1. Niên giám Giáo hoàng chuyển sang hình thức kỹ thuật số: Đó là gì và nội dung của nó ra sao?

Tuần này, Vatican đã cho ra mắt phiên bản kỹ thuật số đầu tiên của danh bạ thường niên, tạo ra một cách dễ dàng hơn để tìm kiếm thông tin đáng tin cậy và cập nhật về các cơ cấu và thành viên của Giáo hội trên toàn thế giới.

Niên giám Giáo hoàng bìa đỏ — được biết đến trong tiếng Ý là “Annuario Pontificio” — là một tài liệu tham khảo quan trọng được cập nhật hàng năm với các số liệu thống kê của Giáo hội, tên và thông tin liên lạc của các giám mục, thông tin về các bộ phận của Tòa Thánh, và nhiều hơn nữa.

Niên giám Giáo hoàng, với hình thức hiện tại, bắt đầu từ đầu thế kỷ 20, mặc dù các phiên bản khác của cuốn sách chứa thông tin về hệ thống phẩm trật Giáo Hội Công Giáo và Giáo triều Rôma có thể được tìm thấy từ thế kỷ 18 hoặc sớm hơn.

Lợi ích lớn nhất đối với người dùng là khả năng dễ dàng tìm kiếm thông tin và khả năng cập nhật được phản ánh theo thời gian thực.

Trước đây, để cập nhật danh bạ, người ta phải cắt và dán các bản cập nhật định kỳ từ Vatican vào cuốn sách bìa cứng.

Danh mục này bao gồm dữ liệu toàn cầu thường xuyên thay đổi, bao gồm số liệu thống kê về các giáo phận và phái bộ Công Giáo, thông tin về các giám mục, các thành viên của Giáo hội, số lượng linh mục và tu sĩ, cũng như các cơ quan đại diện ngoại giao của Tòa Thánh.

Nó cũng chứa thông tin về giáo hoàng và các Hồng Y, và liệt kê những người lãnh đạo nhiều thực thể khác nhau tạo nên Giáo triều Rôma và Vatican.

Ngày 8 tháng 12, Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cơ quan chịu trách nhiệm xuất bản Niên giám Giáo hoàng, đã công bố phiên bản kỹ thuật số, có sẵn cả trên web và ứng dụng với phí ghi danh hàng năm là 68,10 euro hay 79,20 đô la, là mức giá tương đương với phiên bản in, hiện vẫn đang được xuất bản.

Tòa thánh cho biết trong thời gian tới họ dự định sẽ cung cấp danh bạ này bằng nhiều ngôn ngữ khác ngoài tiếng Ý, “giúp cho ngày càng nhiều người dùng trên toàn thế giới có thể tiếp cận được.”

Tại buổi giới thiệu dự án, Giáo hoàng Lêô XIV đã có cơ hội được học bài học đầu tiên về cách thức hoạt động của niên giám điện tử. Ngài cảm ơn những người tham gia, gọi đó là “một dịch vụ tuyệt vời sẽ mang lại nhiều lợi ích”.


Source:Catholic News Agency

2. Dựa trên giáo huấn của Đức Giáo Hoàng, Ba Lan cấm Đảng Cộng sản vì ý thức hệ toàn trị.

Ngày 3 tháng 12, Tòa án Hiến pháp Ba Lan đã đồng ý phán quyết rằng Đảng Cộng sản Ba Lan, gọi tắt là KPP, được thành lập năm 2002, không phù hợp với hiến pháp năm 1997 của quốc gia này, viện dẫn các thông điệp của Giáo hoàng lên án chủ nghĩa cộng sản để cấm tổ chức này và ra lệnh loại bỏ nó khỏi danh sách các đảng chính trị quốc gia.

Tòa án cho rằng chương trình của đảng này bao gồm các nguyên tắc và phương pháp tư tưởng gắn liền với các chế độ cộng sản toàn trị, điều mà Hiến pháp Ba Lan nghiêm cấm một cách rõ ràng.

