Ngày 04-12-2010
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Suy niệm Mùa Vọng 2010
LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
12:56 04/12/2010
Phải sẵn sàng chờ ngày Chúa đến và mừng lễ Giáng Sinh thế nào cho xứng hợp?

Trong chu kỳ phụng vụ của Giáo Hội, Mùa Vọng (Advent) trước hết gợi cho ta nhớ lại thời gian dân Do Thái xưa trông đợi sự giáng thế của Ðấng Thiên Sai (Messiah) mà các Ngôn sứ đã loan báo trong thời Cựu ước.

Thật vậy, trước khi Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai, đến lần thứ nhất cách nay 2010 năm, hai Ngôn sứ Isaia và Gioan Tẩy Giả đã đặc biệt loan báo và chuẩn bị cho dân Do Thái đón mừng ngày giáng sinh của Người như sau:

Tôi là tiếng kêu trong hoang địa

Hãy sửa đường cho ngay thẳng để Đức Chúa đi qua (Ga 1, 23).

Chúa Giêsu, Ðấng Thiên Sai, đã đến rồi, đến lần thứ nhất trong thân hình một “trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” ( Lc 2:12). Người đến để cứu chuộc cho toàn thể nhân loại đáng phải phạt vì tội lỗi, và đã hoàn tất Chương Trình Cứu Chuộc ấy qua cuộc tử nạn và phục sinh của Người như Giáo Hội tin và dạy chúng ta tin.

Ngày nay, chúng ta chỉ còn trông đợi ngày Chúa đến lần thứ hai nữa (parousia) để phán xét “kẻ sống và kẻ chết” trong ngày cánh chung. Nhưng mỗi năm, thời điểm này cũng là dịp mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn để đón mừng kỷ niệm Ngày Sinh của Chúa Cứu Thế đã giáng trần cách nay 2010 năm. Vì thế, khắp nơi, người ta lại tưng bừng chuẩn bị đón mừng Lễ Chúa Giáng Sinh. Nào trưng bày những máng cỏ xinh đẹp, rực rỡ với ánh đèn mầu đủ kiểu, đủ loại và đặc biệt, người ta lại nô nức đi mua sắm đồ và gửi quà tặng cho nhau, khiến cho lễ Giáng Sinh trở thành mùa thương mãi lớn nhất, phát đạt nhất trong năm cho rất nhiều người ở Mỹ và ở khắp nơi trên thế giới.

Nhưng chuẩn bị mừng Lễ Chúa Giáng Sinh không chỉ đơn thuần với việc sửa sang nhà cửa, trưng bày máng cỏ trước nhà với đèn mầu rực rỡ, gởi quà và thiệp Giáng Sinh cho nhau, mặc dù điều này cũng tốt và cần có. Tuy nhiên, đây không phải là dịp để tổ chức ăn uống linh đình, nhẩy nhót cuồng loạn thâu đêm Giáng Sinh như rất nhiều người thuộc mọi thành phần xã hội muốn vui chơi nhân lễ Giáng Sinh.

Mừng Giáng Sinh kiểu này thì quả thật là điều sỉ nhục cho ý nghĩa thiêng liêng của ngày đại lễ mà người Công giáo chúng ta phải xa tránh để cho được xứng đáng với tâm tình đón mừng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh trong vui mừng thánh thiện và cảm tạ Thiên Chúa vì ơn cứu độ mà Chúa Kitô đã mang lại cho loài người qua Mầu Nhiệm Nhập thể ( Mystery of Incardination) và Mầu Nhiệm Vượt qua ( Paschal Mystery)

Nói là khác đi, là người tín hữu Chúa Kitô, chúng ta không thể đón mừng Chúa Giáng Sinh một cách thể tục (secularly) như những người không có niềm tin và chỉ mượn dịp này để tiêu sài hoang phí và nhất là ăn chơi thiếu lành mạnh..

Và để chứng tỏ sự khác biệt giữa chúng ta và đa số con người trần thế ngày nay, chúng ta phải chuẩn bị và vui đón kỷ niệm Chúa Giáng Sinh cách xứng hợp với niềm tin mà chúng ta hãnh diện tuyên xưng trong dịp này.

Cụ thể, mỗi người chúng ta hãy suy niệm sâu xa một lần nữa về Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể.

Thật vậy, nói đến Mầu Nhiệm này thì ít ai để ý suy niệm cho thấu đáo ý nghĩa Chúa Hài Nhi nằm trong Máng cỏ lạnh lẽo của mùa đông giá buốt năm xưa. Không phải vô tình hay ngẫu nhiên mà có sự kiện này.

Trước hết, ai cũng biết: mảng có (manger) là vật dụng người ta dùng để cho súc vật ăn. Ở đây là trâu, bò, lừa, ngựa, những con vật thích ăn cỏ. Chúng ăn những cỏ khô được bỏ vào máng đặt trong chuồng. Nhờ những đồ ăn từ máng này mà chúng được nuôi sống, có sức để phục vụ cho nhu cầu của người nuôi và sử dụng chúng.

Chúa Giêsu phải có chủ đích rất thâm thúy khi Người chọn sinh ra trong hang bò lừa và nằm trong máng cỏ. Ngài nằm trong máng cỏ như “của ăn” để nuôi sống cho nhân loại đang đói khát vì lương thực trần thế không làm no thỏa được khát vọng của tâm hồn, tức nhu cầu thiêng liêng tối thượng của con người. Mọi lương thực trần gian, kể cả manna mà dân Do Thái ăn trong sa mạc khi xưa, cũng không đem lại sự sống đời đời cho những người ăn chúng. Chỉ có “Bánh từ trời xuống và ai ăn thì sẽ được sống đời đời” (Gio 6, 58) mà thôi. Chúa Giêsu chính là Bánh trường sinh ấy. Người đã hứa “Ai ăn thịt và uống máu Ta thì được sống muôn đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết” (Gio 6: 54).

Khi nằm trong máng cỏ, Chúa Giêsu không những dạy ta bài học đích đáng về đức khiêm nhường, gương hy sinh và thực sự khó nghèo, mà đặc biệt, còn mời gọi chúng ta đến “ăn Ngài” để được sống đời đời, như bò lừa ăn cỏ khô từ máng để có sức sống phục vụ cho con người.

Mặt khác, trong tâm tình chờ ngày Chúa đến lần thứ hai, đồng thời cũng mừng kỷ niệm Ngày Giáng Sinh lần thứ 2010 của Chúa, chúng ta cũng được nhắc nhở phải tỉnh thức và luôn sẵn sàng vì “anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (Mt 24:42; Lc 12:40). Ngày ấy sẽ bất ngờ như giờ kẻ trộm vào nhà lấy của trong lúc chủ nhà đang ngủ say, không đề phòng.

Nhưng chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng như thế nào?

Thánh PhaoLô đã chỉ cho chúng ta bí quyết: “hãy mặc lấy Chúa Kitô và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng” (Rm 13: 14). “Mặc lấy Chúa Kitô” như bộ y phục đẹp nhất để ra đón chào Chúa khi Người đến, để mừng kỷ niệm Giáng Sinh của Người và cũng xứng đáng nhất để vào dự Bàn Tiệc Nước Trời đã dọn sẵn cho những ai được mời và muốn đáp lời mời ấy.

Và trong khi chờ đợi ngày Chúa đến lần sau hết, chúng ta phải luôn “ăn Chúa Kitô” để giải trừ mọi độc tố giết hại linh hồn đến từ những thực phẩm và không khí đầy ô nhiễm của trần gian, của “văn hoá sự chết” đang lan tràn khắp nơi trên thế giới ngày nay. Ðặc biệt là trong môi trường xã hội chúng ta đang sống và làm việc giữa những người không có niềm tin hoặc có mà không sống niềm tin ấy vào Chúa Kitô để chỉ hăng say chạy theo tiền bạc, danh vọng phù phiếm và vui thú dâm ô bất chính.

Nghĩa là, nếu chúng ta cương quyết sống niềm tin của mình để “mặc lấy Chúa Kitô, và “ăn Chúa Kitô” như súc vật ăn của nuôi chúng từ máng cỏ, thì đó mới là những chuẩn bị xứng đáng nhất để chờ đón Chúa đến và đồng thời cũng để mừng kỷ niệm Giáng Sinh của Người cách xứng hợp một lần nữa.

Ước chi mỗi người tín hữu chúng ta sống Mùa Vọng, và chuẩn bị đón mừng Lễ Chúa Giáng Sinh năm nay với tâm tình đó.
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Các chủng sinh Trung Quốc tổ chức một cuộc phản đối thinh lặng chống việc bổ nhiệm một phó viện trưởng
Bùi Hữu Thư
10:34 04/12/2010
SHIJIAZHUANG, Trung Quốc (CNS) – Khoảng 100 chủng sinh của Đại Chủng Viện Hà Bắc đã đứng im lặng trong 14 giờ đồng hồ trước Văn Phòng của Tỉnh Uỷ Dịch Vụ Sắc dân Thiểu Số và Tôn Giáo, để phản đối điều họ cho là một sự bổ nhiệm có tính cách chính trị của phó viện trưởng chủng viện.

Hãng thông tấn của Giáo Hội Á Châu UCA News cho hay: Nhóm chủng sinh cầm biểu ngữ với hàng chữ yêu cầu phải có một văn thư chính thức hủy bỏ việc bổ nhiệm giới chức này.

Sau khi các chủng sinh đã đi ngủ đêm 2 tháng 12, các giới chức chính phủ và cảnh sát mặc thường phục đã đến chủng viện để hy vọng có thể thuyết phục các linh mục thay đổi ý kiến.

Khi nghe biết về cuộc viếng thăm chính thức này, tất cả các chủng sinh đã thức giậy, ra khỏi giường và yêu cầu các giới chức phải rời chủng viện.

Ngày 3 tháng 12, khoảng 12 giới chức lại trở lại để thương lượng với Đức Giám Mục Phêrô Fang Jianping giáo phận Tangshan, một thành viên của Uỷ ban Điều Hành Chủng Viện, và các đại diện khác của giáo phận.

Vào buổi chiều cùng ngày, các giới chức điạ phương đã tiếp xúc với các chủng sinh. Các chủng sinh đòi hỏi phải có một văn thư được soạn thảo và đọc cho tất cả các giáo sư và chủng sinh, và phải cho họ một bản sao chính thức của văn thư này làm bằng chứng.

Trong khi các giới chức thỏa thuận bằng miệng là sẽ thu hồi lệnh bổ nhiệm, họ từ chối không cung cấp bản chính hay một bản sao của văn thư này.

Cuộc tranh chấp bắt đầu ngày 11 tháng 11, khi các giới chức của Văn Phòng Tỉnh Uỷ về Dịch Vụ Sắc dân Thiểu Số và Tôn Giáo Hà Bắc tuyên bố trong một cuộc viếng thăm đại chủng viện là, ông Tang Zhaojun, trưởng hạt, sẽ được bổ nhiệm làm phó viện trưởng, và làm giáo sư môn chinh trị học.
 
Top Stories
Chinese seminarians stage silent protest over vice rector appointment
Catholic News Service
10:37 04/12/2010
SHIJIAZHUANG, China (CNS) -- About 100 seminarians from Hebei's major seminary stood quietly for 14 hours in front of the provincial Ethnic and Religious Affairs Bureau, protesting what they see as the political appointment of the seminary's deputy director.

