Những vị thánh đã từng làm cướp thì không thiếu, nhưng cướp cả bố mình thì chỉ có ông thánh Phêrô Armengol là duy nhất, mà ông bố lại là một tay kiếm sĩ có hạng, vậy thì cuộc đo gươm giữa bố và con phải là một pha ‘action’ trên màn ảnh hào hứng lắm?

Tuy Holliwood chưa có làm phim về ông thánh này, nhưng một hội sinh viên Công Giáo Mỹ, hội TFP Student Action (Tradition, Family, Property), đã vinh danh ông vào đầu năm 2015 (số ngày 07-1-2015), coi ông là một mẫu gương cho những người trẻ ngày hôm nay.

Một người sinh ra cánh đây 700 năm mà vẫn có sự hấp dẫn lớn cho một thế hệ thanh niên hiện đại thì chắc phải có một cái gì lôi cuốn lắm? Đó là “sự xác tín” cuả ông, theo lời mô tả cuả hội sinh viên Công Giáo FTP.

Chúng tôi xin phỏng dịch bài cuả hội TFP Student Action, để cống hiến quí độc giả một chút hương vị ‘men say’ cuả tuổi trẻ hôm nay. Cách kể chuyện cuả họ tuy không có ‘giá trị lịch sử’ cho lắm, nhưng hy vọng sẽ không nhàm chán, như sau:



Thánh Phêrô Armengol: Người hùng đầy xác tín.

Phêrô Armengol sinh ra năm 1238 tại làng Guardia dels Prats, một ngôi làng nhỏ thuộc Tổng giáo phận Tarragon, Tây Ban Nha. Ông thuộc giòng giõi cuả Hầu Tước Rocafort, hậu duệ của Công Tước Urgel, trực hệ cuả những vị vương từng cai trị Barcelona và cuả những vị vua cuả xứ Aragon và Castile.

Mặc dù được cha mẹ chăm sóc và giậy dỗ cách tuyệt vời, Phêrô đã đắm mình trong một cuộc sống phóng đãng, truỵ lạc, và thất thường. "Abyssus abyssum invocat" (Kià vực thẳm kêu gào vực thẳm, Tv 42). Cứ như thế Phêrô gia nhập một băng đảng tội phạm, rồi bị ruồng bắt, ông trốn lên núi theo cướp. Chỉ ít lâu sau, tay cướp còn trẻ Armengol trở thành tên đầu xỏ của đảng cướp đó.

Xấu hổ vì hành vi của con trai mình, ông bố là Arnold Armengol de Moncada bỏ xứ đi đầu quân tại vương quốc Valencia, là một xứ mới được vua Jaime chiếm lại từ người hồi giáo Moors. Lúc đó nhà vua muốn thực hiện một chuyến công du đi qua Montpellier để hội đàm với vua Pháp về những vấn đề liên hệ giữa hai nước. Ông bố là Arnold nhận phận sự dẫn đoàn tuỳ tùng đi trước để dọn đường, mục tiêu là xua đuổi những bọn giết người cướp cuả lẻ tẻ trong dãy núi Pyrenees.

Tới phần nguy hiểm nhất của đoạn đường, đoàn tùy tùng cuả nhà quí tộc Tây Ban Nha cao quý, Arnold , bỗng thấy mình bị quân cướp buả vây tứ bề. Ông đã không nao núng xua quân tiến lên, đánh giết được khá nhiều và bắt được một mớ khác. Muốn tận diệt đám cướp này, ông tiếp tục vung kiếm thúc ngựa tiến lên trước, hô hào quân lính phải rượt theo để bắt cho kỳ được tên đầu đảng. Và thế là, nhà quí tộc Arnold là người đầu tiên đụng kiếm với tên tướng cưóp. Nhưng đột nhiên, một sự đau buồn đã đổ xuống cho cả hai đấu sĩ, nhà quí tộc và tên tướng cướp, khi họ nhận diện ra nhau. Tắm trong nước mắt, tên cướp Phêrô đã xụp xuống dưới chân người cha, giao thanh kiếm của mình, và với nó, một trái tim hối cải.

