng Phụ Ignatius Jacob III của giáo hội Syria (Semitic) tuyên bố: “Ðã không có sự khác biệt trong sự tuyên xưng đức tin về mầu nhiệm Ngôi Lời xuống thế (nhập thể) và thực sự là người, mặc dù đã có sự khác biệt trong việc diễn tả đức tin nầy về phương diện thần học trong nhiều thế kỷ qua.” Tháng 5, 1973, ÐGH Phaolô VI lại cùng Thượng Phụ Amba Shenouda III của giáo hội Coptic, Ai Cập (cũng thuộc Semitic) tuyên bố những lời tương tự. Tháng 11, 1979. ÐGH Gioan Phaolô II và Thượng Phụ Domitrios I cùng tuyên bố tại Istanbul, Turkey (Thổ Nhĩ Kỳ), thành lập một ủy ban liên hợp Công Giáo và Chính Thống để cùng nghiên cứu về các vấn đề như bí tích, ngôi vị của Ðức Giám Mục Roma (Đức Giáo Hoàng) trong giáo hội hoàn vũ, tín lý về Ðức Mẹ Maria... Một ủy ban tương tự với giáo hội Anh Giáo cũng đã và đang hoạt động rất khả quan trong nhiều thập niên qua.

Những thành qủa trên đây đã đến một phần từ phong trào hoà giải, khởi đi từ tiền bán thế kỷ XX. Phải chăng chúng ta đang đi vào kỷ nguyên của một “Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền?”

II. THỜI ÐẠI CỦA CHÚA THÁNH THẦN?

Người ta vẫn thường chia lịch sử Ơn Cứu Rỗi thành hai thời kỳ: Thời Cựu Ước và thời Tân Ước. Trong thời Cựu Ước, con người chỉ biết Chúa một cách tổng quát, còn mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi đã chưa được mạc khải. Người ta vẫn thường gọi thời kỳ này là “của” Đức Chúa Cha. Trong thời Tân Ước, nhiều mầu nhiệm khác đã được Chúa Kitô mạc khải, nhất là công trình Cứu Chuộc của Ngài. Ðây là thời đại “của” Ðức Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa. Trong hiện tại, nhiều nhà thần học đã và đang tự hỏi rằng, phải chăng giáo hội đang đi vào thời đại mới mà Ngôi Ba Thiên Chúa sẽ hoạt động tỏ tường hơn để chuẩn bị cho cuộc giáng lâm lần thứ hai của Chúa Giêsu Kitô? Dĩ nhiên Ba Ngôi Thiên Chúa lúc nào cũng đồng hoạt động, nhưng các mạc khải đã được ban đi tùy theo trình độ hấp thụ của con người. Kẻ viết bài này chỉ mong trình bày vấn đề qua lăng kính lịch sử hơn là tín lý, phỏng đoán hơn là xác quyết. Những nỗ lực hợp nhất của các giáo hội Kitô; những phong trào nhằm đổi mới và đưa con người đến sự kết hợp chặt chẽ với Chúa và yêu thương anh em hơn; việc một vị giáo hoàng “ngoại quốc” (Chân Phúc Gioan Phaolô II, người đến từ Ba Lan) đã lên ngôi và giúp làm sụp đổ cả một đế quốc và khối Cộng Sản quốc tế, không phải là những nỗ lực đơn phương của con người, nếu không có sự tác động của Chúa Thánh Linh.

NHẬN ÐỊNH



I. KHÍA CẠNH LẠC QUAN

Những cuộc phân chia trong giáo hội Kitô đã không đơn thuần bắt nguồn từ các bất đồng thần học, nhưng đã có những nguyên nhân văn hóa, chính trị, địa phương (cách biệt địa lý) và nhất là sự bất đồng ý kiến về quyền bính của Ðức Giáo Hoàng. Ở một khía cạnh nào đó, những cuộc phân chia này đã thúc đẩy các giáo hội trưởng thành và cố gắng hơn trong công cuộc truyền giáo. Trong vài thế kỷ vừa qua, song song với những thánh hóa tông đồ của giáo hội Công Giáo, người ta không thể bỏ qua những nỗ lực của các anh em Tin Lành. Họ đã có những nhà truyền giáo lặn lội đến tận những nơi xa xôi, hẻo lánh ở Phi Châu và Á Châu để giảng dạy Tin Mừng.

