1. Các Giám mục Liên Hiệp Âu Châu: Phá thai không bao giờ có thể là một quyền cơ bản

Trước cuộc bỏ phiếu sắp tới vào ngày 11 tháng 4 tại Brussels về việc có nên đưa quyền phá thai vào Hiến chương về các Quyền cơ bản của Liên Hiệp Âu Châu hay không, các Giám mục của Liên minh Âu Châu, gọi tắt là COMECE, nhắc lại sự phản đối kiên quyết của các ngài đối với đề xuất này và chỉ trích các ý thức hệ áp đặt.

Con người, trong bất kỳ tình huống nào và ở mọi giai đoạn phát triển luôn luôn thiêng liêng và bất khả xâm phạm, các Giám mục Âu Châu đã tái khẳng định và nói thêm rằng một khi niềm tin này biến mất, thì những nền tảng vững chắc và lâu dài để bảo vệ nhân quyền cũng biến mất.

Tuyên bố từ Hội đồng Giám mục Liên minh Âu Châu, được đưa ra trước cuộc bỏ phiếu trong phiên họp toàn thể tại Brussels hôm thứ Năm về việc đưa quyền phá thai vào Hiến chương về các Quyền Cơ bản của Liên Hiệp Âu Châu.

Tuyên bố của các Giám mục được đưa ra một ngày sau khi xuất bản Dignitas infinita, một tài liệu của Bộ Giáo lý Đức tin mô tả việc phá thai là một thực hành “nghiêm trọng và đáng trách” trong danh sách các vi phạm nhân phẩm.

Tuyên bố của COMECE có tiêu đề “Hãy nói có đối với việc đề cao phẩm giá phụ nữ và quyền sống, và nói không với phá thai và áp đặt ý thức hệ”.

Các Giám mục bày tỏ cam kết hoạt động vì một Âu Châu nơi phụ nữ có thể sống vai trò làm mẹ một cách tự do và như một món quà cho họ và cho xã hội, và nơi “làm mẹ” “không hề là một hạn chế đối với đời sống cá nhân, xã hội và nghề nghiệp”.

Các ngài cảnh báo: “Việc thúc đẩy và tạo điều kiện cho việc phá thai đi ngược lại với việc thúc đẩy thực sự phụ nữ và các quyền của họ”, khi các ngài nhắc lại rằng phá thai “không bao giờ có thể là một quyền cơ bản”.

Các Giám mục COMECE tuyên bố, quyền sống “là trụ cột cơ bản của tất cả các quyền con người khác, đặc biệt là quyền sống của những người dễ bị tổn thương nhất, mong manh nhất và không có khả năng tự vệ”, giống như “đứa trẻ chưa chào đời trong bụng mẹ, người di cư, người già, người khuyết tật và người bệnh.”

Nhắc lại lập trường rõ ràng của Giáo hội về vấn đề này, các ngài nhấn mạnh rằng, với “tất cả sức mạnh và sự rõ ràng, ngay cả trong thời đại chúng ta”, phải tuyên bố rằng “việc bảo vệ sự sống của thai nhi gắn liền với việc bảo vệ mỗi nhân quyền khác”.

Các ngài cảnh báo, một khi người ta không thể hiểu được sự sống của thai nhi là một điều gì đó vô giá, thì nền tảng để bảo vệ nhân quyền sẽ luôn “phụ thuộc vào những ý muốn nhất thời của các quyền lực”, trích lời Dignitas infinita.

Các ngài đề nghị, Liên minh Âu Châu “phải tôn trọng các nền văn hóa và truyền thống khác nhau ở các Quốc gia Thành viên cũng như năng lực quốc gia của họ,” và “không thể áp đặt lên người khác, trong và ngoài biên giới của mình, các quan điểm tư tưởng về con người, tình dục và giới tính, hôn nhân và gia đình.”

Điều lệ không thể bao gồm các quyền không được tất cả mọi người công nhận

Các ngài nhấn mạnh: “Hiến chương về các quyền cơ bản của Liên Hiệp Âu Châu không thể bao gồm các quyền không được tất cả mọi người công nhận và gây chia rẽ”, khi các ngài nhận thấy rằng không có quyền phá thai được công nhận trong Luật pháp Âu Châu hoặc quốc tế, và “vấn đề này diễn ra như thế nào” được quy định trong Hiến pháp và Luật của các Quốc gia Thành viên có sự khác biệt đáng kể.”

