Elise Ann Allen, ngày 12 tháng 12 năm 2023, cho đăng bài tạp chí Crux phỏng vấn Issa J. Kassissieh, Đại sứ Palestine tại Tòa thánh và Dòng có chủ quyền của Malta.



Crux: Đức Giáo Hoàng Phanxicô gần đây đã gặp gỡ các gia đình của những người sống ở Gaza hoặc những người đã rời Gaza do chiến tranh. Ông có thể giải thích cuộc gặp gỡ này có ý nghĩa gì đối với những gia đình đó và người dân Palestine không?

Kassissieh: Đức Thánh Cha đau buồn khi thấy tình hình ngày càng xấu đi ở Thánh địa. Ngài muốn bày tỏ tình đoàn kết trước nỗi đau của người Palestine. Chúng tôi đã tạo điều kiện thuận lợi cho chuyến thăm với sự phối hợp của Tòa Thượng phụ Latinh và Ủy ban cấp cao về các vấn đề Giáo hội của Chủ tịch, Bộ Ngoại giao và các cơ quan khác, nhằm cho thấy tình hình thảm khốc ở bình diện nhân đạo do chiến tranh gây ra. Ngài muốn gặp gỡ các gia đình trên cơ sở này, trên cơ sở nhân đạo.

Ngài lắng nghe những lời than phiền của các gia đình, một trong số đó, Mohammad Hal-alo, cả gia đình anh đã bị xóa sổ. Ngoài ra, một phụ nữ theo Kitô giáo tên là Suheir Anistas cùng với con gái Zara Tarazi vừa rời Gaza, và họ đang trú ẩn trong nhà thờ, và họ đã sống dưới trận pháo kích trong 40 ngày. Họ mô tả những khoảng thời gian khó khăn mà họ đã trải qua vì các cuộc bắn phá liên tục, và họ nói về vụ đánh bom nhà thờ Chính thống giáo và những thương vong trong các gia đình Kitô hữu. Một trong số họ là nhân viên của Caritas ở Gaza. Viola Amash bị giết cùng với các con, chồng, chị gái và chồng của chị gái cô. Người duy nhất sống sót trong gia đình này là mẹ cô. Hãy tưởng tượng người mẹ hiện đang sống cuộc sống của mình mà không có con gái và (cháu).

Một câu chuyện khác là một người phụ nữ đang nói chuyện điện thoại với mẹ cho đến khi điện thoại bị cắt. Khoảng 20 phút sau, cô mới biết mẹ cô cùng gia đình đã qua đời. Khadija Darabeih, người phụ nữ mang thai đã nhận được sự chúc phúc của Đức Thánh Cha, đã mất cả gia đình vào tuần trước trong một cuộc không kích tàn khốc của Israel vào ngôi nhà của gia đình cô. Mười người trong gia đình cô đã qua đời, bao gồm cha, mẹ, chị gái, anh trai và cháu gái của cô. Fatimah Abu Muaileq, 11 tuổi, là người trẻ nhất trong đoàn được tiếp kiến. Vì vậy, bạn có tất cả những câu chuyện khốn khổ này vì cuộc chiến tranh xâm lược ở Gaza. Tất nhiên, những câu chuyện như vậy sẽ có nhiều (tác động đến) bất cứ con người nào, bởi vì thông thường chúng ta nên sống trong hòa bình và yên tĩnh chứ không phải chiến tranh, đơn giản như vậy.

Kết quả của cuộc gặp gỡ và nghe những câu chuyện của mỗi cá nhân về những câu chuyện đau buồn và tàn khốc của họ vì cuộc chiến ở Gaza, tôi có thể nói rằng Đức Giáo Hoàng rất cảm động. Và sau đó, khi tiếp kiến công chúng, ngài đã nói rằng 'chiến tranh là một thất bại' và 'đây không phải là chiến tranh, đây là khủng bố.' Một cách nhất quán, Đức Thánh Cha yêu cầu ngừng bắn và viện trợ nhân đạo, nhưng tôi có thể nói [ngài nói] điều đó sau khi nghe những giọng nói và câu chuyện của các gia đình, bản thân ngài rất xúc động.

