Hoàng - Trường Sa về đâu?

Một câu hỏi tự dưng làm đau buốt tim lòng người dân Việt Nam. Đau, không phải vì không biết câu trả lời. Nhưng đau vì không dám trả lời! Tại sao? Tại vì nó là máu thịt, là phần hơi thở, là cuộc sống chung của tổ quốc. Chẳng một ai muốn chấp nhận một thực tế là nó đã buộc phải lìa xa đất mẹ. Đau hơn, nó lìa xa quê, không phải vì bỏ ra đi, nhưng vì có kẻ đã bán nó đi. Bán nó đi để lấy súng đạn, đem hoả pháo, xe tăng, tàu bay về giết đồng bào Việt Nam ta bằng từ “giải phóng”! Chuyện lạ!

Không lạ đâu. Câu chuyện này đã có từ ngày 14-9-1958, nhưng mãi đến khoảng 10 năm sau 30-4-1975 người ta mới được biết đến. Biết đến từ cái lệnh cấm nổ súng của Lê đức Anh, (1988). Y cấm người lính Việt Nam bắn vào tập đoàn Cộng Sản Tàu khi chúng kéo quân vào chiếm Trường Sa giữa ban ngày. Từ đó, nỗi đau mỗi lúc một dầy thêm rồi ngấm dần vào chi thể Việt Nam. Đau là, từ đó, nó không thể trở mình. Sự thật như thế ư?

Hỏi lại đi, có một em bé, một học sinh nào ở miền Nam mà không biết đến Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam? Hơn thế, đã có nhiều em, chiều chiều nước mắt chan cơm khi ánh mắt vươn ra biển lớn. Em mơ nhìn ra đó, trên một hòn đảo nhỏ mà cha em, và bằng hữu của ông, những người lính Việt Nam Cộng Hòa đang ở đó, tay ghìm cây súng nhỏ giữ gìn phần đất của quê hương. Khi đó, nào có phải chỉ là mồ hôi, nhưng còn là nước mắt và máu để bảo vệ phần lãnh thổ của quê hương Việt Nam nữa. Rồi theo từng nhịp trống giữa canh khuya, bao nhiêu nước mắt của người vợ lính, của người góa phụ hay mẹ già nhớ con đã thấm đẫm trên đôi gối lạnh? Tất cả những hy sinh, khổ đau ấy là vì Hoàng Sa, Trường Sa, vì sự vẹn toàn lãnh thổ, vì sự Tự Do và Độc Lập của tổ quốc Việt Nam.

Chuyện là thế, nhưng trên mắt môi những khổ đau ấy là những ánh luôn ngời sáng, chờ đợi một niềm vui. Một niềm vui sẽ đến cho cả một dân tộc. Trong cuộc chờ đợi, tin vui chưa thấy. Bỗng đời đổi khác, sự chờ đợi vỡ tan. Biển vươn lên những cột khói đen như những đợt sóng dài, vô tận. Nó vươn lên không phải chỉ phủ lấp những cỏ cây trên đảo xa, nhưng là chính thân xác những con dân Việt vì Tổ Quốc. Nó vươn lên theo cái bản công hàm giao đất của Phạm văn Đồng ký từ ngày 14/9/1958 cho Trung cộng.

1. Vị trí của Hoàng Sa Trường Sa trên bản đồ.

a. Quần đảo Hoàng Sa. Paracel Islands (tiếng Anh), chữ Hán: 黄沙, (có nghĩa là Cát vàng hay bãi cát vàng), là một nhóm khoảng 30 đảo, bãi san hô và mỏm đá ngầm nhỏ ở Biển Đông. Quần đảo nằm cách cách đảo Lý Sơn của Việt Nam khoảng 200 hải lý và cách đảo Hải Nam của Trung cộng khoảng 230 hải lý. Hoàng Sa có nghĩa là "cát vàng", là tên Người Việt đặt cho quần đảo này.

b. Quần đảo Trường Sa. Spratly Islands; (tiếng Anh). Tiếng Hoa: Trung văn giản thể. Từ Hán Việt: Nam Sa quần đảo (wikipedia )