Tuyên bố kết thúc với việc các Giám mục Liên Hiệp Âu Châu nhận xét rằng Hiến chương, phù hợp với những gì được viết trong Lời nói đầu, “phải tôn trọng 'sự đa dạng của các nền văn hóa và truyền thống của các dân tộc Âu Châu'“, cũng như “các truyền thống hiến pháp và quốc tế, và nghĩa vụ chung của các Quốc gia Thành viên.”

Cuộc bỏ phiếu để đưa câu hỏi này vào Hiến chương Liên Hiệp Âu Châu dường như là một chương khép kín cho đến khi nó được đưa trở lại cuộc sống gần đây.

Sau khi đưa quyền phá thai được đưa vào Hiến pháp Pháp vào ngày 4 tháng 3, cuộc tranh luận về việc đưa vấn đề phá thai vào một trong những quyền cơ bản của Liên Hiệp Âu Châu đã được mở lại ở cấp độ Âu Châu.

Mặc dù nghị quyết đã được đưa ra vào ngày 7 tháng 7 năm 2022 và đã vấp phải sự phản đối của một số quốc gia thành viên, nhưng giờ đây các Thành viên của Nghị viện Âu Châu đã quyết định khởi động lại đề xuất này và đây sẽ là chủ đề của một cuộc bỏ phiếu mới vào thứ Năm.

2. Thống đốc Missouri từ chối khoan hồng cho tử tù bất chấp sự phản đối của Công Giáo

Thống đốc đảng Cộng hòa Mike Parson của Missouri hôm thứ Hai đã từ chối yêu cầu khoan hồng cho kẻ sát nhân bị kết án Brian Dorsey, kẻ dự kiến sẽ bị xử tử bằng cách tiêm thuốc độc vào tối ngày 9 tháng 4 trong vụ hành quyết đầu tiên của tiểu bang vào năm 2024.

Dorsey, 52 tuổi, bị bắt năm 2006 và sau đó bị kết tội bắn chết em họ Sarah Bonnie và chồng cô là Ben. Các luật sư của Dorsey lập luận rằng anh ta đang bị rối loạn tâm thần do ma túy, vì anh ta bị trầm cảm mãn tính và nghiện cocaine vào thời điểm xảy ra vụ giết người.

Các giám mục Công Giáo của Missouri đã mạnh mẽ kêu gọi các tín hữu liên lạc với Thống Đốc Parson và yêu cầu ông ta hoãn lại việc hành quyết Dorsey, viện dẫn giáo huấn Công Giáo về việc không thể chấp nhận án tử hình. Nếu Parson khoan hồng cho Dorsey, đây sẽ là lần đầu tiên ông ta khoan hồng cho một tử tù trong suốt 6 năm làm thống đốc của mình. Missouri là một trong những bang có nhiều án tử hình nhất trong số các bang của Mỹ, chỉ riêng trong năm 2023 đã thực hiện 4 vụ hành quyết và là một trong 5 tiểu bang duy nhất thực hiện các vụ hành quyết vào năm ngoái.

Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, phản ánh bản cập nhật do Đức Thánh Cha Phanxicô ban hành vào năm 2018, mô tả án tử hình là “không thể chấp nhận được” và là “sự tấn công vào quyền bất khả xâm phạm và phẩm giá của con người” (Số 2267). Sự thay đổi này phản ánh sự phát triển của giáo lý Công Giáo trong những năm gần đây. Thánh Gioan Phaolô II, gọi án tử hình là “tàn nhẫn và không cần thiết”, đã khuyến khích các Kitô hữu “ủng hộ sự sống một cách vô điều kiện” và nói rằng “phẩm giá của sự sống con người không bao giờ bị tước bỏ, ngay cả trong trường hợp một người đã phạm tội đại ác.”

