PHẦN III: DỆT CÁC MỐI DÂY NỐI KẾT, XÂY DỰNG CỘNG ĐỒNG

14. Phương thức đồng nghị cho việc đào tạo

Các điểm hội tụ

a) Mọi người đã được rửa tội đều được kêu gọi quan tâm đến việc đào tạo của mình như một sự đáp lại những hồng ân của Chúa, sử dụng những tài năng họ đã nhận được để sinh hoa trái và phục vụ mọi người. Thời gian Chúa dành cho việc đào tạo các môn đệ của Người cho thấy tầm quan trọng của việc đào tạo này của Giáo hội. Điều này thường xảy ra ở hậu cảnh nhưng lại mang tính quyết định cho sứ mệnh. Chúng tôi muốn gửi lời cảm ơn và khích lệ đến tất cả những người đang tham gia vào công việc này và mời họ chào đón những định hướng mới liên quan đến việc đào tạo xuất phát từ hành trình đồng nghị của Giáo hội.

b) Cách thức Chúa Giêsu huấn luyện các môn đệ là mẫu mực chúng ta cần noi theo. Người không chỉ đơn thuần truyền đạt giáo huấn mà còn chia sẻ cuộc sống của Người với họ. Qua gương cầu nguyện của chính mình, Người đã khiến họ yêu cầu: 'Xin dạy chúng con cầu nguyện'. Bằng cách cho đám đông ăn uống, Người dạy họ đừng xua đuổi người nghèo khó. Khi đi lên Giêrusalem, Người đã chỉ đường đến Thập Giá. Nhờ Tin Mừng, chúng ta biết rằng việc đào tạo không chỉ hoặc chủ yếu là củng cố các khả năng của chính chúng ta; đó là sự chuyển đổi sang ‘luận lý’ Vương quốc, một luận lý có thể làm cho cả những thất bại và sai phạm thành hữu hiệu.

c) Dân Thánh của Thiên Chúa không những chỉ là đối tượng mà trước hết và trên hết, còn là chủ thể đồng trách nhiệm trong việc đào tạo. Thực vậy, việc đào tạo đầu tiên diễn ra trong gia đình. Chính ở đây chúng ta thường nhận được lời tuyên xưng đức tin đầu tiên bằng ngôn ngữ – thực ra là bằng thổ ngữ – của cha mẹ và ông bà chúng ta. Do đó, những người thực hiện thừa tác vụ trong Giáo hội phải đan xen sự đóng góp của mình với sự khôn ngoan của toàn thể Dân trung thành của Thiên Chúa trong một sự hợp tác không thể thiếu đối với cộng đồng. Đây là dấu hiệu đầu tiên của việc đào tạo được hiểu theo nghĩa đồng nghị.

d) Trong việc khai tâm Kitô giáo, chúng ta tìm thấy sự hướng dẫn phải lèo lái con đường đào tạo của mình ra sao. Tại tâm điểm của việc đào tạo Kitô giáo là đào sâu kerygma [giáo lý sơ truyền], tức là cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô, Đấng ban cho chúng ta hồng ân sự sống mới. Luận lý dự tòng nhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đều là những tội nhân được kêu gọi nên thánh. Đây là lý do tại sao chúng ta tham gia vào một hành trình hướng tới sự hoán cải bản thân mà Bí tích Hòa giải mang đến sự thành toàn. Đây cũng là lý do tại sao chúng ta nuôi dưỡng ước muốn nên thánh, được sự ủng hộ của đông đảo nhân chứng.

e) Các lĩnh vực trong đó, việc đào tạo dân Chúa diễn ra, thì rất nhiều. Ngoài việc đào tạo thần học, Phiên Họp còn yêu cầu đào tạo những kỹ năng chuyên biệt: thực hành đồng trách nhiệm, lắng nghe và phân định; tiến hành đối thoại đại kết và liên tôn, phục vụ những người nghèo nhất và chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta; tham gia với tư cách là "những nhà truyền giáo kỹ thuật số", tạo điều kiện thuận lợi cho các diễn trình phân định, Đàm luận trong Thánh Thần, xây dựng sự đồng thuận và giải quyết xung đột. Cũng cần đặc biệt chú ý đến việc đào tạo giáo lý cho trẻ em và thanh thiếu niên, việc đào tạo này cần có sự tham gia tích cực của cộng đồng.

f) Việc đào tạo cho một Giáo hội đồng nghị cần phải được thực hiện một cách đồng nghị: toàn thể dân Chúa được đào tạo cùng nhau khi họ cùng nhau hành trình. Cần phải vượt qua tư duy ‘ủy quyền’ trong rất nhiều lĩnh vực của mục vụ. Việc đào tạo theo nguyên tắc đồng nghị có nghĩa là giúp dân Chúa sống trọn vẹn ơn gọi rửa tội của họ, trong gia đình, nơi làm việc, trong các lĩnh vực giáo hội, xã hội và trí thức. Nó có nghĩa là giúp mỗi người có thể tham gia tích cực vào sứ mệnh của Giáo hội tùy theo đặc sủng và ơn gọi của mình.

Các vấn đề để xem xét

g) Chúng tôi khuyên nên thực hiện công việc về mối liên hệ và giáo dục giới tính để đồng hành với những người trẻ khi họ trưởng thành trong bản sắc bản vị và giới tính, đồng thời hỗ trợ sự trưởng thành của những người được kêu gọi sống độc thân và khiết tịnh thánh hiến. Việc đào tạo trong những lĩnh vực này là sự trợ giúp cần thiết cho mọi giai đoạn của cuộc sống.

h) Điều quan trọng là phải đào sâu cuộc đối thoại giữa các khoa học nhân văn, đặc biệt là tâm lý học và thần học, để hiểu được kinh nghiệm con người không chỉ đặt các phương pháp tiếp cận này cạnh nhau mà còn tích hợp chúng thành một tổng hợp trưởng thành hơn.

i) dân Chúa cần được đại diện rộng rãi trong các chương trình đào tạo thừa tác vụ thụ phong, như đã được yêu cầu bởi các Thượng Hội đồng trước đây. Do đó, chúng ta cần xem xét kỹ lưỡng các chương trình đào tạo, đặc biệt chú ý đến việc làm thế nào chúng ta có thể cổ vũ sự đóng góp của phụ nữ và các gia đình vào đó.

j) Các Hội đồng Giám mục được khuyến khích làm việc cùng nhau ở bình diện khu vực để tạo ra một nền văn hóa đào tạo và học tập suốt đời, sử dụng mọi nguồn lực sẵn có, bao gồm cả việc phát triển các lựa chọn kỹ thuật số.

