Lúc 16 giờ 40 theo giờ địa phương ngày thứ Sáu 5 tháng Ba, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến Nhà thờ Công Giáo nghi lễ Syriac “Đức Mẹ Giải Thoát”, là trụ sở của Tòa Giám Mục Công Giáo nghi lễ Syriac ở Baghdad, để gặp gỡ các vị Thượng Phụ, Giám mục, linh mục, nam nữ tu sĩ, chủng sinh và giáo lý viên.

Khi đến nơi, tại lối vào của nhà thờ ngài được chào đón bởi Đức Thượng Phụ Ignace Youssif Younan Đệ Tam, là Thượng phụ thành Antiôkia của người Công Giáo nghi lễ Syriac, và Đức Tổng Giám Mục Ephrem Yousif Abba của Giáo Hội này.

Tại quảng trường trước nhà thờ, 12 người khuyết tật đang đợi Đức Thánh Cha cùng với những người bạn đồng hành của họ. Tại lối vào nhà thờ chính tòa, nơi có khoảng 100 người đang hiện diện, Đức Thượng phụ Younan và Đức Tổng Giám Mục Abba đã trao cho Đức Thánh Cha cây thánh giá và nước thánh để ngài rảy nước. Sau đó, hai người trẻ tặng Đức Thánh Cha những bông hoa mà ngài đặt trước nhà tạm, nơi ngài dừng lại trong im lặng để cầu nguyện.

Cuối cùng, sau khi tiến tới bàn thờ, Đức Thượng phụ Công Giáo Syriac và Chủ tịch Hội đồng Giám mục Công Giáo Iraq, là Đức Hồng Y Louis Raphaël Sako, Thượng phụ thành Babylon của Công Giáo Chanđê đã giới thiệu và chào mừng Đức Thánh Cha. Trong phần đáp từ, Đức Thánh Cha đã phát biểu như sau:

Thưa các Đức Thượng Phụ, Chư huynh Giám Mục,
Quý Linh Mục và các Nữ Tu,


Anh chị em thân mến,

Tôi ôm lấy tất cả anh chị em với tình cảm của một người cha. Tôi biết ơn Chúa, Đấng trong sự quan phòng của Ngài đã tạo điều kiện cho chúng ta gặp nhau ngày hôm nay. Tôi cảm ơn Đức Thượng Phụ Ignace Youssif Younan và Đức Hồng Y Louis Sako vì những lời chào mừng của các ngài. Chúng ta đang tụ họp trong Nhà thờ Đức Mẹ Giải Thoát này, được thánh hóa bởi máu của các anh chị em chúng ta, những người ở nơi này đã phải trả cái giá tột đỉnh cho lòng trung thành với Chúa và Giáo hội của Người. Ước gì kỷ niệm về sự hy sinh của họ truyền cảm hứng cho chúng ta, để chúng ta có thể đổi mới niềm tin của chính chúng ta vào sức mạnh của thánh giá và thông điệp cứu rỗi của thánh giá là tha thứ, hòa giải và tái sinh. Các Kitô hữu được mời gọi làm chứng cho tình yêu của Chúa Kitô trong mọi lúc và mọi nơi. Đây là Tin Mừng cũng phải được loan báo và thể hiện trên đất nước thân yêu này.

Với tư cách là giám mục và linh mục, nam nữ tu sĩ, giáo lý viên và giáo dân, tất cả anh chị em đều chia sẻ niềm vui và nỗi khổ, niềm hy vọng và lo lắng của các tín hữu Chúa Kitô. Nhu cầu của con dân Chúa, và những thách thức mục vụ khó khăn mà anh chị em phải đối mặt hàng ngày, đã trở nên trầm trọng hơn trong thời đại đại dịch này. Tuy nhiên, điều không bao giờ có thể bị hạn chế hoặc giảm sút là lòng nhiệt thành tông đồ của chúng ta, mà trong trường hợp của anh chị em, được kín múc từ những căn cội cổ kính, từ sự hiện diện không gián đoạn của Giáo hội ở những vùng đất này kể từ thời sơ khai (x. Benedict XVI, Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Giám Mục về Trung Đông, 5). Chúng ta biết rằng vi-rút của sự chán nản có thể lây lan xung quanh chúng ta dễ dàng như thế nào. Tuy nhiên, Chúa đã ban cho chúng ta một loại vắc-xin hữu hiệu chống lại loại vi-rút khó chịu này. Đó là niềm hy vọng được sinh ra từ sự cầu nguyện bền bỉ và lòng trung thành hàng ngày đối với việc tông đồ của chúng ta. Với vắc-xin này, chúng ta có thể ra đi với sức mạnh mới mẻ, để chia sẻ niềm vui của Tin Mừng với tư cách là các môn đệ truyền giáo và những dấu chỉ sống động về sự hiện diện của vương quốc thánh khiết, công chính và hòa bình của Thiên Chúa.