II. Quyền chủ Quyền:

Ai cũng biết, Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa là vì dựa trên các luận cứ về hành động chiếm hữu thực tế, quản lý liên tục trong hoà bình. Hơn thế, các sử liệu của Việt Nam như sách Phủ Biên Tâp Lục (1776) của Lê qúy Đôn xác định Bãi Cát Vàng thuộc về địa phận tỉnh Quảng Ngãi. Kế đến, trong hòa ước Giáp Thân (1884) giữa Pháp và Việt Nam, Pháp đã đại diện cho Việt Nam về mặt ngoại giao và thi hành chủ quyền trên cả hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.

Kế đến, xét tính thừa kế, hoàn toàn không có bất cứ một tranh chấp, một gián đoạn nào về chủ quyền của Hoàng Sa, Trường Sa từ trước kia cho đến sau Đệ Nhị thế chiến. Đó là lý do Hội nghị Sans Francisco vào tháng 7- 1951 đã không bác bỏ lời phát biểu của Thủ tướng Trần văn Hữu trưởng phái đoàn chính phủ Quốc Gia Việt Nam. Đó có thể được coi là một sự công khai và khẳng định với thế giới về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Lời khẳng định này được coi là thành sự vì không có một thành viên nào trong hội nghị phản bác. Nói cách khác, chính Hội Nghị này đã chung quyết về diện địa thuộc các quốc gia vùng Nam Á và chung quyết số phận của Nhật Bản tại đây.

III. Xác định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.

a. Hội Nghị Cairo 27/11/1943

Năm 1943, thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, cuộc chiến tranh đã bước vào giai đoạn khốc liệt. Tuy nhiên, việc xem xét biên giới của các lãnh thổ sau chiến tranh cũng trở thành một vấn đề rất quan trọng. Lúc ấy, ba nước Anh, Mỹ và Trung Quốc (Cộng hòa Trung Hoa, do Tưởng giới Thạch lãnh đạo) được coi là các cường quốc đã nhóm họp tại Cairo ngày 27/11/1943, đã đưa ra Tuyên bố chung, trong đó viết: “Nhật Bản phải bị loại ra khỏi tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà Nhật đã cướp hoặc chiếm đóng từ khi bắt đầu cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất năm 1914, và tất cả những lãnh thổ Nhật đã chiếm của Trung Quốc như Mãn Châu Lý, Đài Loan và Bành Hồ sẽ được trả lại cho Cộng Hòa Trung Hoa.” Như vậy, lãnh thổ của Cộng Hòa Trung Hoa do Tưởng giới Thạch lãnh đạo, người đồng thời là đồng chủ tịch trong Hội nghị, đã được phân định rõ ràng, không hề có liên quan gì đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

b. Hội nghị Sans Francisco 7/9-1951

Theo lời mời của Chính phủ Hoa Kỳ, và với tư cách là thành viên của khối Liên hiệp Pháp, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao của Việt Nam đã tham dự Hội nghị này. Ngày 7-9-1951, Thủ tướng Trần Văn Hữu nêu rõ: “Chúng tôi sẽ trình bày ngay đây những quan điểm mà chúng tôi yêu cầu Hội Nghị chứng nhận. Về vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam khẳng định: “Vì nhu cầu cần phải xác minh tất cả mọi sự kiện liên hệ, ngõ hầu dập tắt những mầm mống các cuộc tranh chấp sau này. Chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”. Rõ ràng lời xác nhận công khai chủ quyền đó của phái đoàn Việt Nam là một thực thể giá trị. Hơn thế, lời công bố trong Hội Nghị không hề gây ra một phản ứng ngỡ ngàng, chống đối hoặc yêu sách nào của 51 quốc gia tham dự Hội Nghị, kể cả Nhật và Liên Sô. Theo đó, Lời công bố này phải được coi là một thành sự, hay là một sự kiện hiển nhiên không cần bàn luận nữa.

