Phiên toà phúc thẩm xử tám “tội nhân” của giáo xứ Thái Hà đã kết thúc. Không phải là một luật gia lão luyện hay một luật sư uyên bác thì ai cũng có thể biết trước được phán quyết chung thẩm của toà án. Nhà cầm quyền hả hê vì đã gỡ được một cái gai nhọn nhức nhối. Các “tội nhân” của vụ án cũng hả hê vì đã “theo kiện đến cùng” để nói lên được tiếng nói của công lý và hoà bình.

Hình ảnh của hàng ngàn giáo dân nắm tay nhau đi bộ tám cây số từ nhà thờ Thái Hà đến nơi xử án là một hình ảnh của tình nghĩa son sắt và sức mạnh của những người có cùng chung một niềm tin, cùng chia sẻ một ân sủng. Đó là một hình ảnh rất xa lạ của người dân Hà Nội vốn đã trầy trụa với chủ nghĩa cộng sản. Các “tội nhân” người nào cũng nói cười rạng rỡ, đó là một hình ảnh rất khác thường của những người phải “vô phúc đáo tụng đình”. Trong lịch sử tư pháp của cộng sản Việt Nam thì có thể đây là một trường hợp rất đặc biệt mà những người cầm quyền phải trực diện đối đầu với ý chí và nguyện vọng của người dân qua một hình thức biểu dương ôn hoà và trật tự. Nhà cầm quyền đã không dám dùng bạo lực để giải tán nhiều ngàn người mà đám đông này đã công khai đứng ở vị thế chống đối những sai trái của nhà cầm quyền mà còn chống đối cả chủ nghĩa của chế độ. Một điểm đáng ghi nhận là có rất nhiều người trẻ trong đám đông xiển dương ý chí đòi hỏi công lý và hoà bình. Họ đã mang cả sự nghiệp và tương lai của tuổi trẻ ra đầu tư cho một Việt Nam tự do dân chủ trong công lý và hoà bình. Tất nhiên khát vọng của những người trẻ này một ngày nào đó sẽ vươn cao đến lý tưởng mà họ hằng đeo đuổi.

Người dân Việt Nam của năm 2009 không phải còn là những con ma trơi của năm 1979. Người dân Việt Nam bây giờ đã có chút hơi hướm của lý tưởng tự do dân chủ. Họ không còn sợ hãi bọn cầm quyền và cũng không còn khiếp nhược trước những cái gọi là luật lệ trói buộc họ vào gông cùm của chủ nghĩa. Họ đã đứng lên tranh đấu cho không những quyền lợi cá nhân mà còn dũng mãnh chiến đấu cho công bằng và lẽ phải, cho công lý và hoà bình. Bên cạnh tám “tội nhân” Thái Hà thì còn nhiều triệu người trên khắp đất nước và biết bao nhiêu trái tim nhân loại cùng đồng hành với “bọn có đạo phá hoại tài sản và gây rối trật tự công cộng”.

Con người ta vốn tính bản thiện và ai cũng biết rằng nhân quyền và dân quyền dù ở chân trời góc biển nào cũng phải được triệt để tôn trọng. Không ai có thể nói rằng người dân Mỹ hay Pháp có quyền chỉ trích đàn hạch nhà cầm quyền nhưng người dân Việt Nam hoàn toàn không có quyền đó. Báo chí trong nước mới đăng tin người nước ngoài vào các siêu thị ở Hà Nội thì không cần phải gửi các túi xách cho nhân viên bảo vệ nhưng tất cả người Việt Nam đều phải gửi các túi xách cho nhân viên bảo vệ trước khi bước vào cửa chợ. Những người chủ chợ và những người cầm quyền với một cái đầu đặc kịt bùn đất chỉ nghĩ và tin rằng những người nước ngoài không bao giờ ăn cắp. Họ đâu có biết rằng ngay cả ở nước Mỹ vật chất thừa mứa mà mỗi năm các siêu thị mất cắp đến hàng tỷ Mỹ kim. Mặc cảm tự ti và những rối loạn trong cung cách hành xử luật pháp của những người cầm quyền trở nên một thứ nô lệ cho cả chế độ chỉ biết lấy hận thù và bạo lực làm phương tiện đấu tranh và nắm giữ quyền hành.

