XUÂN LY BĂNG

LỜI NGỎ CHO ĐÊM THƠ

Đức Ông Nhà thơ Xuân Ly Băng về với Chúa khi đã 92 trong tâm tình thương nhớ của biết bao người, cách riêng là của những người cầm bút Công Giáo.

Ngày 25-8-1988, tại Học viện Salesian Đà Lạt, tôi được ngài nhận trả lời những câu hỏi về cuộc đời và cõi lòng của ngài. Bài phỏng vấn ghi âm sau đó đã được anh Lâm Viên Lê Hữu Phước ghi lại, với tựa đề: “Xuân Ly Băng, hồn thơ và tấm lòng mục tử” (http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20090608/924). Câu hỏi cuối cùng của tôi là: “Có những điều gì Cha muốn nói với chúng con nhưng tình cờ con chưa hỏi tới?”. Ngài đáp:

“Đây là lời của người sắp chết nói với những người sẽ chết (cười). Tôi muốn nói với những người thuộc lớp tuổi của Cha, sinh sau tôi vài thập niên trong lãnh vực thi ca. Cha và nhiều anh em khác được Chúa ban tài năng. Tôi hy vọng Cha sẽ phát triển tài năng ấy và phát triển trong quỹ đạo của đời linh mục, trong đức ái, đức tin đối với Chúa. Cần trau giồi kỹ năng và phải viết ngay, đừng lần lữa. Bên cạnh đó, Cha phải tìm kiếm những mầm non trong Hội Thánh để nối dõi tông đường: Liên lạc gặp gỡ nhau, vun trồng, nâng đỡ nhau về thi ca và về đức tin. Có thế ta mới làm tròn nhiệm vụ Chúa trao phó và đáp ứng điều Hội Thánh chờ đợi.”

Đã gần 30 năm rồi. Nhìn lại, tôi đã phần nào thực hiện được lời căn dặn của người Thầy và người đàn anh giờ đây đã ra đi: “Tìm kiếm những mầm non trong Hội Thánh để nối dõi tông đường: Liên lạc gặp gỡ nhau, vun trồng, nâng đỡ nhau về thi ca và về đức tin.” Tôi tin rằng trên trời, ngài sẽ tiếp tục phù trì nâng đỡ để con cháu có thể nối nghiệp cha ông.

Không riêng tôi, có những anh chị em khác cũng đã và đang thực hiện lời nhắn nhủ ấy. Năm 2008, sau hai năm phụ trách trang Đồng Xanh Thơ trên Mạng Lưới Dũng Lạc, anh Cao Huy Hoàng đã thực hiện cuộc họp mặt lịch sử của văn thơ Công Giáo, tại Tòa Giám mục Phan Thiết, ngày 20-01-2008, với khoảng 60 tham dự viên, trong đó một nửa là các cộng tác viên của Đồng Xanh Thơ. Một trong những lý do khiến cuộc họp mặt diễn ra tại Tòa Giám mục Phan Thiết dịp ấy chính là vì nhà thơ lão thành Xuân Ly Băng đang sống ở đó.

Dưới đây là bài chia sẻ “Cùng sống cuộc sống đức tin văn hóa” của Đức ông Nhà thơ kết thúc ngày họp mặt và tiếp nối là “lời ngỏ cho đêm thơ”, nhân đêm thơ Xuân Ly Băng tại Tòa Giám mục Phan Thiết, 22/3/2008. Chúng ta cùng đọc lại một vài bài thơ để tưởng nhớ Đức Ông.

Linh mục Trăng Thập Tự

NIÊN BIỂU

• Tên thật: Gioan Baotixita Lê Xuân Hoa,

• sinh ngày 23-4-1926, tại làng Phú Trung, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

• Rửa tội năm 1926 tại họ Hiệu Lân, xứ Xuân Phong, giáo phận Vinh

• theo học Tiểu Chủng Viện Xã Đoài (1938-1949), Đại Chủng Viện Xuân Bích, Hà Nội (1953) Sàigòn (1954), Đại Chủng Viện Lê Bảo Tịnh (1955-1959).

• Thụ phong linh mục ngày 19-7-1959.

• Dạy Việt văn tại các Tiểu Chủng Viện Chân Phước Tự (Thủ Đức) và Sao Biển (Nha Trang) từ 1959-1965.

• Chính xứ Vinh Hưng, Vinh Thuỷ, Phan Thiết (1965).

• Quản Hạt Bình Tuy (1972).