Đây là sự kiện đã thành sự. Trước đó, Andrei A. Gromyko, Ngoại trưởng Liên Xô đã đưa ra đề nghị gồm 13 khoản tu chính để định hướng cho việc ký kết hòa ước với Nhật Bản. Trong đó có khoản tu chính liên quan đến việc “Nhật nhìn nhận chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa dưới phía Nam”. Lời yêu cầu này được đáp ứng trong Hội Nghị bằng cách bỏ phiếu. Kết qủa, với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận, Hội nghị đã bác bỏ hoàn toàn yêu cầu của phái đoàn Liên Xô.

Tưởng cũng nên nhắc lại, nội dung của Hiệp ước tại San Francisco ngày 8-9-1951 đã quy định là: “Nhật Bản phải rút lui khỏi những nơi mà nước này đã dùng vũ lực để chiếm đóng trong cuộc chiến”. Riêng Điều 2 khoản (f) của Hiệp ước viết: “Nhật Bản phải từ bỏ tất cả quyền, danh nghĩa và đòi hỏi với quần đảo Trường Sa (Spratly Islands) và quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islands)”. Điều này, một lần nữa xác định đề nghị của Nhật Bản đã nêu ra ở trên là hoàn toàn vô giá trị. Nói cách khác, cái gọi là danh nghĩa chủ quyền của Trung Hoa đối với các quần đảo ngoài khơi biển Đông đã bị cộng đồng quốc tế bác bỏ rõ ràng trong khuôn khổ của một hội nghị quốc tế.

Có một điều cũng cần phải minh bạch ngay là vào thời kỳ mở hội nghị, chẳng có một quốc gia nào trong số những Brunei, Đài Loan, Malaysia, philìines, lên tiếng nhận Trường Sa là của mình. Riêng Đài Loan, lúc đó còn gọi là Trung Hoa Quốc Gia do Tưởng giới Thạch làm đại diện, dù là một trong những thành viên trong hội nghị San Francisco cũng đã phải chấp hành cuộc bỏ phiếu trong hội nghị do Liên Sô bảo trợ với số phiếu như đã nhắc ở trên.

Rồi ai cũng biết, từ trước và sau Hội nghị San Francisco, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vẫn do lực lượng trú phòng của Chính quyền Quốc gia Việt Nam quản lý. Đến năm 1954, đất nước Việt Nam bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc, hai quần đảo này theo hiệp định Genève đặt dưới sự quản lý hành chính của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Câu chuyện đến đây là rõ, nếu như không muốn nói là kết thúc.

Tuy nhiên, chỉ mấy năm sau, cục diện trong vùng đổi khác, có nhiều phức tạp hơn. Trước hết, vào khoảng tháng 5-1950 Trung cộng chiếm được Hoa Lục từ tay Tưởng giới Thạch. Trước đó, vào tháng 9-1945 Việt cộng cướp chính quyền tại Hà Nội, nhưng năm sau tập đoàn HCM phải tháo chạy khỏi thành phố. Rồi nhờ cuộc chiến thắng của Mao Trạch Đông ỏ Hoa Lục, Việt cộng đã được hồi sinh và kéo vào Hà Nội sau chiến dịch Điện Biên (1954).

Tuy thế, việc được trở lại Hà Nội, Việt cộng đã phải trả bằng cái gía không hề nhỏ. Ngoài những nhân mạng cả Tàu lẫn Việt là bản Công Hàm mà Phạm văn Đồng phải ký vào ngày 14-9-1958 về Hoàng Sa và Trường Sa. Ở đó, có một câu chuyện được mô tả bằng ngôn từ, giọng văn không mấy hoa mỹ là: Một đám ăn cướp nhỏ phải nhờ đám ăn cướp lớn chống lưng, nên đành phải hy sinh cái thứ mà mình đang muốn cướp cho băng đảng lớn hơn.

IV. Kẻ bán nước là ai?

Sau khi vào được Hà Nội, Hồ chí Minh chỉ đạo: "Mấy cái đảo hoang ngoài khơi đó của ai thì tôi không rõ lắm, nhưng cũng chỉ là mấy cồn đá hoang toàn phân chim ỉa. Nếu các đồng chí Trung Quốc muốn thì cứ cho họ đi. (Hồ Chí Minh, trong HCM toàn tập).