Các đề nghị

k) Dưới ánh sáng của tính đồng nghị, chúng tôi đề nghị nên ưu tiên cung cấp các chương trình được thiết kế và nhằm mục đích đào tạo chung cho toàn thể dân Chúa (giáo dân, các thừa tác viên thánh hiến và thụ phong). Các giáo phận nên nỗ lực khuyến khích những dự án này trong vòng các Giáo Hội địa phương. Chúng tôi khuyến khích các Hội đồng Giám mục cùng nhau làm việc ở cấp khu vực để tạo ra một nền văn hóa đào tạo liên tục, sử dụng tất cả các nguồn lực sẵn có, bao gồm cả việc phát triển các lựa chọn kỹ thuật số.

l) Một loạt thành viên của dân Chúa cần được đại diện trong các chương trình đào tạo cho các thừa tác vụ thụ phong, như đã được yêu cầu bởi các Thượng Hội đồng trước đây. Sự tham gia của phụ nữ có tầm quan trọng đặc biệt.

m) Cần phải áp dụng các tiêu chuẩn và diễn trình thích hợp để lựa chọn ứng viên cho mục vụ thụ phong nhằm bảo đảm đáp ứng được các yêu cầu về chương trình giáo dục cho các chủng sinh.

n) Việc đào tạo các thừa tác viên thụ phong phải được thiết kế theo cách phù hợp với Giáo hội đồng nghị trong các bối cảnh địa phương khác nhau. Trước khi dấn thân vào những con đường chuyên biệt, các ứng viên phải có một kinh nghiệm quan trọng, dù là ban đầu, về cuộc sống trong một cộng đoàn Kitô giáo. Việc đào tạo không nên tạo ra một môi trường nhân tạo tách biệt khỏi cuộc sống bình thường của các tín hữu. Bằng cách bảo vệ những yêu cầu của việc đào tạo mục vụ, chúng ta có thể nuôi dưỡng tinh thần phục vụ dân Chúa đích thực trong việc rao giảng, cử hành các bí tích và thực thi bác ái. Điều này có thể đòi hỏi phải duyệt lại văn kiện Ratio Fundamentalis dành cho các linh mục và phó tế vĩnh viễn.

o) Để chuẩn bị cho kỳ họp tiếp theo của Phiên Họp, cần tiến hành tham khảo ý kiến của những người chịu trách nhiệm về việc đào tạo linh mục ban đầu và liên tục để đánh giá tiến trình đồng nghị đang được tiếp nhận như thế nào và đề xuất những thay đổi nhằm cổ vũ việc thực thi thẩm quyền trong một phong cách phù hợp với một Giáo hội đồng nghị.

15. Sự phân định của Giáo Hội và những câu hỏi bỏ ngỏ

Các điểm hội tụ

a) Trải nghiệm Đàm luận trong Chúa Thánh Thần đã làm phong phú thêm cho tất cả những người tham gia. Phong cách thông đạt của chúng tôi, dành ưu tiên cho quyền tự do bày tỏ quan điểm và lắng nghe lẫn nhau, đã được đánh giá rất cao. Nó tránh cho chúng tôi tiến quá nhanh đến một cuộc tranh luận dựa trên việc nhắc lại quan điểm của chính mình mà trước nhất không lắng nghe lý luận ủng hộ quan điểm của người khác.

b) Cách tiếp cận căn bản này tạo ra một bối cảnh cho phép xem xét cẩn thận các vấn đề đang gây tranh cãi trong Giáo hội, chẳng hạn như các tác động nhân học của công nghệ kỹ thuật số và trí tuệ nhân tạo, bất bạo động và tự vệ hợp pháp, các vấn đề liên quan đến mục vụ và các vấn đề liên quan đến tình dục và “tính thân xác” [bodiliness], trong số những điều khác.

c) Để phát triển sự phân định đích thực của Giáo hội trong các lĩnh vực này và các lĩnh vực khác, cần phải tiếp cận những vấn đề này dưới ánh sáng Lời Chúa và giáo huấn của Giáo hội, được thông tri và suy gẫm đúng đắn. Để tránh lặp lại những công thức trống rỗng, chúng ta cần tạo cơ hội cho một cuộc đối thoại liên quan đến khoa học nhân văn và xã hội, cũng như suy tư triết học và thần học.

d) Ở tâm điểm của nhiều vấn đề gây tranh cãi này là câu hỏi về mối liên hệ giữa tình yêu và sự thật và tác động của điều này đối với nhiều vấn đề gây tranh cãi. Mối liên hệ này, trước khi được coi là một thách đố, thực ra phải được coi là một ân sủng được mạc khải nơi Chúa Kitô. Vì Chúa Giêsu đã làm nên trọn lời hứa trong các Thánh vịnh: “Tình yêu và sự thật sẽ gặp nhau, công lý và hòa bình sẽ ôm nhau. Sự thật sẽ nảy mầm từ đất và công lý sẽ đến từ trời” (Tv 85:11-12).

e) Một số đoạn Tin Mừng tiết lộ rằng Chúa Giêsu gặp gỡ mọi người trong câu chuyện và hoàn cảnh bản thân độc đáo của họ. Người không bao giờ bắt đầu từ quan điểm của những thành kiến hay nhãn hiệu, nhưng từ tính xác thực của mối liên hệ mà Người hết lòng cam kết, thậm chí phải trả giá bằng việc trải nghiệm hiểu lầm và bị từ chối. Chúa Giêsu luôn lắng nghe tiếng kêu cứu của những người đang cần giúp đỡ, ngay cả trong những tình huống trong đó nó chưa được bày tỏ. Người thực hiện những cử chỉ thể hiện tình yêu thương và khôi phục sự tự tin; Người biến cuộc sống mới thành hiện thực với sự hiện diện của Người: những người gặp Người đều biến đổi. Điều này xảy ra bởi vì sự thật mà Chúa Giêsu là người mang theo không phải là một ý tưởng, mà là chính sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta; và tình yêu mà với nó Người hành động không chỉ là cảm xúc mà còn là công lý của Vương quốc làm thay đổi lịch sử.

f) Chúng ta chỉ có thể hỗ trợ người khác nếu bản thân chúng ta đang tiến hành cuộc hoán cải, cả bản thân lẫn cộng đồng. Khó khăn chúng ta gặp phải trong việc chuyển dịch tầm nhìn Tin Mừng rõ ràng của Chúa Giêsu thành những lựa chọn mục vụ là một dấu hiệu cho thấy cuộc đấu tranh của chúng ta để sống theo Tin Mừng. Nếu chúng ta sử dụng tín lý một cách gay gắt và với thái độ phán xét, chúng ta phản bội Tin Mừng; nếu chúng ta thực hành lòng thương xót ‘rẻ tiền’, chúng ta không truyền đạt được tình yêu của Thiên Chúa. Sự thống nhất giữa chân lý và tình yêu bao hàm việc chịu đựng những khó khăn của người khác, thậm chí biến chúng thành của mình, như xảy ra giữa anh chị em. Tuy nhiên, sự hiệp nhất này chỉ có thể đạt được bằng cách kiên nhẫn đi theo con đường đồng hành.

g) Một số vấn đề, chẳng hạn như những vấn đề liên quan đến các vấn đề về bản sắc và tính dục, việc kết thúc sự sống, các tình huống hôn nhân phức tạp và các vấn đề đạo đức liên quan đến trí tuệ nhân tạo, đang gây tranh cãi không chỉ trong xã hội mà còn trong Giáo hội, bởi vì chúng đặt ra những câu hỏi mới. Đôi khi các phạm trù nhân học mà chúng ta đã khai triển không thể nắm bắt được tính phức tạp của các yếu tố nảy sinh từ kinh nghiệm hoặc kiến thức trong khoa học và đòi hỏi độ chính xác cao hơn và nghiên cứu thêm. Điều quan trọng là dành thời gian cần thiết cho việc suy gẫm này và đầu tư năng lực tốt nhất của chúng ta vào đó, không nhượng bộ trước những phán đoán đơn giản làm tổn thương các cá nhân và Thân thể Giáo hội. Giáo huấn của Giáo hội đã cung cấp một cảm thức định hướng về nhiều vấn đề này, nhưng rõ ràng giáo huấn này vẫn đòi hỏi phải chuyển dịch thành thực hành mục vụ. Ngay cả khi cần phải làm sáng tỏ thêm, các hành động của Chúa Giêsu, hòa nhập vào lời cầu nguyện và sự hoán cải tâm hồn, chỉ cho chúng ta con đường phía trước.