• Đại Diện Giám Mục (1975)

• Tổng Đại Diện Giáo Phận Phan Thiết 1987.

• Giám chức danh dự do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban tặng ngày 25-01-1998.

• Được Chúa gọi về lúc 22g10, Thứ Tư ngày 19 tháng 7 năm 2017 tại nhà Hưu dưỡng Giáo phận Phan Thiết, hưởng thọ 92 tuổi, 58 năm linh mục.

Đã xuất bản: Thơ kinh, Hương kinh, Trầm tư, Nỗi niềm, Bài ca thương khó, Dụ ngôn Phúc âm, Như trầm hương, Kinh trong thời gian, Khúc hát ân tình, Một vùng châu lệ, Kinh sầu trên quê hương.

CÙNG SỐNG CUỘC SỐNG ĐỨC TIN VĂN HÓA

Ba thuyết trình viên đã khẳng định cho thơ ca Công Giáo Việt Nam những nền móng quan trọng: Lê Đình Bảng đặt một nền móng lịch sử, Trăng Thập Tự nêu rõ nền móng tâm linh và Nguyễn Thiên Cung một nền móng thần học.

Góp phần đúc kết và tiếp nối những điều ấy, tôi xin chia sẻ thêm đôi điều về kinh nghiệm thơ.

Người ta thường bảo ngôn ngữ thơ ca là ngôn ngữ thầm kín, ngôn ngữ của trực giác, không dễ gì lấy triết lý mà hiểu được, vì ngôn ngữ thơ trước hết là ngôn ngữ của trái tim. “Trái tim có những lý lẽ mà lý trí không hiểu được” (Pascal). Chẳng hạn hình ảnh cô gái mù với ly cà phê trắng Vũ Thuỷ. Ngay cả thi sĩ, làm thơ rồi, có khi chẳng hiểu hết thơ của mình, đang lúc nhà phê bình có thể tìm hiểu và nhận ra được. Cho nên không thể soi mói thơ bằng các hệ thống lý luận triết học hay thần học.

Tuy nhiên, không phải vì thế mà thơ là cái gì dễ dãi. Người ta có nói, mỗi tài năng đều gồm 1% do bẩm sinh và 99% do đào luyện. Một phần trăm của thiên tài không thể thiếu. Nếu thiếu, dù có làm cả trăm bài văn vần cũng chẳng ra thơ. Thế nhưng chỉ một phần trăm ấy thôi chưa đủ, cần phải dụng công, phải khổ luyện.

Nhà thơ Giả Đảo có ghi lại một kinh nghiệm:

Nhị cú tam niên đắc

Ngâm thành song lệ lưu,

Được Trăng Thập Tự dịch là:

Ba năm tìm được hai câu,

Ngâm lên nhỏ lụy tuôn châu đôi dòng.

Người Pháp có nói: “Phải luyện tay nghề hai mươi lần, tác phẩm của bạn mới ra hồn” (Vingt fois sur le métier, reprenez votre ouvrage).

Làm thơ là sáng tạo. Khi Xuân Diệu viết: “Bữa nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm”, Tản Đà đòi lôi ra chém vì Xuân Diệu dám bảo mặt trời đi ngủ. Thế nhưng làm thơ là phải vậy, phải sáng tạo.

Cùng một mặt trăng nhưng với óc tưởng tượng, mỗi tác giả nhìn một khác: Trăng cười, trăng khóc, trăng rỉ máu, trăng có thể là người thiếu nữ nằm lả lơi cợt nhả mà trăng cũng có thể là Đức Mẹ.

Ngôn ngữ thơ phải sinh động, biết cười, biết khóc, biết nhảy múa. Phải biết chọn từ, đảo ngữ. Phải có nhịp điệu và nhạc điệu theo luật bằng trắc của âm thanh.

Bài thơ tả cục phân mà hay thì vẫn là thơ; còn tả cô công chúa tuyệt trần mà không hay thì cũng chẳng phải là thơ. Bài thơ ví được như một bầu trời. Bài thơ dở, đọc lên như bầu trời im lìm bất động. Bài thơ hay thì nhiều câu, nhiều chữ rực lên như trăng sao chớp nháy. Bầu trời thơ Nguyễn Du góc nào cũng chớp nháy, câu nào, chữ nào cũng hay.

Người làm thơ cần đọc thơ của nhiều tác giả, đọc những tác phẩm giá trị, để thấy những nét tân kỳ và độc sáng trong hình ảnh và ngôn ngữ.