Thế giới xung quanh chúng ta cần được nghe thông điệp đó biết bao! Chúng ta đừng bao giờ quên rằng Chúa Kitô được rao truyền trên hết bằng chứng tá của những cuộc đời được biến đổi bởi niềm vui của Tin Mừng. Như chúng ta thấy từ lịch sử đầu tiên của Giáo hội ở những vùng đất này, đức tin sống động nơi Chúa Giêsu là “lây lan”; đức tin ấy có thể thay đổi thế giới. Gương của các thánh cho chúng ta thấy rằng tư cách môn đệ của Kitô hữu “không chỉ là điều đúng đắn và chân chính, mà còn là điều gì đó đẹp đẽ, có khả năng lấp đầy cuộc sống bằng sự huy hoàng mới mẻ và niềm vui sâu sắc, ngay cả trong những thời điểm khó khăn rất lớn” (Evangelii Gaudium – Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, 167).

Khó khăn là một phần trong kinh nghiệm hàng ngày của các tín hữu Iraq. Trong những thập kỷ gần đây, anh chị em và đồng bào của anh chị em đã phải đối phó với những tác động của chiến tranh và bách hại, sự mong manh của cơ sở hạ tầng cơ bản và cuộc đấu tranh liên tục vì kinh tế và an ninh cá nhân, thường dẫn đến việc di dời nội bộ và di cư của nhiều người, bao gồm Kitô hữu, đến các nơi khác trên thế giới. Tôi cảm ơn anh chị em, các giám mục và linh mục anh em của tôi, đã luôn gần gũi và thân thiết với mọi người dân của anh chị em, hỗ trợ họ, cố gắng đáp ứng nhu cầu của họ và giúp họ đóng vai trò của mình trong việc hoạt động vì thiện ích chung. Các hoạt động tông đồ giáo dục và bác ái của các Giáo hội địa phương của anh chị em đại diện cho một nguồn tài nguyên phong phú cho đời sống của cả cộng đồng giáo hội và xã hội rộng lớn hơn. Tôi khuyến khích anh chị em hãy kiên trì trong những nỗ lực này, để bảo đảm rằng cộng đồng Công Giáo Iraq, dù nhỏ bé như hạt cải (x. Mt 13,31-32), sẽ tiếp tục làm phong phú toàn thể đời sống xã hội.

Tình yêu của Chúa Kitô kêu gọi chúng ta gạt bỏ mọi kiểu tự cao tự đại hoặc cạnh tranh; tình yêu của Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta vươn đến sự hiệp thông phổ quát và thách thức chúng ta hình thành một cộng đồng những anh chị em chấp nhận và chăm sóc lẫn nhau (xem Fratelli Tutti, 95-96). Đến đây tôi liên tưởng đến hình ảnh tấm thảm quen thuộc. Các Giáo hội khác nhau hiện diện ở Iraq, mỗi Giáo hội đều có lịch sử lâu đời, phụng vụ và di sản tinh thần, giống như rất nhiều sợi chỉ màu riêng lẻ, được đan lại với nhau, tạo nên một tấm thảm đẹp duy nhất, một tấm thảm không chỉ thể hiện tình huynh đệ của chúng ta mà còn hướng đến nguồn gốc của tình huynh đệ ấy. Vì chính Chúa là người nghệ sĩ đã tưởng tượng ra tấm thảm này, kiên nhẫn dệt nó và cẩn thận sửa lại; Ngài mong muốn chúng ta luôn gắn bó mật thiết như những người con trai và con gái của Ngài. Do đó, chúng ta có thể ghi nhớ lời khuyên của Thánh Inhaxiô thành Antiôkia: “Đừng để điều gì tồn tại giữa anh chị em có thể chia rẽ anh chị em… nhưng hãy có một lời cầu nguyện, một tâm trí, một hy vọng, trong tình yêu và niềm vui” (Ad Magnesios, 6- 7: PL 5, 667). Chứng tá của sự hiệp nhất huynh đệ này quan trọng biết bao trong một thế giới quá thường xuyên bị chia cắt và xé nát bởi những chia rẽ! Mọi nỗ lực được thực hiện để xây dựng những nhịp cầu giữa các cộng đồng và cơ sở giáo hội, giáo xứ và giáo phận sẽ đóng vai trò như một cử chỉ ngôn sứ đối với Giáo hội Iraq và là một lời đáp trả hữu hiệu cho lời cầu nguyện của Chúa Giêsu để tất cả nên một (x. Ga 17:21; Tông Huấn Giáo Hội Trung Đông, 37).