Các vấn đề để xem xét

h) Cần phải tiếp tục suy tư theo Giáo hội về sự đan xen nguyên thủy giữa tình yêu và sự thật bắt nguồn từ mạc khải Kitô học, nhằm hướng tới một thực hành Giáo hội trung thành với những nguồn gốc này.

i) Chúng tôi khuyến khích các chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau kết hợp kiến thức với linh đạo bản thân của họ để những gì họ cống hiến là một sự phục vụ thực sự cho Giáo hội. Trong bối cảnh này, điều tính đồng nghị muốn nói là sự sẵn sàng cùng nhau suy nghĩ trong việc phục vụ sứ mệnh và trong những môi trường đa dạng, nhưng với cảm thức chung về mục đích.

j) Chúng tôi nhận thấy nhu cầu suy gẫm về các điều kiện cho phép nghiên cứu thần học và văn hóa lấy kinh nghiệm hàng ngày của Dân Thánh Thiên Chúa làm điểm khởi đầu và đặt mình vào việc phục vụ dân thánh.

Các đề nghị

k) Chúng tôi đề nghị nên khai triển các sáng kiến giúp sự phân định chung về các vấn đề tín lý, mục vụ và đạo đức gây tranh cãi, dưới ánh sáng Lời Chúa, giáo huấn của Giáo hội, suy tư thần học và đánh giá cao kinh nghiệm đồng nghị. Điều này có thể được thực hiện thông qua các cuộc thảo luận đào sâu giữa các chuyên gia có kỹ năng và kiến thức nền tảng đa dạng, trong một khung cảnh định chế bảo vệ tính bảo mật và thúc đẩy thảo luận thẳng thắn. Khi thích hợp, nó cũng cần có sự tham gia của những người bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các vấn đề đang được xem xét. Những sáng kiến như vậy cần được triển khai trước Kỳ họp tiếp theo của Phiên Họp.

16. Hướng tới một Giáo hội lắng nghe và đồng hành

Các điểm hội tụ

a) Trong hai năm đầu tiên của hành trình Thượng Hội đồng, kể cả trong Phiên Họp của chúng tôi, lắng nghe là từ ngữ diễn tả rõ nhất kinh nghiệm của chúng tôi. Đây là sự lắng nghe cho và nhận. Lắng nghe là một thực tại sâu sắc của con người, một động lực có đi có lại, trong đó mỗi người đóng góp vào hành trình của người khác đồng thời nhận được sự đóng góp vào hành trình của chính mình.

b) Nhiều người tham gia vào tiến trình đồng nghị ở cấp địa phương, và đặc biệt là những người phải chịu các hình thức bị gạt ra ngoài lề xã hội trong Giáo hội hoặc trong xã hội, đã vô cùng ngạc nhiên trước lời mời lên tiếng và được lắng nghe trong Giáo hội và bởi Giáo hội. Được lắng nghe sâu sắc là một trải nghiệm khẳng định và công nhận phẩm giá, đồng thời là một cách mạnh mẽ để mời gọi mọi người và cộng đồng.

c) Đặt Chúa Giêsu vào trung tâm đời sống chúng ta đòi hỏi một mức độ từ bỏ chính mình. Theo quan điểm này, cung cấp một đôi tai biết lắng nghe có nghĩa là sẵn lòng “làm cho mình không còn là trung tâm” để nhường chỗ cho người khác. Chúng ta đã trải nghiệm điều này trong tính năng động của những cuộc đàm luận trong Chúa Thánh Thần. Đó là một thao tác khổ hạnh đòi hỏi mỗi người phải nhận ra những giới hạn của mình và tính một mặt trong quan điểm của mình. Vì điều này, nó mở ra khả thể lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần Thiên Chúa nói với những người ở bên ngoài biên giới của cộng đồng giáo hội, và có thể khởi đầu một hành trình thay đổi và hoán cải.

d) Việc lắng nghe có một ý nghĩa Kitô học; nó có nghĩa là chấp nhận thái độ của Chúa Giêsu đối với những ai Người gặp gỡ (x. Pl. 2:6-11). Nó cũng có giá trị giáo hội, vì chính Giáo hội đang lắng nghe qua hành động của những người đã được rửa tội, những người hành động không chỉ nhân danh họ mà còn nhân danh cộng đồng.

e) Giáo hội đã gặp nhiều người và nhóm trong tiến trình Thượng Hội đồng yêu cầu được lắng nghe và đồng hành. Trước hết, chúng tôi đề cập đến những người trẻ, những người yêu cầu được lắng nghe và đồng hành đã gây được tiếng vang mạnh mẽ trong Thượng Hội đồng dành riêng cho họ (2018) và trong Phiên Họp này, đồng thời khẳng định sự cần thiết phải có một lựa chọn ưu tiên dành cho giới trẻ.

f) Giáo hội cần đặc biệt chú ý và nhạy cảm lắng nghe tiếng nói của các nạn nhân và những người sống sót sau khi bị lạm dụng tình dục, tinh thần, kinh tế, định chế, quyền lực và lương tâm bởi các giáo sĩ hoặc những người được cử nhiệm trong Giáo hội. Lắng nghe đích thực là yếu tố căn bản của con đường chữa lành, sám hối, công lý và hòa giải.

g) Phiên Họp bày tỏ sự gần gũi và hỗ trợ đối với tất cả những người chấp nhận việc ở một mình như một lựa chọn được thực hiện theo cách trung thành với Truyền thống và Huấn quyền của Giáo hội về hôn nhân và đạo đức tình dục, những điều mà họ nhìn nhận là nguồn sống. Các cộng đồng Kitô hữu được mời gọi đến gần họ, lắng nghe họ và đồng hành cùng họ trong cam kết của họ.

h) Theo những cách khác nhau, những người cảm thấy bị gạt ra ngoài lề xã hội hoặc bị loại khỏi Giáo hội vì tình trạng hôn nhân, căn tính hoặc giới tính của họ cũng yêu cầu được lắng nghe và đồng hành. Có một cảm giác sâu sắc về tình yêu, lòng thương xót và lòng cảm thương trong Phiên Họp dành cho những người đang bị Giáo hội làm tổn thương hoặc bỏ rơi, những người muốn có một nơi gọi là “nhà”, nơi họ có thể cảm thấy an toàn, được lắng nghe và tôn trọng mà không sợ hãi cảm thấy bị phán xét. Lắng nghe là điều kiện tiên quyết để cùng nhau bước đi tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa. Phiên Họp nhắc lại rằng các Kitô hữu phải luôn thể hiện sự tôn trọng phẩm giá của mỗi người.