Những giáo hội Kitô đang ở vào một thời điểm mà mọi tranh cãi để tìm ra ai là người có lỗi trong các cuộc phân chia, hầu như đã không còn hợp thời nữa. Dĩ nhiên vẫn còn những kẻ thừa nước đục thả câu để dành quyền lợi cho phe nhóm hoặc cá nhân mình. Nhưng đa số đã biết nhìn nhận nhau như những anh em cùng thờ phượng và phụng sự một Cha chung trên trời.

II. CÁC TRUNG TÂM VĂN HÓA

Cách biệt địa dư là một trong những nguyên nhân đã đưa những trung tâm văn hóa đến chỗ tự tạo thế lực để tách rời khỏi Giáo Hội Mẹ, như các giáo hội Trung Ðông và Ðông Phương. Trong hiện tại, giáo hội Công Giáo đang có ba trung tâm văn hóa chính: Âu Châu, Bắc Mỹ (Hoa Kỳ và Canada), và Châu Mỹ La Tinh (Trung và Nam Mỹ Châu). Ở Âu Châu và Bắc Mỹ đang có những phong trào đòi quyền tự do qúa lố, mà mục đích chỉ nhằm thỏa mãn những đòi hỏi của xác thịt hoặc trần tục hóa Giáo Hội, một mầu nhiệm bất biến của Ơn Cứu Chuộc. Trong khi ở Châu Mỹ La Tinh, phong trào Thần Học Giải Phóng, đi ngược với giáo huấn chân chính của Kinh Thánh, vẫn đang âm ỷ, chờ cơ hội bùng dậy.

Tuy nhiên, những áng mây mù nói trên đã và đang được Chúa Thánh Linh xóa tan qua Hội Thánh và Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng như ĐGH đương nhiệm Bênêdictô XVI. Các ngài đã đến tận những địa phương để sửa đổi các sai lầm này cũng như tỏ mối quan tâm ưu ái của Giáo Hội Mẹ đối với đàn con ở khắp nơi.

Ở thời đại mà nhân loại đã có khả năng đưa người và phi thuyền đến các hành tinh khác, thiết tưởng giới trẻ cũng cần có cái nhìn tinh tế hơn, rộng lượng hơn trước những biến cố đã, đang cũng như có thể sẽ xảy ra trong giáo hội. Ðôi khi chính những bất hạnh và tử đạo hôm nay, sẽ trở thành lạc phúc và triều thiên vinh hiển mai ngày. Bình tĩnh nhận định các biến cố và tin tưởng vào Ơn Chúa Quan Phòng với một tinh thần lạc quan, người trẻ sẽ thấy dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm những giải đáp và thái độ cần phải có trong mọi hoàn cảnh của đời sống.

NHẬP CUỘC



Trở lại bổn phận của tất cả các Kitô hữu là rao giảng Phúc Âm cho anh em, làm tông đồ cho mọi người, rửa tội cho họ. Ðã có tông đồ giáo sĩ và tông đồ giáo dân. Ða số chúng ta đang là tông đồ giáo dân và cần thực thi sứ mệnh Chúa ban, ngay hôm nay, trong lúc này. Tất cả mọi người, trong mọi lứa tuổi, mọi trình độ đều có thể làm tông đồ trong khuôn khổ, trong môi trường, trong cảnh vực của chính mình. Phong Trào Thanh Sinh Công (Thanh Niên, Sinh Viên, Học Sinh, Công Giáo) đã có châm ngôn: “Thánh hóa bản thân, cứu vớt tha nhân, Kitô hóa cảnh vực.” Những người trẻ hôm nay sẽ tự thánh hoá bản thân để chia sẻ đời sống thánh thiện của giáo hội, đồng thời thực sự cùng chung sức với Đức Thánh Cha, các vị bề trên trực tiếp, thực thi sứ mệnh tông đồ trong thiên niên kỷ mới với một niềm tin tràn đầy trong hiện tại và hướng tới hạnh phúc viên mãn sau này.

LM Phaolô Nguyễn Văn Tùng