Ngày 28-11-2025
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
THANH THOÁT
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
14:42 28/11/2025
THANH THOÁT

“Phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời!”.

“Cuộc sống tôi chỉ là tấm lụa dệt ‘giữa Chúa và tôi’. Tôi không thể chọn màu, Ngài thường dệt những nỗi buồn! Ngài nhìn phía trên; tôi nhìn phía dưới. Mãi cho đến khi khung dệt lặng yên, Ngài mở khung, giải thích. Các sợi xám thật cần thiết giữa sợi bạc, sợi vàng trong bàn tay khéo léo của Ngài!” - Benjamin Malachi Franklin.

Kính thưa Anh Chị em,

Thế giới vật chất luôn kéo chúng ta xuống, nhìn ‘phía dưới’ tấm lụa đời mình. Lời Chúa hôm nay nhắc bạn và tôi nhìn lên, bước ra khỏi những ngổn ngang “say sưa, lo lắng sự đời”, hầu có thể ‘thanh thoát’.

“Nặng nề vì chè chén say sưa” trước hết được hiểu ở cấp độ nghĩa đen; nhưng “say sưa” cần hiểu ở cấp độ tâm linh, khi chúng ta tìm kiếm một cảm giác an toàn, một sự thoát ly nhất thời, một thứ ‘an thần’. “Thực tại không làm tôi ấn tượng; tôi chỉ tin vào đam mê và khoái lạc - và khi đời thường trói buộc, tôi thoát đi bằng bất cứ cách nào!” - Anaïs Nin. Vậy mà mỗi khi thoả hiệp, tôi trở nên “nặng nề” hơn. Thứ đến, chúng ta có thể quá bận tâm với vật chất và lo lắng sự đời, vốn là nguồn gốc của sự quá tải; và khi quá tải, chúng ta tìm lối thoát. Thông thường, những ‘lối thoát’ ấy lại khiến chúng ta rũ liệt, đẩy Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, mất hết niềm vui và nhuệ khí. “Sự mệt mỏi thường không xuất phát từ công việc, mà từ lo lắng, thất vọng và oán trách!” - Dale Carnegie.

Đang khi cuộc sống là thời gian chuẩn bị, không chỉ cho tình bạn với Thiên Chúa mà còn cho ‘tấn công’ của ba thù và những ‘gian khổ’ dai dẳng. Cuộc chiến tâm linh có thật, dù nhận thức hay không, muốn hay không muốn! Chúng ta phải chiến đấu mỗi ngày, và trận chiến quan trọng nhất vẫn là trận chiến sâu thẳm trong trái tim. Chúa Giêsu muốn chúng ta chiến thắng bằng cầu nguyện và tỉnh thức, hầu có thể ‘thanh thoát’ và không trở nên bải hoải, chìm vào u mê. “Chiến thắng chính mình là khởi đầu của mọi chiến thắng; hãy thức tỉnh và cầu nguyện, vì linh hồn không thể chiến đấu khi đang ngủ mê!” - Augustinô.

Anh Chị em,

“Chớ để lòng mình ra nặng nề!”. Hôm nay, thứ Bảy cuối năm phụng vụ, bạn và tôi ngước nhìn Mẹ Maria, một con người ‘tòng thuộc’ Thiên Chúa. Giữa bao sóng gió, thử thách - những ‘sợi chỉ xám’ màu tối - không gì làm Mẹ dao động; không gì ngăn cản Mẹ cất cao lời kinh “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”. Trái lại, Mẹ ‘thanh thoát’ vì đã giao ‘khung lụa đời mình’ cho Chúa, để Ngài tự do chọn màu, vẽ và thêu. Mẹ dâng mọi sự cho Chúa, Đấng đầy ắp Mẹ; trái tim Mẹ - được dẫn dắt bởi tình yêu - cho phép Mẹ luôn chọn điều tốt nhất và từ chối bất cứ điều gì có thể phương hại ‘bức tranh’ đời Mẹ. Hãy cầu xin và bắt chước các nhân đức của Mẹ! “Chìa khóa cho mọi điều là sự buông bỏ - thực sự đứng trước Chúa và nói: ‘Con xin ở đây bao lâu Chúa muốn’ hoặc ‘Lạy Chúa, con sẵn sàng đi bất cứ nơi nào trên trái đất này!’” - Francis Chan.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con thôi tìm kiếm những ảo giác, giao mọi sự cho Chúa, hầu có thể ‘bay bổng!’” Amen.