The group held placards with slogans demanding a written promise to revoke the appointment of the official, reported the Asian church news agency UCA News.

After the seminarians had turned in for the night Dec. 2, officials and plainclothes policemen traveled to the seminary in the hope of persuading priests to compromise. On learning of the official visit, all seminarians got out of bed and asked the officials to leave.

On Dec. 3, a dozen officials returned to negotiate with Bishop Peter Fang Jianping of Tangshan, a member of the seminary board, and other diocesan representatives.

By late afternoon, the local officials were talking with the students. The seminarians are demanding that a written statement be read out to teachers and seminarians and for an official copy of the statement as proof of its authenticity.

While the officials verbally agreed to revoke the appointment and read out the statement, they refused to produce the authenticated statement or a photocopy.

The controversy began Nov. 11, when officials of the Hebei Ethnic and Religious Affairs Bureau announced during a seminary visit that their section chief, Tang Zhaojun, would become the deputy rector and a teacher for a political class.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Gia đình Tác Viên Tin Mừng Phan Thiết mừng Bổn Mạng
Hồng Hương
08:07 04/12/2010
PHAN THIẾT - Sáng ngày 3.12.2010, trong niềm hân hoan tạ ơn, Anh Chị Em gia đình Tác Viên Tin Mừng hạt Hàm Tân và Đức Tánh vui mừng họp mặt tại nhà thờ giáo xứ Châu Thuỷ, GP Phan Thiết để Mừng Lễ Bổn Mạng. Thánh lễ đồng tế trọng thể kính Thánh Phanxicô Xaviê do Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống, Giám mục GP Phan Thiết chủ sự.

Xem hình ảnh

Hiện diện chung chia niềm vui và cầu nguyện cho Gia đình Tác Viên Tin Mừng (GĐ TVTM) còn có Đức Viện Phụ dòng Xitô Châu Thuỷ, cha Phêrô Phạm Tiến Hành, Hạt Trưởng hạt Hàm Tân, cha GB. Trần Văn Thuyết, Hạt Trưởng hạt Đức Tánh kiêm Trưởng Ban Loan Báo Tin Mừng GP Phan Thiết, cha Đaminh Trần Xuân Thảo, Trưởng Ban Loan Báo Tin Mừng GP Xuân Lộc, Quý Cha, quý Tu sĩ, Quý khách.

Trước Thánh lễ, cha GB. Nguyễn Hồng Uy, đại diện GĐ TVTM dâng lời chào mừng Đức cha Giuse, quý cha và lược qua đôi nét về quá trình hình thành, phát triển và sinh hoạt hiện tại cùng nỗi niềm thao thức tông đồ của GĐ TVTM Hàm Tân. Niềm vui được tràn đầy hơn khi Đức Cha Giuse đã bổ nhiệm cha GB. Trần Văn Thuyết làm Trưởng ban Loan Báo Tin Mừng GP Phan Thiết. Cha Thuyết đã ưu ái đến thăm GĐ TVTM tại Hàm Tân và Đức Tánh. Các anh chị em GĐ TVTM thuộc GP Phan Thiết muốn trở thành một nhóm tông đồ khiêm tốn dưới sự dẫn dắt của cha, người đã được Đức Giám Mục Giáo Phận cắt đặt để hướng dẫn anh chị em TVTM.

Đức Cha Giuse khởi đầu thánh lễ bằng lời chào chúc anh chị em TVTM nhân ngày Mừng Bổn Mạng. Ngài bày tỏ tâm tình và nhắn nhủ với những thành viên GĐ TVTM trong bài giảng qua gương sống của Thánh Bổn Mạng Phanxicô Xaviê. Thánh nhân đã đáp lại 3 tiếng gọi quan trọng trong cuộc đời mình. Thứ nhất, tiếng gọi từ Lời Chúa trong Tin Mừng: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn thì được ích gì?” (Mt 16,26); Tiếng gọi thứ hai từ tha nhân, bạn bè. Đó là lời Thánh Inhaxiô (Đấng Sáng Lập dòng Tên) nói với ngài: Con người nhiều tham vọng như anh, chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới thoả đáp được những tham vọng ấy. Và thánh Phanxicô đã tận hiến cả cuộc đời mình với châm ngôn “tất cả để cho vinh quang Chúa hơn”. Và tiếng gọi thứ ba đến từ nhu cầu truyền giáo, ngài hăng say đem Tin Mừng Chúa đến với những con người đơn sơ nghèo khó tại Nhật, Ấn Độ, và bỏ mình ở cửa ngõ tiến vào Trung Quốc.

Mỗi Tác Viên Tin Mừng đã được nghe lời Chúa, cảm nghiệm được tình yêu Chúa dành cho mình thì phải làm tươi nở cuộc sống của mình, gia đình và lối xóm của mình bằng cách cùng nhau học hỏi, chia sẻ Lời Chúa, bằng cầu nguyện và dấn thân phục vụ anh chị em đồng loại trong Giáo hội, Xã hội với tâm nguyện để Tin Mừng được nhiều người biết đến và Danh Cha được cả sáng hơn.

Thánh lễ kết thúc với phần trao thưởng cuộc thi tìm hiểu Lời Chúa ngày 30.11.2010. Kết quả, gia đình Châu Thủy đoạt giải nhất tập thể với 53/60 điểm. Giải đồng hạng cá nhân đạt 20/20 điểm thuộc về anh GB. Đậu Quang Ngọc (Gx Đồng Tiến) và anh Phêrô Nguyễn Quang Tài (Gx Châu Thủy).

Cha Đaminh Trần Xuân Thảo, được cộng đoàn ưu ái gọi là “Ông Tổ của Gia đình Tác Viên Tin Mừng” trong bữa cơm huynh đệ, đã bày tỏ sự vui mừng khi thấy GĐ TVTM tại GP Phan Thiết phát triển mạnh mẽ với sự quan tâm khích lệ của Đức Cha Giuse, Quý Cha Hạt Trưởng và quý cha tại các giáo xứ.

Riêng tại Hàm Tân, từ nhóm 5 giáo dân đầu tiên của giáo xứ Châu Thuỷ được tham dự khoá đào tạo Tác viên Tin Mừng tại Giáo xứ Hà Nội (Gp Xuân Lộc) năm 2007, hiện nay GĐ TVTM Hàm Tân đã có 200 thành viên, phân thành nhiều nhóm “chia sẻ Lời Chúa” tại nhiều giáo xứ. Chuẩn bị tâm tình mừng Bổn Mạng, GĐ TVTM Hàm Tân đã có 3 ngày Tĩnh tâm học hỏi Lời Chúa. Ba điểm nhấn hiện nay trong hoạt động của GĐ TVTM là: Xây dựng đời sống thiêng liêng của bản thân; dấn thân hoạt động tông đồ; Giúp đào tạo các thành viên mới. Trong 2 năm 2008-2009, chỉ riêng mảng công việc bác ái, GĐ TVTM Hàm Tân đã chi khoảng 40 triệu đồng giúp người nghèo về y tế, giáo dục và xóa đói giảm nghèo.
 
Trường ca Trang Sử Mẹ Quê Hương Việt Nam của LM Nhạc sĩ Văn Chi
Võ Đại Tôn
08:12 04/12/2010
Từng sợi tóc bạc trên đầu tôi sau hơn nửa đời lưu vong tưởng chừng như chảy tan thành lệ, hòa vào lời nguyện xin Hồng Ân Thượng Đế cho Quê Hương Dân Tộc, trong ánh sáng chập chờn của ngọn nến dâng cao. Nhà hàng Crystal Palace không còn một chỗ trống, hơn 700 tấm lòng đang thổn thức hướng về bóng đêm đất Mẹ. Sự im lặng nhiệm mầu với mỗi hơi thở của từng con tim viễn xứ là một lời nguyện cầu quyện chung giòng máu cội nguồn. Đức tin tôn giáo vượt qua mọi biên giới do con người vạch tuyến, từ những tín hữu Thiên Chúa Giáo đang âm thầm vác nặng trên vai Thánh Giá đến bạn đồng hương tuy không cùng chung đạo, mọi người đều âm thầm gánh nỗi đau cùng Tổ Quốc. Lời hát quốc ca Úc-Việt lại vang lên, và trong phút mặc niệm dường như vong linh những người đã hy sinh vì Tổ Quốc Tự Do đang hiện về để lắng nghe Giai Điệu Tri Ân do Liên Ca Đoàn Lê Bảo Tịnh hợp xướng trang trọng và đầy xúc động.

Tôi đứng lặng, bàng hoàng, tự thấy mình nhỏ bé trên hành trình Tận Hiến. Tiếng trống Diên Hồng lại nổi lên, trang sử kiêu hùng và hợp nhất của Dân Tộc ngàn xưa lại bùng lên rộn ràng, hòa chung vũ khúc Con Có Một Tổ Quốc Việt Nam, nao nao lòng người với quá khứ lẫm liệt của Tiền Nhân, với tận cùng khổ nạn trên quê hương hiện tại và với lời nguyện cầu Hồng Ân cho tương lai bừng sáng về một Mùa Xuân Dân Tộc vĩnh hằng.

Qua phần khai mạc đêm Hân Hoan Niềm Vui Giáng Sinh 2010, trang trọng và nao lòng cùng hướng về Đất Mẹ, nhất định Tin Mừng sẽ đến, là lời giới thiệu chân tình của ông Nguyễn Văn Thanh, Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do tiểu bang NSW về Linh Mục Nhạc Sĩ Văn Chi, tác giả Trường Ca Trang Sử Mẹ Quê Hương Việt Nam và Liên Ca Đoàn Lê Bảo Tịnh. 35 năm lìa xa Tổ Quốc cũng là hành trình 35 năm bước theo các chặng đường Thánh Giá trong thiên chức Linh Mục của người nhạc sĩ tài hoa Văn Chi với nguồn sáng tác dường như bất tận về Thánh Ca và Quê Hương, 39 năm dìu theo giòng nhạc Trầm Khúc Hoan Ca đem Đạo vào Đời theo mệnh Nước nổi trôi với Tâm Nguyện trọn lời Tận Hiến, ngay từ trong bóng tối lao tù vì giữ vẹn Đức Tin.

Vị Linh Mục trẻ từ 35 năm về trước, từ giáo xứ Thái Hòa, địa phận Long Xuyên, sau ngày miền Nam bị cộng sản cưỡng chiếm, tù nhân vì tội sáng tác Thánh Ca trong chế độ Vô Thần, người tỵ nạn lưu vong, nhạc sĩ mang tên Văn Chi quen thuộc trong Đời và Đạo, bước lên diễn đàn đọc lời Nguyện Cầu Mẹ La-Vang trong ánh nến chập chờn ảo ảnh, thoáng hiện Vũ Điệu cùng tiếng đồng ca Gần Nhau Trao Cho Nhau, với trọn niềm Giao Cảm. Tác phẩm Hân Hoan Niềm Vui và Trang Sử Mẹ Quê Hương Việt Nam, Linh Mục Nhạc Sĩ Văn Chi đã viết bằng hơi thở và giòng máu đầy Tình Thương Nhân Loại, Tình Yêu Quê Hương, Đức Tin son sắt một đời rao giảng Tin Lành, được trang trọng trình diện cùng cử tọa đang hân hoan chào đón. Tiếng pháo bông nhỏ nổ vang, tủa rụng hàng ngàn cánh hoa long lanh màu sắc chen lẫn tiếng vổ tay mừng vui rộn ràng của những tấm lòng cùng chung Tâm nguyện trong Đêm Hồng Ân. Bóng dáng của người chăn chiên-nhạc sĩ nổi danh trông rất bình thường, khiêm cung, hòa chung cùng anh chị em ca đoàn trên sân khấu nhưng vẫn tỏa nét rạng rỡ riêng biệt như được bao phủ bằng ánh sáng Phúc Âm và Nghệ Thuật một đời phục vụ Nhân Sinh và Dân Tộc. Xin Tạ Ơn Mẹ Việt Nam đã cho thêm Đời một người Con biết giữ thơm và phát huy Lẽ Sống, vượt qua trăm ngàn thử thách cam go để bảo tồn Niềm Tin và sức Sáng Tạo vì Chân Thiện Mỹ.