Một chủ tịch nước mà mở mồm ra nói loạn ngôn như thế thì còn ra thể thống gì? Hẳn nhiên, ai cũng biết là đất nước ta đã mất từ đây. Và ai là kẻ bán nước, mọi người cũng đã nhìn rõ mặt. Bởi vì, sau lời tuyên bố ấy, Trung cộng vẽ ra một Tuyên Bố, làm nền cho cái Công Hàm của Phạm văn Đồng như sau:

“Tuyên bố của chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa về lãnh hải, lãnh thổ vào ngày 4-9-1958.

1. Bề rộng lãnh hải của nước CHNDTQ là 12 hải lý… bao gồm phần đất TC trên đất liền và các đảo phụ cận, bao gồm quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, Quần Đảo Tây Sa (Hoàng Sa), Quần đảo Nam Sa (Hoàng Sa) ….

4. Điều (2), (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phục cận, quần đảo Penghu. Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa Nam Sa và các đảo khác của TQ.”

Đài Loan chẳng thèm nhắc chi đến cái thông cáo này. Nhưng CS bắc Việt, kẻ đang phải nương tựa áo cơm và sự trợ giúp của Trung cộng trong cuộc chiến, nên Phạm văn Đồng đã thay mặt nhà nước CSVN đền ơn Trung cộng bằng việc dâng chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà theo hiệp định Genève thì thuộc quyền quản trị của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, vì nằm ở dưới vĩ Tuyến 17, cho Trung cộng. Chính Phạm văn Đồng đã nhân danh Thủ tướng của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa viết giấy bán đất nhà người cho Trung cộng với lời lẽ như sau:

“Thưa Đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.

Hà Nội ngày 14 tháng 9 năm 1958, thủ tướng Phạm Văn Đồng.”

Ai dám bảo cái Công Hàm này có tính cách tư và không có gía trị, xin giơ tay? Trước khi ai đó giơ tay lên, tôi xin nhắc rằng, Phạm văn Đồng còn làm Thủ tướng gồm cả hai miền Bắc Nam từ 1975 cho đến năm 1985. Mãi đến 29-4-2000 Đồng mới bắt chuồn chuồn theo HCM. Tuy nhiên, trong từng đó năm từ 1974 cho đến khi Y về với giun dế, Phạm văn Đồng không một lần lên tiếng về chuyện này. Đã thế, chính Y còn đưa hai đệ tử là Đỗ Mười và Nguyễn văn Linh sang Trung cộng dự Hội nghị Thành Đô (1990) để xin cho VN được làm, một phiên trấn của Trung cộng vào năm 2020? Trong chuyến đi này, Y là cố vấn hay chính là kẻ thực hiện kế hoạch và đã lệnh cho Mười và Linh phải ký Hiệp Ước Thành Đô?

V. Những lý do để TC xua quân chiếm Hoàng Sa, Trường Sa.

Dù trong tay đã nắm chắc cái Công Hàm do PVĐ ký, nhưng khi Mỹ còn ở trên biển đông, có cho thêm tiền TC cũng không dám đến. Trái lại, TC chỉ quyết định chiếm lấy đảo sau khi đã biết rõ, hơn thế, được chính HK xác nhận ngày sẽ bỏ đi. Nói rõ hơn, TC chỉ quyết định đánh úp Hoàng Sa sau ngày Kissinger rồi Nixon sang Trung cộng, thông báo cho TC biết việc Mỹ rút khỏi chiến trường Việt Nam và Biển Đông. Khi TC biết rõ ràng ý định của chuyến đi ấy là cuộc tháo chạy khỏi VN, nên đã nhân cơ hội chiếm lấy cái đảo mà PVĐ đã “đánh tiếng” trong công hàm 1958. Vào lúc ấy, Việt cộng đã không một lời xác nhận TS, HS là của Việt Nam. Trái lại, còn hồ hởi mở rượu chúc mừng chiến thắng ké, vì biết Biển Đông đã thuộc về “phe ta” rồi!