Thẩm phán Krystyna Pawłowicz phát biểu khi trình bày lý lẽ của tòa án: “Không có chỗ trong hệ thống pháp luật Ba Lan cho một đảng phái tôn vinh tội phạm và các chế độ cộng sản chịu trách nhiệm về cái chết của hàng triệu người, bao gồm cả đồng bào chúng ta. Cũng không có chỗ cho việc sử dụng các biểu tượng rõ ràng ám chỉ đến ý thức hệ tội ác của chủ nghĩa cộng sản.”

Điều 13 và lệnh cấm hiến pháp đối với các ý thức hệ toàn trị

Trong phán quyết của mình, tòa án đã viện dẫn Điều 13 của Hiến pháp Ba Lan, cấm các đảng phái hoặc tổ chức chính trị có chương trình đề cập đến các phương pháp và thực tiễn toàn trị, bao gồm cả những phương pháp và thực tiễn liên quan đến chủ nghĩa Quốc xã, chủ nghĩa phát xít hoặc chủ nghĩa cộng sản. Hiến pháp cũng cấm các nhóm cổ vũ hận thù chủng tộc hoặc dân tộc, khuyến khích bạo lực để giành quyền lực chính trị, hoặc hoạt động với cấu trúc bí mật hoặc thành viên không được tiết lộ.

Sau khi xem xét các văn kiện, ý thức hệ và hoạt động của đảng, tòa án kết luận rằng các mục tiêu đã nêu của KPP phù hợp với chủ nghĩa toàn trị cộng sản và do đó vi phạm Điều 13.

Quyết định này được đưa ra gần 5 năm sau khi cựu bộ trưởng tư pháp kiêm tổng công tố Ba Lan, Zbigniew Ziobro, đệ trình yêu cầu lên tòa án quốc tế về việc giải thể KPP. Tháng trước, Tổng thống Ba Lan Karol Nawrocki cũng đã đệ đơn yêu cầu tương tự.

Những luận điểm lịch sử và giáo lý của Giáo hội về chủ nghĩa cộng sản

Đảng Cộng sản Ba Lan, gọi tắt là KPP tự nhận mình là người kế thừa tư tưởng của một số phong trào cộng sản trước đó trong lịch sử Ba Lan, bao gồm Đảng Cộng sản Ba Lan nguyên thủy (1918–1938) và tiền thân của nó, Đảng Dân chủ Xã hội của Vương quốc Ba Lan và Lithuania (1893–1918). Đảng này cũng tuyên bố có sự liên tục với Đảng Công nhân Ba Lan thời hậu chiến (1942–1948) và Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan, đảng đã cầm quyền ở nước này trong thời kỳ cộng sản từ năm 1948 đến năm 1990.

Trong bản biện minh bằng văn bản, tòa án đã có một bước đi bất thường khi viện dẫn giáo huấn xã hội của Công Giáo, trích dẫn các đoạn từ hai thông điệp của Giáo hoàng lên án chủ nghĩa cộng sản.

Các thẩm phán đã viện dẫn thông điệp Quadragesimo Anno năm 1931 của Giáo hoàng Pius XI, trong đó lên án việc chủ nghĩa cộng sản dựa vào đấu tranh giai cấp, bãi bỏ sở hữu tư nhân và lịch sử “tàn bạo và vô nhân đạo” của nó trên khắp Đông Âu và Á Châu. Họ cũng trích dẫn thông điệp Divini Redemptoris (1937) sau đó của Giáo hoàng Pius XI, trong đó cảnh báo rằng các phong trào cộng sản tìm cách kích động mâu thuẫn giai cấp và biện minh cho bạo lực chống lại những người bị coi là đối thủ nhân danh “tiến bộ”.

Tòa án đã sử dụng các văn bản này để minh họa cho điều mà họ mô tả là bản chất toàn trị vốn có của ý thức hệ làm nền tảng cho chương trình của đảng. Chúng cũng đóng vai trò là bằng chứng lịch sử về các hoạt động được ghi chép và tác động toàn cầu của chủ nghĩa cộng sản, điều mà những người soạn thảo hiến pháp hậu cộng sản của Ba Lan hiểu rất rõ.