Đêm ca nhạc Hân Hoan Niềm Vui và giới thiệu tác phẩm Trường Ca Mẹ Quê Hương Việt Nam được tiếp diễn với Liên Ca Đoàn Lê Bảo Tịnh qua đồng ca hoặc dơn ca với nhiều anh chị em nghệ sĩ nổi danh trong sinh hoạt thánh ca và văn nghệ cộng đồng tỵ nạn. Qua lời giới thiệu nồng nhiệt của các MC Trường Giang và Hồng Phúc, có lúc hào hứng vui tươi, có khi thanh thoát nhẹ nhàng, toàn bộ chương trình ca nhạc và vũ điệu dài suốt mấy tiếng đồng hồ đến tận khuya, đã đưa âm nhạc thánh thiện và hơi thở quê hương vào tận mỗi lòng người tham dự. Người nhạc sĩ được lòng yêu kính của mọi người đã đi đến từng bàn, trao cho nhau những nụ cười hân hoan, những bắt tay nồng ấm, và đặc biệt là Niềm Tin như trong lời ca từng vang lên vào những đêm Giáng Sinh mầu nhiệm “Bình An dưới thế cho người Thiện Tâm”. Bình An trên quê hương bên kia bờ đại dương để cái Ác không còn hiện diện trong kiếp sống và nỗi đau từng ngày của người dân đang gánh chịu muôn vàn khổ nạn.

Tôi lắng nghe từng ca khúc qua phong cách trình diễn của từng ca sĩ, mỗi người một truyền cảm đặc biệt, chuyên nghiệp hoặc tài tử, quá nhiều, xin lỗi không thể ghi nhớ hết tên. Chỉ xin tận lòng thân gửi một lời Tạ Ơn. Từ các nhạc phẩm Tìm Về Mẹ Yêu, Phó Thác Đời Lữ Hành, Về Đây Với Mẹ, Cho Con Sứ Vụ Hồng Ân, Như Một Lời Cầu, Hân Hoan Niềm Vui...qua các vũ điệu với dáng dấp ngây thơ trong sáng của các em, hóa trang thành tu sĩ, nét thiên thần tỏa sáng qua ánh nến lung linh, tâm hồn tôi như đang chìm đắm trong một giấc mơ đuợc trở về quê cũ. Nơi đó sẽ không còn hận thù, tang tóc, và Con người không còn là Ác Thú trong hằng xử với nhau, Nhân Phẩm và Đức Tin vàng rực hướng dương trên từng nẻo đường quê hương. Linh Mục Nhạc Sĩ Văn Chi, sinh ra và lớn lên từ miền Bắc, sẽ lại về tắm trong dòng nước sông Hồng cho hết bụi lưu vong, hòa nhạc chung cùng các điệu quan họ Bắc Ninh một thời xa xưa của Dân Tộc, tôi sẽ được về vẫy vùng trên bến nước Thu Bồn Quảng Nam không còn xác mẹ trôi sông, hoặc cùng nhau về lại giáo phận Thái Hòa, Long Xuyên, ngồi nghe vọng cổ trong hương đồng gió nội thân yêu.

Ra về, trong ánh đèn đường xứ lạ, tôi nhớ lại bản trường thi Dòng Nước Mắt Của Mẹ mà tôi đã sáng tác qua trí nhớ trong lao tù cộng sản, cũng vào một đêm giáng sinh, có hai câu kết, xin kính tặng Linh Mục Nhạc Sĩ Văn Chi cùng anh chi em Ca Đoàn Lê Bảo Tịnh, đồng cảm trên hành trình còn lại trong đời:

Dù là bụi, xin vuông tròn hạt bụi,
Lăn theo đường Thánh Giá của Cha đi
!”.

Úc Châu, đêm 03.12.2010
 
Ngày Văn Hóa Liên Ca Đoàn Lê Bảo Tịnh Sydney
Diệp Hải Dung
21:27 04/12/2010
SYDNEY - Tối thứ Sáu 03/12/2010 trên 700 người trong Cộng Đồng Người Việt Tự Do đã đến nhà hàng Crystal Palace vùng Canley Heights tham dự Ngày Văn Hóa Liên Ca Đoàn Lê Bảo Tịnh Sydney với chủ đề Dạ Ca Hân Hoan Niềm Vui trong Mùa Giáng Sinh của 35 năm viễn xứ và kỷ niệm 35 năm Linh Mục Nhạc Sĩ Paul Văn Chi Tuyên Úy Đặc trách Liên Ca Đoàn Lê Bảo Tịnh TGP Sydney (1989 – 2010) đồng thời phát hành tuyển tập và CD Trường Ca Trang Sử Mẹ Quê Hương Việt Nam và CD Hân Hoan Niềm Vui của Liên Ca Đoàn Lê Bảo Tịnh.

Xem hình ảnh

Khai mạc chương trình Dạ Ca Hân Hoan Niềm Vui với nghi thức chào cờ Úc Việt linh thiêng trang trọng. Liên Ca Đoàn đồng ca nhạc phẩm Liên Ca Đoàn Giai Điệu Tri Ân mừng 21 năm phục vụ Thánh Nhạc. MC Hồng Phúc và Trường Giang giới thiệu mọi người thưởng thức Tiếng Trống Diên Hồng với Vũ Khúc Con Có Một Tổ Quốc Việt Nam, lời của Đức Cố Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận, phổ nhạc do Linh Mục Văn Chi. Vũ Điệu và Tiếng Trống Diên Hồng quyện vào nhau rất vĩ đại, linh thiêng, và trang trọng khai mạc cho Ngày Văn Hóa Liên Ca Đoàn đan kết với tiếng pháo bông vui tươi rộn rã để chào đón mọi người. Sau đó anh Hoàng Minh Hùng, Liên Ca Đoàn Trưởng ngỏ lời chào mừng quý Cha, quý Quan Khách Úc Việt, và tất cả mọi người đã đến tham dự đêm Dạ Ca Hân Hoan Niềm Vui. MC Trường Giang giới thiệu ông Nguyễn Văn Thanh, Chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do tiểu bang NSW và cũng là Cựu Chủ Tịch CĐCGVN Sydney, người đã sát cánh với Linh mục Nhạc Sĩ Paul Văn Chi xuyên suốt 21 năm phục vụ trong Cộng Đồng Công Giáo tại Sydney lên phát biểu và chia sẻ về những tác phẩm của Linh Mục Nhạc Sĩ Paul Văn Chi.

Cha Paul Văn Chi cùng với 5 vị Cựu Liên Ca Đoàn Trưởng Vũ Đức Thắng, Trần Đăng Cao, Nguyễn Quốc Hào, Dương Văn Tiên, và Hoàng Minh Hùng, lên sân khấu ra mắt với tất cả mọi người. Linh Mục Văn Chi cùng mọi người thắp lên ngọn nến Cầu Nguyện và vang hát bài Nguyện Cầu Mẹ La Vang, Mẹ Việt Nam do Cha sáng tác. Cả Hội Trường sốt sắng với cả 700 ánh nến thiết tha cầu nguyện cho Dân Tộc và Quê Hương Việt Nam. Sau nghi thức thắp nến cầu nguyện cho Quê Hương Việt Nam, Linh Mục Nhạc Sĩ thân mời Cha Tuyên Úy Trưởng Nguyễn Khoa Toàn cùng lên để giới thiệu và phát hành Tác Phẩm Trường Ca Trang Sử Mẹ Quê Hương Việt Nam và CD Hân Hoan Niềm Vui của Liên Ca Đoàn. Cha Tuyên Úy Trưởng Nguyễn Khoa Toàn vinh danh Liên Ca Đoàn Lê Bảo Tịnh đã đóng góp rất nhiều cho Cộng Đồng, nhất là 16 Ca Đoàn ở những Giáo Đoàn đã đem lời ca tiếng hát dâng lên chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa và điểm tô cho những buổi lễ được thêm phần long trọng sốt sắng. Ngài chúc mừng Cha Paul Văn Chi đã sáng tác hơn một ngàn nhạc phẩm cống hiến cho nền Văn Hóa Âm Nhạc Việt Nam được thêm phong phú đa dạng.

Phần Văn Nghệ được tiếp tục với những màn Đơn Ca, Song Ca, Tam Ca, Tứ Ca, Ngũ Ca, Hợp Ca, Vũ Điệu, Hoạt Cảnh rất đặc sắc và đượm tình quê Hương do Liên Ca Đoàn, Dàn Trống Diên Hồng, và ban nhạc trẻ LBT Melody cùng phối hợp trình diễn. Đặc biệt anh Hoàng Minh Hùng thay mặt Cha Văn Chi và Liên Ca Đoàn đóng góp trợ giúp Xây Dựng Trung Tâm Hành Hương Thánh Mẫu Brìngelly $5000.00 Úc Kim và giúp cho một tổ chức Bác Ái Vinh Sơn $1500.00, giúp nạn nhân xấu số Cồn Dầu lưu lạc tha hương 1000.00 Úc Kim. Ông Giang Văn Hoan Chủ tịch CĐCDVN TGP Sydney thay mặt Cộng Đồng ngỏ lời cám ơn Linh Mục Nhạc Sĩ Paul Văn Chi và cũng nói lên tâm tình của một Đoàn Trưởng Ca Đoàn Hương Trường Giang nổi tiếng xưa kia ở Việt Nam về những kỷ niệm với Linh Mục Nhạc Sĩ và Liên Ca Đoàn Lê Bảo Tịnh. Cha Mai Đào Hiền thay mặt Hội Bác Ái Vinh Sơn nhận món quà bác ái và cám ơn Liên Ca Đoàn Lê Bảo Tịnh.