Kể từ đó, chúng ta thấy Tòa Thánh tham gia nhiều hơn để cố gắng đạt được lệnh ngừng bắn. Có lúc, Đức Thánh Cha tỏ ra lạc quan vì lệnh ngừng bắn tạm thời, nhưng như bạn thấy trên TV, quay lại chiến tranh và quay lại với nhiều thương vong về dân thường hơn và nhiều tình huống thảm khốc hơn. Các gia đình có buổi tiếp kiến riêng với Đức Thánh Cha cũng đề cập đến những lời lẽ mạnh mẽ về những gì đang diễn ra ở Gaza, nhưng tôi không thể đích thân trích dẫn ngài trong tư cách một viên chức, bởi vì tôi không có mặt ở đó và đó là buổi tiếp kiến riêng với các gia đình.

Đã có một số cuộc tranh luận về những gì Đức Giáo Hoàng nói, và liệu ngài có dùng từ ‘diệt chủng’ hay không. Ngay cả khi ông không thể trích dẫn lời ngài, thì các gia đình cảm thấy thế nào? Ông nghĩ họ đã nhận được thông điệp gì từ Đức Giáo Hoàng?

Một người trong số họ nói với tôi rằng ngài thực sự đại diện cho quan điểm đạo đức cao nhất, và ngài thực sự đại diện cho Chúa chúng ta trên thực địa. Ngài nói với họ rằng chiến tranh là một thất bại. Nói cách khác, chiến tranh là một tội lỗi. Vì vậy, ngài để họ cảm thấy rằng ngài đã nghe thấy họ, ngài đã lắng nghe trái tim và khối óc của họ, đồng thời ngài quan tâm nhiều đến người Pales-tine, và ngài nhận thức được nỗi đau khổ thường xuyên của họ vì hoàn cảnh bất công mà họ đang gặp phải.

Ông cho biết sự tham gia của Đức Giáo Hoàng và Vatican trong việc thúc đẩy lệnh ngừng bắn đã tăng lên kể từ khi cuộc gặp gỡ với các gia đình diễn ra. Ông thấy mức độ tương tác này tăng lên như thế nào?

Như bạn biết, ngài thường xuyên liên lạc với giáo xứ, kiểm tra các gia đình ở đó và ngài thường xuyên liên lạc với các nhà lãnh đạo trên thế giới. Hơn nữa, mỗi thứ Tư với buổi tiếp kiến chung và mỗi Chúa nhật với giờ kinh Truyền Tin, ngài đề cập đến tình hình một cách công khai, cầu nguyện và yêu cầu đình chiến, ngừng bắn. Tòa Thánh cũng liên lạc với các tổ chức liên quan đến Giáo hội như Caritas, Phái đoàn Giáo hoàng, Tòa Thượng phụ Latinh, Đại diện Tông tòa, các tu sĩ dòng Phanxicô, v.v., để dang tay giúp đỡ nhiều nhất có thể.

Các gia đình nói với tôi rằng họ cảm thấy Đức Thánh Cha được thông tin đầy đủ về tình hình ở đó, và thực sự gần như hàng ngày ngài gọi điện đến giáo xứ ở Gaza và ngài lo lắng về tình hình thảm khốc ở đó, vì thiếu nước tinh khiết, thực phẩm, điện và thuốc men, và bây giờ là bệnh tật. Ngài đang làm cho tiếng nói của mình được lắng nghe, và tôi hy vọng rằng các nhà lãnh đạo thế giới và chủ yếu là Tổng thống Joe Biden với tư cách là một tổng thống Công Giáo, sẽ thực sự nghe thấy tiếng nói của Đức Thánh Cha và dành sự tôn trọng cho tiếng nói của ngài. Đức Thánh Cha xứng đáng được các nhà lãnh đạo thế giới lắng nghe, không chỉ Biden, mà còn các nhà lãnh đạo châu Âu, bởi vì những gì đang diễn ra trên Lãnh thổ Pales-tine bị chiếm đóng là một đòn thực sự đối với những người luôn ủng hộ các giá trị nhân quyền, và luật nhân đạo quốc tế.

