Bằng chứng của nhiều nhân chứng khác nhau của công tố đã dẫn đến việc ủng hộ bên bênh vực

456 Như đã chỉ ra, gần như toàn bộ bằng chứng được đưa ra để hỗ trợ cho lý lẽ bào chữa phát xuất từ các nhân chứng được công tố mời gọi như một vấn đề công bằng, và theo chỉ thị của bên bào chữa.

457 Tất cả những nhân chứng này đều quan trọng, nhưng có một số có bằng chứng quan yếu. Có thể nói một cách hợp tình hợp lý rằng bằng chứng của họ, nếu được chấp nhận, chắc chắn sẽ dẫn đến việc tha bổng. Cùng một kết quả tương tự sẽ xảy ra, dù phát hiện duy nhất có thể thực hiện được là bằng chứng của họ, liên quan đến các biến cố đang được đề cập, là một trình thuật ‘khả hữu một cách hợp lý’ về những gì đã xảy ra.



Portelli

458 Portelli là Chưởng Nghi (master of ceremonies) cho đương đơn từ tháng 9 năm 1996 đến hết năm 2000. Ngoài ra, ông còn là linh mục thường trú tại Nhà thờ Chính tòa giữa các năm 1993 và 2000. Ông đã giúp đỡ đương đơn khoảng 30 Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật, và tới 25 biến cố khác suốt trong năm.

459 Đương đơn đã được đăng quang làm Tổng Giám mục Melbourne vào ngày 16 tháng 8 năm 1996. Dịp này được đánh dấu bằng một buổi lễ tại Exhibition Building, ở Carlton. Đó là vì Nhà thờ Chính tòa đã bị đóng cửa từ Lễ Phục sinh năm 1996, trong khi việc tân trang đang diễn ra. Nó đã không được mở lại cho đến tuần cuối cùng của tháng 11 năm đó. Thánh lễ trọng thể Chúa Nhật đã được cử hành tại Hội trường Knox năm 1996, nhưng không do đương đơn.

460 Portelli đặc biệt nhớ đương đơn đã cử hành Thánh lễ, vào Chúa Nhật ngày 3 tháng 11 năm 1996, cho huynh đoàn ngành đua tại Nhà thờ Chính tòa St Francis, tọa lạc ở Đường Lonsdale, Melbourne. Thánh lễ đó bắt đầu lúc 9 giờ sáng, và tiếp tục cho đến ít nhất 10 giờ sáng. Tiếp theo sau đó, có tiệc trà buổi sáng. Portelli nói rằng đương đơn không cử hành hai Thánh lễ lớn trong một ngày và ngài không có thì giờ để làm điều đó.

461 Trong cuộc đối chất của ông Gibson, Portelli nói rằng vào ngày diễn ra Thánh lễ ngành đua, đương đơn tham dự một Thánh lễ khác vào một thì giờ sau đó cùng một buổi chiều. Ông đồng ý rằng đương đơn có thể đã trở lại Nhà thờ Chính tòa sau Thánh lễ sáng, trước khi đi đến Thánh lễ buổi chiều hôm đó.

462 Khi ông Gibson đề nghị với Portelli rằng có một Thánh lễ lúc 11 giờ sáng tại Nhà thờ Chính tòa vào ngày 3 tháng 11 năm 1996, và, do đó, đương đơn có thể đã tham dự Thánh lễ đó vào thời điểm đó, Portelli không đồng ý. Ông nhấn mạnh rằng Thánh lễ 11 giờ sáng sẽ được cử hành bởi Cha sở (Dean) Nhà thờ Chính tòa, hoặc một trong những linh mục khác. Ông nói thêm rằng thánh lễ đó đã được cử hành ở Trung tâm Knox, vì Nhà thờ Chính tòa chưa có sẵn để sử dụng.

463 Do đó, ngày 3 tháng 11 năm 1996 không thể là ngày xảy ra biến cố đầu tiên mặc dù công tố viên không sẵn sàng thừa nhận điểm đó ở giai đoạn đó.

464 Trong cuộc đối chất, ông Richter nói cho Portelli một danh sách chi tiết về các Thánh lễ do đương đơn cử hành vào tháng 11 và tháng 12 năm 1996, và suốt cho đến tháng 2 năm 1997. Portelli đồng ý rằng đương đơn quả có tham dự và cử hành Thánh lễ được liệt kê, từng thánh lễ được liệt kê một. Những thánh lễ này bao gồm cả việc đương đơn chủ trì (presided over) Thánh lễ tại Maidstone lúc 3 giờ chiều ngày 23 tháng 2 năm 1997.