Các mục tử và tín hữu, linh mục, tu sĩ và giáo lý viên chia sẻ, mặc dù theo những cách khác nhau, trách nhiệm thúc đẩy sứ mệnh của Giáo hội. Đôi khi, những hiểu lầm có thể nảy sinh và chúng ta có thể trải qua những căng thẳng nhất định; đó là những nút thắt cản trở việc dệt nên tình huynh đệ. Chúng là những nút thắt mà chúng ta mang trong mình; suy cho cùng, tất cả chúng ta đều là những người tội lỗi. Tuy nhiên, những nút thắt này có thể được tháo gỡ bởi ân sủng, bởi một tình yêu lớn hơn; chúng có thể được nới lỏng nhờ liều thuốc tha thứ và bằng đối thoại huynh đệ, bằng cách kiên nhẫn mang gánh nặng cho nhau (x. Gl 6: 2) và củng cố nhau trong những lúc thử thách và gian truân.

Ở đây, tôi muốn nói một lời đặc biệt với các giám mục anh em của tôi. Tôi thích nghĩ về chức vụ giám mục của chúng ta theo khía cạnh gần gũi: nhu cầu của chúng ta là ở gần Chúa trong lời cầu nguyện, gần gũi với các tín hữu được giao phó cho chúng ta chăm sóc, và gần gũi với các linh mục của chúng ta. Hãy đặc biệt gần gũi với các linh mục của các chư huynh. Hãy để họ không xem các chư huynh chỉ là quản trị viên hay người quản lý, mà là những người cha thực sự, quan tâm đến phúc lợi của họ, sẵn sàng cung cấp cho họ sự hỗ trợ và khuyến khích với trái tim rộng mở. Hãy đồng hành với họ bằng lời cầu nguyện của các chư huynh, thời gian của các chư huynh, sự đánh giá cao của các chư huynh đối với công việc của họ và nỗ lực của các chư huynh hướng dẫn sự phát triển của họ. Bằng cách này, các chư huynh sẽ dành cho các linh mục của mình một dấu chỉ và khuôn mẫu hữu hình của Chúa Giêsu, Mục tử nhân lành, Đấng biết các chiên của mình và hiến mạng sống cho chúng (x. Ga 10,14-15).

Các linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo lý viên, chủng sinh chuẩn bị cho chức vụ trong tương lai thân mến,

Tất cả anh chị em đã nghe tiếng Chúa trong lòng và như cậu bé Sa-mu-ên, anh chị em đã trả lời: “Thưa con đây” (1 Sa 3: 4). Ước gì lời đáp trả ấy, mà tôi mời gọi anh chị em đổi mới hàng ngày, dẫn dắt mỗi người trong anh chị em can đảm và nhiệt thành chia sẻ Tin Mừng, luôn sống và bước đi trong ánh sáng của Lời Chúa mà chúng ta nhận được ân sủng và trách nhiệm rao truyền. Chúng ta biết rằng sứ vụ của chúng ta nhất thiết phải có bộ phận quản trị, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta nên dành toàn bộ thời gian cho các cuộc họp hoặc ngồi sau bàn làm việc. Điều quan trọng là phải đi ra giữa bầy chiên của chúng ta và ban tặng ân sủng là sự hiện diện và đồng hành của chúng ta cho các tín hữu trong các thành phố và làng mạc của chúng ta. Tôi đặc biệt nghĩ đến những người có nguy cơ bị bỏ lại phía sau: người trẻ, người già, người bệnh và người nghèo. Khi chúng ta phục vụ người lân cận bằng sự tận tụy như anh chị em đang làm, với tinh thần từ bi, khiêm nhường, nhân hậu và yêu thương, thì chúng ta đang thực sự phục vụ Chúa Giêsu, như chính Người đã nói với chúng ta (x. Mt 25,40). Và bằng cách phục vụ Chúa Giêsu nơi người khác, chúng ta khám phá ra niềm vui đích thực. Đừng bao giờ lùi bước khỏi dân thánh của Thiên Chúa mà từ đó anh chị em đã được sinh ra. Hãy nhớ đến những người mẹ và người bà của anh chị em, những người, như Thánh Phaolô đã nói, đã nuôi dạy anh chị em trong đức tin (xem 2 Ti 1: 5). Hãy là mục tử, đầy tớ của người dân, chứ đừng là các công chức. Luôn luôn là một thành phần của dân Chúa, chứ đừng khi nào tách rời, như thể anh chị em là một giai cấp đặc quyền. Đừng từ bỏ dòng dõi cao quý của chúng ta là dân thánh của Thiên Chúa.