Cần học thêm những phong cách mới của thơ Pháp, thơ Anh, thơ chữ Hán, để làm giàu cho hồn thơ. Cần đọc những sách chuyên môn về thơ để trau giồi kiến thức và kỹ năng thơ.

Cần giao lưu nhiều với các tác giả thơ, nhạc, hoạ… để làm cho tâm hồn luôn tươi mới, tránh khỏi bị “cô lậu quả văn”, nghĩa là “hẹp hòi, tầm thường, không đẹp”.

Nhất là phải đọc, nghiền ngẫm và thuộc lòng Thánh Kinh, cách riêng là các Thánh vịnh, sách Diễm ca, Tin mừng Gioan.

Bước vào chức linh mục, thấy mình được gọi rao giảng Tin Mừng bằng thơ ca, tôi đã chăm chú học làm nghệ thuật, nghiền ngẫm quyển “Lý thuyết về văn chương và các nghệ thuật” bằng tiếng Pháp (không còn nhớ tên sách và tên tác giả). Tôi đã đọc rất nhiều thơ, từ Kiều, Chinh Phụ, Cung Oán, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương cho đến Tản Đà rồi các nhà thơ mới. Có những bài thơ tôi thuộc nằm lòng. Gặp sách chuyên môn về văn chương là tôi đọc. Có những quyển tầm thường nhưng vẫn gặt hái được đôi điều, đôi dòng đáng nhớ. Cũng phải học lại tiếng Việt. Tôi vẫn thường xuyên tra cứu Hán Việt Từ Điển của Nguyễn Văn Khôn.

Người làm thơ phải đau khổ. Alfred de Musset có nói: “Cứ đánh vào tim tôi, thiên tài sẽ trào vọt”. Hàn Mạc Tử: “Không rên siết là thơ vô nghĩa lý!” Một tác giả khác: “Mà câu tuyệt vọng là câu tuyệt vời”. Một tác giả thơ Đường: “Đản thị thi nhân đa bạc mệnh” (Thôi Hiệu hay Lý Bạch?)

Đừng tự ti mặc cảm. Cứ viết, cứ đăng báo, cứ in, trong sự khôn ngoan dè dặt.

Cuối cùng, cần hai chữ thành thực và khiêm nhường, đừng tự tôn vinh mình. Thời gian sẽ sàng lọc và đào thải những gì không phải là thơ.

Chúc anh chị em về ăn tết vui.

LỜI NGỎ CHO ĐÊM THƠ

Không kể những bậc kỳ tài, người trọng tuổi không nên nói nhiều và cũng không thể nói nhiều. Nhưng cũng không nên vì thế mà không nói (cũng có nghĩa là không viết) Đức Khổng Tử có lời dạy: Khi còn sống muốn nói gì với con cháu thì nói đi, kẻo chết rồi muốn nói cũng không nói được nữa.

Tôi đã trên 80 tuổi, một đời làm Linh mục, một đời làm thơ, biết nói gì - dù rất ngắn gọn - để lưu lại cho lớp hậu sinh rất khả uý. Lớp người này rất đáng trân trọng vì đặc biệt họ yêu thơ, họ sáng tác thơ. Hơn nữa, họ là những người làm “nghệ thuật” dưới bóng cây Thánh giá và Ánh Sáng Phục Sinh của Đức Kitô.

Tôi nhớ hồi 1959, sau lãnh chức Linh mục, về dạy học tại Chủng viện Chân Phước Tự, Thủ Đức, có mấy chủng sinh hỏi tôi sáng tác thơ từ ngọn nguồn nào. Nhân đó, tôi viết một bài đăng trong nội san Chủng viện, tôi chỉ nhớ mang máng là Nguồn thơ lấy từ Thánh Kinh và tứ thơ lấy từ lời Cầu Nguyện. Lời ấy, cách đây nửa thế kỷ liệu còn thích hợp nhắc lại ở đây để tặng lớp hậu sinh yêu thơ và sáng tác thơ nữa không?

Vườn thơ Thánh Kinh rộng mênh mông như trời biển, kỳ diệu và phong phú vô cùng, chứa đựng toàn Chân Thiện Mỹ. “ Thủ nhi bất cấm, dụng nhi bất tận.”

Phan Thiết, ngày 22/3/2008

MỐI TƯƠNG QUAN VỚI CHÚA

H. Xin Cha cho biết tình yêu của Cha đối với Thiên Chúa đã qua những bước phát triển nào? Có những thăng trầm nào? Đâu là điều xuyên suốt?