i) Những người phải chịu nhiều hình thức nghèo đói, loại trừ và bị gạt ra ngoài lề xã hội bất bình đẳng của chúng ta cũng hướng về Giáo hội để tìm kiếm tình yêu, sự lắng nghe và đồng hành. Việc lắng nghe này cho phép Giáo hội hiểu được thực tại của tình trạng nghèo đói và bị gạt ra ngoài lề xã hội, đồng thời xích lại gần những người đau khổ. Điều quan trọng là nó cũng giúp Giáo hội được truyền giảng Tin Mừng bởi những người đau khổ. Việc lắng nghe họ cho phép Giáo hội hiểu được quan điểm của họ và đặt mình đứng về phía họ một cách cụ thể và được họ truyền giảng Tin Mừng. Chúng tôi cảm ơn và khuyến khích tất cả những người đang tham gia phục vụ lắng nghe và đồng hành với những người đang ở trong tù. Đặc biệt, họ cần cảm nghiệm được tình yêu thương xót của Chúa và không cảm thấy bị cô lập khỏi cộng đồng. Nhân danh Giáo hội, họ nhận ra lời Chúa “Thầy ở tù và các con đã đến thăm Thầy” (Mt 25:36).

j) Nhiều người trải nghiệm tình trạng cô đơn đôi khi gần như bị bỏ rơi. Người già và người bệnh thường vô hình trong xã hội. Chúng tôi khuyến khích các giáo xứ và cộng đồng Kitô hữu gần gũi và lắng nghe họ. Những việc thương xót lấy cảm hứng từ những lời Tin Mừng “Ta đau ốm và các con đã đến thăm Ta” (Mt 25:39) có một ý nghĩa sâu sắc đối với những người liên quan và cổ vũ những mối dây liên kết cộng đồng rộng lớn hơn.

k) Cuối cùng, Giáo hội muốn lắng nghe tất cả mọi người, không chỉ những người có thể dễ dàng lên tiếng nhất. Ở một số vùng, vì lý do văn hóa và xã hội, các thành viên của một số nhóm nhất định, chẳng hạn như giới trẻ, phụ nữ và các nhóm thiểu số, có thể cảm thấy khó khăn hơn trong việc tự phát biểu một cách tự do ở các không gian công cộng hoặc giáo hội. Sống dưới những chế độ áp bức, độc tài cũng làm xói mòn sự tự do này. Điều tương tự cũng có thể xảy ra khi việc thực thi thẩm quyền trong cộng đồng Kitô hữu trở nên áp bức hơn là giải phóng.

Các vấn đề để xem xét

l) Lắng nghe đòi hỏi sự chấp nhận vô điều kiện. Nó không có nghĩa là thỏa hiệp với việc rao giảng Tin Mừng hoặc tán thành bất cứ ý kiến hoặc quan điểm nào được đề nghị. Chúa Giêsu đã mở ra những chân trời và những con đường mới cho những người mà Người lắng nghe vô điều kiện, và để chia sẻ Tin Mừng cứu độ với những người chúng ta gặp gỡ, chúng ta cũng được mời gọi làm như vậy.

m) Rải rác rộng rãi ở nhiều nơi trên thế giới, các cộng đồng Kitô hữu nhỏ thúc đẩy các thực hành lắng nghe của, và giữa, những người đã được rửa tội. Chúng ta được mời gọi nâng cao tiềm năng của họ, đặc biệt bằng cách khám phá cách họ có thể thích nghi với bối cảnh đô thị.

Các đề nghị

n) Điều cần phải thay đổi để những người cảm thấy bị loại trừ cảm nghiệm được Giáo hội chào đón nhiều hơn? Lắng nghe và đồng hành là một hình thức hành động của Giáo hội, không chỉ là hành động của các cá nhân. Do đó, chúng phải tìm được một vị trí trong kế hoạch mục vụ thông thường và cơ cấu hoạt động của các cộng đồng Kitô giáo ở các bình diện khác nhau, tận dụng tối đa sự đồng hành thiêng liêng. Một Giáo hội đồng nghị cần phải là một Giáo hội biết lắng nghe và cam kết này phải được chuyển dịch thành thực hành.

o) Chúng ta không bắt đầu công việc này từ số không. Nhiều định chế và cơ cấu thực hiện nhiệm vụ lắng nghe quý giá, bao gồm công việc đồng hành của Caritas với những người nghèo nhất, giữa những người di cư và tị nạn, cũng như nhiều bối cảnh đồng hành khác liên quan đến đời sống thánh hiến hoặc các hiệp hội giáo dân. Việc kết nối công việc của họ một cách toàn diện hơn với cộng đồng Giáo hội địa phương giúp công việc này được coi là một phần đời sống của toàn thể cộng đồng chứ không phải là một nhiệm vụ được ủy quyền.

p) Những người thực hiện công việc phục vụ lắng nghe và đồng hành, dưới nhiều hình thức khác nhau, cần được đào tạo đầy đủ, có tính đến kinh nghiệm của những người mà họ tiếp xúc. Họ cũng cần cảm thấy được cộng đồng hỗ trợ. Về phần mình, các cộng đoàn phải nhận thức đầy đủ về ý nghĩa của việc phục vụ này được thực hiện thay mặt họ và nhận được hoa trái của việc lắng nghe này. Chúng tôi đề nghị thành lập một thừa tác vụ lắng nghe và đồng hành để tạo nên sự nổi bật hơn cho dịch vụ này. Nó phải đặt nền tảng trên bí tích rửa tội và thích ứng với những bối cảnh khác nhau. Cách thức thực hiện mục vụ này phải thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng.

q) SECAM (Hội nghị chuyên đề của các Hội đồng Giám mục Châu Phi và Madagascar) được khuyến khích thúc đẩy sự phân định thần học và mục vụ về vấn đề đa thê và sự đồng hành của những người trong các kết hợp đa thê đang đến với đức tin.

17. Sứ mệnh trong môi trường kỹ thuật số

Các điểm hội tụ

a).Văn hóa kỹ thuật số là sự thay đổi nền tảng trong cách chúng ta quan niệm về thực tại và do đó liên quan đến bản thân, đến nhau, đến môi trường xung quanh và thậm chí đến Thiên Chúa. Môi trường kỹ thuật số thay đổi diễn trình học tập cũng như tri nhận của chúng ta về thời gian, không gian, cơ thể, mối liên hệ liên bản vị và quả thực phần lớn cách suy nghĩ của chúng ta. Thuyết nhị nguyên giữa thực và ảo không mô tả đầy đủ thực tại và trải nghiệm của người ta, đặc biệt là những người trẻ tuổi nhất, những người được gọi là “người bản địa kỹ thuật số”.

b) Do đó, văn hóa kỹ thuật số không hẳn là một lĩnh vực truyền giáo khác biệt cho bằng là một chiều kích quan trọng của chứng tá Giáo hội trong nền văn hóa đương thời. Đây là lý do tại sao nó có ý nghĩa đặc biệt trong một Giáo hội đồng nghị.

c) Các nhà truyền giáo luôn cùng với Chúa Kitô đến những biên giới mới, trong khi Chúa Thánh Thần thúc đẩy và đi trước họ. Nhiệm vụ của chúng ta là tiếp cận nền văn hóa ngày nay ở mọi không gian nơi mọi người tìm kiếm ý nghĩa và tình yêu, bao gồm cả những không gian họ bước vào thông qua điện thoại di động và máy tính bảng [tablet].