Bản án tử hình của Dorsey đã thu hút được sự chú ý chặt chẽ. Trong hơn 17 năm ở trong tử tù, Dorsey không vi phạm gì và làm thợ cắt tóc cho các tù nhân, quản giáo, nhân viên - được tin cậy sử dụng các dụng cụ có khả năng gây chết người. Theo Trung tâm Thông tin Hình phạt Tử hình, một nhóm gồm 72 sĩ quan cải huấn hiện tại và trước đây của Missouri đã nộp và ký một lá thư xác nhận tính cách của anh ta, đồng thời yêu cầu Parson khoan hồng cho Dorsey và giảm án tử hình cho anh ta.

Ngoài ra, các luật sư của Dorsey đã lập luận rằng các quy trình thực thi của Bộ Cải Huấn Missouri, sẽ ngăn cản Dorsey “có bất kỳ cuộc thảo luận hoặc tham gia tâm linh có ý nghĩa nào vào nghi thức tôn giáo cuối cùng của anh ta với cố vấn tinh thần của mình,” tờ Kansas City Star đưa tin.

Bất chấp sự phục hồi rõ ràng của anh ta, Tòa án Tối cao Missouri đã lên lịch xử tử Dorsey vào tháng 12 năm ngoái. Dorsey đã kháng cáo vụ việc của mình lên Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, nơi vẫn có thể tạm dừng việc xử tử anh ta bất chấp việc Parson từ chối sự khoan hồng.

Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Missouri, tổ chức ủng hộ chính sách công thay mặt cho năm giám mục của tiểu bang, nói rằng ngoài việc Dorsey “đã phải chịu đựng chấn thương thể chất và tinh thần đáng kể thời thơ ấu”, anh ta cũng đã tuyên bố rằng sự trợ giúp luật sư là không hiệu quả của luật sư. Vị luật sư ấy chỉ được trả một khoản phí cố định nhỏ để bào chữa cho anh ta - đã đưa anh ta vào một thỏa thuận nhận tội mà không phản đối khả năng bị tử hình.

Ngoài việc gửi yêu cầu khoan hồng cho Parson,Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Missouri còn tổ chức một “cuộc biểu tình tôn trọng” bên ngoài văn phòng thống đốc tại Tòa nhà Đại hội Bang Missouri ở Thành phố Jefferson từ trưa đến 1 giờ chiều thứ Ba. Các Giám Mục đã kêu gọi công chúng tham dự cuộc biểu tình và liên hệ với thống đốc để bày tỏ sự ủng hộ đối với sự khoan hồng.

Các Giám Mục lưu ý: “Giáo Hội Công Giáo phản đối mạnh mẽ án tử hình vì nó coi thường sự thiêng liêng và phẩm giá của sự sống con người”.

3. Hàng ngàn trẻ em Ukraine đương đầu với việc mất cha mẹ vì chiến tranh

Tờ Kyiv Independent cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “How thousands of Ukrainian children cope with losing parents to war”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Thụy Khanh.

Năm 11 tuổi, Arina Pervunina chứng kiến quân Nga giết cha mình.

Cô và em trai bị bắt sau phòng tuyến của đối phương tại nhà ông bà ngoại ở Kherson ngay sau khi cuộc xâm lược toàn diện bắt đầu, trong khi bố mẹ họ đang ở nhà ở Odesa.

Trong những tuần đầu của cuộc xâm lược, cha của Arina đã đến giải cứu các con của ông và hai anh em họ của cô gái khỏi vùng Kherson bị Nga tạm chiếm. Họ đang ở trong xe thì lính Nga bắt đầu bắn vào họ.

Mười bảy viên đạn đã bắn trúng cha của Arina, ông Andrii Pervunin. Một trong những người anh em họ của Arina sống sót chỉ vì anh ta đang ôm một con chó bị trúng đạn và thiệt mạng ngay lập tức.

Quân đội Nga đã giữ những đứa trẻ ở trạm kiểm soát trong hơn một giờ, kéo chúng dọc mặt đất và chửi bới chúng trước khi thả chúng đi cùng những người Ukraine khác chạy trốn khỏi cuộc xâm lược. Cha của Arina được đưa đến Mykolaiv gần đó trong cốp xe hơi.

“Cha tôi đã được cấp cứu nhưng các nhân viên y tế không thể cứu được cha tôi”, Arina, hiện 13 tuổi, nói với tờ Kyiv Independent.