Đ. Điều này đơn giản thôi. Tình yêu của tôi đối với Thiên Chúa tương đối bình lặng, không có vấn đề nào đáng kể. Có thể nói là liên tục. Chỉ có một thời gian hơi sóng gió là các năm 1946-1949, chủng viện đóng cửa, tôi phải sống ở ngoài. Tuy nhiên tôi vẫn hoạt động tông đồ, ham thể thao, thể dục, lại thích đàn, sáo, đánh cờ, vv… Chính những sở thích ấy đã thu hút tôi, giữ cho tình yêu tôi luôn được trung thành với Chúa, không bị cạnh tranh vì tình yêu nhân thế. Cho nên, có thể nói, Chúa đã giữ cho tình yêu của tôi đối với Ngài được êm đềm, không bị khủng hoảng.

H. Còn mối tương quan của Cha đối với Chúa thì đã phát triển thế nào?

Đ. Khi tôi còn nhỏ, tình yêu đối với Chúa nặng phần tình cảm bình thường, nhưng càng lớn lên, tình yêu càng đi vào chiều sâu. Càng về sau, nhờ học hỏi, đọc sách, nhất là đọc và suy gẫm Kinh Thánh, đức tin và tình yêu tôi ngày càng đổi mới và sâu đậm. Tôi đã không có cơ may trải qua những đêm tối tâm hồn như Thánh Nữ Têrêxa Avila hoặc Thánh Gioan Thánh Giá. Nơi tôi, mọi sự có vẻ diễn tiến cách tự nhiên, bình thường. Tôi chỉ gặp Chúa cách đơn giản trong vạn vật, trong thiên nhiên, qua con người, cỏ cây, bông hoa, tiếng gió, ánh mặt trời, vv… Vâng, đó là một ân huệ Thiên Chúa ban cho tôi mà tôi luôn luôn cảm tạ.

H. Sau 29 năm đời linh mục, đoạn Tin Mừng nào ăn sâu vào lòng Cha nhất?

Đ. Đánh động nhất là những câu Tin Mừng mà Chúa đòi mình phải kết hợp sâu xa với Chúa: “Thầy là cây nho, các con là cành”, “Các con ở trong Thầy và Thầy ở trong các con”, “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”, “Ai yêu mến Thầy và giữ lời Thầy, Thầy sẽ tỏ mình cho người ấy”. Tôi đã thấy rõ Chúa đã tỏ mình cho tôi qua các biến cố trong cuộc sống. Chúa luôn luôn yêu thương tôi và hiện diện với tôi.

H. Điều gì nơi Chúa Giêsu thu hút Cha nhất?

Đ. Ở tuổi 62 của tôi hiện nay, Đức Giêsu không phải là huyền thoại, không phải là một tình cảm bên ngoài. Đức Giêsu là một thực tại, vừa thần linh vừa lịch sử, là sự sống của mỗi Kitô hữu, cho nên mọi sự nơi Chúa, từ con mắt, trái tim, cuộc sống, lời nói và tóm lại là cả cuộc sống của Chúa đều thu hút tôi. Có điều là làm sao để diễn tả tất cả những điều ấy thành thơ. Cách đây mấy tuần, có người hỏi tôi: “Chưa thấy Cha khai thác đề tài bí tích Thánh Thể?” Câu hỏi khiến tôi suy nghĩ nhiều. Quả thật, để làm thơ về bí tích Thánh Thể rất khó. Cũng như, làm thơ về Hội Thánh không dễ chút nào. Vì làm sao để Hội Thánh trở thành một hình ảnh gợi cảm? Cũng như làm sao để chút bánh chút rượu đã trở nên Mình Máu Chúa có thể biến thành lời thơ? Quả là khó! Điều đó đòi sự sống mình phải có cường độ thật cao, nghệ thuật thật lớn,… Tôi hy vọng những năm cuối đời hiện nay sẽ thực hiện đôi phần.

H. “Là thi sĩ nghĩa là ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”. Xuân Diệu đã viết câu ấy theo suy nghĩ của ông, nhưng nếu đọc theo ngôn ngữ Kinh Thánh, ta cũng có thể thấy ở đó tình cờ hội đủ các biểu tượng Kitô giáo liên hệ đến hồn thơ Kitô hữu: Gió khiến liên tưởng đến Thánh Thần, Trăng nhắc đến Đức Trinh Nữ, Mây nhắc đến sự hiện diện của Thiên Chúa, như mây phủ trên khám Giao Ước. Xin Cha cho biết thêm kinh nghiệm bản thân trong việc chiêm niệm qua thiên nhiên.