Sự việc diễn tiến như thế. Tuy nhiên, nếu mở lại hồ sơ, không phải chỉ có một công hàm của PVD xác nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của TC. Nhưng trước đó đã có ít nhất hai lần VC xác định điều này:

Lần thứ 1. Theo tờ Far Eastern Economic Review ngày 2/10/1979, dưới tiêu đề Paracels Islands Dispute, tác giả Frank Ching cho biết tháng 6 năm 1956, Bộ Trưởng Ngoại Giao nhà nước Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam (tức Bắc Việt) Ung Văn Khiêm đến gặp ông Li Zhimin, đặc sứ của Trung Quốc tại Hà Nội, xin Trung Quốc ủng hộ vũ khí và nhân sự để Việt cộng mở chiến tranh với Nam Việt Nam. Trong cuộc gặp gỡ này, Ung Văn Khiêm đã nói: “Theo các dữ kiện lịch sử Việt Nam, hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc”.

Lần thứ 2. Dường như TC không dễ gì tin lời sảo trá của Ung văn Khiêm. Theo đó mấy ngày sau, Phạm Văn Đồng, với tư cách là Thủ tướng, xác nhận những lời của Ung Văn Khiêm: “Căn cứ trên sử quan, những hòn đảo này nằm trong lãnh thổ của Trung Cộng.” (Bejing Review, March 30, 1979 trang 20). Từ đó câu chuyện đổi khác.

Điều đó cho thấy, TC và Việt cộng đã có những cuộc thảo luận ở giới chức cao cấp, và sau khi hai bên đã thỏa thuận xong, ngày 4-9-1958, Chu Ân Lai mới công bố lãnh thổ Trung Quốc nới rộng thêm 12 hải lý gồm có cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Đáp trả, ngày 14-9-1958, Bộ Chính Trị ĐCSVN quyết định cử Phạm Văn Đồng gởi điện quốc thư cho Chu Ân Lai vừa chúc mừng, vừa tán đồng quyết định chủ quyền của Trung Cộng trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Cũng cần phải nói thêm là vào thời điểm 1958, có lẽ tập đoàn CS cũng chỉ nghĩ rằng viết để mà viết, mà lừa nhau vậy thôi, không ai có khả năng nhìn ra cái họa về lâu về dài. Lý do, TC không bao giờ dám đánh chiếm lấy Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trước mũi “thằng” Mỹ. Kế đến, cả hai đều biết, tại hội nghị San Francisco, Thủ tướng của Việt Nam lúc bấy giờ là Trần văn Hữu đã công khai xác định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo này. Cũng từ Hội Nghị này đã quyết định bác yêu cầu của ngoại trưởng Liên Sô là Gromico, và của Nhật muốn bảo quản phần đất này là của Trung Hoa quốc gia (khi đó Trung Hoa đã rơi vào tay cộng sản). Kế đến, theo hiệp định Geneve 1954, hai quần đảo này thuộc về VNCH. Nay VNCH được Hoa Kỳ và đồng minh bảo trợ, Trung quốc khả năng đâu ra đó mà tranh chiến? Tóm lại, Minh, Đồng và tập thể BCT/ CS bắc Việt khi ấy chỉ muốn dùng kế Bán Đất Nhà Người lừa TC để nhận viện trợ mà thôi.

VI. Tại Sao TC không đánh Hoàng Sa sớm hơn?

Có hai lý do:

1. TC không dám mở cuộc chiến từ sớm để chiếm cứ Hoàng Sa, Trường Sa là vì sự hiện diện của Hoa Kỳ tại đây. Họ không muốn cùng xa lầy hay trực diện với Hoa Kỳ trong cuộc chiến. Nay tình hình chiến sự làm Mỹ xa lầy, Nixon muốn thắng cử, họ buộc phải rút chân ra. Ây là thời cơ thuận lợi cho họ ra tay.