Để vượt qua sự mất mát, cô bắt đầu viết thư cho người cha đã quá cố của mình ngay sau thảm kịch. Bộ trưởng Ngoại giao Dmytro Kuleba đọc một trong những bức thư của Arina tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 7 năm 2023.

“Một tuần sau thảm kịch, cô ấy viết trong nhật ký… 'Tôi không muốn sống. Cuộc sống không có cha này còn có ý nghĩa gì nữa?'“ Kuleba nói.

Kuleba nói thêm: “Không thể đọc được những dòng này mà không rơi nước mắt. Đây chỉ là những dòng tôi cố gắng đưa ra, nhưng có hàng ngàn trẻ em như thế này đang phải trải qua nỗi đau tương tự.”

Cuộc xâm lược toàn diện của Nga thực sự đã gây thiệt hại nặng nề cho trẻ em Ukraine: Gần 600 trẻ em đã thiệt mạng và hơn 1.200 trẻ em bị thương trên khắp Ukraine.

Gần 1.800 trẻ em Ukraine đã trở thành trẻ mồ côi do chiến tranh, Cơ quan Xã hội Quốc gia Ukraine cho biết trong một bình luận trên tờ Kyiv Independent. Nhiều đứa trẻ khác đã mất cha hoặc mẹ trong cuộc xâm lược toàn diện của Nga, như Arina, khi ít nhất 10.000 thường dân và 31.000 binh sĩ Ukraine đã thiệt mạng kể từ năm 2022.

Ngay từ nhỏ, những đứa trẻ này phải học cách đương đầu với sự mất mát và sống mà không có sự hỗ trợ của cha mẹ.

Nhà trị liệu tâm lý người Ukraine Marta Bilyk cho biết, mặc dù việc mất cha mẹ ảnh hưởng đến trẻ em bất cứ lúc nào, nhưng khi trải qua trong chiến tranh, chấn thương tâm lý có thể làm trầm trọng thêm các thách thức về sức khỏe tâm thần, khiến tác động tổng thể đến trẻ em thậm chí còn lớn hơn.

Bilyk, người làm việc tại tổ chức Children of Heroes hay Con của những anh hùng, nói với Kyiv Independent: “Một số trẻ em phải kéo cha mẹ ra khỏi những chiếc xe hơi bị bắn nát hoặc thậm chí đào bới thi thể của họ từ dưới đống đổ nát của những ngôi nhà bị sập”.

“Cái chết của cha mẹ càng tồi tệ và đứa trẻ càng biết nhiều về điều đó thì họ càng khó khăn hơn.”

'Bất ổn và tuyệt vọng': Chiến tranh gây thiệt hại nặng nề cho sức khỏe tinh thần của người Ukraine

Ngay cả những đứa trẻ không bị mất đi người thân trực hệ do sự xâm lược tàn bạo của Nga cũng bị cướp đi tuổi thơ êm đềm, biến cả một thế hệ trở thành “những đứa trẻ chiến tranh”.

Bilyk nói: “Chúng tôi nghĩ rằng thuật ngữ 'những đứa trẻ chiến tranh' đã qua đi rồi, nhưng bây giờ chúng tôi lại có những đứa trẻ chiến tranh. “Nó bao gồm những đứa trẻ trải qua sự mất mát khi còn rất nhỏ và lo sợ cho tính mạng của chính mình cũng như tính mạng của những người thân yêu – là điều lẽ ra không phải là điển hình đối với trẻ em ở độ tuổi này.”

Theo cơ quan trẻ em Liên Hiệp Quốc UNICEF, chiến tranh đã có “tác động tàn khốc” đến sức khỏe tâm thần và hạnh phúc của trẻ em, với “ước tính 1,5 triệu trẻ em Ukraine có nguy cơ bị trầm cảm, lo âu, rối loạn căng thẳng sau chấn thương, và các vấn đề sức khỏe tâm thần khác, với những ảnh hưởng và tác động tiềm ẩn lâu dài. “

Đối với trẻ em, mất cha mẹ là một trong những kết quả tồi tệ nhất của cuộc chiến.