Đ. Trong câu hỏi đã hàm chứa câu trả lời, nhưng tôi muốn lưu ý để khỏi dừng lại ở bề mặt. Ta thấy Thiên Chúa, nhưng thấy thế nào, có rõ nét không? Thấy rồi có cảm mến, con tim có rung động không? Làm sao để đem Chúa từ trong ánh trăng, từ gió vào trong khối óc, trái tim, rồi từ đó trào ra nơi ngọn bút? Tôi còn nhớ một câu thơ Đức: “Gió đập vào cửa sổ và nói với tôi về Thiên Chúa Tình Yêu”.

H. Cha làm nhiều thơ về Đức Mẹ. Xin cho biết tại sao? Điều gì nơi Đức Mẹ gây cảm hứng nhiều nhất? Lòng yêu mến Đức Mẹ bắt nguồn từ đâu?

Đ. Nói về Mẹ Maria là nói đến cả một trời yêu, vì Maria có nghĩa là biển, có nghĩa là cay đắng. Lòng yêu mến Đức Mẹ cũng do bẩm sinh, có thể do đức tin của người mẹ và huyết thống của gia đình. Rất có thể từ khi còn trong bụng mẹ, tôi đã cảm được lòng yêu mến Đức Mẹ. Trong bài Nhớ Xưa, tôi đã nói đến điều đó. Còn hỏi điều gì nơi Đức Mẹ gây cảm hứng nhiều nhất, thì phải nói rằng toàn thể Đức Mẹ đều gây cảm hứng dạt dào cho tôi, từ khuôn mặt, ánh mắt, đến tấm lòng từ mẫu…

(Trích phỏng vấn của Trăng Thập Tự ngày 25-8-1988)

THƠ XUÂN LY BĂNG

TRONG TIẾNG CHUÔNG CHIỀU

“Car tu nous a fais pour Toi et notre

coeur est sans repos jusqu`à tant

qu`il repose en Toi”

(St.Augustin)

“Con người chưa được vô biên

Là còn thổn thức ưu phiền tháng năm”

(Xuân ly băng)

Chiều lắng phủ không gian buồn ý chết,

Mây thê lương chở lệ về phương mô?

Gió lạnh lùng run rẩy lá cành khô

Chim từng chiếc qua sương chiều lặng lẽ. ..

Không gian ơi! chiều nay tan thành lệ

Chảy trong lòng người viễn khách cô đơn.

Nhớ nhung chi khi trời xuống hoàng hôn

Để buồn ngấm uất hồn, ai nức nở. ..

Người bâng khuâng khi trời chiều tắt thở,

Bỗng chuông vàng trong xóm giáo ngân nga.

Tiếng êm êm dìu dịu nhẹ lan ra

Qua gió chiều lên hương buồn ly biệt

Tiếng tôn giáo cùng người, ôi tha thiết!

Viễn khách ơi!

Viễn khách ơi!

Chiều nay cảm thấy lạnh rồi phải không?

Ý đời rét buốt mênh mông

Đường đời cô quạnh trong không gian buồn!

Tình đời đen bạc mười phương

Men đời không dậy trong sương gió đời!

Viễn khách ơi!

Viễn khách ơi!

Giờ đây cảm thấy lạnh rồi phải không?

Này nghe tiếng nhạc chuông trong

Lời AI VĨNH VIỄN nói cùng THỜI GIAN:

Tìm chi hoa nội trăng ngàn

Tìm chi hạnh phúc dương gian mà tìm?

Con người chưa được VÔ BIÊN

Là còn thổn thức ưu phiền tháng năm.

Này người viễn khách bâng khuâng

Đường lên ánh sáng đã gần không xa!

SUY NGHĨ CÚI ĐẦU

Trái tim con nhỏ bé,

Tình yêu Chúa bao la,

Lòng Chúa như trời bể,

Đời con giọt mưa sa. ..

Chúa là trời ánh sáng,

Con ngọn đèn hắt hiu,

Chúa quang minh vô hạn,

Con một tia nắng chiều. ..

Chúa chính là hiện hữu,

Không có thủy có chung,

Đời con một chút xíu,

Như giọt nước miệng thùng. ..