Lm. Minh Anh (Tgp. Huế)
 
Chúa Nhật I Mùa Vọng (Năm A)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. ·
16:16 28/11/2025
··CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG (Năm A) ·

·Tin mừ ·: Mt 24, 37-44

“Anh em hãy canh thức để được sẵn sàng”.


Anh chị em thân mến,

Lại thêm một năm phụng vụ mới bắt đầu, với lời cảnh cáo của Đức Chúa Giê-su trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe: “Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,11).

Giờ phút không ngờ là sự chờ đợi của hy vọng.

Trong mấy tuần này, trên mạng xã hội đột nhiên đăng nhiều hình ảnh về những trận lụt ở các tỉnh miền trung Việt Nam, và những cảnh người trèo lên mái nhà để tránh nước đợi người khác đến cứu. Và câu chuyện về con tàu No-ê trong cựu ước lại được nhắc đến như lời Đức Chúa Giê-su đã nói: khi người ta ăn uống dựng vợ gả chồng thì lụt hồng thủy đến....

Những tin tức và hình ảnh sống động trên đây nếu chúng ta thật tâm suy tư thì thật là đáng sợ, bởi vì mạng sống của con người không tùy thuộc vào con người, nhưng tùy thuộc vào Đấng đã làm cho bùn đất trở thành con cái của Ngài. Không có gì đáng lo sợ cho bằng “giờ phút không ngờ”, thật ra nó không phải là bất ngờ, nhưng đã được Đức Chúa Giê-su báo trước, và cái “giây phút không ngờ ấy” đã trở thành “giây phút chờ đợi trong hy vọng” của chúng ta.

Có người chờ đợi trong lo âu và sợ hãi, cho nên họ tìm đến những thú vui để che lấp những lỗ hổng trong khi chờ đợi, họ không nhẫn nại chờ đợi Đấng luôn trung tín đã hứa với họ rằng Ngài sẽ đến.

Có người chờ đợi trong hân hoan và hy vọng, họ chờ đợi với tất cả tin tưởng và yêu mến, cho nên dù sống trong cảnh xô bồ của thế gian, thì tâm hồn của họ vẫn hướng đến Đấng mà họ đang chờ đợi, đó là Đức Chúa Giê-su –Đấng cứu độ nhân loại.

Vì chờ đợi trong hy vọng nên họ -người Ki-tô hữu-biết chia sẻ niềm vui nỗi buồn với tha nhân,

vì chờ đợi trong hy vọng nên họ biết phục vụ anh chị em với tất cả nhiệt tình,

vì chờ đợi trong hy vọng nên họ biết tha thứ những lỗi lầm cho nhau...

Vì chờ đợi trong hy vọng nến giờ phút bất ngờ sẽ không bất ngờ nữa đối với họ nữa, nhưng là giây phút linh thiêng nhất, thánh thiện nhất của người Ki-tô hữu tại trần gian này.


Anh chị em thân mến,

Theo Kinh Thánh, ông No-ê đóng tàu một trăm năm mới hoàn thành, một trăm năm là giây phút chờ đợi và cũng là một cơ hội để mọi người có dư đủ thời gian xét mình, ăn năn tội, và sửa đổi cuộc sống của mình, nhưng họ không muốn nghe và cũng chẳng muốn thấy, nên đại họa hồng thủy thình lình ập đến...

Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng đã bắt đầu, cũng là thời điểm để mỗi người Ki-tô hữu đi sâu vào đời sống nội tâm, nghe và thực hành lời của Chúa cách đặc biệt hơn, để chúng ta có đủ thời gian chuẩn bị, có thời gian vui mừng trong hy vọng của đợi chờ ngày Chúa đến...

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

---------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://www.nhantai.info
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Người nhập cư, người trở lại đạo và sinh viên suy gẫm về chuyến viếng thăm Nhà thờ chính tòa Istanbul của Đức Giáo Hoàng Leo XIV
Vũ Văn An
15:00 28/11/2025

Đức Giáo Hoàng Leo XIV phát biểu trước các giám mục, linh mục, tu sĩ, nhân viên mục vụ và giáo dân tại Nhà thờ chính tòa Chúa Thánh Thần ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, vào ngày 28 tháng 11 năm 2025. | Nguồn: Vatican Media


Romy Haber của ACI MENA, một đối tác của CNA, ngày 28 tháng 11 năm 2025, tường trình rằng: Đức Giáo Hoàng Leo XIV đã bắt đầu ngày thứ hai của chuyến tông du Thổ Nhĩ Kỳ tại Nhà thờ chính tòa Chúa Thánh Thần ở Istanbul, một ngôi nhà tâm linh quan trọng của một cộng đồng Công Giáo đa dạng, phần lớn là người nhập cư từ khắp nơi trên thế giới. Nhà thờ chính tòa - từ lâu là điểm dừng chân thường lệ của các giáo hoàng khi đến thăm Thổ Nhĩ Kỳ - đã chào đón Đức Thánh Cha với cảm xúc sâu sắc và hy vọng tràn đầy.