d) Chúng ta không thể truyền bá văn hóa kỹ thuật số nếu trước tiên không hiểu nó. Những người trẻ, trong đó có các chủng sinh, linh mục trẻ, các nam nữ tu sĩ trẻ, những người thường có kinh nghiệm sâu sắc và trực tiếp về nó, là những người phù hợp nhất để thực hiện sứ mệnh của Giáo hội trong môi trường kỹ thuật số, cũng như đồng hành cùng những người khác của cộng đồng, bao gồm cả các mục tử, trong việc trở nên quen thuộc hơn với các động lực của nó.

e) Trong tiến trình Thượng Hội đồng, các sáng kiến của “Thượng hội đồng kỹ thuật số” (“Dự án Giáo hội lắng nghe bạn”) cho thấy tiềm năng của môi trường kỹ thuật số được tiếp cận theo nguyên tắc truyền giáo, tính sáng tạo và lòng quảng đại của những người tham gia vào nó, và tầm quan trọng của việc cung cấp cho họ sự huấn luyện, đồng hành và các cơ hội để thảo luận và cộng tác ngang hàng.

Các vấn đề để xem xét

f) Internet ngày càng hiện diện trong cuộc sống của trẻ em và gia đình. Mặc dù nó có tiềm năng to lớn để cải thiện cuộc sống của con người nhưng nó cũng có thể gây tai hại và tổn thương, chẳng hạn như thông qua đe dọa, thông tin sai lệch, bóc lột tình dục và gây nghiện. Cấp thiết phải xem xét làm thế nào cộng đồng Kitô giáo có thể hỗ trợ các gia đình trong việc bảo đảm sao cho không gian trực tuyến không chỉ an toàn mà còn mang lại sự sống thiêng liêng.

g) Có nhiều sáng kiến trực tuyến có giá trị và hữu ích liên quan đến Giáo hội nhằm cung cấp việc dạy giáo lý và đào tạo đức tin tuyệt vời. Thật không may, cũng có những trang web đề cập đến các vấn đề liên quan đến đức tin một cách hời hợt, phân cực và thậm chí đầy thù hận. Với tư cách là một Giáo hội và những cá nhân truyền giáo kỹ thuật số, chúng ta có nhiệm vụ tự hỏi làm thế nào chúng ta có thể bảo đảm sao cho sự hiện diện trực tuyến của chúng ta tạo thành một trải nghiệm lớn mạnh cho những người mà chúng ta giao tiếp.

h) Các sáng kiến tông đồ trực tuyến có tầm với và phạm vi vượt xa các ranh giới lãnh thổ được hiểu theo lối truyền thống. Điều này đặt ra những câu hỏi quan trọng về việc phải qui định chúng ra sao và cơ quan giáo hội nào chịu trách nhiệm giám sát chúng.

i) Chúng ta cũng phải xem xét những hệ luận của biên giới truyền giáo kỹ thuật số mới đối với việc đổi mới các cơ cấu giáo xứ và giáo phận hiện có. Trong một thế giới ngày càng kỹ thuật số, làm thế nào để chúng ta tránh bị mắc kẹt trong một lối suy nghĩ chỉ tìm cách bảo tồn những gì chúng ta đang làm và thay vào đó giải phóng những nguồn năng lực mới cho những hình thức truyền giáo mới?

j) Đại dịch COVID-19 đã kích thích một loạt các sáng kiến mục vụ trực tuyến sáng tạo nhằm làm giảm tác động của trải nghiệm bị cô lập và cô đơn mà đặc biệt là những người già và các thành viên cộng đồng dễ bị tổn thương phải trải qua. Các định chế giáo dục Công Giáo cũng sử dụng các diễn đàn trực tuyến một cách hiệu quả để tiếp tục đào tạo và dạy giáo lý trong thời gian phong tỏa. Chúng ta cần đánh giá xem kinh nghiệm này đã dạy chúng ta điều gì và những lợi ích lâu dài nào có thể mang lại cho sứ mệnh của Giáo hội trong môi trường kỹ thuật số.

k) Trong khi người trẻ tìm kiếm cái đẹp, nhiều người trẻ đã từ bỏ không gian vật chất của Giáo hội, những không gian mà chúng tôi tiếp tục cố gắng mời gọi họ tham dự, thay vào đó họ ưa thích những không gian trực tuyến hơn. Điều này có ý nghĩa đối với cách chúng ta cố gắng thu hút họ và tìm cách đào tạo và dạy giáo lý cho họ. Đây là điều cần xem xét theo viễn ảnh mục vụ.

Các đề nghị

l) Chúng ta cần cung cấp cơ hội để thừa nhận, đào tạo và đồng hành với những người đã làm việc như những nhà truyền giáo kỹ thuật số, đồng thời tạo điều kiện nối mạng giữa họ.

m) Điều quan trọng là tạo ra mạng lưới hợp tác của những người gây ảnh hưởng [influenc-ers], bao gồm những người thuộc các tôn giáo khác hoặc những người thực sự không có đức tin, nhưng muốn cộng tác vì những mục đích chung nhằm thúc đẩy phẩm giá con người, công lý và chăm sóc cho ngôi nhà chung của chúng ta.

18. Cơ cấu tham gia

Các điểm hội tụ

a) Với tư cách là thành viên của Dân trung thành Thiên Chúa, tất cả những người đã được rửa tội đều đồng trách nhiệm truyền giáo, mỗi người tùy theo ơn gọi, năng lực và kinh nghiệm của mình. Vì vậy, tất cả đều góp phần hình dung và biện phân những bước nhằm cải cách các cộng đồng Kitô giáo và toàn thể Giáo hội. Bằng cách này, Giáo hội trải nghiệm “niềm vui ngọt ngào và an ủi của việc truyền giáo”. Mục đích của tính đồng nghị, trong việc thành lập và hoạt động của cơ chế mà nó thành hình chính là sứ mệnh. Đồng trách nhiệm là vì sứ mệnh: điều này chứng tỏ rằng chúng ta thực sự tụ họp nhân danh Chúa Giêsu, điều này giải phóng các cơ quan tham gia khỏi những giới hạn quan liêu và những luận lý quyền lực trần thế, và làm cho việc tụ họp trở nên hữu hiệu.

b) Dưới ánh sáng giáo huấn gần đây của Giáo hội (đặc biệt là Lumen gentium Evangelii gaudium), tính đồng trách nhiệm này của mọi người trong sứ mệnh phải là tiêu chuẩn làm nền tảng cho việc lên cơ cấu các cộng đồng Kitô hữu và toàn thể giáo hội địa phương với tất cả các hoạt động phục vụ của nó, trong tất cả các tổ chức của nó, trong mỗi cơ quan mục vụ của nó (x. 1 Cr 12:4-31). Việc thừa nhận đúng đắn sứ mệnh truyền giáo của giáo dân trong thế giới không thể trở thành cái cớ để giao phó việc chăm sóc cộng đồng Kitô giáo cho riêng các giám mục và linh mục.