Tôi tin rằng trật tự thế giới hiện đang gặp khủng hoảng thực sự do quan điểm tiêu chuẩn hai mặt. Bạn không thể nói về sự chiếm đóng bất hợp pháp của một bên, trong khi bên kia lại hợp pháp hóa việc chiếm đóng. Nếu những nhà lãnh đạo đó quan tâm đến tương lai của Israel, chắc chắn họ nên công nhận và bảo vệ Israel trong phạm vi biên giới của mình, nhưng không bảo vệ Is-rael bằng các biện pháp áp bức chống lại người khác. Nếu tôi là một người cha và có một cậu con trai hư, tôi sẽ không tiếp tục chiều chuộng nó nữa. Đúng hơn là tôi đưa cháu đi đúng đường để tôi chắc chắn rằng khi cháu lớn lên, cháu sẽ đi đúng hướng. Các nhà lãnh đạo thế giới phương Tây phải đi theo con đường này chứ không phải con đường khác. Thực ra, con đường chiều chuộng cậu bé và khiến cậu vượt lên trên các quy tắc của ngôi nhà và luật pháp sẽ không làm cho cậu trở nên tốt đẹp. Hãy tin tôi đi, chính sách này đang gây tổn hại cho Israel và người Israel hơn bất cứ ai khác.

(Thủ tướng Israel Benjamin) Netanyahu đã có một cơ hội duy nhất để tạo dựng hòa bình thực sự với thế giới Ả Rập nếu ông công nhận và nếu phía Israel tán thành Sáng kiến Hòa bình Ả Rập, vốn được các nước Ả Rập và Hồi giáo tán thành. Các ông đang nói về 57 quốc gia đã sẵn sàng có hòa bình thực sự với nhà nước Israel, với điều kiện nhà nước này sẽ rút lui hoặc xuống thang hướng tới chấm dứt sự chiếm đóng dựa trên tính hợp pháp quốc tế. Điều này đã không xảy ra nên người có lỗi cũng chính là cộng đồng quốc tế. Họ đã chứng kiến tình hình ngày càng xấu đi ở các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng và không ai biểu lộ bất cứ ý chí chính trị thực sự nào để ngăn chặn sự leo thang và thay đổi động lực theo hướng tích cực. Hiệp định Abraham là một công thức nhằm tránh làm bài tập ở nhà thực sự và giải quyết Câu hỏi về người Palestine.

Còn vụ tấn công ngày 7 tháng 10 thì sao? Ông có nghĩ đó là kết quả của việc áp lực ngày càng gia tăng và sôi sục do tình hình đang diễn ra không?

Chủ tịch của chúng tôi đã nói rõ ràng nhiều lần rằng chúng tôi chống lại việc làm tổn thương bất cứ con người nào, tất cả con người đều là sự phản ảnh hình ảnh của Thiên Chúa, nhưng tôi hy vọng rằng lần đầu tiên người Israel sẽ làm bài tập ở nhà và không trốn tránh nhiệm vụ của mình và để cho những kẻ phá hoại tiếp tục làm hỏng và đầu độc bầu không khí và bắt đầu xử lý nghiêm túc gốc rễ của vấn đề. Nguyên tắc cơ bản ở đây là: ‘sống và để [người khác] sống’.

Các ông có nhà nước của mình, các ông đã đạt được khát vọng quốc gia của mình, và phía bên kia đang đấu tranh trong nhiều năm cho chính quyền của họ và quyền dân tộc của họ. Đã đến lúc hai bên phải trao đổi quyền khai sinh để chúng ta trao cho nhau những giấy khai sinh hợp pháp để cùng chung sống, cùng nhau dọn đường cho tương lai con cháu và gạt bỏ hận thù và phân biệt đối xử và nỗ lực tăng cường các lực lượng ôn hòa, không để các thế lực cực đoan kiểm soát hiện trường. Thật không may, đây là những gì đang xảy ra vào thời điểm này.

Bản thân Chủ tịch Mahmoud Abbas của chúng tôi đã nhiều lần nói tại các diễn đàn khác nhau rằng hiện trạng chính trị không bền vững và tình hình thực tế đang xấu đi. Ông phàn nàn về sự vi phạm chưa từng có của những người lập cư, và ông luôn cảnh báo về những hành vi và thực hành bất hợp pháp của họ cũng như việc tiếp tục mở rộng các khu lập cư một cách bất hợp pháp và đơn phương ở trung tâm các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng.