465 Portelli nói rằng ông đặc biệt nhớ Thánh lễ long trọng vào Chúa Nhật tại Nhà thờ Chính tòa vào ngày 23 tháng 2 năm 1997. Lần đầu tiên, đương đơn đã chủ trì, thay vì cử hành Thánh lễ. Ông nói rằng ông nhớ rõ Cha Brendan Egan đã cử hành Thánh lễ đặc biệt đó.

466 Bằng chứng của Portelli là Thánh lễ đầu tiên được cử hành trở lại ở Nhà thờ Chính tòa, sau khi việc tân trang đã hoàn tất, là vào ngày 23 tháng 11 năm 1996. Đó là Thánh lễ Vọng Lễ Chúa Kitô Vua, diễn ra vào tối ngày thứ bảy cuối cùng của tháng 11 hàng năm.

467 Trong cuộc đối chất của ông Richter, Portelli nói rằng đương đơn không cử hành lại Thánh lễ tại Nhà thờ Chính tòa từ ngày 23 tháng 11 năm 1996 đến ngày 15 tháng 12 năm 1996. Ông nói rằng đây là Thánh lễ trọng thể đầu tiên của đương đơn. Ông nhấn mạnh rằng chỉ có hai Thánh lễ được Đức Tổng Giám Mục cử hành tại Nhà thờ Chính tòa trong suốt cả năm 1996 là vào ngày 15 và 22 tháng 12 năm đó.

468 Liên quan đến phòng áo của các linh mục, Portelli nói rằng đã từng có một bồn rửa khoảng ‘300 milimet vuông’ với chiếc vòi duy nhất trong khu vực vây kín nơi đặt nhà hầm (vault). Một kệ được xây phía trên nó, nơi đặt một tủ lạnh thanh nhỏ với mặt trước bằng gỗ ép (woodgrain). Chính tại bồn rửa đó, rượu sẽ được đổ vào trước khi được đưa trở lại hầm. Ông nói rằng các cánh cửa xếp (concertina) được cho là có bề ngoài bằng gỗ ép, trông không giống với các cửa được ốp hiện tại, như được mô tả trong các bức ảnh khác nhau mà ông được cho xem.

469 Portelli nói rằng vào năm 1996, phòng áo của Đức Tổng Giám Mục đã không được sử dụng để mặc hoặc cởi áo lễ. Trong khi các công trình tân trang đang diễn tiến, phòng áo đó đã được sử dụng để khôi phục một số bức tranh lớn, cũng như các trạm đàng thánh giá và các đồ nội thất khác. Ông biết rằng phòng áo của Đức Tổng Giám Mục không có sẵn để sử dụng trước ngày 23 tháng 11 năm 1996, nhưng không thể nhớ liệu nó có sẵn cho mục đích đó vào tháng 12 năm đó hay không. Điều này là do công việc sơn bóng (shellacking) đang được thực hiện cho đồ nội thất trong phòng áo đó.

470 Portelli đã mô tả các vật phẩm được cất giữ trong nhà hầm tại phòng áo của Đức Tổng Giám Mục, và những vật phẩm này được lưu trữ trong khu vực được ốp gỗ vây kín của phòng áo các Linh mục. Ông nói rằng rượu lễ đã được 'mua với số lượng lớn, có thể mỗi năm hai lần'. Ông xác định Sevenhill Sweet Sacramental White là loại rượu duy nhất được sử dụng trong nửa cuối năm 1996. Ông nói rằng nó được đựng trong 'chai tối' (dark bottle), và rằng có một nhãn lớn ở 'mặt trước và mặt sau’. Ông nói rằng rượu sẽ được chứa trong hầm, trừ khi có nạn kiến tấn công, trong trường hợp đó, nó sẽ được đặt vào tủ lạnh. Khi được hỏi liệu rượu có bao giờ được đặt trên giá đỡ (ledge), cạnh tủ lạnh hay không, ông nói ‘nếu có đặt thế, thì cũng chỉ trong một thời gian ngắn’.

471 Portelli đã mô tả các lễ phục được mặc bởi đương đơn khi ông cử hành Thánh lễ long trọng vào Chúa Nhật trong phần sau của năm 1996. Chúng bao gồm một gậy giám mục, mũ sọ tím, mũ giám mục (mitre), áo anba (alb), dây lưng, dây stola, bộ micro, thánh giá đeo quanh cổ, một sợi dây màu xanh lá cây và vàng đeo xuống sau lưng, một áo lễ (chasuble) và, trong những dịp rất long trọng, một dây pallium và áo phó tế (dalmatic).