Trở lại vụ án Thái Hà, nhà cầm quyền trưng dẫn một văn bản của linh mục Vũ Ngọc Bích chuyển nhượng cho nhà nước gần như toàn bộ đất đai và cơ sở của dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội. Văn bản này dùng mẫu tự (font) của nhu liệu Microsoft Word được công ty Microsoft phát minh ra sau hơn hai mươi năm bản văn được ký kết. Tất nhiên ai cũng biết đó là một văn bản được nhà cầm quyền ngụy tạo ra để chiếm đoạt tài sản của dòng Chúa Cứu Thế và chữ ký của linh mục Vũ Ngọc Bích cũng chỉ là một sản phẩm của gian dối bịp bợm. Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam khẳng định sự chuyển nhượng này với một tờ giấy gian giảo là bằng chứng chủ quyền đất đai và tài sản của dòng Chúa Cứu Thế đã thuộc về nhà nước và dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội cũng như giáo dân xứ Thái Hà không còn đủ tư các pháp lý để đòi lại đất đai và tài sản bị chiếm đoạt.

Vậy khi nhà nước cộng sản Việt nam lớn tiếng đòi hỏi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì cũng chỉ là một trò hề kệch cỡm. Ngày 4 tháng 9 năm 1958, thủ tướng cộng sản Trung quốc đã công bố một văn kiện với bản đồ công nhiên xác nhận chủ quyền của Trung quốc trên các lãnh thổ của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và cũng chỉ mười ngày sau, ngày 14 tháng 9 năm 1958, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đã vội vàng ủng hộ quyết định của Trung quốc bằng một văn bản chính thức mà nhà cầm quyền cộng sản Trung quốc coi như là một văn kiện pháp lý để xác nhận chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Văn bản này đã được công bố trên nhật báo Nhân Dân là cơ quan ngôn luận chính thức của đảng cộng sản Việt Nam vào ngày 22 tháng 9 năm 1958.

Bản văn ngụy tạo và gian giảo một cách đần độn của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam được dùng như một văn kiện chính thức để trắng trợn cướp đoạt tài sản của dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội thì văn kiện dâng biển hiến đất của Phạm Văn Đồng cũng chỉ là một tờ giấy rác rưởi hoàn toàn không có một giá trị nào cả. Bởi vì vào thời điểm của năm 1958, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ của nước Việt Nam Cộng Hoà và cộng sản Bắc Việt không hề có một quyền lợi hay trách vụ nào trên phần lãnh thổ này. Bởi vậy nếu nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam bác khước tính cách hiện thực và pháp lý của văn kiện mà Phạm Văn Đồng đã ký kết nhân danh nhà cầm quyền cộng sản Bắc Việt Nam để đòi hỏi chủ quyền trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thì các giáo dân Thái Hà cũng có quyền chối bỏ văn bản của linh mục Vũ Ngọc Bích ngay cả đó là một văn bản có thật vì linh mục Bích không có quyền hạn để dâng hiến tài sản của cộng đồng dòng Chúa Cứu Thế cho bất cứ tổ chức hay cá nhân nào. Huống chi đó là một văn bả được nhà cầm quyền Hà Nội ngụy tạo một cách trắng trợn ngu dốt.

Khi cộng sản Trung quốc có những hoạt động kinh tế và du lịch trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam qua phát ngôn viên của bộ ngoại giao cũng chỉ có những lời lẽ phản ứng lấy lệ, gọi là cho có. Hơn thế nữa, Hà Nội đã thẳng tay đàn áp các sinh viên tổ chức biểu tình phản đối Trung Cộng chiếm đất lấn biển của Việt Nam. Nhưng khi giáo dân Thái Hà đứng lên đòi lại một miếng đất nhỏ của giáo xứ thì cộng sản Hà Nội lại dùng mọi mưu chước gian giảo bịp bợm để chiếm đoạt. Khiếp sợ bọn Tầu Cộng nhưng nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội lại không thiếu những đòn phép gian giảo bịp bợm ngay với những người cùng chung huyết thống.

Những người nắm quyền hành ở Hà Nội đang bộc lộ cái bản chất tôi mọi cho bọn bá quyền Bắc Kinh. Nhiều người lo ngại rằng cả nước Việt Nam hay ít nhất là một phần đất của nước Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh của Trung quốc là việc rất có thể xẩy ra.