Hơn nữa, hằng ngày sống và nếm trải sự tủi nhục, áp bức; phủ nhận những quyền căn bản của bà, phủ nhận bà với tư cách là một con người, nhìn bà từ quan điểm tối cao, kiêu ngạo, không đối xử với bà như một con người bình đẳng, cuối cùng sẽ dẫn đến chỗ rơi vào điểm đen tối. Tình trạng này đã diễn ra trong 75 năm qua, thế hệ này qua thế hệ khác, chiến tranh này nối chiến tranh khác, nhưng cuối cùng, có thể chương xấu xí này, với tất cả những đau khổ của nó, sẽ là một khoảnh khắc thức tỉnh, hoặc một lời cảnh báo cho người Israel cũng như cho cả cộng đồng thế giới rằng việc chiếm đóng này không mang lại lợi ích cho bất cứ ai và tiến trình hợp luận lý sẽ chiếm ưu thế chứ không phải luận lý sức mạnh.

Vatican luôn ủng hộ giải pháp hai nhà nước cho cuộc xung đột Israel-Palestine. Có phải giải pháp này vẫn có thể thực hiện được nếu xét đến tình hình hiện tại hay không? Nếu vậy, ông nghĩ Vatican có thể có vai trò gì?

Nếu chúng ta nói về một nền hòa bình lâu dài và toàn diện thì đây là con đường duy nhất. Nhiều người không còn tin vào điều đó nữa và không còn sự tin tưởng từ bên nào nữa. Những kẻ cực đoan đang kiểm soát hiện trường, nhưng bà có chủ tịch của chúng tôi và thế giới Ả Rập, họ bám sát chiến lược hòa bình về giải pháp hai nhà nước dựa trên các nghị quyết quốc tế và tính hợp pháp quốc tế, bao gồm cả Sáng kiến Hòa bình Ả Rập, nó vẫn còn trên bàn, chúng ta phải ghi nhớ nó.

Đối với Tòa Thánh, họ đã thực hiện vai trò của mình bằng cách công nhận Nhà nước Palestine dựa trên đường biên giới năm '67. Tôi tin rằng thế giới Công Giáo lẽ ra phải noi gương Đức Thánh Cha và tôn trọng bước đi của ngài. Người châu Âu đã công nhận các nghị quyết quốc tế liên quan đến vấn đề Pal-estine. Vì về nguyên tắc, họ ủng hộ quyền tự quyết của chúng tôi là quyền không thể xâm phạm của chúng tôi, nên việc công nhận nhà nước Palestine là điều bắt buộc, đây là nghĩa vụ đạo đức, nghĩa vụ pháp lý và việc thực hiện công thức hai nhà nước. Ở đây đề cập đến việc cửa sổ của công thức hai nhà nước đang đóng lại quá nhanh. Mọi người nên nhìn vào thực tế để hiểu rằng cơ hội này đang dần tan biến.

Tôi tin rằng nếu người châu Âu và những người khác công nhận Nhà nước Palestine, chúng tôi sẽ ở một (vị thế) khác. Nhân dân chúng tôi đặt nhiều hy vọng vào thời điểm bắt đầu tiến trình Hòa bình Trung Đông, tin rằng mình đã gần đạt được khát vọng dân tộc, đúng hơn là họ đã nhìn thấy những chính sách khác, những chính sách bất hợp pháp, trong đó có việc đàn áp khát vọng dân tộc của họ. Nó đã đến mức thực sự đối với thế hệ trẻ, họ không còn tin vào giải pháp hai nhà nước nữa. Tôi tin rằng điều tương tự cũng áp dụng ở phía bên kia. Trên thực tế, nếu người châu Âu thực hiện một bước như vậy, họ sẽ tăng cường lực lượng ôn hòa, họ sẽ cho người dân của chúng tôi thấy rằng con đường can dự ngoại giao và đàm phán chính trị sẽ đưa chúng ta đến một kết quả tích cực, một sự công nhận.

Tuy nhiên, cá nhân tôi, cũng như chủ tịch của chúng tôi, tin rằng điều đó vẫn có thể xảy ra, nhưng người châu Âu nên đủ can đảm để đứng ra và công nhận Nhà nước Pal-estine, đồng thời họ nên lôi kéo người Mỹ cũng như cộng đồng thế giới, hợp tác với chúng tôi để đạt được một lộ trình có điểm chuẩn và khung thời gian rõ ràng để đảm bảo rằng chúng tôi có kết quả cuối cùng với cơ chế quốc tế đảm bảo việc thực thi. Trận đấu cuối cùng có thể mất hai năm để xây dựng lại niềm tin, sự tin tưởng và chuẩn bị mặt bằng, nhưng ít nhất lần này chúng ta phải chắc chắn rằng ở cuối đường hầm sẽ có một ánh sáng. Và bài học rút ra là chúng ta nên tránh những sai lầm trong các cuộc đàm phán trước đây. Việc chấm dứt các vụ lập cư sẽ là bước cụ thể đầu tiên hướng tới việc giảm căng thẳng.