Nỗi đau buồn có thể khiến trẻ mất hứng thú với xã hội và ngừng chia sẻ cảm xúc của mình với người khác. Bilyk cho biết trong một số trường hợp, “nỗi buồn mãnh liệt” có thể gây ra “các triệu chứng trầm cảm, hoàn toàn thờ ơ, mất hứng thú và khả năng học hỏi”.

“Một số đứa trẻ nói: ‘Con muốn ở nơi có bố. Con muốn đi theo bố.” Trong những trường hợp cấp tính, họ thậm chí có thể có những ý nghĩ tự tử nhất định”, cô nói.

Ngoài tác động tàn khốc đến sức khỏe tâm thần, việc mất đi một hoặc cả hai cha mẹ còn có thể dẫn đến khó khăn tài chính và suy giảm phẩm chất cuộc sống chung của một số gia đình.

Chịu trách nhiệm của cả cha và mẹ trong khi đối mặt với sự mất mát đau đớn không phải là điều dễ dàng, như Nataliia Motorna, một cư dân Kyiv, có thể chứng thực: Người chồng hơn 20 năm của cô, Illia, đã thiệt mạng trong một nhiệm vụ chiến đấu ở Sievierodonetsk, tỉnh Donetsk, vào cuối tháng 5 năm 2022.

Cô nói rằng cuộc sống mà cô từng biết - tràn ngập tiếng cười, niềm vui, tình yêu và những cuộc phiêu lưu - đã kết thúc vào ngày cô biết tin chồng mình qua đời. Thay vào đó, cô và các con, Varvara 12 tuổi và Matvii 17 tuổi, phải chịu nỗi đau không thể tưởng tượng nổi vì mất mát.

Motorna nhớ lại: “Khi biết chuyện, tôi bắt đầu hét toáng lên. Tôi nghĩ mình sẽ phát điên hoàn toàn.”

Nhưng giữa nỗi đau mất mát không thể nguôi ngoai, Motorna phải đứng ra thay chồng làm trụ cột chính cho gia đình.

“Tôi nói với bọn trẻ: 'Các con nên biết rằng mẹ rất sợ, điều đó khiến mẹ đau lòng rất nhiều, nhưng các con cũng nên biết rằng mẹ sẽ không làm gì bản thân mình, vì giờ đây mẹ chỉ có một mình chăm sóc cả hai con,'“ Motorna nói, cố gắng kìm nước mắt.

Tuy nhiên, việc phải chịu đựng sự mất mát của cha và chứng kiến mẹ mình trong tình trạng dễ bị tổn thương như vậy ngay lập tức khiến Matvii và Varvara ngày càng trưởng thành và mạnh mẽ hơn, mẹ của họ nói.

Chính phủ Ukraine hiện trả khoảng 143 Mỹ Kim mỗi tháng cho trẻ em dưới 6 tuổi mất cha mẹ và gần 177 Mỹ Kim cho trẻ em từ 6-18 tuổi. Theo Cơ quan Dịch vụ Xã hội Quốc gia, trẻ em khuyết tật có cha mẹ bị giết có thể nhận được hơn 228 Mỹ Kim từ chính phủ mỗi tháng.

Bác sĩ gia đình có thể cung cấp cho các gia đình sự trợ giúp tâm lý miễn phí bên cạnh các lợi ích xã hội khác.

Nhưng với những đau khổ to lớn mà chiến tranh Nga đã và đang tiếp tục mang lại, việc hỗ trợ từng trẻ em gặp khó khăn có thể là một thách thức đối với nhà nước.

May mắn thay, các tổ chức bác ái cũng bước vào.

Từ một góa phụ khác, Motorna biết đến tổ chức Con của những anh hùng, là tổ chức đã chăm sóc những đứa trẻ mất cha mẹ trong cuộc xâm lược toàn diện kể từ tháng 2 năm 2022, cung cấp cho họ sự hỗ trợ về tâm lý, pháp lý và nhân đạo.

Tổ chức này hiện có gần 8.000 trẻ em tham gia chương trình hỗ trợ, phần lớn trong số đó, lên đến 88%, là con của các liệt sĩ Ukraine.