Đảng Cộng sản sẽ bị xóa tên khỏi danh sách ghi danh

Các thẩm phán kết luận rằng các hoạt động của KPP vi phạm các điều khoản hiến pháp cấm các tổ chức viện dẫn các phương pháp độc tài, ra lệnh xóa tên đảng này khỏi sổ ghi danh quốc gia và giải tán đảng trên thực tế.

Trong phiên điều trần, bà Beata Karoń, chủ tịch ủy ban điều hành quốc gia của đảng KPP, lập luận rằng, mặc dù đảng của bà có “một tầm nhìn nhất định về những gì mình muốn”, nhưng nếu các đề xuất không hấp dẫn, đảng sẽ không thể giành được sự ủng hộ trong các cuộc bầu cử.

Phán quyết này phản ánh thách thức rộng lớn hơn mà các quốc gia từng nằm dưới sự thống trị của Liên Xô phải đối mặt, đó là tiếp tục đối phó với những vết thương chính trị và văn hóa của chế độ cộng sản trong khi nỗ lực xây dựng lại các thể chế và bản sắc của mình trong kỷ nguyên hậu toàn trị.


Source:Catholic News Agency

3. Liệu các thiên thần có thực sự mang Ngôi nhà Thánh của Đức Mẹ đến Loreto, Ý không?

Galileo, Mozart, Descartes, Cervantes và Thánh Thérèse xứ Lisieux có điểm chung gì? Tất cả họ đều đã vượt hàng trăm dặm đường để được vào bên trong ngôi nhà của Đức Mẹ Maria, nơi được bảo tồn trong một vương cung thánh đường ở thị trấn nhỏ Loreto của Ý.

Từ thế kỷ 14, các tín hữu Công Giáo đã đổ xô đến Tu viện Loreto để đứng bên trong những bức tường mà theo truyền thống, Đức Trinh Nữ Maria được sinh ra, lớn lên và được thiên thần Gabriel chào đón.

Nói cách khác, nếu đó thực sự là thành Nazareth, thì đó là nơi “Ngôi Lời nhập thể” trong biến cố Truyền Tin, một bước ngoặt trong lịch sử nhân loại.

Có một câu chuyện thường được kể lại rằng các thiên thần đã mang Ngôi nhà Thánh từ Palestine đến Ý, và trong khi những người nghe hiện đại có thể nghi ngờ tính xác thực của truyền thuyết này, các tài liệu lịch sử đã chứng minh niềm tin của những người hành hương mộ đạo qua nhiều thế kỷ — với một sự trớ trêu thú vị.

Theo truyền thuyết, Ngôi nhà Thánh đã đến Loreto vào ngày 10 tháng 12 năm 1294, sau một cuộc giải cứu kỳ diệu từ Thánh Địa khi quân Thập tự chinh bị đánh đuổi khỏi Palestine vào cuối thế kỷ 13.

Năm 1900, bác sĩ Joseph Lapponi, bác sĩ riêng của Đức Giáo Hoàng, đã phát hiện ra các tài liệu trong kho lưu trữ của Vatican cho biết rằng vào thế kỷ 13, một gia đình quý tộc Byzantine, gia đình Angeli, đã cứu vớt “vật liệu” từ “Ngôi nhà của Đức Mẹ” khỏi quân xâm lược Hồi giáo và vận chuyển chúng đến Ý để xây dựng một đền thờ.

Tên Angeli có nghĩa là “thiên thần” trong cả tiếng Hy Lạp và tiếng Latin.

Những bức thư ngoại giao lịch sử khác — mãi đến năm 1985 mới được công bố — đề cập đến “những viên đá thánh bị lấy đi khỏi Nhà thờ Đức Mẹ, Mẹ Thiên Chúa”. Vào mùa thu năm 1294, “những viên đá thánh” đã được đưa vào của hồi môn của Ithamar Angeli khi bà kết hôn với Philip II của Anjou, con trai của Vua Charles II của Naples.