Hối cải

Xấu hổ đầy tràn, người thanh niên đã lánh mình vào một tu viện Mercedarian ở Barcelona. Với một quyết tâm sửa chữa lỗi lầm, chàng trai đó đã xin đi tu dòng Mercedarian (Thương Xót), là dòng do thánh Phêrô Nolasco thành lập để mua chuộc những người Công Giáo bị người hồi giáo bắt làm nô lệ. Vì sự quyết tâm, Phêrô đã được chấp nhận bởi chính Chân Phước gốc Pháp William de Bas, là người kế nghiệp vị sáng lập dòng.

Những đam mê không trật tự cuả thời trẻ nay bây giờ đã được chinh phục qua đời sống tu trì. Phêrô thực hành cách tu thân một cách quyết liệt, bằng việc đền tội, hành xác và liên tục cầu nguyện, cho nên ngay cả trước khi kết thúc những ngày tu tập, Phêrô đã có thể chuyển những đam mê cuả mình vào sự điều khiển cuả Ý Chí và Lẽ Phải.

Sau tám năm tu, ông được giao nhiệm vụ quan trọng là giao dịch trực tiếp để chuộc tù nhân bằng tiền. Ông thực hiện những giao dịch với người Saracens vẫn còn chiếm giữ một số tỉnh của Tây Ban Nha. Tuy nhiên, mong muốn lớn nhất của ông là được đi châu Phi để làm con tin đổi mạng cho các Kitô hữu.

Trên một chuyến đi Phi châu với một thầy tu khác là William Florentino, Phêrô Armengol đã đến Bugia và chuộc được 119 tù nhân. Tuy nhiên, trước khi ra về, ông nghe thấy có một nhà tù đang còn giam giữ 18 đứa bé, và vì chúng sợ hãi trước các cực hình cuả hồi giáo, đang có nguy cơ sẽ chối bỏ đạo Chuá. Armengol đã vui vẻ lấy thân mình làm con tin cho những đứa bé này, với một hứa hẹn là sẽ đổi lấy một khoản tiền lớn. Tuy nhiên, nếu khoản tiền không được thanh toán trong một thời gian nhất định, thì ông sẽ phải chịu những hình phạt khắc nghiệt. Sự quan phòng cuả Chuá đã muốn rằng vị thánh cuả chúng ta sẽ trở nên nhân chứng của sự Tín Thác đặc biệt vào sự cầu bầu cuả Đức Trinh Nữ, là người Mẹ mà vị thánh đã tôn kính một cách sâu xa.

Ngọn lửa Tín Thác

Trong khi bị giữ lại, thầy Armengol vẫn thực hiện được nhiều điều kỳ diệu giữa dân ngoại, là chuyển đổi nhiều người qua lời thuyết giảng. Nhưng khi thời gian quy định cho việc gửi tiền đã qua, thì đám dân ngoại đã ném thầy vào tù và bỏ đói ông, nhưng Thiên Chúa chúng ta, qua các thiên thần, đã nuôi sống ông một cách diệu kỳ.

Hành hạ vị thánh chán chê rồi, đám người Moors âm mưu tìm cớ để giết ông đi. Họ buộc tội ông phạm tội báng bổ Mohammed và là một điệp viên do các vua Kitô giáo, do đó một thẩm phán Saracen đã lên án Phêrô phải chết treo.

Khi tất cả hầu như khôn còn hy vọng, thầy Armengol đã cầu nguyện với Đức Mẹ và dâng mình cho Mẹ.

Bản án bất công được thi hành và cái xác của Phêrô bị bỏ mặc, vẫn để treo ở trên giàn ngoài đồng. Đám người Moors có ý để cho muông thú tiêu thụ cái xác ấy đi. Sáu ngày sau, thầy William mang tiền chuộc đến. Khi biết những gì đã xảy ra, thầy William đã cùng với một số tù nhân được thả đi tới pháp trường với một nỗi buồn khôn tả. Nhưng khi đến nơi, ông nhận thấy cơ thể cuả người chết không phát mùi , mà lại thơm tho. Trưóc sự ngạc nhiên của họ, thầy Armengol vẫn nói được, ông cho họ hay Đức Mẹ đã cứu ông. Kinh ngạc bởi một phép lạ kỳ diệu, một số dân ngoại đã chuyển đổi theo đạo.