c) Thẩm quyền tuyệt hảo là Lời Chúa, thẩm quyền này phải truyền cảm hứng cho mọi cuộc họp của các cơ quan tham gia, mọi cuộc tham vấn và mọi tiến trình đưa ra quyết định. Để điều này xảy ra, điều cần thiết là, ở mọi bình diện, cuộc tụ họp phải rút ra được ý nghĩa và sức mạnh từ Bí tích Thánh Thể và diễn ra dưới ánh sáng của Lời Chúa được lắng nghe và chia sẻ trong lời cầu nguyện.

d) Thành phần của các hội đồng khác nhau nhằm phân định và đưa ra quyết định của cộng đồng truyền giáo đồng nghị phải tạo điều kiện cho sự hiện diện của những người nam nữ có khuynh hướng tông đồ, được phân biệt không phải bởi sự hiện diện thường xuyên của họ trong nhà thờ, mà bởi một chứng tá Tin Mừng đích thực trong cuộc sống bình thường. dân Chúa càng truyền giáo hơn khi họ có thể làm cho tiếng nói của những người đã sống sứ mệnh bằng cách sống trong thế giới và các vùng ngoại vi của nó vang vọng trong chính họ, kể cả trong các cơ chế tham gia.

Các vấn đề để xem xét

e) Dựa trên những gì chúng ta đã chia sẻ, điều quan trọng là phải hỏi làm thế nào chúng ta có thể cổ vũ việc tham gia vào các hội đồng khác nhau khi nhiều người cảm thấy họ không thích hợp với nhiệm vụ. Tính đồng nghị lớn mạnh khi mỗi thành viên tham gia vào các diễn trình và đưa ra quyết định cho sứ mệnh của Giáo hội. Theo nghĩa này, chúng ta được khuyến khích bởi nhiều cộng đồng Kitô hữu nhỏ trong các Giáo hội mới xuất hiện, những cộng đồng sống gần gũi hàng ngày, xung quanh Lời Chúa và Bí tích Thánh Thể.

f) Trong Amoris Laetitia [Niềm vui Yêu thương], Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ủy thác cho Giáo hội việc thực hiện những thay đổi về thành phần của các cơ quan tham gia, nhiệm vụ này không thể bị trì hoãn thêm nữa. Sự tham gia của những người nam nữ đã được rửa tội sống trong những tình huống phức tạp của mối quan hệ yêu thương “có thể được phát biểu trong các hoạt động phục vụ khác nhau của Giáo hội, điều này nhất thiết đòi hỏi phải biện phân được những hình thức loại trừ nào hiện đang được thực hiện trong khuôn khổ phụng vụ, mục vụ, giáo dục và thể chế, để có thể vượt quac” (299). Sự phân định này cũng liên quan đến việc họ bị loại khỏi các cơ quan tham gia cộng đồng giáo xứ và giáo phận như đã trải qua ở một số Giáo Hội địa phương.

g) Từ góc độ tính độc đáo của sự hiệp thông giáo hội: làm thế nào chúng ta có thể đan xen các khía cạnh tham vấn và tham nghị của tính đồng nghị? Với sự đa dạng của các hồng ân đặc sủng và thừa tác vụ của dân Chúa, làm thế nào chúng ta có thể tích hợp các nhiệm vụ cố vấn, biện phân và quyết định trong các cơ quan tham gia khác nhau.

Các đề nghị

h) Dựa trên sự hiểu biết về dân Chúa như chủ thể tích cực của sứ mệnh truyền giáo, chúng tôi đề nghị ra luật lệ cho tính bắt buộc của các Hội đồng Mục vụ trong các cộng đồng Kitô giáo và các giáo hội địa phương. Cũng nên củng cố các cơ quan tham gia, với sự hiện diện thích hợp của giáo dân, thừa nhận vai trò mà họ có thể đảm nhận trong việc biện phân các quyết định do quyền phép rửa của họ.

i) Các cơ quan tham gia đại diện cho điển hình đầu tiên trong đó người ta trải nghiệm được tính giải trình của những người thực hiện trách nhiệm. Mặc dù chúng tôi nhiệt liệt hoan nghênh và ủng hộ sự dấn thân của họ, nhưng ngược lại, họ được mời thực hành nền văn hóa giải trình trước cộng đồng mà họ là đại diện.

19. Gom nhóm các Giáo Hội bên trong hiệp thông toàn thể Giáo Hội

Các điểm hội tụ

a) Chúa Thánh Thần phân phát dồi dào các hồng ân của Người vì ích chung, và vì thế chúng ta tin chắc rằng mỗi Giáo hội, trong sự hiệp thông của toàn thể Giáo hội, đều có nhiều điều để cống hiến. Khi nhìn Giáo Hội như Thân Mình Chúa Kitô, chúng ta dễ hiểu hơn rằng các chi thể khác nhau phụ thuộc lẫn nhau và có cùng một sự sống: “nếu một chi thể đau khổ, thì mọi chi thể cùng đau khổ; và nếu một chi thể được tôn vinh, thì mọi chi thể đều vui mừng vì điều đó” (1 Cr 12:26). Do đó, chúng ta muốn phát triển những thái độ tâm linh nảy sinh từ quan điểm này: khiêm tốn và rộng lượng, tôn trọng và chia sẻ. Điều quan trọng nữa là sự sẵn sàng phát triển sự hiểu biết lẫn nhau và chuẩn bị những cơ cấu cần thiết để việc trao đổi những kho tàng thiêng liêng, tinh thần môn đệ truyền giáo và của cải vật chất có thể trở thành một thực tại cụ thể.

b) Vấn đề về việc gom nhóm các giáo hội địa phương đã được chứng minh là nền tảng cho việc thực thi đầy đủ tính đồng nghị trong Giáo hội. Để trả lời câu hỏi làm thế nào để cấu hình các điển hình đồng nghị và tính hợp đoàn bao gồm các nhóm giáo hội địa phương, Phiên Họp đã đồng ý về tầm quan trọng của việc phân định giáo hội được thực hiện bởi các Hội đồng Giám mục và các Hội đồng Châu lục để tiến hành đúng đắn giai đoạn đầu tiên của tiến trình thượng hội đồng.

c) Tiến trình thượng hội đồng đã cho thấy các cơ quan được cung cấp bởi Bộ Giáo luật và Bộ Giáo luật dành cho các Giáo hội Đông phương thực thi chức năng của mình một cách hiệu quả hơn ra sao khi các cơ quan này được hiểu từ các giáo hội địa phương. Sự kiện Giáo hội (Ecclesia tota=Giáo Hội toàn thể) là sự hiệp thông của các Giáo hội đòi hỏi mỗi giám mục, một cách trực tiếp và ràng buộc hơn, phải thực thi nhiệm vụ chăm sóc tất cả các Giáo hội (sollicitudo omnium Ecclesiarum) như một khía cạnh cấu thành thừa tác vụ của ngài trong tư cách mục tử của một giáo hội.

d) Các Hội đồng Giám mục từng đóng một vai trò quyết định trong giai đoạn đầu của diễn trình Thượng Hội Đồng. Diễn trình này đưa ra nhu cầu về tính đồng nghị và tính hợp đoàn ở bình diện lục địa. Các cơ quan hoạt động ở các bình diện này góp phần thực hiện tính đồng nghị, tôn trọng các thực tại địa phương và diễn trình hội nhập văn hóa. Phiên họp bày tỏ sự tin tưởng rằng bằng những phương tiện này, nguy cơ độc dạng và tập quyền trong việc cai quản Giáo hội sẽ được khắc phục.

