Linh mục Raymond J. de Souza, là chủ bút tập san Công Giáo Convivium của Canada, có bài nhận định nhan đề “Ukraine and Poland’s Message of Reconciliation: ‘We Forgive and Ask Forgiveness’”, nghĩa là “Thông điệp Hòa giải của Ukraine và Ba Lan: 'Chúng tôi tha thứ và cầu xin sự thứ tha”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Túy Vân

Trong khi sự chú ý của quốc tế về cuộc xâm lược Ukraine của Nga được tập trung vào hội nghị thượng đỉnh NATO ở Vilnius vào tuần trước, một sự hòa giải quan trọng, cả về tôn giáo và chính trị, đã diễn ra ở Warsaw, Ba Lan và Lutsk, Ukraine; nhân dịp kỷ niệm 80 năm vụ thảm sát Volhynia năm 1943. Tổng thống Volodymyr Zelenskiy và Tổng thống Ba Lan Andrzej Duda đã gặp nhau tại thành phố Lutsk phía tây Ukraine. Tập trung tại một nhà thờ Công Giáo, các vị Giám Mục Công Giáo và Chính thống giáo đã dẫn đầu những lời cầu nguyện cho sự hòa giải và sau đó cả hai tổng thống thắp nến để tưởng nhớ các nạn nhân của vụ thảm sát. Việc buổi lễ được tổ chức trong nhà thờ đã là một cử chỉ ân cần từ Zelenskiy, một người Do Thái.

Các tổng thống đã cùng nói : “Chúng ta cùng nhau bày tỏ lòng kính trọng đối với tất cả những nạn nhân vô tội của Volhynia! Ký ức hợp nhất chúng ta! Cùng nhau chúng ta mạnh hơn.” Trên trang web riêng của mình, Zelenskiyy nói thêm: “Chúng tôi coi trọng mọi mạng sống, ghi nhớ lịch sử và cùng nhau bảo vệ tự do.”

Vụ thảm sát Volhynia là công việc của những người theo chủ nghĩa dân tộc Ukraine, những người đã nhìn thấy trong quyết định của Hitler quay sang chống lại Stalin vào năm 1941, một tiềm năng giành độc lập của Ukraine khỏi Mạc Tư Khoa. Họ hoạt động ở Ba Lan bị Đức Quốc xã tạm chiếm sau năm 1941, hợp tác với lực lượng Đức Quốc xã. Năm 1943, họ tiến hành một cuộc tấn công chết người vào các ngôi làng Ba Lan. Ba Lan cho biết số người chết lên tới 100.000 người và sự tàn bạo vẫn là một điểm gây xích mích giữa Ba Lan và Ukraine. Đã có những cuộc trả đũa của người Ba Lan đối với người Ukraine, với khoảng 2.000 người bị giết.

Ba Lan là đồng minh vững chắc nhất của Ukraine kể từ cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào năm ngoái, cung cấp viện trợ quân sự và nhân đạo, cũng như tiếp nhận hàng triệu người tị nạn vào nhà riêng của họ, tất cả đều không cần đến các trại tị nạn. Điều đáng chú ý hơn là điều này diễn ra bất chấp một thế kỷ trước, sau Thế chiến thứ nhất và việc Ba Lan giành lại độc lập, người Ukraine và người Ba Lan đã có chiến tranh, một chương đau thương khác trong lịch sử Slav.

Sự hòa giải ở Lutsk một phần là hệ quả của cuộc xâm lược của Nga. Với sự hiện diện nguy hiểm của Nga ở Ukraine, và Ba Lan chỉ mới giải phóng khỏi sự thống trị của Mạc Tư Khoa vào năm 1989, cả người Ba Lan và người Ukraine một lần nữa nhận thấy sự cần thiết phải tăng cường hòa giải khi đối mặt với mối đe dọa chung.

Hòa giải không chỉ là một hành động chính trị. Nó dựa trên mệnh lệnh của Kitô giáo là phải có lòng thương xót và tìm kiếm lòng thương xót.

Trước cuộc gặp ở Lutsk, Thượng phụ Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Ukraine, Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk của Kyiv, đã đến Warsaw để gặp Đức Tổng Giám Mục Stanisław Gądecki, chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan. Hai tổng giám mục, đại diện cho các giám mục tương ứng của họ, đã ký một văn bản hòa giải chung.