Bây giờ có thể giữ lập trường đạo đức như Đức Thánh Cha đã làm khi ngài thực hiện chuyến hành hương đến Thánh địa vào tháng 5 năm 2015. Ngài đã đi thẳng bằng trực thăng từ Amman đến Bêlem, và đó là tín hiệu đầu tiên phát xuất từ ngài rằng ngài có ý định công nhận Nhà nước Palestine. Sau đó, ngài cầu nguyện hòa bình trong khu vườn của Thị quốc Vatican. Chúng tôi cũng đã ký thỏa thuận toàn diện giữa Tòa thánh và Nhà nước Palestine vào ngày 26 tháng 6 năm 2015. Vì vậy, Tòa thánh đã cho thấy rằng họ có tầm nhìn và tầm nhìn này là con đường đúng đắn cho một nền hòa bình lâu dài. Người châu Âu và những người khác nên tán thành tầm nhìn này, nhưng tại thời điểm này mọi nỗ lực nên tập trung vào lệnh ngừng bắn.

Vì vậy, thật công bằng khi nói rằng ông hài lòng với sự ủng hộ của Vatican đối với giải pháp hai nhà nước và với sự tham gia của Đức Giáo Hoàng vào cuộc chiến hiện tại?

Tôi là ai mà có thể vui mừng với Đức Thánh Cha? Ngài đã làm theo lương tâm của mình; ngài đã thực hiện được niềm tin của mình. Ngài có động thái và đưa ra các quyết định của mình dựa trên Tin Mừng, và Tin Mừng là con đường dẫn đến lẽ phải, công lý và hòa bình, cho sự vĩnh cửu và cho sự cứu rỗi.

Tình trạng hiện tại của cộng đồng Kitô giáo ở Gaza như thế nào?

Bà phải tham khảo Tổng thư ký Liên hiệp quốc Antonio Guterres, người đã viện dẫn Điều 99 của Hiến chương Liên hiệp quốc, thúc giục Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc hành động trong cuộc chiến ở Gaza. Bà cũng phải tham khảo các tổ chức quốc tế khác nói chuyện bằng đồ họa thông tin [infographs] về tình hình tàn khốc ở Gaza. Hôm nọ, Tổng thống Brazil, ông Luiz Inacio Lula da Silva đã mô tả cuộc chiến ở Gaza là một cuộc diệt chủng. Điều làm tôi buồn là chứng kiến các nhà lãnh đạo thế giới chứng kiến tình trạng thảm khốc này, việc giết hại bừa bãi trẻ em, phụ nữ và người dân vô tội nhưng lại không hành động phù hợp để chấm dứt sự điên rồ này. Người dân của chúng tôi đang trú ẩn ở khu vực lân cận nhà thờ mô tả tình hình như địa ngục. Một người nói với tôi rằng Tin Mừng đã mô tả địa ngục nhưng thực tế là chúng ta đã sống trong địa ngục suốt 60 ngày qua nên việc này phải chấm dứt. Ai muốn sống trong địa ngục này? Đó là một thảm họa cho toàn thể nhân loại.

Chúng ta hãy mang theo ngọn đuốc hy vọng và ơn cứu độ khi chúng ta hướng tới lễ Giáng Sinh. Thật vậy, chúng ta đang sống mùa Giáng Sinh, và tầm mắt của chúng ta phải hướng về Thánh Địa, về thành phố nơi sinh ra của Hài Nhi Giêsu, về Vương Cung Thánh Đường Giáng Sinh. Ở đó, chúng ta có được thông điệp hòa bình, thông điệp của niềm hy vọng. Những gì đang diễn ra trong khu vực của chúng tôi hoàn toàn trái ngược với những gì lẽ ra phải xảy ra. Nó làm bà buồn; thay vì trang trí và thắp sáng cây thông Noel, bà đang chứng kiến sự tàn phá, nỗi đau khổ của các gia đình ở đó, cũng như sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống ở Gaza. Những gì đang xảy ra mâu thuẫn với thông điệp của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Nói về Gaza và nói về sự leo thang nguy hiểm ở West Bank, trong đó có Đông Jerusa-lem, đòi hỏi mọi người phải nói rằng điều này phải dừng lại, cần có một sự thay đổi hoàn toàn bầu không khí hướng tới niềm hy vọng. Bạo lực nuôi dưỡng bạo lực. Nếu chúng ta không có hy vọng thì chúng ta không có sự sống và hiện tại không có sự sống.