Chúa chính là tồn tại

Tuyệt đối và vô biên

Kỳ dư là tương đối

Chuyển dịch và biến thiên

Đá vàng, ai hỏi tuổi?

Núi sông tự bao giờ?

Nhìn sao mỗi đêm tối,

Thân con thật bé thơ. ..

Rồi ra biến dịch hết:

Biển cả thành nương dâu.

Sinh ly và tử biệt

Con suy nghĩ cúi đầu. ..

Xin nhận con, lạy Chúa,

Vào thế giới Vĩnh Hằng

Thanh bình trăm muôn thuở,

Là Vương Quốc Thánh Tâm.

BÀI CA TÌNH ÁI

Trong ánh dương vàng mỗi buổi mai,

Khi đám sương lam phủ ngọn đồi,

Và lúc trên cành chim đua hót,

Lòng con mến Chúa lắm, Chúa ôi!

Dưới ánh trăng vàng dệt nhớ thương,

Đất trời say đắm mộng sầu vương,

Chúa ơi, con mến trong đêm vắng

Tình Chúa mênh mang suốt canh trường…

Vườn nhà những độ hoa đâm bông,

Hương ngát trời mai, sắc thắm hồng,

Trong cánh bướm vàng bay nhỏ nhẻ,

Hương tình mến Chúa thoảng trên không…

Những buổi giao mùa, gió lê thê,

Thổi sầu oán hận khắp sơn khê,

Lạy Chúa con nghe trong tiếng gió

Lời ca tình ái khóc tỉ tê…

Tháp cũ chiều hôm nhả tiếng đồng,

Ngân nga dìu dịu vút trên không.

Chuông ơi, ta gửi lời yêu mến

Theo gió bay về tận thiên cung…

Mỗi lần con ngắm trời mây gió,

Lạy Chúa, làm sao hồn đê mê!

Ôi hình ảnh Chúa sao sáng tỏ

Trong núi rừng và khắp cả sơn khê!

CHUÔNG CHIỀU

Chiều tàn trên bến cô liêu

Đò ngang thưa chuyến, quán chiều vắng tanh

Gió đưa hiu hắt trên cành

Đồng không sương bủa buồn tanh chim về

Hồn chiều lên ý não nề

Buồn ơi! xa vắng đê mê là buồn

Bỗng nghe một tiếng chuông buông

Xa xôi tự tháp thánh đường nào đây!

Vang lên cao vút tầng mây

Rồi ngân nhè nhẹ như ngây ngất lòng

Tiếng êm nhạc gió rừng thông

Ru như tiếng trúc dịu trong chiều vàng

Rồi tan trong gió mênh mang

Những âm thanh đã nhịp nhàng trong tôi

Bắc cầu nối ý xa khơi

Hồn tôi với lại nước trời xa xăm

CỦI MỤC

Khi vớt lên một cành củi mục

Và bắt về chiếc lá vàng trôi

Ta sẽ nghe tiếng hồn ai thổn thức

Lệ trào tuôn than khóc ngậm ngùi

Phải chăng xưa một cành đào diễm lệ

Chỗ vương môn mơn trớn vạn bàn tay

Phải chăng xưa một bông hồng áo não

Che mặt người hoa, đẹp chốn lầu Tây

Chiếc lá trôi chẳng phải là ngọc diệp

Đã từng nghe chuyện tài tử giai nhân

Đã từng ghi những lời tình thống thiết

Chỗ sang giàu của những Mạnh thường quân

Nhưng than ôi gió thời gian quét sạch

Hồn thảo thu man mác bóng tà dương

Khiến bao nhiêu cành vàng cùng lá ngọc

Dạt về đâu trên mặt đất vô thường

Hình hài có biến, hồn không tan

Khắp mặt đất này đi lang thang

Vương vào cây cỏ vào sông nước

Khiến tiếng chèo khuya nghe tiếng bẽ bàng

Và người nghệ sĩ những chiều hôm

Ngắm bóng non xa bỗng thấy buồn

Trời không mưa gió không tiễn biệt

Mà thấy trong lòng giọt lệ tuôn

Thôi đừng khóc nữa lá cành ôi

Có khóc đời cũng thế mà thôi

Vì trong thời gian có vĩnh cửu

Trong ly rượu nồng có mùi ngải cứu

Vị đắng đót sẽ còn lại muôn năm

Là lộc trời để nhắc nhở xa xăm.