Trong những ngày tiếp theo, các Đức Tổng Giám Mục Shevchuk và Gądecki cùng nhau đến Ukraine để dự Thánh lễ tưởng niệm. Chủ tế chính của Thánh lễ hòa giải ở Lutsk là Đức Tổng Giám Mục Visvaldas Kulbokas, Sứ thần Tòa Thánh tại Ukraine.

Đức Thượng Phụ Chính Thống Giáo Epiphanius của Kyiv, nhà lãnh đạo Giáo Hội Chính thống Ukraine, cũng tham gia vào những lời cầu nguyện tưởng niệm ở Lutsk. Ukraine là một quốc gia đa số theo Chính thống giáo.

“Hôm nay, tại đây, xung quanh ngai vàng của Chúa ở Lutsk, với tư cách là những tín hữu, chúng ta nghe thấy trời và đất, người sống và người chết đồng thanh nói với nhau như thế nào: chúng tôi tha thứ và cầu xin sự thứ tha!” Đức Tổng Giám Mục Shevchuk nói.

Các từ đã được lựa chọn cẩn thận cho âm hưởng lịch sử của họ. Năm 1965, các giám mục Ba Lan, trong phiên họp cuối cùng của Công đồng Vatican II, đã gửi thư cho các giám mục những quốc gia khác nhau, mời họ đến Ba Lan vào năm 1966 để kỷ niệm một thiên niên kỷ ngày Ba Lan được rửa tội vào năm 966. Thiên niên kỷ này là tâm điểm của phong trào tôn giáo và văn hóa chống lại chủ nghĩa cộng sản do vị giáo chủ bất khuất của Ba Lan, Chân phước Stefan Wyszynski, lãnh đạo.

Đức Hồng Y Wyszynski và các giám mục Ba Lan khác, kể cả Đức Tổng Giám Mục Karol Wojtyła của Kraków, đã ký một lá thư mạnh mẽ, được soạn thảo bằng tiếng Đức, bởi Đức Tổng Giám Mục Bolesław Kominek của Wrocław. Bức thư đề cập đến sự khủng khiếp của Chiến tranh thế giới thứ hai và sự tàn phá trong cuộc xâm lược của Đức Quốc xã đối với Ba Lan. Bức thư bao gồm những từ nổi tiếng này: “Chúng tôi tha thứ và cầu xin sự thứ tha.”

Nổi tiếng, bởi vì bức thư đó giờ đây là một biểu tượng mạnh mẽ cho thấy có thể hòa giải, ngay cả sau những hành động tàn bạo nhất. Thông điệp về lòng thương xót của Chúa, được trồng ở Ba Lan giữa Thế chiến I và Thế chiến II, đã trở thành một món quà từ Ba Lan để chữa lành Âu Châu.

Tai tiếng, bởi vì vào thời điểm đó, các giám mục Ba Lan không được người dân của họ ủng hộ về mặt này. Phần lớn người Ba Lan không sẵn sàng tha thứ cho người Đức, càng không muốn xin sự thứ tha. Ba Lan mất 20% dân số trong chiến tranh. Sau chiến tranh, ở Ba Lan, người ta thường viết chữ “Đức” bằng tất cả các chữ cái viết thường, để phản ánh rằng đối phương truyền kiếp của họ không còn đáng được tôn trọng nữa.

Các giám mục Ba Lan đã bị chính người dân của họ chỉ trích gay gắt, và chế độ cộng sản đã sử dụng lá thư chống lại Giáo hội để tuyên truyền trong nhiều năm sau đó. Hòa giải đòi hỏi lòng can đảm, và các giám mục Ba Lan, do Đức Hồng Y Wyszynski lãnh đạo, đã có lòng can đảm đó vào năm 1966.

Xung đột và giết chóc đã quay trở lại vùng đất của người Slav. Sự hòa giải này ở một vùng đất bị chiến tranh tàn phá là giữa người Ba Lan và người Ukraine, không phải giữa người Ukraine và người Nga. Nhưng hạt giống của sự hòa giải có thể đơm hoa kết trái theo những cách không ngờ tới. Trong tương lai thông điệp “chúng tôi tha thứ và xin thứ tha” có thể vang lên một lần nữa.


Source:National Catholic Register