Và như Đức Thánh Cha đã nói: ‘chiến tranh là một thất bại.’ Đó là một tội lỗi. Tất nhiên, khi chúng ta nói về các Kitô hữu ở Gaza, chúng ta nên nói về các Kitô hữu ở West Bank. Chừng nào chúng ta còn có bức tường ngăn cách này, ngăn cách nhà thờ Chúa Giáng Sinh với nhà thờ Mộ Thánh ở Terra Sancta [Đất Thánh], do đó chia cắt các gia đình Kitô giáo với nhau, thực tế cay đắng này không mang lại hy vọng cho sự hiện diện của Kitô giáo ở Thánh địa, nhưng bà cũng có bức tường tâm lý; không chỉ chia cắt gia đình mà còn chia cắt hai dân tộc với nhau. Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra quan điểm này khi ngài đến thăm Bêlem vào năm 2014, và ngài đứng đối diện với bức tường và chạm vào nó, trong khi ngài cầu nguyện cho những cây cầu từ bi và tha thứ được xây dựng chứ không phải những bức tường. Bức tường Berlin sụp đổ vào một thời điểm trong lịch sử, và trường hợp này được áp dụng ở đây. Tâm lý phân biệt và loại trừ không nên chiếm ưu thế.

Thực ra, chúng ta không thể nói về Kitô giáo trên thế giới mà không dành sự quan tâm tối đa đến cái nôi của Kitô giáo ở Thánh Địa. Nếu chúng ta nói về tương lai của các Kitô hữu Palestine, thì chúng ta không thể không cho phép các gia đình phát triển mà không gặp bất cứ trở ngại nào. Vấn đề không đoàn tụ các gia đình và việc thu hồi chứng minh nhân dân là một trở ngại nghiêm trọng cho một tương lai thực sự đối với sự hiện diện của Kitô giáo. Số lượng Kitô hữu đang giảm nhanh chóng. Chúng ta không thể nói về Kitô giáo mà không bảo tồn những viên đá sống. Sự bất ổn chính trị là một trong những lý do chính khiến số lượng Kitô hữu ở Pales-tine ngày càng giảm.

Tôi tin rằng Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã yêu cầu điều này trong chuyến thăm của ngài vào năm 2014 từ chính quyền Israel, để cho phép các gia đình được đoàn tụ để chúng ta bảo tồn được bức tranh khảm của Thành Thánh theo hiện trạng chính trị hiện nay. Tôi không nghĩ rằng yêu cầu của Đức Thánh Cha đã được đáp ứng, nhưng tôi nhân cơ hội này kêu gọi Tòa Thánh và Đức Thánh Cha dành sự quan tâm tối đa đến Thánh Địa. Hôm nọ, Đức Thánh Cha đã phát biểu về sự cần thiết phải có một quy chế đặc biệt cho Jerusalem với một cơ chế được quốc tế bảo đảm. Chúng tôi hy vọng rằng chúng ta thấy lời nói sẽ chuyển thành hành động, để bảo vệ cái nôi của Kitô giáo và làm việc siêng năng với các Thượng Phụ và Người đứng đầu các Giáo hội ở Giêrusalem.

Trong bối cảnh này, Tòa Thánh cần lưu ý đến nhiều lời kêu gọi của những người đứng đầu Giáo hội trong hai năm qua. Dù sao đi nữa, việc nâng phẩm giá của Đức Hồng Y Pierbattista Pizzaballa báo hiệu rằng Tòa Thánh đang chú ý đến Thành Thánh Giêrusalem.

Ông đã đề cập đến sự cần thiết phải giảm căng thẳng. Xét về cuộc xung đột hiện tại, đã có một thời gian ngừng bắn ngắn ngủi, nhưng giao tranh lại bắt đầu. Điều gì sẽ xảy ra để một lệnh ngừng bắn lâu dài và giảm leo thang xảy ra?