Anh Đinh Đức Tâm đại diện Liên Ca Đoàn ngỏ lời cám ơn quý Cha, quý Quan Khách Úc Việt, quý cơ quan truyền thông báo chí và tất cả mọi người đã đến tham dự Ngày Văn Hóa Liên Ca Đoàn Lê Bảo Tịnh Sydney tổ chức đêm Dạ Ca Hân Hoan Niềm Vui của Liên Ca Đoàn tròn 21 tuổi phục vụ, được gặt hái nhiều kết quả rốt đẹp. Để kết thúc, Linh Mục Nhạc Sĩ cám ơn quý ân và các anh chị em trong Ban Tổ Chức Liên Ca Đoàn đã đóng góp công sức để tổ chức thành công mỹ mãn trong tiếng hát We Wish You A Merry Christmas And A Happy New Year của dàn đồng ca kết hợp tất cả các đoàn trưởng, ca trưởng, Ban Tổ Chức Liên Ca Đoàn, với 16 Ca Sĩ trong CD Hân Hoan Niềm Vui trong nhịp trống yêu thương với dàn pháo bông hân hoan rộn rã để kính chúc mọi người một Mùa Giáng Sinh 2010 hồng phúc và một năm mới 2011 khang an, hạnh phúc, và thành công. Đêm Văn Hóa Hân Hoan Niềm Vui của Liên Ca Đoàn Lê Bảo Tịnh đã bế mạc trong tưng bừng niềm vui vào lúc 11.30pm.
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Ý Niệm Thiên Sai Trong Kitô Giáo
Vũ Văn An
23:46 04/12/2010
Cứ theo trình bày của giáo sĩ Henry I. Sobel tại Ủy Ban Quốc Gia Đối Thoại Giữa Người Do Thái Giáo Và Người Công Giáo, ở Sao Paolo, Brazil năm 1982 (1), đấng thiên sai mà người Do Thái vẫn đang mong chờ chỉ là một đấng thiên sai trần thế, phục hồi Israel trở lại thời hoàng kim của Đavít và nhất là thống trị nhân loại. Đấng thiên sai ấy không hề có phẩm tính Thiên Chúa, chỉ là “Ben Adam” (con của người), nhưng sẽ thiết lập được Nước Thiên Chúa trên trần gian này. Đấng ấy chưa đến vì sự ác vẫn còn thống trị, chiến tranh vẫn còn tàn phá, bóc lột vẫn còn ngự trị, đau khổ và chết chóc vẫn là những điều ta gặp hàng ngày. Ông cho rằng Kitô giáo sai lầm khi coi đấng thiên sai là chính Đức Giêsu và do đó đấng thiên sai ấy đã đến trần gian rồi. Thực ra, Kitô giáo hiểu gì về việc Cựu Ước hay Thánh Kinh Do Thái nói tới đấng thiên sai, đấng được xức dầu, đấng Mêxia hay đấng Kitô?

John P. Meier, trong mục “Jesus” thuộc bộ The New Jerome Biblical Commentary (2) khi nói về tước hiệu Thiên Sai hay đấng Được Xức Dầu, đã cho rằng tước hiệu và hình ảnh Thiên Sai rất khó thảo luận bởi lẽ không hề có một ý niệm duy nhất về đấng này phải như thế nào. Thực thế, một số hoài mong cánh chung của Do Thái hoàn toàn không nhắc gì tới đấng Thiên Sai; hạn từ này chỉ có nghĩa là người được xức dầu. Mà trong Cựu Ước, các tư tế và đôi khi tiên tri đều là những người được xức dầu, cũng như các vị vua; do đó, đấng Mêxia không nhất thiết phải là một ông hoàng dòng dõi Đavít. Qumran thì chờ mong cả đấng Mêxia tư tế, dòng Aaron, đấng Mêxia vương giả dòng Vua Đavít lẫn đấng Mêxia như một tiên tri cánh chung. Nhận định như thế rồi Meier cho một “giả định”: nếu Chúa Giêsu tự coi mình là một tiên tri cánh chung được xức dầu với Thần Khí, như Isaia 61:1-3 (xem Luca 4:16-21; 7:22 và tiếp theo) đã nhắc, thì theo nghĩa đó, Người là một đấng Mêxia: đấng Mêxia tiên tri, hay đấng tiên tri được xức dầu của thời cánh chung. Không có một bằng chứng nào cho thấy Chúa Giêsu từng trực tiếp mô tả mình như đấng Mêxia theo nghĩa vương gia Đavít. Tuy nhiên, cũng không có bằng chứng nào Người minh nhiên và rõ ràng bác bỏ một tước hiệu như thế. Khi Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là đấng Mêxia (Máccô 8:29; Luca 9:20; hãy so sánh với Mátthêu 16:16-19), Chúa Giêsu đã phản ứng một cách khá dè dặt. Đôi lúc, người ngoài thưa với Chúa Giêsu hay nói về Người như “Con Đavít” (Máccô 10:47-48), nhưng Chúa Giêsu không trực tiếp nhìn nhận tước hiệu ấy. Cùng lắm, Người chỉ mập mờ nhắc đến tước hiệu ấy như trong Máccô 12:35-37 lúc Người “ỡm ờ” hỏi: “Sao các kinh sư lại nói đấng Kitô là con vua Đavít?... Chính vua Đavít gọi đấng Kitô là Chúa Thượng, thì đấng Kitô lại là con vua ấy thế nào được?”.

Theo Meier, bất chấp sự dè dặt của Chúa Giêsu, các môn đệ, ngay lúc sinh tiền của Người, luôn nghĩ Người là đấng Mêxia dòng dõi Đavít. Nếu không, việc họ sớm đồng hóa Người, ngay sau biến cố Phục Sinh (Rm 1:3-4; Cv 2:36; 2 Tm 2:8), với đấng Mêxia dòng dõi Đavít sẽ không giải thích được vì lúc đó, người Do Thái không hề có một quan niệm duy nhất về đấng Mêxia trần thế, dòng dõi Đavít, đấng phải chết và sống lại trong lịch sử tiếp diễn. Biến cố phục sinh chỉ có thể dùng như một chất xúc tác và được giải thích như việc đăng quang Con Vua Đavít nếu trước đó các môn đệ đã nuôi dưỡng trong mình một ý niệm nào đó về Chúa Giêsu như đấng Mêxia dòng dỏi Đavít.

Sau cùng, Meier cho hay: việc các địch thủ lúc Người còn sống giải thích các hành vi và lời Người nói theo nghĩa Mêxia vương giả xem ra đã được củng cố bởi lời kết án mà do đó Người đã bị điệu ra trước Philatô: “Vua Dân Do Thái”.

Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, với tư cách một thần học gia, trong “Đức Giêsu Thành Nadarét” cuốn 1, có nhắc tới tước hiệu Mêxia, nhưng chỉ dành cho nó không đầy 10 dòng với nhận định: “Tự chính danh xưng đầu tiên (tức Mêxia) không có nhiều ý nghĩa ngoài nền văn hóa Semitic” (3). Ở phần bàn về tước hiệu “Con Người”, Đức Bênêđíctô XVI cho hay thực ra cuốn sách của ngài không chủ ý nói tới các tước hiệu của Chúa Giêsu mà tìm hiểu về con đường trần thế và việc giảng dạy của Người. Tuy nhiên, dường như ngài còn dè dặt hơn Meier về tước hiệu này. Ngài viết: “Thật ra, Đức Giêsu không dùng danh xưng Mêxia cho chính mình”. Và giống Meier, Đức Bênêđíctô XVI Thần Học Gia cũng cho rằng mỗi khi tước hiệu đó được gán cho Người, Người đều ra lệnh cho người ta phải im lặng. Đối với tấm bảng “Vua dân Do Thái” gắn trên đầu thập giá, ngài cho hay: không chỗ nào thích hợp bằng, vì “thập giá là ngai tòa của Người và như thế, thập giá đưa ra cách chú giải chính xác về danh xưng này”(4). Nhưng nếu “Danh xưng này không còn chức năng của nó như một danh xưng nữa và đã nối kết với tên của Đức Giêsu: Đức Giêsu Kitô” (5), thì hiển nhiên nó phải có nhiều ý nghĩa và chính vì những ý nghĩa này, người Do Thái, cho tới nay, nhất mực bác bỏ tước hiệu Mêxia hay Kitô khỏi tên Giêsu.

Thực ra, theo Catholic Encyclopedia, ấn bản năm 1914, tước hiệu Mêxia chỉ xuất hiện hai lần trong Đanien 9:26 và Thánh Vịnh 2:2. Thực thế, các lời tiên tri đầu hết ngỏ với Ápraham và Ixaác (St 18:17-19; 26:4-5) chỉ nói tới việc ơn giải thoát sẽ xuất hiện từ dòng dõi của họ. Mãi sau này, phẩm giá vương giả của vị giải thoát đó mới được nói tới. Ngài được diễn tả như một vị vua thuộc dòng Giacóp (Ds 24:19), dòng dõi Giuđa (St 49:10) và dòng dõi Đavít (2 Sm 7:11-16). Đoạn sau cùng này rõ ràng chỉ về đấng thiên sai. Nước của Người sẽ trường cửu (2 Sm 7:13). Lãnh thổ Người không có bờ cõi (Tv 72:8); mọi dân tộc sẽ phụng sự Người (Tv 72:11). Địa vị anh hùng dân tộc được nhấn mạnh ở đây: Người mang ơn giải thoát đến cho Israel và Giuđa (Gr 23:6), chiến thắng kẻ thù của hai dân tộc này bằng sức mạnh (xem vị vua dũng sĩ của Tv 46). Ngay trong các phần sau của Isaia (như 61:5-8), dù cho hay các dân tộc khác có dự phần vào vương quốc này, nhưng chỉ như nô dịch chứ không hẳn thừa kế, với việc nhấn mạnh Người sẽ nâng Giêrusalem lên đài vinh quang và thiết lập nền thần quyền cho Israel.

Tuy nhiên ở phần này, đã thấy xuất hiện ý niệm đấng Mêxia như tôi trung Thiên Chúa. Người là mũi tên chọn lọc, miệng Người như gươm sắc. Thần Khí Thiên Chúa tràn đổ trên Người và lời Thiên Chúa được đặt vào miệng Người (42:1; 49:1 và tiếp theo). Khí cụ tạo nên sức mạnh của Người là mạc khải Thiên Chúa. Các dân tộc chờ mong giáo huấn của Người; Người là ánh sáng muôn dân (42:6). Người thiết lập vương quốc của Người không phải bằng biểu dương sức mạnh vật chất, mà bằng khiêm tốn và đau khổ, vâng theo lệnh Thiên Chúa mà hy sinh mạng sống mình để cứu thoát muôn người. “Nếu Người hiến thân làm lễ vật đền tội, Người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn” (53:10); “Vì thế, Ta sẽ ban cho Người muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, Người sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì Người đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân” (53:12). Nước Người sẽ gồm đám đông được Người cứu chuộc bằng việc đền tội thay, một việc đền thay không giới hạn vào chủng tộc và thời gian, mà áp dụng cho muôn người.

Tuy nhiên, mô tả có tính tiên tri về đấng Mexia có tầm quan trọng đặc biệt hơn cả phải kể chương 7 sách Đanien, một công trình sau này của Do Thái Giáo. Mô tả này gây ảnh hưởng rất lớn cho các khai triển về sau của học lý thiên sai. Trong chương này, đấng Mêxia được mô tả như “Con Người” (Son of Man, Ben Adam). Giáo Sĩ Sobel, khi trích dẫn thuật ngữ này, đã bỏ qua không nhắc gì tới mô tả tỉ mỉ của Đanien, có lẽ muốn để chứng minh rằng đấng Mêxia ấy chỉ là một người phàm. Thực ra, theo Đanien, vị này xuất hiện trên mây trời, ngự bên tay phải Thiên Chúa để khai mở thời đại mới, không phải bằng chiến thắng dân tộc hay đền tội thay, mà qua việc thực thi thẩm quyền phán xét toàn thể thế giới, một thẩm quyền vốn thuộc Thiên Chúa. Các công trình khải huyền từng gây ảnh hưởng trên đời sống tôn giáo của người Do Thái suốt hai thế kỷ trước Chúa Kitô đã dựa vào mô tả tiên tri này.