Tại lối vào, Đức Giáo Hoàng Leo đã được Cha Nicola Masedu, một linh mục người Sardinia, người đã phục vụ tại Thổ Nhĩ Kỳ hơn 15 năm và sống một cuộc đời gắn liền với sứ mệnh truyền giáo khắp Trung Đông, đón tiếp. Ngài chuyển đến Lebanon năm 17 tuổi, sau đó đến Iran - nơi ngài bị bắt giữ một thời gian ngắn - rồi đến Đất Thánh, và cuối cùng là Istanbul.

Trong một cuộc phỏng vấn với ACI MENA, đối tác tin tức tiếng Ả Rập của CNA, cha Masedu nhắc lại rằng vị Giáo hoàng đầu tiên ngài gặp là Đức Phaolô VI, người mà ngài đã chào đón tại sân bay Beirut trong một điểm dừng chân ngắn ngủi trên đường đến Ấn Độ. Sau đó, ngài đã gặp Thánh Gioan Phaolô II tại Castel Gandolfo sau khi bị buộc phải rời khỏi Iran, và Đức Benedict XVI tại Bê-lem vào năm 2008.

Cha Masedu cũng chào đón Đức Leo XIV, người đang cầm cùng cây thánh giá mà cha từng tặng Đức Phanxicô. Ngài giải thích rằng cây thánh giá ban đầu thuộc về các Nữ tu Bác Ái tại Bệnh viện Áo, và họ đã tặng nó cho giáo xứ khi họ đang dọn dẹp một số phòng. Ngài nói "Cây thánh giá đó có một lịch sử cầu nguyện và bảo vệ". Ngài kể thêm một kỷ niệm cá nhân: "Đó là một điểm tham chiếu cho Kamila, chú vẹt nhỏ của chúng tôi, mỗi khi sợ hãi, nó sẽ bay vào văn phòng của tôi và ẩn náu gần đó."

Cha Masedu cũng chia sẻ với ACI MENA món quà tượng trưng mà cộng đồng đã chuẩn bị cho Đức Giáo Hoàng Leo: một chén thánh bằng bạc do một nghệ nhân người Armenia chế tác, khắc hình sáu vị tông đồ đã mang Kitô giáo đến vùng đất này.

Từ lễ vật mang tính biểu tượng sâu sắc này, vị linh mục đã suy gẫm về cội nguồn Kitô giáo lâu đời của Thổ Nhĩ Kỳ, về việc vùng đất này từng là trung tâm của Giáo hội sơ khai. Ngài nhấn mạnh tinh thần hiệp nhất đại kết, điều gắn kết các Giáo hội khác nhau lại với nhau trong nỗ lực, như ngài đã nói, "duy trì sự gần gũi với nhau".

Ngài đã thẳng thắn chia sẻ về những thách thức mà cộng đồng của mình đang phải đối diện, đặc biệt là những người nhập cư đang phải vật lộn với khó khăn tài chính, giấy phép cư trú, và đôi khi là cả sự phân biệt đối xử. Tuy nhiên, giáo xứ vẫn không ngừng nỗ lực đồng hành cùng họ cả về tinh thần lẫn vật chất, cung cấp giáo dục, hỗ trợ xã hội, hỗ trợ y tế khi cần thiết, cũng như các khóa tĩnh tâm và hỗ trợ tâm lý.

Suy gẫm về sự khác biệt giữa đời sống Kitô giáo ở Lebanon và Thổ Nhĩ Kỳ, cha Masedu lưu ý rằng ở Lebanon, ngài cảm thấy "như ở nhà", được bao quanh bởi các biểu tượng Kitô giáo hữu hình, trong khi ở Thổ Nhĩ Kỳ, các nhà thờ phần lớn vẫn bị che khuất tầm nhìn, với Vương cung thánh đường Thánh Anthony trên phố İstiklal là một điểm ngoại lệ đáng chú ý. Ngài kết luận bằng cách bày tỏ hy vọng rằng chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng Leo sẽ củng cố cộng đồng Kitô giáo, khuyến khích họ kiên trì và tiếp tục nỗ lực vì hòa bình.