Tuân theo lời của Đức Thánh Cha: ngừng bắn, viện trợ nhân đạo, thả con tin, và cũng nên nhớ rằng, từ phía Palestine, có những tù nhân chính trị, có những người bị giam giữ hành chính đã bị bắt mà không bị buộc tội gì, và hàng chục thi thể được giữ trong tủ lạnh nhà xác của Israel. Vì vậy, tất cả chỉ là những câu chuyện đau lòng và đau khổ. Nhưng cuối cùng, cần phải có một nhà lãnh đạo dũng cảm để đưa khu vực thoát khỏi vòng xoáy bạo lực, hận thù và đổ máu này, sang một lập trường khác. Chủ tịch Abbas dang tay cầu hòa. Đức Thánh Cha Phanxicô ca ngợi ông là người của hòa bình.

Vì vậy, việc giảm leo thang sẽ thực sự bắt đầu từ lệnh ngừng bắn vĩnh viễn, viện trợ nhân đạo và tiến trình can thiệp đáng tin cậy của cộng đồng quốc tế. Đổ máu đủ rồi. Cần có một nỗ lực thực sự để chuyển khu vực của chúng ta sang một hướng khác, để cho phép thế hệ trẻ của chúng ta cạnh tranh với những người khác về Kỹ thuật Thông tin, và về kỹ thuật thông tin thông minh và có được sự phát triển kinh tế khả thi, thịnh vượng, có một cuộc sống bình thường. Người ta có thể sẽ hỏi các gia đình ở Gaza và West Bank, cuối cùng họ muốn gì? Chắc chắn cha mẹ muốn có cơm ăn cho gia đình mình và họ muốn cảm thấy an toàn, được tôn trọng và cảm thấy rằng họ không bị hạ nhục, nhưng họ có phẩm giá, và phẩm giá đó được tôn trọng. Nói cách khác, chấm dứt sự chiếm đóng là con đường tự cứu rỗi cho tất cả mọi người.

Cá nhân tôi đã dành phần lớn sự nghiệp của mình để tập trung vào tiến trình hòa bình, tôi là một trong những người tham gia vào các cuộc đàm phán. Tin tôi đi, chúng ta có hàng chục nghìn tài liệu và văn bản chính sách liên quan đến hồ sơ tình trạng cuối cùng, bao gồm cả quan hệ giữa các nhà nước, nhưng thực ra điều chúng ta cần là một ý chí chính trị để đạt được một thỏa thuận. Chúng ta không cần đàm phán thêm nữa. Các thông số cho hòa bình là ở đó. Chúng ta cần một nhà lãnh đạo tin tưởng vào hòa bình và sẵn sàng đạt được thỏa thuận để đưa khu vực này từ địa ngục lên thiên đường. Thủ tướng (Yitzhak) Rabin là người duy nhất, nhưng không may, ông đã bị ám sát. Thủ tướng (Ehud) Olmert cũng có mặt để hòa giải nhưng bị ám sát về mặt chính trị.

Ông có thể nói ngắn gọn về sự kiện cầu nguyện hòa bình diễn ra với Tổng thống Peres, Chủ tịch Abbas và Đức Giáo Hoàng Phanxicô tại Vatican năm 2014 không? Có kế hoạch nào cho lễ kỷ niệm 10 năm vào năm tới không?

Đức Thánh Cha đã cầu nguyện hòa bình ở khu vực lân cận Thành Vatican. Ngay sau chuyến hành hương tới Thánh địa, chúng ta đã có Tổng thống Peres, Chủ tịch Abbas và đoàn tùy tùng. Đó là một thời điểm rất đặc biệt cho hòa bình và công lý ở Trung Đông.

Bây giờ, năm tới, sẽ kỷ niệm 10 năm trồng cây ô liu, và tôi tin chắc rằng Đức Thánh Cha sẽ tiếp tục con đường điều phối và làm việc vì công lý và hòa bình ở Thánh địa, và tôi tin chắc với lễ kỷ niệm 10 năm thực hiện lời cầu nguyện hòa bình này và gieo hạt giống hòa bình qua cây ô liu ở Thành phố Vatican, rằng năm tới, Đức Thánh Cha sẽ đưa ra một tín hiệu, sẽ chia sẻ điều gì đó để ngài nhấn mạnh rằng đây là con đường duy nhất và rằng hai bên nên đến với nhau và tham gia mang tính xây dựng để chấm dứt xung đột này.