Đó là nền tảng đã cung cấp cho Kuleba những bức thư của Arina gửi cho cha cô, đồng thời cũng tìm một nhà tâm lý học cho cô và gửi cô đến một trại hè ở Tây Ban Nha cùng với những đứa trẻ Ukraine khác đã phải chịu cảnh mất cha mẹ.

Arina nói: “Điều đó đã giúp tôi rất nhiều khi tôi nhận ra cách sống chung với tổn thương này và chứng kiến những đứa trẻ cũng trải qua điều tương tự, hoặc thậm chí còn tệ hơn”.

Hanna Khomenko, nhà lãnh đạo bộ phận làm việc với trẻ em của quỹ, cho biết tổ chức bác ái cũng cung cấp cho mỗi gia đình một trợ lý riêng, một người cố vấn, người thường liên lạc với họ để kiểm tra trạng thái tâm lý và tìm hiểu nhu cầu của họ.

Khomenko nói: “Đó là về tác động của chúng tôi đối với tương lai của chúng tôi. Chúng tôi đã nghĩ về cách những đứa trẻ này sẽ đương đầu với sự mất mát của mình nếu không có một cộng đồng hỗ trợ.”

Motorna đồng ý: “Điều quan trọng là khi ai đó quan tâm… Khi ai đó không quên bạn,” cô nói.

Khomenko cho biết “mục tiêu chiến lược” của tổ chức này là hỗ trợ trẻ em cho đến khi chúng 18 tuổi.

“Chúng tôi cố gắng tìm hiểu xem đứa trẻ muốn gì. Mục tiêu của chúng tôi là giúp họ xây dựng con đường đạt được mục tiêu của mình. Chúng tôi cố gắng làm mọi thứ để mọi đứa trẻ nhận được sự giúp đỡ từ tổ chức của chúng tôi, trong 10 hoặc thậm chí 18 năm nữa, đều vô cùng hài lòng với cuộc sống của mình.”

Để đạt được điều đó, Children of Heroes cung cấp cho trẻ em nhiều khóa học giáo dục khác nhau, bao gồm tiếng Anh và toán, đồng thời tổ chức các trại và hội thảo cho chúng.

Tuy nhiên, việc truyền cảm hứng cho trẻ em có thể là đóng góp quan trọng nhất cho tương lai của các em.

Và việc cho họ cơ hội giao tiếp với các quan chức cao cấp của Ukraine và nhìn thế giới là một phần của sự đóng góp đó.

Năm ngoái, Varvara và Matvii đã tham dự một cuộc gặp với Kuleba, nơi họ có cơ hội trò chuyện với bộ trưởng ngoại giao, điều này “rất có động lực”, theo cả hai.

Cô bé Iryna Vasylieva, 7 tuổi đến từ Rivne đã mơ ước được gửi một lá thư cho cựu Thủ tướng Anh Boris Jonson từ lâu. Cô muốn hỏi quan chức nơi cô có thể mua hỏa tiễn chống tăng Javelin cho tiểu đoàn của người cha quá cố.

Cha của Iryna, người lính Ukraine Oleksandr Vasyliev, đã thiệt mạng trong trận chiến ở Mykolaiv vào cuối tháng 3 năm 2022. Ngay sau khi ông qua đời, cô bắt đầu bán vòng hoa thủ công và gây quỹ để hỗ trợ đồng đội của cha mình.

Mặc dù cô đã cung cấp cho tiểu đoàn một số máy bay không người lái, máy ảnh nhiệt và các thiết bị khác, Iryna cho biết việc có được hỏa tiễn chống tăng Javelin là giấc mơ từ lâu của cô. Nhờ quỹ này, gần đây cô đã đưa một lá thư cho Kuleba, nhờ anh đưa cho Johnson.

Mẹ của cô gái, Viktoriia Vasylieva, cho biết: “Cô ấy đã viết cho cựu Thủ tướng Johnson rằng cô ấy là một tình nguyện viên và cha cô ấy sẽ bảo vệ cô ấy từ thiên đường, nhưng những người lính của cha cô cần rất nhiều thiết bị để tiếp tục chiến đấu”.

“ Tôi háo hức chờ đợi phản hồi của anh ta,” Iryna nói với Kyiv Independent. “Tôi mơ về chiến thắng và mua được một chiếc lao.”