Các vấn đề để xem xét

e) Trước khi thành lập các cơ cấu giáo hội mới, chúng ta cần củng cố và đem lại sức sống mới cho những cơ cấu hiện có. Cũng cần phải nghiên cứu về mặt giáo hội học và giáo luật về những hệ luận của cuộc cải cách liên quan đến các nhóm Giáo hội, để chúng có thể đảm nhận tính chất đồng nghị đầy đủ hơn.

f) Xem xét các thực hành đồng nghị của Giáo hội trong thiên niên kỷ thứ nhất, chúng tôi đề xuất một nghiên cứu thăm dò việc làm thế nào để phục hồi các định chế cổ xưa theo trật tự giáo luật hiện tại và hài hòa chúng với các tổ chức mới được thành lập, chẳng hạn như các Hội đồng Giám mục.

g) Bản chất tín lý và pháp lý của các Hội đồng Giám mục cần được nghiên cứu thêm, thừa nhận khả năng hành động tập thể, bao gồm các câu hỏi về tín lý nảy sinh ở địa phương, từ đó mở lại việc suy gẫm về Tự sắc Apostolos suos.

h) Liệu các điều luật đề cập đến các hội đồng đặc thù (toàn thể và cấp tỉnh) có thể được sửa đổi để tăng cường sự tham gia của Dân Thiên Chúa, theo gương miễn chuẩn đã đạt được trong Hội đồng Toàn thể gần đây của Úc không?

Các đề nghị

i) Trong số các cơ cấu đã được quy định trong Bộ Giáo Luật, giáo tỉnh hoặc tòa giáo đô cần được phục hồi và củng cố như một nơi hiệp thông cho các giáo hội địa phương trong lãnh thổ của họ.

j) Các thẩm quyền liên hệ nên thực thi tính đồng nghị ở cấp khu vực, quốc gia và lục địa phù hợp với những hiểu biết sâu sắc từng xuất hiện liên quan đến các nhóm Giáo hội.

k) Khi cần thiết, chúng tôi đề nghị thành lập các tỉnh giáo hội quốc tế để mang lại lợi ích cho các giám mục không thuộc bất cứ Hội đồng Giám mục nào và để thúc đẩy sự hiệp thông giữa các Giáo hội xuyên biên giới quốc gia.

l) Tại các quốc gia theo Nghi lễ Latinh, trong đó cũng có phẩm trật của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, chúng tôi đề nghị đưa các Giám mục Đông phương vào các Hội đồng Giám mục quốc gia, giữ nguyên quyền tự trị về mặt cai quản vốn do Bộ luật riêng của họ thiết lập.

m) Cần xây dựng một cấu hình giáo luật cho các Hội đồng Châu lục, trong khi vẫn tôn trọng tính đặc thù của mỗi châu lục, lưu ý đến sự tham gia của các Hội đồng Giám mục và của các Giáo hội, với các đại biểu của riêng họ, những người làm cho tính đa dạng của dân Chúa trở thành hiện diện.

20. Thượng Hội đồng Giám mục và các Phiên Họp Giáo hội

Các điểm hội tụ

a) Ngay cả khi cảm nghiệm “cùng nhau bước đi” gây mệt mỏi, Phiên Họp vẫn cảm nhận được niềm vui Tin Mừng được là Dân Thiên Chúa. Nhìn chung, những kinh nghiệm mới liên quan đến giai đoạn này của hành trình thượng hội đồng đã được hoan nghênh. Những kinh nghiệm rõ ràng nhất bao gồm việc chuyển việc cử hành Thượng Hội đồng từ một sự kiện sang một diễn trình (như được chỉ ra bởi tông hiến Episcopalis communio); sự hiện diện của các thành viên khác, cả nam lẫn nữ, bên cạnh các giám mục; sự hiện diện tích cực của các đại biểu huynh đệ; tĩnh tâm chuẩn bị cho Phiên Hop; việc cử hành Bí tích Thánh Thể tại Nhà thờ Thánh Phêrô; bầu không khí cầu nguyện và phương pháp Đàm luận trong Chúa Thánh Thần; và chính sự sắp xếp Phiên Họp tại Hội trường Phaolô VI.

b) Phiên họp của Thượng Hội đồng Giám mục, trong khi vẫn duy trì đặc tính Giám mục nổi bật của nó, nhân dịp này, đã làm cho hữu hình mối liên kết nội tại giữa chiều kích đồng nghị của đời sống Giáo hội (sự tham gia của tất cả mọi người), chiều kích hợp đoàn (sự chăm sóc của các giám mục cho toàn thể Giáo hội), và chiều kích tối thượng (sự phục vụ của Giám mục Rôma, người bảo đảm sự hiệp thông).

c) Tiến trình thượng hội đồng đã và đang là thời gian ân sủng khích lệ chúng ta. Thiên Chúa đang ban cho chúng ta cơ hội trải nghiệm một nền văn hóa đồng nghị mới, có khả năng hướng dẫn đời sống và sứ mệnh của Giáo hội. Tuy nhiên, chúng tôi nhắc lại rằng việc tạo ra các cơ cấu đồng trách nhiệm là chưa đủ nếu thiếu sự hoán cải bản thân sang tính đồng nghị truyền giáo. Các tiến trình đồng nghị không làm giảm bớt trách nhiệm bản thân của những người được kêu gọi tham gia vào nó ở mọi bình diện của Giáo hội do thừa tác vụ và các đặc sủng của họ, mà đúng hơn là hãy khuyến dụ nó nhiều hơn.

Các vấn đề để xem xét

d) Sự hiện diện của các thành viên không phải là giám mục trong tư cách nhân chứng cho cuộc hành trình của thượng hội đồng đã được đánh giá cao. Tuy nhiên, câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ về ảnh hưởng của sự hiện diện của họ trong tư cách thành viên chính thức đối với đặc tính giám mục của Phiên Họp. Một số người nhìn thấy nguy cơ sợ rằng nhiệm vụ chuyên biệt của các giám mục sẽ không được hiểu một cách thỏa đáng. Các tiêu chuẩn mà các thành viên không phải giám mục được kêu gọi tham gia Phiên Họp cũng sẽ cần phải được làm rõ.

e) Các kinh nghiệm như Phiên Họp Giáo hội Châu Mỹ Latinh và vùng Caribê Đầu tiên vào tháng 11 năm 2021, các Cơ Chế dân Chúa ở Ba Tây và Công đồng Toàn thể Úc Châu đã được báo cáo. Vẫn còn phải nhận diện và đào sâu việc làm hế nào hội nhập tính đồng nghị và tính hợp đoàn trong tương lai, phân biệt (không có sự tách biệt quá mức) sự đóng góp của tất cả các thành viên dân Chúa vào việc xây dựng các quyết định và nhiệm vụ chuyên biệt của các giám mục. Việc khớp nối tính đồng nghị, tính hợp đoàn và tính ưu việt không nên được giải thích theo hình thức tĩnh tại hoặc tuyến tính mà theo tính tuần hoàn năng động, theo tính đồng trách nhiệm dị biệt hóa.