Tuy nhiên một điều cần ghi nhớ là song song với loạt lời tiên tri này đề cập tới việc thiết lập ra một vương quốc dưới quyền một thiên sai, người ta cũng thấy một loạt lời tiên tri khác nói tới sự thống trị của chính Thiên Chúa. Một trong các lời đó, chính là Isaia chương 40: “Hãy cất tiếng lên cho thật mạnh. Cất tiếng lên, đừng sợ, hãy bảo các thành miền Giuđa rằng: ‘Kìa Thiên Chúa các ngươi! Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền” (40:9-10). Việc dung hòa hai loạt lời tiên tri này, tìm thấy trong nhiều đoạn văn Thánh Kinh, nhất là trong Thánh Vịnh 2 và Isaia 7-11, cho thấy rõ thần tính của đấng thiên sai: “Danh hiệu của Người sẽ là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9:5). Tất cả những tước hiệu này đã được nhiều đoạn văn Thánh Kinh khác gán cho chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự hoà giải minh nhiên và đầy đủ nhất chỉ tìm thấy trong mầu nhiệm Nhập Thể của Kitô Giáo. Thật khác xa với cố gắng của Sobel nhằm chứng mình đấng Mêxia chỉ là một người phàm.

Thực ra giáo sĩ Sobel cũng đã không trình bày trung thực và đầy đủ học lý thiên sai của giai đoạn sau này trong Do Thái Giáo. Trong giai đoạn ấy, người ta thấy rõ hai trường phái khác biệt và đi song song với nhau: một trường phái nhấn mạnh tới lý tưởng quốc gia, dựa trên việc giải thích có tính chiểu tự đối với các lời tiên tri ban đầu. Trường phái kia chủ trương lý tưởng khải huyền, dựa phần chính vào Đanien. Lý tưởng quốc gia trông đợi việc thiết lập Nước Thiên Chúa trên trần gian dưới sự trị vì của Con Vua Đavít, việc chinh phục và khuất phục dân ngoại, tái thiết Giêrusalem và Đền Thờ, và tụ tập những người đã tứ tán. Trái lại, lý tưởng khải huyền thì phân biệt aion outos (thời hiện tại) và aion mellon (thời sẽ đến). Thời sẽ đến ấy sẽ được khai mở bằng cuộc phán xét của Thiên Chúa đối với nhân loại, một cuộc phán xét sẽ đến trước việc sống lại của người chết. Đấng Mêxia, vốn hiện hữu từ thuở khởi nguyên của thế giới, sẽ xuất hiện vào ngày chung cuộc và lúc ấy Giêrusalem trên trời sẽ xuất hiện làm nhà ở cho những kẻ được chúc phúc.

Lý tưởng quốc gia là đặc trưng của phái Pharisêu. Bởi thế, Talmud không hề nói tới lý tưởng khải huyền. Các luật sĩ đương nhiên chỉ bận bịu với Lề Luật, nhưng song song với bận bịu này là việc khai triển ra một niềm hy vọng vào một Nước Thiên Chúa trên trần gian. Niềm hy vọng ấy không có bóng dáng hạnh phúc hay phần thưởng đời sau. Sẽ có chiến tranh, lửa từ trời, mặt trời ra tối tăm, sao chổi rơi rụng, nhưng kết cục sẽ là một tình trạng thịnh vượng trên trần gian. Đấng Mêxia, từ Phương Đông, sẽ thống trị toàn diện như một anh hùng dân tộc chiến thắng. Các câu 573-808 trong Sibyl. III và Thánh Vịnh Salomon (ngụy thư Do Thái) nói tới những điểm này. Người Biệt Phái vẫn coi luật lệ mà thôi không đủ để đánh thắng kẻ thù, nhưng vì là người tôn giáo, họ không thể dựa vào thế quyền để giải quyết các khó khăn của họ, họ đành phải trông mong vào sự can thiệp lạ lùng của Thiên Chúa qua môi giới đấng thiên sai thuộc nhà Đavít. Họ dựa vào Thánh Vịnh 18 để mô tả triều đại của đấng này: ngài chinh phục dân ngoại, xua đuổi chúng khỏi lãnh thổ của chính chúng, tiêu diệt chúng…

Lý tưởng khải huyền dù ít có ảnh hưởng tại Giêrusalem, vốn là thành lũy của chủ nghĩa Rabbi, nhưng lại có ảnh hưởng nhiều ở bên ngoài. Và do đó, có thể được coi là niềm hy vọng của đại đa số người Do Thái. Trước cuộc phục hưng của nhà Asmonean (thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên), Israel hầu như không còn là một quốc gia nữa, và do đó, niềm hy vọng vào một đấng Mêxia anh hùng dân tộc trở nên leo lét. Thành ra, trong các trước tác khải huyền đầu tiên, người ta ít nói tới đấng Mêxia. Ở phần đầu Sách Ênốc (i-xxxvi), ta thấy một điển hình cho các loại trước tác này. Sách không nói tới việc xuất hiện của một ông hoàng phàm nhân, nhưng là sự giáng lâm của Thiên Chúa trên núi Xinai để phán xét thế giới, đã phân chia thời gian thành hai thời kỳ. Người công chính sẽ nhận được ơn khôn ngoan và trở nên không có tội. Họ sẽ sống nhờ cây sự sống và được hưởng một tuổi thọ lâu dài hơn các tổ phụ.

Các chiến thắng của anh em Maccabê đã làm nức lòng toàn dân cả theo nghĩa chính trị lẫn tôn giáo. Các nhà trước tác vào thời kỳ đầu của triều đại Asmonean, vì cho rằng giống nói mình đã phục hồi được vinh quang xưa, nên không còn coi thường niềm hy vọng vào một đấng Mêxia bằng xương bằng thịt sẽ tới thống trị vương quốc thời đại mới nữa. Nhưng vấn đề là làm sao nối kết được những nhà giải phóng hiện nay vốn thuộc họ Lêvi với đấng Mêxia vốn phải thuộc dòng Giuđa. Giải pháp, vì thế, phải coi thời hiện tại chỉ như bình minh của thời đại thiên sai. Các công trình khải huyền của thời này bao gồm Sách Hồng Ân (Book of Jubilees), Ước Thư của Mười Hai Tổ Phụ, và Thị Kiến Các Tuần Lễ Của Ênóc. Trong Sách Hồng Ân, các lời hứa ngỏ với Lêvi, và nên trọn nơi các vị vua tư tế của Nhà Asmonean, đã vượt xa những lời hứa ngỏ với Giuđa. Đấng Mêxia chỉ là khuôn mạo mờ nhạt và người ta ít nhấn mạnh tới việc phán xét. Ước Thư Của Mười Hai Tổ Phụ là một công trình hỗn hợp. Phần nền tảng, nhấn mạnh tới việc hiển dương chức tư tế, có trước năm 100 trước Công Nguyên; tuy nhiên, nhiều thêm thắt của người Do Thái sau này, có tính không ưa chức tư tế, và nhiều pha chế của người Kitô Giáo nữa, khiến cho người ta không xác định được đâu là khuôn mạo chính. R.H. Charles, trong “Testaments of the Twelve Patriarchs” (tr. xcviii) cho rằng công trình ấy vẽ đấng Mêxia như một người thuộc nhà Lêvi nhưng lại thể hiện được các lý tưởng thiêng liêng cao qúy nơi Đấng Cứu Thế của Kitô Giáo. Trái lại Lagrange, trong “Le Messianisme chez les Juifs” (tr. 69 và tiếp theo) lại nhấn mạnh rằng chân dung kia chỉ là hậu quả của việc pha chế Kitô Giáo; nếu bỏ các pha chế này đi, thì nguyên tuyền chỉ còn lại lời ca tụng những anh hùng giải phóng quốc gia và tôn giáo của nhà Asmonean, hay chức tư tế vương giả. Sự nổi bật của Lêvi là điều thấy rõ. Thị Kiến Các Tuần Lễ Của Ênốc, có lẽ xuất hiện trong cùng một thời kỳ, nhưng khác với công trình trước ở chỗ nhấn mạnh tới phán xét.

Như thế, các chiến thắng của nhà Asmonean đã sản sinh ra một cánh chung học với sự xuất hiện của một đấng Mêxia bản vị, dù thời hiện tại được tán dương như buổi bình minh của hồng ân thiên sai. Tóm lại, dựa vào Cựu Ước, hay Thánh Kinh Do Thái, khuôn mạo đấng Mêxia phức tạp và càng ngày càng gần với khuôn mạo đấng Mêxia theo Kitô Giáo, không đơn giản và một chiều như trong trình bày của giáo sĩ Sobel.

Phẩm giá thiên sai nơi Chúa Kitô

Theo Catholic Encyclopedia, hai điểm cần nhấn mạnh là chính Chúa Kitô đã minh nhiên coi mình là đấng Mêxia và các lời Người nói và việc Người làm đã mặc nhiên minh chứng Người là chính đấng ấy.

Về điểm thứ nhất, ta căn cứ vào lời tuyên tín của Thánh Phêrô trong Mátthêu 16 và lời của Chúa Kitô trước mặt các thẩm phán. Thực ra, qua các biến cố này, Chúa Kitô không hẳn chỉ chú tâm tới tước hiệu Mêxia mà chú tâm tới địa vị Con Thiên Chúa của Người. Lời Chúa Kitô ngỏ với Thánh Phêrô đã rõ ràng không cần bình luận thêm. Còn điều Chúa Kitô tuyên bố với Thượng Hội Đồng và Philatô, thì theo các trình thuật Mátthêu và Luca, dường như thoạt đầu, Chúa Giêsu không muốn trả lời trực tiếp câu hỏi của thượng tế: “Ông có phải là đấng Mêxia không?”. Theo hai tin mừng này, Người chỉ nói rằng “ông nói đấy nhá” (su eipas), nhưng theo Thánh Máccô, câu trả lời của Người là ego eimi (vâng, tôi là đấng ấy), và câu trả lời ấy được người Do Thái hiểu rất rõ nó có nghĩa gì. Vả lại, Gustav Dalman, trong “Words of Jesus” (tr.309 và tiếp theo) có dẫn chứng nhiều thí dụ trong văn chương Do Thái trong đó, kiểu nói “ông nói đấy nhá” tương đương với câu “ông nói đúng”, nghĩa là đồng ý với người đối thoại, nhưng không coi điều đồng ý ấy quan trọng lắm. Nghĩ cho cùng, đây là điều không hẳn phi lý, vì tước hiệu thiên sai, thật ra, chỉ là thứ yếu so với thần tính mà Người sẽ xác quyết ngay sau đó, một xác quyết khiến vị thượng tế tố cáo Người phạm thượng. Chính việc tự cho mình là Thiên Chúa mới làm Thượng Hội Đồng Do Thái viện cớ để đòi án tử hình cho Người. Trái lại, trước mặt Philatô, chính xác quyết về tư cách vương giả của Người đã trở thành cơ sở khiến người bị kết án.