2. Kế đến, đầu thập niên 1970, dầu hỏa được khám phá ở Biển Động. Công ty khai thác dầu hỏa Mobil cho biết là Bạch Hổ có một lượng dữ trữ dầu hỏa rất lớn. Đã thế, họ còn phỏng đoán trữ lượng dầu hỏa có thể có ở hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là rất lớn. Bản tin này và cái bản Công Hàm của PVD trở thành lý do thúc Trung Cộng đưa Hải Quân xuống phương nam, mở cuộc chiến và chiếm đóng Hoàng Sa rồi Trường Sa để chiếm tiên cơ. Mọi thủ tục tính sau.

Chuyện Trường Sa, Hoàng Sa rõ ràng giữa ban ngày như thế, ai dám bảo là vùng đất đang tranh chấp đây?

VII. Để kết.

Thực ra tôi không muốn viết, đặt vấn đề với bất cứ ai. Tuy nhiên, v
ì Dân Tộc vì bản Dư Đồ của Tổ Quốc, dù còn hay mất (trong tương lai), tôi không thể im tiếng trước những điều mà người ta tự đặt ra, xé toạc quê hương tôi ra và bảo đó là của người khác. Hoặc gỉa, bảo là chiếm từ tay người khác (MN) để chạy tội bán nước cho tập đoàn cộng sản. Nghĩa là, gì thì gì, tất cả đúng hay sai phải cho công minh, chính trực, cho mình cũng như cho người.

Ở đây, chuyện Hoàng Sa và Trường Sa là chuyện giữa ban ngày, mọi người đều thấy rõ, không ai có thể lừa được ai. Thứ nhất, Hoàng Sa, Trường Sa bị mất vào tay Trung cộng là do chính Cộng sản bắc Việt dưới sự lãnh đạo của Hồ Quang (Hồ chí Minh) dâng hiến cho kẻ thù truyền đời của Dân Tộc từ 1958. Đây là một trọng tội phản quốc và bán nước. Một tội ác mà từ xưa Lê chiêu Thống, Trần ích Tắc… muốn thực hiện để cầu danh, cầu lợi, nhưng bất thành. Nay Hồ chí Minh và tập đoàn CSBV đã toại nguyện.

Thứ hai, sự hy sinh của Thiếu Tá Ngụy văn Thà và các chiến sỹ bảo vệ quê hương sẽ lưu danh vạn đời trong lịch sử Việt với Hoàng Sa, Trường Sa.

Như thế việc còn lại hôm nay là gì? Liệu con cháu của những Trưng, Triệu, của những Ngô Quyền, Quang Trung, Hưng Đạo, Lê Lợi…có cách nào lấy lại Hoàng Sa, Trường Sa, khôi phục lại cơ nghiệp của tiền nhân hay không?

Tôi cho rằng, câu chuyện của Việt Nam Tự Do, của Hoàng Sa, Trường Sa sẽ tùy thuộc vào hai trường hợp sau:

1. Nếu còn Cộng sản, cả Trung cộng và Việt cộng, chúng ta không có một phương cách nào lấy lại Hoàng Sa, Trường Sa. Bởi lẽ, tấm giấy xác nhận giao đất của chế độ CS cho Trung cộng vẫn còn đó. Nó là bức mành bất khả phá. Như thế, kèn loa của Hoa Kỳ chỉ có cơ may giúp Hoa Kỳ hưởng ké những lợi nhuận trên trường kinh tế cho riêng họ.

2. Đối diện với thế đứng trên. Người dân Việt phải quật cường hơn, theo gương của Đức Quang Trung, tạo nên một chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Đa mới, để giải phóng đất nước. Khi ấy, tờ giấy bán nước ô nhục của Phạm văn Đồng đã bị xé bỏ, Trường Sa, Hoàng Sa có cơ khăn áo trở về với quê mẹ. Và cái thế đồng minh với Hoa Kỳ sẽ giúp chúng ta giữ yên bờ cõi, dù Trung cộng còn hay mất.

Bảo Giang

29-2-2016