LÂU ĐÀI ĐÊM TỐI

Trước ngưỡng cửa lâu đài đêm tối

Lá hoa buồn khép vội bờ mi

Côn trùng rỉ rả âm i

Trời cao đã mọc một vì sao hôm

Gửi vào Chúa tâm hồn tín thác

Đêm linh hồn man mác tình yêu

Có bình minh sáng thật nhiều

Có hiu hiu gió mỗi chiều mơn man

Gửi vào Chúa muôn vàn giọt lệ

Đêm linh hồn xiết kể hân hoan

Du dương tiếng sáo tiếng đàn

Giữa cô liêu ấy chứa chan ân tình

Gửi về Chúa hoa cành hương thảo

Đêm linh hồn sáng đạo tình duyên

Có rừng thánh, có suối tiên

Có chiên con đứng dịu hiền trong mơ…

Đêm thời gian không mờ đêm thánh

Đèn Ba Ngôi chiếu sáng thần linh

Xuân về trên dãy trường sinh

Muôn vàn trinh nữ cầm cành huệ tươi.

VÀO SA MẠC

Thời gian vào sa mạc

Sỏi đá hóa tâm tình

Hoa cỏ mặc tâm linh

Mây trời ca tình tự

Mưa rơi toàn ân tứ

Gió thổi rặt tình yêu

Từ sáng tới ban chiều

Không gian đầy thánh sủng

Ai bước vào thung lũng

Ai leo lên núi đồi

Đều gặp thấy Ngôi Lời

Và Chúa Cha hằng hữu

Với tình yêu vĩnh cửu

Của Ngôi Ba Thánh Thần

Cả một trời thiên ân

Một đại dương ánh sáng

Một nguồn suối hy vọng

Một biển sóng vĩnh hằng

Đang vây phủ toàn thân

Của người vào cô tịch

Miễn là chịu tiêu diệt

Con người cũ A-dam

Và mặc lấy huy hoàng

Vinh quang con người mới.

HÁI HOA TÌNH YÊU

Đi vào miền cô tịch

Hái bông hoa tình yêu

Lượm những viên ngọc bích

Có khắc tên người yêu

Người yêu trên mây trời

Dù ta không thấy rõ

Người yêu trong ngọn gió

Dù chẳng động cành cây

Người yêu trong tiếng chim

Dù chim bay về núi

Em chẳng phải đi tìm

Hơi người còn nóng hổi

Người yêu trong hoa rơi

Người yêu trong lá đổ

Người yêu dưới chân trời

Người yêu trong cửa sổ

Hãy vào miền cô tịch

Hái bông hoa tình yêu

Mặc tình em thỏa thích

Chỉ có yêu và yêu.

ĐÀN VỌNG CỐ HƯƠNG

Đàn lòng kết bởi muôn dây

Nhưng dây hạnh phúc còn gầy đàn ơi

Đêm đêm hướng mắt lên trời

Ôm đàn ta khóc mãi đời trích tiên

Đàn ta sầu thảm ưu phiền

Nghẹn ngào nức nở nhớ miền Trời xa

Trời xa mới chính quê ta

Muôn muôn hạnh phúc bao la phỉ nguyền

Suối thơ rừng nhạc vô biên

Trăng thanh bình tỏa sáng miền ái ân

Muôn hoa cỏ lạ vô ngần

Sắc hương ngào ngạt tuyệt trần thanh cao

Lưu ly đàn khóc nghẹn ngào

Sầu nơi dương thế ngày nào mới vơi

Kiếp đày ải chốn xa vời

Chìm trong bể khổ lệ đời mênh mang

Ai xin tôi một cung đàn

Đàn tôi viễn xứ muôn vàn chua cay

Vì đàn kết bởi muôn dây

Nhưng dây hạnh phúc còn gầy đàn ơi

Đêm đêm khóc nước trên trời.

MỘT MẢNG CHIỀU

Mẹ cho con một mảng chiều

Có mây giăng tím chở nhiều nhớ nhung

Có đàn sáo lượn bên sông

Lưng trâu có chú mục đồng thổi tiêu

Hoàng hôn lá rụng thật nhiều

Khói lam tỏa nhạt xóm nghèo bơ vơ

Mẹ cho con một trời thơ

Trong chuông nhật một nhà thờ xa xa.

VÀO THU

Bông dưng sầu ứ không gian

Thuyền mây trôi xám gió vàng hắt hiu!

Đồng quê đọng nước tiêu điều

Ba con cò trắng tiếng kêu não nùng!