Về điểm thứ hai, ta thấy qua các lời Người nói và việc Người làm, Chúa Kitô đã mặc nhiên cho mình là đấng Mêxia. Ngay lúc đầu sứ vụ công khai (Luca 4:18), tại hội đường Nadarét, Người đã áp dụng cho mình các lời chỉ về Người Tôi Tớ của Thiên Chúa trong Isaia 61:1. Người là Đấng được Đavít, do Thần Khí thúc đẩy, đã xưng là “Chúa!”. Người coi mình có quyền phán xét thế giới và tha tội. Người cao hơn Lề Luật, Chúa của ngày Sabát, Chủ của Đền Thờ. Nhân danh chính mình và chỉ bằng lời nói, Người chữa kẻ phong cùi, làm yên sóng biển, làm kẻ chết sống lại. Các môn đệ bằng lòng mất tất cả để được đặc ân theo chân Người. Người Do Thái, dù không thấy tất cả những điều ấy hàm nghĩa một phẩm vị và một quyền lực không thua kém gì phẩm vị và quyền lực của chính Thiên Chúa, nhưng ít nhất không thể nào không nhận ra nhân vật thực hiện được các điều ấy như một đại biểu được chính Thiên Chúa sai đến.

Về điểm này, ta nên xét tới tước hiệu “Con Người” mà Chúa Giêsu năng dùng. Theo Đức Bênêđíctô XVI, Thần Học Gia, nguyên trong Phúc Âm Máccô, Chúa Giêsu sử dụng tước hiệu này để chỉ về Người 14 lần. Và điều còn đặc biệt hơn nữa là trong Tân Ước, chỉ có Người sử dụng nó mà thôi, ngoại trừ một lần được vị tử đạo tiên khởi là Stêphanô sử dụng (Cv 7:56). Theo Catholic Encyclopedia, không có chứng cớ gì là thời ấy người ta quen dùng tước hiệu “Con Người” để chỉ đấng Thiên Sai. Gioan 12:34 cho hay các thính giả của Chúa Kitô thắc mắc về ý nghĩa của tước hiệu này: “Con Người là ai?”. Rất có thể vì họ, dù quen thuộc với mô tả của Đanien 7 về đấng Mêxia, nhưng không hiểu “Con Người” như một tước hiệu. Căn cứ vào lời trình bày của Giáo Sĩ Sobel, thì cho đến nay, người Do Thái vẫn không hiểu “Con Người” như một tước hiệu mà chỉ là phẩm tính “phàm trần” của đấng Mêxia. Nhưng thật ra, Chúa Kitô không chỉ dùng một tước hiệu, một cái tên, mà Người xác quyết mình có quyền phán xét thế giới (Mátthêu 25:31-46), một đặc điểm cốt chính của đấng Mêxia theo nghĩa Đanien. Có hai lý do khiến Người nhận lấy tước hiệu đặc biệt này: thứ nhất, Người nói về mình như đấng Mêxia nhưng không muốn làm cho lời xác quyết ấy quá rõ ràng đối với nhà cầm quyền đương thời trước khi đến lúc Người công khai xác quyết nó. Thứ hai, Người cố gắng bao nhiêu có thể khiến người ta không gán cho Người các ý niệm có tính vật chất về vương quyền Đavít.

Mà xác quyết của Người không phải chỉ liên quan tới tương lai. Người không nói “Tôi sẽ là đấng Mêxia” nhưng nói “Tôi là đấng Mêxia”. Như thế, ngoài câu Người trả lời Caipha và câu người chấp thuận lời tuyên tín của Thánh Phêrô về phẩm vị Mêxia hiện tại của Người, ta còn thấy trong đoạn Mátthêu 11:5 câu trả lời tuy dè dặt nhưng rõ ràng cho câu hỏi của các môn đệ Gioan Tẩy Giả; “Thầy có thật là đấng ho erchomenos (phải đến) không?". Trong tin mừng Gioan, ta thấy nhiều chứng cớ hơn. Ở chương 4, khi người phụ nữ Samaria nói với Người: “Tôi biết đấng Mêxia, gọi là đức Kitô, sẽ đến…”, Người liền cho chị hay: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (câu 26). Và dù như một hạt mù-tạt, Nước Thiên Chúa trên trái đất cũng đã được thiết lập rồi; Người đã bắt đầu công việc của Người Đầy Tớ Thiên Chúa rồi, là rao giảng, là đau khổ, là cứu thoát con người. Nhưng sự hoàn tất trách vụ của Người và Nước Người trong vinh quang nơi Vương Quốc của Người thì vẫn còn là việc trong tương lai. Nhưng điều này chỉ như vinh quang cuối cùng, chứ không hề là thành tố duy nhất thuộc phẩm vị Mêxia. Đối với những ai, trước khi có Kitô Giáo, tìm cách giải thích các lời tiên tri xưa, thì thường họ chỉ xem sét một phương diện nào đó về đấng Mêxia này. Nhưng những ai sống bằng mạc khải Kitô Giáo thẩy đều hiểu ra và hòa hợp nơi Chúa Kitô mọi niềm mong đợi, mọi thị kiến và lời tiên tri về đấng Mêxai, dù chúng kình chống nhau. Người đồng thời là Người Tôi Tớ Đau Khổ và là Vua theo dòng Đavít, là đấng phán xét và cứu tinh của nhân loại, là Con Người thật và là Thiên Chúa ở với ta. Mọi tội ác của ta đều đổ trên đầu Người nhưng cũng trên đầu Người, trong tư cách Thiên Chúa nhập thể, có Thần Khí Thiên Chúa, có Thần Khí Khôn Ngoan và Thông Hiểu, Thần Khí Lo Liệu và Mạnh Mẽ, Thần Khí Suy Biết, Đạo Đức và Kính Sợ Thiên Chúa.

Ý niệm Mêxia trong Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo

Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo công bố năm 1992 đã dứt khoát tái khẳng định Chúa Giêsu là đấng Mêxia trong phần nói về kinh Tin Kính: “Ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Câu tuyên tín này không hề có nghĩa chỉ lúc ấy, Chúa Giêsu mới là đấng Mêxia hay đấng Kitô mà ngay đầu phần nói về Chúa Giêsu, Kinh này đã tuyên xưng rằng: “tôi tin một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa”. Như thế, Chúa Giêsu là đấng Mêxia đã đến thế gian, để thiết lập Nước Thiên Chúa tại đây. Nước này sẽ được hoàn tất vào ngày chung thẩm khi Người đến lần thứ hai để phán xét “kẻ sống và kẻ chết”.

Sách Giáo Lý, trích dẫn Lumen Gentium (3,5) nói tới việc Chúa Kitô đã khai nguyên Nước Thiên Chúa trên trần gian… Nước ấy đã hiện diện cách mầu nhiệm, nhờ quyền lực Chúa Thánh Thần, đã phát triển cách hiển nhiên. Người đã thống trị Nước ấy qua Giáo Hội. Giáo Hội trên trần gian đã được phú ban sự thánh thiện dù mới chỉ là sự thánh thiện chưa hoàn toàn. Nước Thiên Chúa biểu lộ sự hiện hữu của mình nhờ các dấu chỉ lạ lùng luôn đi theo việc công bố nó (các số 668-670).

Tuy nhiên, dù đã hiện diện trong Giáo Hội, Nước Thiên Chúa cần được cuộc trở lại lần thứ hai của Chúa Kitô làm cho nên trọn một cách “đầy quyền năng và vinh hiển” (Luca 21:27; Mátthêu 35:21). Trong khi ấy, Nước này vẫn bị các lực lượng xấu xa tấn công, và theo Lumen Gentium 48, vẫn đứng trong hàng ngũ các tạo vật đang rên xiết trong cơn đau đớn của sự sinh đẻ và chờ mong sự tỏ hiện của con cái Thiên Chúa (số 671).

Chính Chúa Giêsu, trước khi về trời, cũng cho các Tông Đồ hay: giờ chưa tới để thiết lập vương quốc thiên sai một cách vinh quang, một nước mà các tiên tri cho là sẽ mang đến cho mọi người sự công lý, tình yêu và hòa bình vĩnh viễn. Thời này là thời của Chúa Thánh Thần và của chứng tá, mà cũng là thời của “âu lo” và thử thách mà cả Giáo Hội cũng không thoát khỏi (số 672).

Nhưng từ ngày Chúa Giêsu lên trời, việc Người trở lại trong vinh quang là điều chắc chắn dù theo Thư thứ 2 gửi cho tín hữu Thêxalônica, nó đang bị trì hoãn (2:4-12) (số 673). Sách cũng không ngần ngại cho hay: nó bị trì hoãn bất cứ lúc nào trong lịch sử cho tới lúc “toàn thể Israel” nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô (số 674). Trong khi ấy, “mầu nhiệm sự ác” vẫn hoành hành dưới hình thức lừa đảo tôn giáo nhằm mang đến cho con người một giải pháp giả tạo cho các vấn đề của họ với cái giá cắt cổ là rời xa chân lý. Một ngụy Mêxia sẽ xuất hiện đem theo một ngụy chủ nghĩa thiên sai chuyên vinh danh con người thay vì Thiên Chúa và vị Mêxia đích thật, bằng xương bằng thịt của Người (số 675).

Về những ngụy Mêxia này, Sách cho biết: chúng thành hình trên thế giới bất cứ khi nào có người cho rằng niềm hy vọng thiên sai kia có thể thực hiện được ngay bên trong lịch sử. Mà thực ra, nó chỉ được thực hiện quá bên kia lịch sử trong biến cố phán xét cánh chung. Về phương diện này, Giáo Hội đặc biệt lột mạt nạ chủ nghĩa thiên niên kỷ (millenarianism), nhất là thứ chủ nghĩa thiên sai thế tục đầy tính chính trị mà thực ra hết sức “đồi trụy ngay chính nội tại của nó” (số 676).

Chủ nghĩa thiên niên kỷ là một chủ nghĩa cho rằng đến tận thế, Chúa Kitô sẽ trở lại trong vinh quang để tụ tập người công chính, tiêu diệt các thế lực thù nghịch và thiết lập một vương quốc trên thế gian để người công chính vui hưởng những ơn phúc vật chất và thiêng liêng cao qúy nhất. Vương quốc này sẽ kéo dài 1,000 năm, sau đó, người công chính sẽ cùng Chúa Kitô lên trời.

Cái nước vinh quang vừa có tính tự nhiên vừa có tính siêu nhiên này bắt rễ từ niềm mong đợi đấng Mêxia trần thế của người Do Thái. Dưới áp lực nặng nề của hoàn cảnh chính trị, người Do Thái phải chờ mong một đấng Mêxia tới giải phóng dân tộc họ khỏi áp bức và tái lập vinh quang cho Israel, một đấng Mêxia rất trần thế. Tuy Nước Thiên Sai luôn được hình dung như một điều lạ lùng, nhưng mầu sắc của nó đôi lúc hết sức trần thế và đầy khoái cảm. Quan điểm này đã có từ lâu. Trong các trình thuật Tin Mừng, người Do Thái thời Chúa Giêsu hết sức chờ mong vương quốc kiểu này. Trong khi Chúa Cứu Thế thật thì đến để công bố vương quốc thiêng liêng nhằm giải phóng con người khỏi tội lỗi, và thánh hóa họ, một vương quốc đã khởi sự từ lúc Người sinh ra. Tin Mừng và các thư của Thánh Phaolô không hề nói tới tới thứ vương quốc thiên niên kỷ. Mọi điều đều di động trong lãnh vực thiêng liêng và tôn giáo. Ngay cả các mô tả về ngày tận thế và cuộc phán xét chung cũng chỉ có hai đặc điểm vừa kể. Sách Khải Huyền tuy có nói tới cuộc chiến thắng của Chúa Kitô và các thánh chống lại ngụy Mêxia dưới hình thức một quái vật (các chương 20-21) và trong đó có nói đến việc Xatan bị xiềng ở vực sâu một ngàn năm, nhưng ai cũng hiểu đó là cuộc chiến đấu thiêng liêng giữa Chúa Kitô và Giáo Hội một bên, còn bên kia là quyền lực ác độc của hỏa ngục và thế gian. Nhưng một số Kitô hữu thời hậu Tông Đồ, nhất là tại Tiểu Á, đã rơi vào ảnh hưởng của nền khải huyền Do Thái để hiểu các mô tả trong Khải Huyền của Thánh Gioan hoàn toàn theo nghĩa chiểu tự. Hậu quả là sự lan rộng của chủ nghĩa thiên niên kỷ không phải chỉ trong các lạc giáo mà còn cả nơi Kitô hữu nhiệt tâm. Họ sẵn sàng tin vào một thiên đàng trần thế với khoái cảm trần gian e hề, nào nho mọc 10,000 cành, mỗi cành 10,000 nhánh, mỗi nhánh 10,000 nhánh phụ, mỗi nhánh phụ 10,000 chùm và mỗi chùm 10,000 trái và mỗi trái sản xuất ra 216 “gallons” rượu!