Cuộc trò chuyện với Nữ Vương Thiên Thần

Lời đồn về phép lạ nhiệm màu làm cho cả thành Barcelona nôn nóng chờ đợi sự trở về cuả vị “liệt sĩ bất bại của Chúa Giêsu Kitô”. Họ cung nghinh ngài với một niềm vui lớn, hộ tống ngài từ cổng thành cho đến tu viện, ca tụng Chúa vì các tuyệt tác của Người. Các tu sĩ muốn nghe từ chính miệng Phêrô về những gì đã xảy ra, nhưng dù họ có năn nỉ đến đâu, thầy Phêrô cũng không nói. Cuối cùng, bề trên phải ra lệnh cho thầy phải nói tất cả. Vâng lời, vị thánh đã nói: "Đức Trinh Nữ Maria, mẹ Thiên Chúa và là mẹ của riêng mỗi chúng ta, đã xin Người Con chí thánh cuả Mẹ cứu lấy cuộc sống của tôi; Sau khi nhận được ơn này, vị Nữ Vương đã dùng hai bàn tay thánh thiện cuả Người mà nâng tôi lên, vì vậy mà sức nặng của cơ thể cuả tôi không đè xuống sợi dây thừng."

Từ đó và cho đến khi chết , thầy Armengol có một cái tật là cổ bị vẹo qua một bên và có một vết nhạt ở trên cổ, là dấu hiệu của những gì đã diễn ra. Thày nghỉ hưu ở tu viện Our Lady de Los Prados, và đã dành những ngày còn lại để trò chuyện một cách thân mật với Đức Nữ Vương Các thánh Thiên Thần, là người mà thày yêu mến với tất cả lòng hiếu thảo.

Nhắc lại sự kỳ diệu của việc treo cổ, Thầy thường nói với các tu sĩ trong dòng điều này : "Tin tôi đi, các anh em thân mến của tôi, tôi chưa bao giờ cảm thấy mình sống thật hạnh phúc cho bằng những ngày ít ỏi khi bị treo cổ, mà đáng lẽ để mà phải chết."

Ngài phó dâng linh hồn cho Thiên Chúa ngày 27 tháng 4 năm 1304. Thiên Chúa chúng ta đã chứng minh và tôn vinh người đầy tớ bằng bảy phép lạ, là chữa lành cho 3 người đàn ông và 4 phụ nữ, ngay trước khi ngài qua đời. Ngày 28 tháng 3, 1686 Đức Giáo Hoàng Innôcentê XI đã chuẩn y các tục lệ tôn kính, và trong thế kỷ 18, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XIV ghi tên thánh Phêrô Armengol vào sổ các thánh Tử Đạo.

Ngôi mộ cuả vị thánh

Hôm nay thánh tích cuả thánh Armengol vẫn được lưu giữ ở Guardia dels Prats, ngôi làng nhỏ với nhiều nét Trung cổ: đường hẹp quanh co, đá sỏi; cung điện cũ ; và một nhà thờ kiến trúc kiểu La Mã quyến rũ.

Cơ thể của thánh Phêrô Armengol không bị hư rữa cho đến năm 1936. Trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha, những người Cộng sản đã xâm chiếm và cướp phá ngôi nhà thờ, họ mang cơ thể của thánh Armengol ra quảng trường công cộng và đốt cháy đi. Một số trẻ em đã thu thập những gì còn sót lại giữa đống tro tàn và cất giữ ở nhà. Sau đó, khi những người cộng sản bị đánh bại, những di tích quý báu đã được đưa trở lại nhà thờ, và lưu giữ trong một cái quách đặt dứới bàn thờ chính – Ngày nay, vị thánh hầu như bị lãng quên vì những người Công Giáo đã trở thành "tiến bộ"- Nhưng cái quách đó, trong im lặng, vẫn là lời khai hùng hồn của sự thánh thiêng của Giáo Hội Công Giáo và cuả nền văn minh Thiên Chúa giáo

Trong thời đại khủng hoảng sâu sắc về đạo đức cuả chúng ta , chúng ta hãy cầu nguyện cùng thánh Armengol cầu bầu cho chúng ta ở trước toà Thiên Chúa, nhờ vào công nghiệp Tin Cậy và Sự Tín Thác anh dũng cuả ngài vào sự che chở mạnh mẽ của Đức Mẹ.