Hơi buồn bao tỏa núi sông

Cỏ cây mây nước mênh mông là buồn!

Ai về khuất nẻo cô thôn

Suối tre chảy lá chuông buồn ngân nga!

Trời, mây, nước với mình ta

Nghe chuông nhắc lễ Đức Bà sang thu!

SAY NOEL

Đêm nay Noel về

Hồn hỡi lắng tai nghe

Đàn muôn cung réo rắt

Dồn dập khắp sơn khê

Đêm nay Hài Đồng đến

Đem hoan lạc trời cao

Đêm nay thơ kính mến

Sẽ say ngã lao đao

Ôi Noel đêm trời nhiệm mầu

Rượu nồng ta không nếm

Sao lòng trí ngất ngư?

Ta say muôn ánh nến

Ngời rạng vạn hào quang

Ta say tiếng chuông vàng

Trong gió trời hổn hển

Từng trận đổ vang vang…

Ta say muôn lời kính

Thơm như hoa thiên đình

Êm như dòng suối nhạc

Đẹp như lệ đồng trinh

Ôi Noel! Đêm trời nhiệm mầu

Nhạc an hòa, thơ kính mến

Hương phượng thờ đang ngào ngạt dâng lên

Ban cho lòng người đau khổ trần gian

Hiểu ý nghĩa Noel miền cao cả.

TRÁI THÁNH KINH

Buồn lòng không, hỡi người trinh nữ

Chờ đón tân lang trễ một giờ

(Mt 25, 1-3)

Ai có đêm nay nghe tiếng khóc

Năm người trinh nữ đứng bơ vơ

Sương trời ướt cả mùi son phấn

Lỡ chuyện trăm năm chậm một giờ

Ai có đêm nay nghe tiếng khóc

Giá buốt một trời gió mênh mông

Năm người trinh nữ buồn run rẩy

Xiêm áo không che nỗi lạnh lùng

Ai có đêm nay nghe tiếng khóc

Sượng sùng trinh nữ đứng cô đơn

Lá rụng cành gầy cơn gió lốc

Tan tành giấc mộng tối tân hôn

Ai có đêm nay nghe tiếng khóc

Mịt mù canh vắng dếgiun than

Năm người trinh nữ buồn lai láng

Văng vẳng từ xa có tiếng đàn

Văng vẳng từ xa có tiếng đàn

Ôi còn đâu nữa bóng tân lang

Năm người trinh nữ sầu tuyệt vọng

Cửa đóng then cài… bước lang thang

Cửa đóng then cài… bước lang thang

Ôm đèn không đỏ dạ mang mang

Đường khuya trở gót lòng hiu quạnh

Dầu mỡ than ôi, chuyện đá vàng

Dầu mỡ than ôi, chuyện đá vàng

Biết chăng chẳng biết chàng hỡi chàng

Ai vào phòng tiệc xin nhắn gởi

Có kẻ ngoài này đứng khóc than.

BAO GIỜ CHO HẾT THU

Có một mùa thu, thu rất thu

Mưa gió….hanh hao đẫm sa mù

Mẹ hỡi chính là mùa thu ấy

Khi mẹ lìa đời, con khóc hu

Con thấy cô đơn lạnh cuộc đời

Ra vào vắng mẹ lệ ròng rơi

Mùa thu từ đó ôi sầu thảm

Như tiếng vạc kêu cuối chân trời

Rồi cũng mùa thu con ly hương

Lá vàng theo gió bay bốn phương

Mây sầu giăng mắc lòng lãng tử

Chiếc én chân trời phận thảm thương….

Mẹ hỡi bao giờ cho hết thu?

Hết gió, hết mưa, hết sa mù?

Để dòng thơ con thôi sầu thảm

Con tóc bạc rồi, mẹ ở mô?

Mẹ trách con rằng: hỏi vẩn vơ

Mẹ ở trên trời chứ ở mô

Con ơi, hãy nhìn về phương ấy

Rồi hãy cầu nguyện để làm thơ:

TRONG TIẾNG CHUÔNG

Lặng nghe chuông đổ mỗi chiều

Lá vàng tuôn rụng hắt hiu vườn nhà

Tiếng chuông trong gió ngân nga

Âm thanh rút ngắn đời ta dần dần

Rồi đây chuông vẫn còn ngân

Thân em khuất dạng khỏi sân khấu đời

Tìm về với Chúa em ơi!

Linh mục Xuân Ly Băng