Giáo Hội chỉ bước vào vinh quang Nước Thiên Chúa sau một Lễ Vượt Qua cuối cùng khi theo chân Chúa của mình trong cái chết và sự phục sinh của Người. Nghĩa là Nước Thiên Chúa chỉ nên trọn không phải nhờ một chiến thắng lịch sử của Giáo Hội theo đường tiệm tiến thẳng đứng, mà qua trận chiến cuối cùng. Chiến thắng của Thiên Chúa trên sự vùng vẫy của sự ác sẽ mang hình thức cuộc Phán Xét Chung sau những biến cố long trời lở đất có tính vũ trụ của thế giới đang qua đi này (số 677).

Ghi chú

(1) Xem Ý Niệm Thiên Sai Trong Do Thái Giáo (Vietcatholic 1 Dec 2010)

(2) Ấn bản dành cho sinh viên, do Raymond E. Brown, Joseph A. Fitzmyer và Roland E. Murphy biên tập, nhà xuất bản Geoffrey Chapman, 1993

(3) Trang 387, Bản dịch của Lm Nguyễn Luật Khoa OFM và Nữ tu Phạm Thị Huy O.P. Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội 2007.

(4) Đã dẫn, tr. 389

(5) Đã dẫn, tr. 387.
 
Văn Hóa
Chuyện Bác Chuyện Em: Giáng Sinh Úc Châu
Nguyễn Trung Tây, SVD
18:37 04/12/2010
Chuyện Bác Chuyện Em: Giáng Sinh Úc Châu
Giáng Sinh Úc Châu, Ảnh NTT


Chuyện Bác Chuyện Em bối cảnh xảy ra ở khắp nơi, Việt Nam, Mỹ, Úc, Do Thái… Em đi tu mà em cũng có thể là một nhân vật đã lập gia đình.

Em khoe quan bác tấm hình mới chụp. Bối cảnh sa mạc là hình của một người nghệ sĩ Thổ dân Úc Châu. Em đặt tên hình: Giáng Sinh Úc Châu. Nhìn em hí ha hí hửng với tấm hình mới sáng tạo, rồi nhìn thẳng vào tấm hình Giáng Sinh Úc Châu, quan bác cự nự quan em,

— Ở đâu lại ra cái “của” này.

Em không chịu, cãi lại, giọng điệu châm chọc,

— Ơ cái bác này… Ăn nói lạ chửa! Ở đâu ra? Chụp thì “nó” ra chứ ở đâu mà ra. Cái này là hình Giáng Sinh Úc Châu, bộ bác mắt toét hay sao mà nom không ra?

Quan bác lắc đầu, chép miệng,

— Giời ạ! Cái “của” này mà cũng gọi là hình Giáng Sinh.

Tiện miệng, quan bác mắng em mấy mắng,

— Chú chỉ được cái tinh vi...

Em gân cổ cãi tiếp,

— Sao lại không?

Em chỉ ngón tay vào tấm hình,

— Đây nhé, quan bác nom đi. Cũng Chúa Hài Đồng, Đức Mẹ, thánh Giuse, rồi mấy chú chiên bé tí ti kia kìa...

Bác vẫn không chịu,

— Biết, nhưng cây thông với tuyết trắng đâu mất tiêu rồi?

Bác thở dài sườn sượt,

— Khổ, chú là chỉ được cái ưa tán hươu tán vượn.

Em đấu lý,

— Ơ, cái bác này, nói đến là hay… Vậy chứ em hỏi bác, bây giờ mình đang ở đâu?

Quan bác trợn mắt nhìn, điệu bộ nghi ngờ,

— Ở đâu là ở đâu?

Em nhắc lại câu hỏi,

— Thì bác với em đang sống ở đâu?

Bác buông lời cẩn thận,

— Thì… ở Úc.

Em chiếu tiếp,

— Vậy chứ em hỏi bác, tháng Mười Hai Giáng Sinh, Úc đang là mùa gì?

Bác suy nghĩ, cuối cùng nói,

— Thì, thì… thì mùa hè…

...

Giáng Sinh mùa hè lại về với Nam Bán Cầu Úc Châu. Hai bên phố xá, đèn xanh đèn đỏ trên những mái nhà thị dân Úc Châu đêm đêm tiếp tục chớp tắt. Ngập tràn trong thương xá và nơi công cộng là những cây thông xanh ngăn ngắt dựng cao ngất với nơ đo đỏ, kẹo sọc đỏ, giây kim tuyến. Trong thương xá vẫn là những ông già Noel râu bạc trắng như tơ mặc áo đỏ ngồi trên ghế chụp hình Giáng Sinh với trẻ em.

Nhưng không giống như mùa Giáng Sinh Bắc Bán Cầu, Giáng Sinh Nam Bán Cầu Úc Châu không có tuyết trắng đổ, không có bầu không khí lành lạnh; cho nên những bài thánh ca với những câu, “I’m dreaming of a white Christmas”, hay “Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời” không còn thích hợp với cư dân Úc Châu nữa. Bây giờ Giáng Sinh Úc Châu đang là “I’m dreaming of a hot Christmas”, hay “Đêm hè trời nóng Chúa sinh ra đời”.

Bởi thế, thiệp Giáng Sinh Úc Châu, không có tuyết trắng bám trắng cây thông xanh. Đặc biệt, ở những vùng đất sa mạc Úc Châu, nếu địa phương hóa theo tinh thần Vatican II, hình Giáng Sinh Úc Châu sẽ có cây gum (thổ sản Úc Châu), dưới chân cây gum xuất hiện Hài Nhi Thánh, Thánh Giuse, Mẹ Maria và chú chiên bé tí ti. Xa xa là cây cỏ, đất đỏ, và đồi núi mang đậm nét thổ của châu Úc và vùng sa mạc.

Hồi xưa Chúa ở trên cao “sống” nền văn hóa khác với văn hóa cõi trần.

Văn hóa nhân gian là văn hóa địa cầu. Người địa cầu nói tiếng Việt, nói tiếng Anh, nói tiếng thổ dân Úc, và nhiều tiếng khác.

Người trần gian ăn cơm uống trà xanh như người Việt, hoặc ăn meatpie uống beer chai Victoria Bitter như người Úc, hoặc ăn thịt kangaroo, uống nước vũng (waterhole) như thổ dân Úc.

Nhưng văn hóa thiên đàng thì sao? Nét nào là nét đặc trưng văn hóa thiên đàng?

Một cách ngắn gọn, tác giả có thể liệt kê một nét đặc trưng về văn hóa thiên đàng, đó là, thiên đàng không có thể xác như trần gian, chính bởi thế,

(1). Văn hóa thiên đàng không có tiếng nói như tiếng nói của văn hóa con người.

(2). Văn hóa thiên đàng không phải là văn hóa ẩm thực như văn hóa trần gian.

Nhưng bởi thương con người vất vả lao đao với cực nhọc bùn đen tội lỗi, Con Chúa bỏ văn hóa thiên đàng khoác vào thiên thể thân xác của văn hóa trần gian. Và bởi Con Trời nhập thể làm người, ngài nói tiếng Do Thái, ăn bánh mì, và uống rượu y như tất cả mọi người Do Thái khác. Đó là lý do thánh Phaolô đã nói,

Đức Giêsu Kitô,

Tuy là Thiên Chúa,

nhưng không nhất quyết duy trì

địa vị ngang hàng

với Thiên Chúa,

nhưng đã hoàn toàn

trút bỏ vinh quang,

mặc lấy thân phận nô lệ

trở nên giống phàm nhân,

sống như người trần thế (Phil 2:6-7).


Nếu Đức Giêsu không từ bỏ văn hóa thiên đàng, khoác vào người văn hóa trần gian, con người sẽ không bao giờ cảm nghiệm được tình yêu bao la trời cao dành riêng cho con người.

Trong tinh thần hòa nhập đó, mầu nhiệm vĩ đại trong lịch sử ơn cứu độ đã xảy ra cách đây hai ngàn năm tại phố nhỏ Bethlehem, “Ngôi Lời đã làm người, và định cư giữa chúng ta” (Jn 1:14).

Trong tinh thần địa phương hóa đó, công đồng Vatican II kêu gọi người tín hữu tiếp tục duy trì và phát huy đức tin Kitô trong nét độc đáo có một không hai của từng địa phương.

Trong tinh thần hòa nhập của mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể và địa phương hóa của Vatican II, hình Giáng Sinh Úc Châu xuất hiện...



Em nói thẳng một lèo, chữ nghĩa thông suốt như học trò đọc bài trước mặt thầy đồ. Nói xong, em hỏi,

— Bác đã rõ chửa?

Quan bác không vừa, hỏi ngược lại,

— Rõ? Rõ cái gì?

Em thở dài, lắc đầu quầy quậy,

— Ơ, cái bác này, đến là hay. Nói suốt từ nãy đến giờ, khô cả nước bọt...

www.nguyentrungtay.com
 
Lịch sử huyền vi
Ngô xuân Tịnh, CVK
20:23 04/12/2010
Từ nơi thăm thẳm trời cao

Nền công lý Chúa nhìn vào nhân sinh

Thấp hèn từ đất mọc lên

Lòng người tín nghĩa vang rền lời ca

Hôn nhau công lý thái hòa

Muôn vàn phúc lộc tuôn sa từ trời

Xương khô tan tác rã rời

Nghe lời tuyên sấm bồi hồi tìm nhau

Khớp xương gân cốt cột vào

Và da lẫn thịt được trao thân mình

Nhưng còn bất động lặng thinh

Chỉ là xác chết thực tình mà thôi

Bốn phương Thần Khí thổi hơi

Ngổn ngang xác chết cấp thời đứng lên

Trở về làm kiếp nhân sinh

Ngàn cây phúc lộc hòa bình nở hoa

Gươm dao đẫm máu mọi nhà

Vào lò nung chảy đúc ra hái liềm

Bàn tay bụ bẫm trẻ em

Thò hang rắn lục da mềm bạn chơi

Chiên và sư tử trên đồi

No nê ăn cỏ dỡn chơi từng đàn

Hổ beo và lợn kết thân

Liếm lông âu yếm không gian thanh bình

Gối đầu lên bụng ngủ im

Trẻ con chó sói cùng tìm giấc mơ

Đất trời bát ngát ý thơ

Tình yêu đích thực thơm tho loài người

Dòng sông lịch sử cuốn trôi

Vâng theo thánh ý Chúa Trời toàn năng

Niềm tin phó thác mọi đàng

Băng qua thử thách tai ương nhọc nhằn

Là thời điểm của vinh quang

Tình yêu Thiên Chúa luôn hằng chỏ che
 
Thánh Gioan Baotixita & Nụ Hồng trăm hoa
Jos.Nguyễn Hữu Đạt
20:29 04/12/2010
Thánh Gioan Baotixita

.