f) Trong khi ở bình diện khu vực, có thể nghĩ đến các bước kế tiếp nhau (một Phiên Họp Giáo hội, sau đó là Phiên Họp Giám mục), được coi là thích hợp để làm rõ việc điều này được đề nghị ra sao liên quan đến toàn thể Giáo Hội Công Giáo. Một số người tin rằng công thức được thông qua tại Phiên Họp này đáp ứng được nhu cầu này; những người khác đề nghị rằng một Phiên Họp Giám mục sẽ tiếp nối một Phiên Họp Giáo hội để kết thúc việc phân định. Tuy nhiên, những người khác lại thích dành vai trò thành viên của Thượng hội đồng cho các Giám mục.

g) Sự đóng góp cho công việc của Phiên Họp và các diễn trình của Giáo hội đồng nghị, được thực hiện bởi các chuyên gia thuộc các ngành khác nhau, đặc biệt là các nhà thần học và giáo luật, cũng có điều gì đó để cống hiến.

h) Cũng cần phải suy nghĩ về sự tương tác giữa diễn trình đồng nghị, Internet và các phương tiện truyền thông.

Các đề nghị

i) Các tiến trình đồng nghị ở mọi bình diện của Giáo hội cần được đánh giá.

j) Cần phải đánh giá những thành quả của Kỳ họp đầu tiên của Phiên Họp Toàn Thể thường lệ lần thứ XVI của Thượng hội đồng Giám mục.

DIỄN TIẾN DỌC HÀNH TRÌNH

“Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được?” (Mc 4:30)

Lời Chúa chiếm ưu tiên hơn lời của Giáo hội. Lời của các môn đệ, ngay cả của Thượng Hội đồng, chỉ là tiếng vang của những gì chính Chúa nói.

Chúa Giêsu đã chọn nói bằng dụ ngôn để loan báo Nước Thiên Chúa. Người tìm được những hình ảnh nói về mầu nhiệm Thiên Chúa trong những trải nghiệm đời thường của con người: thế giới tự nhiên, nơi làm việc, những yếu tố đời thường. Bằng cách này, Người cho chúng ta biết rằng Nước Thiên Chúa vượt trên chúng ta nhưng vẫn không xa cách chúng ta. Hoặc chúng ta nhìn thấy Triều đại của Thiên Chúa trong mọi sự của thế gian này, hoặc chúng ta sẽ không bao giờ nhìn thấy nó.

Chúa Giêsu nhìn thấy vận mệnh của chính mình được tượng trưng trong một hạt giống rơi xuống đất, một thứ không có giá trị hay ý nghĩa nào sẽ bị mục nát, nhưng lại sở hữu năng động tính của sự sống, một năng động tính không thể ngăn cản, không thể đoán trước được, đó là Lễ Vượt Qua. Đây là một năng động tính nhằm mang lại sự sống; trở thành bánh cho nhiều người; bánh được định sẵn để trở thành Bí tích Thánh Thể.

Ngày nay, trong một nền văn hóa mà con người đấu tranh giành quyền thống trị với nhau và trở nên ám ảnh với những gì hữu hình, Giáo hội được mời gọi lặp lại những lời của Chúa Giêsu, làm cho những lời đó trở lại sự sống với tất cả tiềm năng của chúng.

“Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được?” Câu hỏi của Chúa chúng ta soi sáng công việc đang chờ đợi chúng ta ở phía trước. Vấn đề không phải là phân tán bản thân ra nhiều mặt trận, giản lược mọi sự thành luận lý hiệu năng và chủ nghĩa thủ tục. Đúng hơn, đây là vấn đề nắm bắt, trong số rất nhiều từ ngữ và đề nghị của Tường Trình này, những gì trông như một hạt giống nhỏ, nhưng lại mang trong mình tương lai, và tưởng tượng làm thế nào để đưa nó đến mảnh đất giúp nó lớn lên và trưởng thành vì lợi ích của nhiều người. “Việc này xảy ra thế nào được?”, Đức Maria tự hỏi ở Nadarét (Lc 1:34) sau khi nghe Lời Chúa. Chỉ có một câu trả lời: hãy ở lại dưới bóng Chúa Thánh Thần và để cho quyền năng của Người bao bọc mình.

Khi chúng ta hướng tới giai đoạn từ nay đến Kỳ họp thứ hai, chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì cuộc hành trình cho đến nay và vì những ân sủng mà Người đã chúc phúc cho cuộc hành trình này. Chúng ta phó thác giai đoạn tiếp theo cho sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, một dấu chỉ của niềm hy vọng và niềm an ủi chắc chắn cho Dân trung thành của Thiên Chúa khi họ tiếp tục cuộc hành trình của mình, cũng như cho cuộc hành trình của hai Thánh Tông đồ Simon và Giuđa, mà chúng ta mừng lễ hôm nay. Tất cả chúng ta đều được mời chào đón hạt giống nhỏ mà Tường trình Tổng hợp này đại diện.

Adsumus Sancte Spiritus! (Lạy Chúa Thánh Thần, chúng con có mặt!)

Rôma, ngày 28 tháng 10 năm 2023, Lễ Các Thánh Simon và Giuđa, tông đồ

MỤC LỤC

Một Giáo hội đồng nghị trong sứ mạng

GIỚI THIỆU

PHẦN I - GƯƠNG MẶT CỦA GIÁO HỘI ĐỒNG NGHỊ

1. Tính đồng nghị: Kinh nghiệm và sự hiểu biết

2. Được Chúa Ba Ngôi tập hợp và sai đi

3. Gia nhập Cộng đồng Đức tin: Khai tâm Kitô giáo

4. Những người nghèo khổ, những nhân vật chính trong hành trình của Giáo hội

5. Một Giáo Hội “từ mọi chi tộc, ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia”

6. Các Giáo Hội Đông Phương và Truyền Thống Giáo Hội Latinh

7. Trên Con Đường Hướng Tới Sự Hiệp Nhất Kitô Giáo

PHẦN II- TẤT CẢ CÁC MÔN ĐỒ, TẤT CẢ CÁC NHÀ TRUYỀN GIÁO

8. Giáo Hội là Sứ Mệnh

9. Phụ nữ trong Đời sống và Sứ mệnh của Giáo hội

10. Đời sống thánh hiến, các hiệp hội và phong trào giáo dân: một dấu chỉ đặc sủng

11. Các phó tế và linh mục trong Giáo hội đồng nghị

12. Giám Mục hiệp thông với Giáo Hội

13. Giám mục Rôma trong Giám mục đoàn

PHẦN III – DỆT CÁC MỐI LIÊN KẾT, XÂY DỰNG CỘNG ĐỒNG

14. Cách tiếp cận đồng nghị đối với việc đào tạo

15. Sự phân định của Giáo Hội và những câu hỏi bỏ ngỏ

16. Hướng tới một Giáo hội lắng nghe và đồng hành

17. Sứ mệnh trong môi trường kỹ thuật số

18. Cơ cấu tham gia

19. Gom nhóm các Giáo hội trong sự hiệp thông của toàn thể Giáo hội

20. Thượng Hội đồng Giám mục và các Hội đồng Giáo hội.

DIỄN TIẾN DỌC THEO HÀNH TRÌNH