Tôi xin nhắc lại một lần nữa về những anh chị em của chúng ta đã chết trong vụ tấn công khủng bố ở nhà thờ này cách đây khoảng mười năm và đang được tiến hành tuyên chân phước. Cái chết của họ là một lời nhắc nhở mạnh mẽ rằng việc kích động chiến tranh, thái độ thù hận, bạo lực hoặc đổ máu là không phù hợp với những giáo lý tôn giáo đích thực (x. Fratelli Tutti, 285). Tôi cũng muốn tưởng nhớ tất cả các nạn nhân của bạo lực và ngược đãi, bất kể họ thuộc nhóm tôn giáo nào. Ngày mai, tại Ur, tôi sẽ gặp các nhà lãnh đạo của các truyền thống tôn giáo hiện có trên đất nước này, để một lần nữa tuyên bố xác tín của chúng ta rằng tôn giáo phải phục vụ sự nghiệp hòa bình và hiệp nhất giữa tất cả con cái Chúa. Tối nay, tôi muốn cảm ơn anh chị em vì đã nỗ lực trở thành những người kiến tạo hòa bình, trong cộng đồng của anh chị em và với những tín hữu của các truyền thống tôn giáo khác, nỗ lực gieo hạt giống hòa giải và chung sống huynh đệ có thể dẫn đến sự tái sinh hy vọng cho tất cả mọi người.

Ở đây tôi đặc biệt nghĩ đến những người trẻ tuổi. Những người trẻ tuổi ở khắp mọi nơi là một dấu chỉ của hứa hẹn và hy vọng, nhưng đặc biệt là ở đất nước này. Ở đây anh chị em không chỉ có kho báu khảo cổ học vô giá, mà còn có kho báu vô giá cho tương lai, là những người trẻ! Tuổi trẻ là kho báu của anh chị em; họ cần anh chị em chăm sóc cho họ, nuôi dưỡng ước mơ của họ, đồng hành với sự trưởng thành của họ và nuôi dưỡng hy vọng của họ. Mặc dù họ còn trẻ, nhưng sự kiên nhẫn của họ đã được thử thách rất nhiều bởi những xung đột trong những năm này. Tuy nhiên, chúng ta đừng bao giờ quên phối hợp với những người cao niên, họ là kim cương trên đất nước này, là cây trái trù phú nhất. Chúng ta phải nuôi dưỡng sự phát triển của người trẻ trong sự tốt lành và nuôi dưỡng họ với hy vọng.

Anh chị em thân mến

Trước hết nhờ phép rửa tội và phép thêm sức, và sau đó qua việc thụ phong hoặc khấn dòng, anh chị em đã được thánh hiến cho Chúa và được sai đi làm môn đệ truyền giáo tại vùng đất gắn liền với lịch sử cứu độ này. Anh chị em là một phần của lịch sử đó, hãy trung thành làm chứng cho những lời hứa không bao giờ thất bại của Thiên Chúa khi anh chị em cố gắng xây dựng một tương lai mới. Ước gì chứng tá của anh chị em, trưởng thành qua nghịch cảnh và được củng cố bằng máu các thánh tử đạo, là ánh sáng chói lọi ở Iraq và xa hơn nữa để rao truyền sự cao cả của Chúa và làm cho tinh thần dân tộc này vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta (x. Lc 1: 46-47).

Một lần nữa tôi rất biết ơn vì chúng ta đã có thể ở bên nhau. Xin Đức Mẹ Giải Thoát và Thánh Tôma Tông đồ cầu bầu cho anh chị em và luôn bảo vệ anh chị em. Tôi thân ái chúc phúc cho anh chị em và cộng đồng của anh chị em. Và tôi xin anh chị em, hãy cầu nguyện cho tôi. Cảm ơn anh chị em!

Cuối cùng, sau phần trao quà, đọc kinh Lạy Cha và Phép lành cuối cùng, Đức Thánh Cha chào các Giám mục và chụp ảnh chung với các ngài. Sau khi ký Sách Lưu Niệm, Đức Thánh Cha rời nhà thờ và đi xe đến Tòa Sứ thần Tòa Thánh ở Baghdad, nơi ngài được các nhân viên chào đón.


Source:Holy See Press Office