472 Portelli mô tả áo anba là một 'chiếc áo chảy thoải mái xuống tận đôi giày của đương đơn' và có một 'khe bên cạnh để cho phép thọc tay vào túi quần của người mặc’. Khi được hỏi liệu áo anba có thể được kéo hay di chuyển sang một bên, để lộ ra khu vực dương vật hay không, ông nói rằng điều này không thể thực hiện được khi có dây lưng buộc lên. Ông mô tả áo anba dùng một số lượng lớn vật liệu, với chu vi gần bốn mét. Khi ông Gibson hỏi ông Tổng giám mục làm gì khi đi vệ sinh, Portelli đã nhận định một cách mỉa mai ‘à, ông không được’.

473 Trong cuộc đối chất, Portelli đã biểu diễn cách buộc dây lưng. Ông nói rằng thắt chặt nó sẽ ngăn áo anba khỏi bị di chuyển sang một bên, và phía trước. Ông cũng nói rằng ông đã phụ giúp đương đơn buộc dây lưng.

474 Khi được hỏi Đức Tổng Giám Mục sẽ mặc gì khi chủ trì, thay vì cử hành Thánh lễ, ông nói rằng đương đơn sẽ mặc lễ phục hoàn toàn khác:

... Ngài sẽ mặc trang phục mà chúng tôi gọi là áo ca đoàn, đó là một chiếc áo chùng (cassock) màu tím. Trên áo chùng đó, có một trang phục màu trắng gọi là áo ren dài (rotchet), thả xuống đến đầu gối và có cánh tay mở, và trên nó là chiếc áo choàng ngắn (cape) màu tím.

475 Khi ông Gibson hỏi Portelli, lúc lấy bằng chứng của công tố viện, về quy mô của ca đoàn, ông nói rằng có khoảng 50 cậu bé từ lớp 3 đến lớp 12. Có lẽ cũng có cả một tá nam ca sĩ trưởng thành. Ông chưa bao giờ vào phòng diễn tập của ca đoàn khi ca đoàn đang diễn tập, và ông cũng chưa bao giờ thấy đương đơn làm như vậy.

476 Portelli thừa nhận rằng, vào năm 1996, ông đã hút khoảng 20 điếu thuốc mỗi ngày. Ông nói rằng đôi khi ông hút thuốc trong khi chờ đương đơn đến Nhà thờ Chính tòa. Tuy nhiên, ông không được phép hút thuốc trong Nhà thờ Chính tòa, nên ông thường chỉ làm như vậy trong sân hoặc bãi đậu xe. Khi đương đơn đến để chuẩn bị cho Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật, Portelli sẽ hộ tống đương đơn từ nhà xứ tới phòng áo. Ông nhớ đã hộ tống đương đơn đến phòng áo của các linh mục cho các mục đích mặc áo lễ vào năm 1996, trong khi phòng áo của Đức Tổng Giám Mục không sử dụng được.

477 Portelli nói rằng ông đã liên tục tháp tùng đương đơn từ lúc ngài đến Nhà thờ Chính tòa cho đến khi ngài cởi áo lễ trong phòng áo. Trách nhiệm của ông là hỗ trợ Đức Tổng Giám Mục trong việc mặc và cởi áo. Có những linh mục khác có mặt trong phòng áo trong lúc mặc áo vào Chúa Nhật. Thói quen của ông là hoàn tất việc mặc áo lễ đầu tiên, rồi sau đó, giúp đương đơn mặc áo lễ.

478 Portelli nói rằng sau đó, ‘...chúng tôi kết cục ở Nhà thờ Chính tòa. Thỉnh thoảng chúng tôi đi bằng con đường bên ngoài, những lần khác chúng tôi đi ở bên trong. Ông không nhớ, vào cuối năm 1996, họ đã rước kiệu ở bên trong hay ở bên ngoài. Ông nói rằng nếu có một đám rước ở bên ngoài sau Thánh lễ, thì Đức Tổng Giám Mục sẽ dừng lại ở đầu cầu thang dẫn vào Nhà thờ Chính tòa và chào đón giáo dân khi họ ra về.

479 Portelli nói rằng cuộc rước thường kéo dài khoảng 40 mét, từ đầu đến cuối. Các người giúp lễ đã được chỉ thị, khi rước kiệu, đi theo một con đường cách xa Nhà thờ Chính tòa hơn là một con đường ngay sát Nhà thờ Chính tòa khi họ quay trở lại phòng mặc áo của ca đoàn.