Châu chấu, mật ong nuôi xác thân

Dọn đường cho Chúa chẳng phần vân

Khuyên dân thống hối, can vua thế

Chuẩn bị tâm hồn đón thánh ân

Vua chẳng màng nghe. thêm tội ác

Dân lành đón nhận. thắm ân cần

Khiêm cung loan báo- Ngôi Hai đến

Cứu chuộc muôn dân, giờ rất gần

.

Nụ Hồng trăm hoa

Kỷ niệm 10 năm cựu TS.OP (2000-2010)

.

Xin dâng Thầy nụ hồng trăm đóa

Xin gửi Anh giai điệu ngàn thương

Lời dịu dàng, men dậy vấn vương

Tử tội Giêsu, Hòang thiên chân lý

.

Ai dám đi một ngày trăm ngả

Ai dám treo mình vì cả trần gian

Mảnh hồn ta rộng thênh thang

Sao sánh nổi Đỉnh cao lồng lộng ?

.

Xin tiến dâng hương kinh, nến tỏa

Xin hợp hoan lấp lánh ngọc châu

Chuỗi Mân côi rực rỡ từng xâu

Giọng Mẹ Thánh ngọt ngào ru lý tưởng !

.

Nhân ái Thầy say trái thơm Thập tự

Gánh đỡ bệnh nhân bao nỗi khổ đau

33 năm chỉ một mối tình đầu

Rạng rỡ thiên thu nơi tinh cầu sóng dội.!

.

Thịt Máu Chúa, ôi huyền siêu vô giá

Ngự xuống trần gian, chứa chan mầu nhiệm

Thầy ơi, nào đâu con không hiểu

Đời biển dâu cần muối mặn vì yêu.!

.

Con làm kẻ muôn đời xây nguyện ước

Theo cánh hạc bay vun vút tầng cao

Rộng, dài kinh Tân Ước truyền rao

“Mến Chúa, Thương người” đời tu đẹp.

.
 
Lao động Nghệ thuật
Trâm Thiên Thu
20:34 04/12/2010
Vincent Van Gogh nói: “Nghệ thuật không nước đôi. Nghệ thuật không nửa vời. Nghệ thuật không san sẻ. Hoặc bạn là nghệ sĩ, hoặc không. Đã làm nghệ thuật thì đừng tham vọng gì khác. Đã có tham vọng gì khác thì thôi nghệ thuật”. Ở đây, theo nghĩa thông thường và nghĩa thứ nhất trong Việt Nam Tân Từ Điển của soạn giả Thanh Nghị (NXB Thế Giới Saigon – xuất bản lần thứ nhất năm 1952): “Nghệ thuật là toàn thể những phương cách đưa ra để khêu gợi cảm giác, những ý niệm về cái đẹp”. Có 7 loại hình nghệ thuật:

+ Nghệ thuật thứ nhất: Âm nhạc

+ Nghệ thuật thứ nhì: Vũ điệu

+ Nghệ thuật thứ ba: Hội họa

+ Nghệ thuật thứ tư: Điêu khắc

+ Nghệ thuật thứ năm: Kiến trúc

+ Nghệ thuật thứ sáu: Ca kịch

+ Nghệ thuật thứ bảy: Điện ảnh

Ngày xưa, đã có thời kỳ người ta từng tranh luận về 2 trường phái nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh. Cũng theo soạn giả Thanh Nghị, thì:

– Nghệ thuật vị nghệ thuật (l’art pour l’art) là nghệ thuật cốt theo đuổi một mục đích vì nghệ thuật mà thôi, không cần đem lại ích lợi cho sự sống của con người hay không, miễn là có khêu gợi được mỹ cảm, dẫu mỹ cảm ấy được ít người biết đến và cho nghệ thuật tự nó đã có ích lợi rồi.

– Nghệ thuật vị nhân sinh (l’art pour la vie) là nghệ thuật theo đuổi một mục đích vì sự sống của con người, nghĩa là nghệ thuật trước hết là giúp cho đời sống thực tế, mang lại ích lợi thiết thực. Một câu thơ hay, một bức tranh đẹp phải khêu gợi được một trạng thái nào đó của đời sống. Một câu thơ, nếu khêu gợi được những cảm giác dẫu đẹp nhưng vơ vẩn, mông lung, man mác, thì câu thơ ấy chỉ có thơ mà thôi, không vì đời sống con người, không vì nhân sinh mà có. Phương chi đời sống là cả một cuộc tranh đấu không ngừng, thì nghệ thuật cũng phải theo sát một mục đích tranh đấu ấy.

Nói chung, nghệ thuật nào cũng hướng tới Chân-Thiện-Mỹ, đồng thời phản ánh được văn minh và văn hóa của một dân tộc, tất nhiên phản ánh nhân sinh quan của tác giả.

Đúng là “nghệ thuật không nước đôi, không nửa vời”. Nhưng khi làm nghệ thuật, hẳn không ai lại không có những mối trăn trở riêng, dù đó là nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh. “Kiếp” nghệ thuật quả là lận đận, bọt bèo và gian truân không ít. Trong bài thơ “Xuân Tha Hương”, chàng thi sĩ đau khổ Nguyễn Bính đã “thốt” lên:

Ai bảo mắc duyên vào bút mực

Suốt đời mang lấy số long đong

Người ta đi kiếm giàu sang cả

Mình chỉ mơ toàn chuyện viễn vông

Và chính ông còn “khuyên con gái: rằng:

Nhất kiêng cấm lấy chồng thi sĩ

Nghèo lắm, con ơi, bạc lắm con

Rồi đến thi sĩ say yêu Xuân Diệu cũng “kêu” lên:

Nỗi đời cơ cực đang giơ vuốt

Cơm áo không đùa với khách thơ

Nghe mà “nẫu” cả lòng! Nhưng biết tỏ cùng ai nỗi khổ này? Đam mê và cuộc sống cứ giằng co nhau đêm ngày, lòng ngổn ngang trăm mối tơ vò. Chẳng riêng gì “kẻ” tao nhân mặc khách mối “thấm thía”, mà nói chung là giới văn nghệ sĩ. Đã vậy, những ai có “máu nhạc” còn bị người đời cho là “xướng ca vô loài” nữa. Bao nghệ sĩ đã từng chịu vất vả, thiếu thốn, đến khi được quan tâm thì có người đã thành “người thiên cổ” hoặc chỉ còn sống những ngày cuối đời!

Vấn đề bản quyền và tác quyền được nhắc đến nhiều, nhưng chưa được áp dụng triệt để hoặc tương xứng. Cuối cùng, người chịu thiệt thòi nhất vẫn là tác giả – người đã “vắt óc” để có được tác phẩm nghệ thuật. Còn người sử dụng chúng vừa được tiếng vừa hưởng lợi. Chẳng hạn, diễn viên “oai” hơn soạn giả, ca sĩ có “thế” hơn nhạc sĩ,… Đó là một “hội chứng” hoặc “căn bệnh” vừa minh nhiên vừa mặc nhiên. Thật đáng buồn!

Một tác phẩm đăng báo còn bị tòa soạn quên-có-điều-kiện, trong khi quyền lợi của tác giả chỉ là chút nhuận bút “còm” và báo biếu. Hoặc, có nhà xuất bản sử dụng tác phẩm trong tuyển tập (nhiều tác giả) đã không hề dành cho tác giả hưởng một quyền lợi nào, dù chỉ là tập sách biếu. Nếu tác giả có biết và báo cho họ thì họ cố tình quên bằng cách “làm thinh”, coi như “qua phà”. Ông bà ta đã thâm ý khi ví von: “Cứt trâu để lâu hóa bùn” (!).

Báo Công An TPHCM, số ra ngày 4-6-1998, có đăng “đơn khiếu nại” của soạn giả cải lương Yên Hà về việc đoàn Ba Thế Hệ của nhà hát Trần Hữu Trang đã sử dụng vở “Cú Hồi Mã Thương” mà không “hỏi ý” tác giả. Đó là một trường hợp điển hình trong nhiều trường hợp “quên” hoặc “cầm nhầm” trong nhiều lĩnh vực khác. Hoặc, một tác phẩm được “dựng”, tác giả không được tặng một cuộn băng hoặc dĩa mà có khi phải móc tiền túi ra mua. Trên video, ca sĩ được giới thiệu (bằng lời hoặc chữ), thậm chí giới thiệu hai, ba lần, còn tác giả “bị hiểu ngầm”. Về việc phát bài trên truyền hình, có người đã “phán” một câu xanh rờn rằng: “Có bài lên truyền hình là như trúng số đặc biệt rồi” (sic!). Người Công giáo (giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân) cũng không ngoại trừ, vì vẫn có những trường hợp “hứa lèo” hoặc “làm ngơ” rất… vô tư. Quả thật, đôi khi “sáng danh con” nhiều hơn “sáng danh Chúa”!

Thức lâu mới biết đêm dài. Quả thật, “phía sau” còn nhiều điều nhiêu khê lắm! Có lẽ nghệ thuật là “vô giá” nên quyền lợi của tác giả cũng chỉ được quy định một cách “tùy hỷ” chăng? Đó là chưa kể đến óc thiên tư tây vị, phe cánh. Hẳn là xã hội có sự ràng buộc lẫn nhau một cách mặc nhiên. Do đó người này không có quyền tùy tiện “phỗng tay trên”, lấn át hoặc “qua mặt” người kia vì bất kỳ lý do gì. Ít ra phải có sự công bằng với nhau, nhất là những người làm nghệ thuật thì không thể thiếu văn minh và văn hóa khi xử sự với nhau.

Mong sao những người hữu trách có quy định rạch ròi và nghiêm túc về quyền lợi tương xứng với công sức của tác giả đối với mỗi loại hình nghệ thuật, vì lao động trí óc hoặc lao động nghệ thuật cũng là một loại hình lao động bình thường. Dẫu biết rằng “đã làm nghệ thuật thì đừng tham vọng gì khác”, nhưng để “sống và làm việc” thì không thể không chi phí sinh hoạt thường nhật. Thiết tưởng, đó không là “tham vọng” mà là “nguyện vọng” cần thiết và chính đáng vì lợi ích chung chứ không riêng cá nhân nào – những người làm nghệ thuật.

Hy vọng thiển ý của người viết được góp phần nhỏ vào tiếng nói chung trên diễn đàn nghệ thuật để, càng sớm càng tốt, những người mang “nghiệp bút”, những người làm nghệ thuật không chịu nhiều thiệt thòi. Nhờ sự quan tâm, chu đáo nâng đỡ những tài năng, đất nước mới khả dĩ có thêm những tài năng thực sự góp phần xây dựng nền văn hóa và văn nghệ nước nhà. Nếu không, những tài năng có thể dễ bị “thui chột” trong nỗi khắc nghiệt của cuộc sống vốn dĩ khó khăn, phúc tạp, và đa dạng.

.