Khomenko nói: “Đây là những điều nhỏ nhặt truyền cảm hứng cho trẻ em, truyền cảm hứng cho chúng tôi tiến về phía trước và làm những gì chúng tôi làm, nhưng với sức mạnh lớn hơn”.

Arina cho biết cô vẫn nhớ cha mình mỗi ngày và biết rằng không gì có thể xoa dịu nỗi đau của cô, nhưng cô đang học cách sống với sự mất mát của mình và không ngừng mơ ước.

Sau khi đến thăm trại ở Tây Ban Nha vào mùa hè năm ngoái, cô quyết định muốn học ở đó để trở thành bác sĩ.

Arina nói: “Sau đó, tôi muốn quay lại Ukraine để chữa trị cho những người lớn tuổi, để những đứa trẻ như tôi không bao giờ phải chịu nỗi đau mất cha mất mẹ”.

4. Đức Hồng Y Dolan đến thăm Thánh Địa nhân dịp đánh dấu 6 tháng chiến tranh

Ban đầu được lên kế hoạch cho lễ kỷ niệm 75 năm Truyền giáo Giáo hoàng tại Palestine, chuyến đi đã được thay đổi để thúc đẩy hòa bình.

Với tư cách là Chủ tịch Hiệp hội Phúc lợi Công Giáo Cận Đông, gọi tắt là CNEWA, Đức Hồng Y Timothy Dolan, tổng giám mục New York, sẽ tới Thánh Địa. Trong chuyến đi diễn ra khi cuộc chiến giữa Israel và Gaza sắp bước sang mốc sáu tháng, Đức Hồng Y Dolan sẽ đến thăm cả Israel và Palestine để gặp gỡ các nhà lãnh đạo tôn giáo Kitô giáo, Do Thái và Hồi giáo.

Tổng Giáo phận New York, lưu ý rằng đây không phải là chuyến đi đầu tiên của Đức Hồng Y Dolan tới Israel với tư cách là Chủ tịch CNEWA, báo cáo rằng ngài sẽ gặp gỡ các nhà lãnh đạo tôn giáo từ cả Israel và Palestine, mặc dù hành trình sẽ không đưa ngài đến Gaza.

Đức Hồng Y Hoa Kỳ cũng sẽ đến thăm nhiều tổ chức dịch vụ xã hội khác nhau và xem xét nhiều hoạt động nhân đạo và viện trợ cho những người bị nạn trong chiến tranh.

Trong khi hành trình của Đức Hồng Y Dolan vẫn chưa được hoàn thành, Tổng Giáo phận đã chia sẻ một số điểm dừng mà ngài dự định thực hiện:

“Trong số các hoạt động phục vụ xã hội trong hành trình dự kiến của ngài có Viện Khiếm thính Phaolô Đệ Lục Ephpheta, Trại Tị nạn Aida và Nhà Notre Dame des Douleurs, nhà dành cho người già. Ngài hy vọng có thể gặp gỡ gia đình các con tin, thưởng thức bữa ăn ngày Sabát với những người bạn Do Thái và thăm các nhóm nhân quyền của Israel và Palestine.”

Giám đốc truyền thông của CNEWA Michael La Civita nói với OSV News rằng chuyến đi đã được lên kế hoạch trước cuộc tấn công vào Israel ngày 7 tháng 10.

Trong khi ngài vẫn sẽ kỷ niệm 75 năm thành lập Phái đoàn Giáo hoàng tại Palestine, nơi ngài sẽ cử hành hai phụng vụ, giờ đây ngài đã kéo dài chuyến đi của mình để gặp gỡ các nhà lãnh đạo tôn giáo và gia đình của những người bị bắt làm con tin, để thúc đẩy hòa bình.

Tổng Giáo phận New York nhắc lại rằng Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thành lập CNEWA vào năm 1926, như một “công cụ của tình yêu và là dấu hiệu hy vọng cho những người gặp khó khăn rải rác khắp các vùng đất lịch sử nhưng đầy khó khăn của các giáo hội cổ xưa ở phương Đông”.

Tổ chức này phục vụ các khu vực Trung Đông, Đông Bắc Phi, Ấn Độ và Đông Âu.