480 Portelli nhấn mạnh rằng đương đơn luôn chào đón giáo dân sau Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật. Ông nói rằng việc thực hành này sẽ mất khoảng 10 đến 20 phút. Tuy nhiên, khi bị ông Gibson hỏi ép, ông thừa nhận rằng ‘có khi’, đương đơn có thể không dừng lại lâu ở các bậc thang, mặc dù ông nói thêm rằng ông không nhớ bất cứ dịp nào trong đó đương đơn không làm như thế.

481 Trong cuộc đối chất của ông Richter, Portelli nói rằng đương đơn luôn ở phía sau của đám rước, vì là giáo phẩm cao cấp nhất hiện diện. Ông nói rằng chính ông luôn tháp tùng Đức Tổng Giám Mục trong đám rước.

482 Khi được hỏi về biến cố thứ hai, và khả thể đương đơn có thể hiện diện giữa đoàn ca viên trẻ ở hành lang phòng áo, Portelli trả lời rằng điều này chỉ có thể xảy ra 'nếu họ chờ ngài đi qua'. Ông không nhớ đương đơn đã từng đẩy bất cứ ai. Ông cũng không nhớ đương đơn tìm cách vượt qua các giáo sĩ và các người giúp lễ khác, hoặc xấn xổ chạy tới nhóm ca viên trẻ.

483 Khi được hỏi thêm về thói quen chào hỏi giáo dân của đương đơn trên các bậc thềm, và sau đó trở lại phòng áo, Portelli nói hai người họ sẽ ở với nhau trên đường trở lại. Ông nói rằng ông không lúc nào không giúp đỡ đương đơn trong việc cởi áo lễ.

484 Trong cuộc đối chất của ông Richter, ông xác nhận rằng, như một vấn đề lịch sử Giáo hội và Luật Giáo hội, không cho phép đương đơn bị bỏ lại một mình kể từ khi ngài bước vào một Nhà thờ.

485 Trả lời ông Gibson, Portelli thừa nhận rằng có thể có một dịp, hoặc những dịp, trong đó đương đơn sẽ vào phòng áo để cởi áo lễ mà không có Portelli đi cùng. Ông nói rằng điều này có thể xảy ra, ví dụ, nếu có một buổi lễ khác trong Nhà thờ Chính tòa vào chiều hôm đó, và Portelli phải quay lại Nhà thờ Chính tòa, ngay lập tức, để đảm bảo rằng các cuốn sách và bài giảng đã sẵn sàng. Nếu vậy, Portelli nói rằng ông sẽ bỏ đi chỉ trong ‘hai phút’.

486 Portelli nói rằng không có việc vắng mặt hai phút như vậy cả trong hai lần đầu tiên trong đó đương đơn đã cử hành Thánh lễ long trọng vào Chúa Nhật tháng 12 năm 1996. Ông biết chắc chắn điều đó vì không có biến cố nào được lên kế hoạch cho cả hai buổi chiều ấy

487 Khi thẩm tra lại, Portelli khẳng định rằng, như ông biết, đương đơn chưa bao giờ ở một mình trong phòng áo của các Linh mục. Nếu có thời gian nào Portelli không thể tháp tùng Đức Tổng Giám Mục, Potter sẽ đảm bảo để một ai đó luôn ở bên ngài.

488 Portelli đã có thể hồi tưởng hai dịp đặc biệt khi ông không đi cùng đương đơn vào phòng áo. Một dịp là vào tháng 6 năm 1997, khi Portelli ở nước ngoài. Một dịp khác là vào tháng 10 năm 2000, khi Portelli phải giải phẫu. Ông không nhớ bất cứ lúc nào khác trong đó ông không đi cùng đương đơn đến phòng áo để giúp ngài cởi lễ phục.

489 Cuối cùng, Portelli nói rằng ông ‘luôn luôn’ lái xe đưa đương đơn đến bất cứ nơi nào ngài phải đến. Ông có mặt trong mọi dịp đương đơn cử hành Thánh lễ trọng thể vào Chúa Nhật năm 1996, và cả năm 1997.

490 Trong cuộc thẩm tra lại của ông Gibson, Portelli nhắc lại rằng ông đã tháp tùng đương đơn trong tất cả các Thánh lễ của ngài sau tháng 9 năm 1996.

491 Trình thuật của Portelli, nếu được chấp nhận, sẽ chấm dứt hoàn toàn lý lẽ của công tố đối với cả hai biến cố. Cùng một kết quả sẽ diễn ra khi trình thuật đó được coi là một phiên bản ‘có thể có một cách hợp lý’, vì bất cứ kết luận nào như vậy sẽ làm cho trình thuật của người khiếu nại thành bất khả hữu theo nghĩa đen.

Kỳ tới: Chứng cớ của Potter, người coi phòng áo