Một đồng xu do một thành viên gia đình Angeli đúc cũng được tìm thấy trong nền móng của ngôi nhà ở Loreto. Ở Ý, tiền xu thường được đặt vào nền móng của một tòa nhà để chỉ ra ai là người chịu trách nhiệm xây dựng nó.

Các cuộc khai quật ở cả Nazareth và Loreto đều tìm thấy những vật liệu tương tự tại cả hai địa điểm. Những viên đá tạo nên phần dưới của các bức tường của Ngôi nhà Thánh ở Loreto dường như được hoàn thiện bằng một kỹ thuật đặc trưng của người Nabataean, vốn cũng phổ biến ở Palestine. Có những dòng chữ khắc bằng các ký tự Hy Lạp cách điệu với các chữ cái tiếng Do Thái liền kề, đọc là “Ôi Chúa Giêsu Kitô, Con của Thiên Chúa”, được viết theo cùng một kiểu chữ khắc trong Hang động ở Nazareth.

Các nhà khảo cổ cũng xác nhận một truyền thống của Loreto rằng các tín hữu Kitô giáo thế kỷ thứ ba đã biến ngôi nhà của Đức Mẹ Maria ở Nazareth thành một nơi thờ phượng bằng cách xây dựng một nhà thờ theo kiểu giáo đường Do Thái xung quanh ngôi nhà. Một giám mục thế kỷ thứ bảy, người đã đến Nazareth, ghi nhận một nhà thờ được xây dựng tại ngôi nhà nơi diễn ra sự kiện Truyền Tin.

Từ Thánh Phanxicô Đệ Salê đến Thánh Louis Montfort, nhiều vị thánh đã viếng thăm Tu viện Loreto qua nhiều thế kỷ. Thánh Charles Borromeo đã thực hiện bốn cuộc hành hương vào các năm 1566, 1572, 1579 và 1583.

Năm 1993, Thánh Gioan Phaolô II gọi Tu viện Loreto là “đền thờ quan trọng nhất mang tầm quốc tế dành riêng cho Đức Trinh Nữ Maria”.

Chiến thắng trước quân Thổ Nhĩ Kỳ tại Lepanto được Thánh Giáo hoàng Pius V cho là nhờ công ơn của Đức Mẹ Loreto, dẫn đến việc Tướng Marcantonio Colonna và John của Áo lần lượt hành hương đến thánh địa này vào năm 1571 và 1576.

Năm 1493, Christopher Columbus đã lập lời khấn nguyện với Đức Mẹ Loreto khi ông và thủy thủ đoàn bị mắc kẹt trong một cơn bão trên đường trở về từ Mỹ Châu. Sau đó, ông đã cử một thủy thủ đến Loreto hành hương tạ ơn thay mặt toàn bộ thủy thủ đoàn.

Năm 1655, sau khi cải đạo từ đạo Tin Lành sang đạo Công Giáo, Nữ hoàng Christina của Thụy Điển đã dâng vương miện và quyền trượng của mình cho Đức Mẹ Maria tại Loreto.

Vào ngày 13 tháng 2 năm 1797, Napoleon đã cướp phá đền thờ và kho báu của nó, mang theo những viên ngọc quý và những món quà khác mà giới quý tộc Âu Châu, bao gồm cả một số vị vua Pháp, đã dâng lên Đức Mẹ Maria trong suốt nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, vật có giá trị thực sự trong mắt những người hành hương, Ngôi nhà Thánh của Đức Mẹ, vẫn còn nguyên vẹn.

Trong một bài giảng năm 1995, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã gọi Tu viện Loreto là “ngôi nhà của tất cả con cái được Chúa nhận làm con nuôi”.

Ngài tiếp tục: “Những sợi chỉ của lịch sử toàn thể nhân loại được kết nối lại trong ngôi nhà đó. Chính tại Đền thờ Nhà Nazareth, nơi Giáo hội tại Ý được Chúa quan phòng gắn bó, là nơi Giáo hội tái khám phá lời nhắc nhở sống động về mầu nhiệm Nhập Thể, nhờ đó mỗi người được mời gọi đến phẩm giá của Con Thiên Chúa.”


Source:Catholic News Agency