Lưu vong vì đức tin

Trong số các giáo dân có mặt sáng nay có Suhail, một người Iran 36 tuổi, đã đến Thổ Nhĩ Kỳ bảy năm trước sau khi trở lại Kitô giáo. Bị buộc phải rời khỏi Iran vì đức tin của mình, hiện anh đang hợp tác chặt chẽ với một cộng đồng người Iran theo Công Giáo, những người cũng đã tìm kiếm nơi tị nạn ở Thổ Nhĩ Kỳ.

Suhail khẳng định rằng việc thực hành Kitô giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ "an toàn hơn rất nhiều" so với ở Iran, nơi anh từng bị bắt giữ. Tuy nhiên, ý thức được mối nguy hiểm mà các Kitô hữu vẫn đang phải đối diện ở quê nhà, anh đã chọn không chia sẻ chi tiết về cuộc đàn áp ở đó, để không khiến bất cứ ai gặp thêm nguy hiểm.

Thay vào đó, anh bày tỏ lòng biết ơn về sự tự do tôn giáo mà anh đã tìm thấy ở Istanbul, và về phẩm giá của việc được sống và thờ phượng một cách công khai: "Tôi có thể cầu nguyện, tôi có thể tham dự Thánh lễ, và tôi có thể phát triển đức tin của mình. Vì điều này, tôi rất biết ơn", anh nói.

Suhail đã hỗ trợ nhà thờ chính tòa trong nhiều tháng để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng, và anh mô tả cơ hội được chào đón Đức Giáo Hoàng Leo là "một phước lành không thể diễn tả bằng lời".

Tiếng nói châu Phi

Cũng chia sẻ niềm vui của mình là Philip Tata, người gốc Cameroon và hiện đang là chủ tịch nhóm thanh thiếu niên tại Nhà thờ chính tòa Chúa Thánh Thần.

Từng sống ở Gabon trước khi chuyển đến Thổ Nhĩ Kỳ bốn năm trước, Tata đã chia sẻ về sự đa dạng đáng chú ý hình thành nên cộng đồng giáo xứ. Anh giải thích rằng Thánh lễ được cử hành bằng tiếng Anh, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và tiếng Pháp, phản ảnh sự hiện diện của một cộng đồng châu Phi đông đảo, nhiều người trong số họ đến từ các quốc gia nói tiếng Pháp.

Tata nhớ lại việc Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ những người tị nạn tại chính nhà thờ này, và anh tin rằng Đức Thánh Cha Lêô đang tiếp tục con đường mục vụ tương tự, đặc biệt chú trọng đến người di cư, người di tản và những người sống ở vùng ven lề. Đức Thánh Cha Lêô đã đề cập rõ ràng đến người tị nạn và người nhập cư trong thông điệp sáng nay, một khoảnh khắc đã khiến cộng đoàn vô cùng xúc động.

Suy ngẫm về giới trẻ Công Giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ, anh nói rằng nhiều người trẻ hy vọng sẽ rời đi, không phải vì sự đàn áp tôn giáo, mà vì cơ hội kinh tế hạn hẹp và tình trạng khan hiếm việc làm, khiến họ phải tìm kiếm một tương lai ổn định hơn ở nơi khác. Tuy nhiên, anh bày tỏ hy vọng rằng chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng có thể khơi dậy sự ủng hộ và khích lệ mới cho thế hệ trẻ.

Tiếng hát Li-băng ca ngợi Đức Giáo Hoàng tại Istanbul

Trong số các tín hữu tụ họp tại nhà thờ chính tòa cũng có những người Công Giáo Li-băng hiện đang sống ở Thổ Nhĩ Kỳ và sẽ không có mặt tại Li-băng khi Đức Giáo Hoàng đến thăm quê hương họ vào Chúa nhật. Tuy nhiên, thật may mắn, họ đã gặp được ngài tại đây, nơi đã trở thành quê hương thứ hai của họ, và thậm chí còn có cơ hội hát cho ngài nghe trong dàn hợp xướng.

Sleiman Saikali, người đã sống ở Thổ Nhĩ Kỳ 30 năm, đã đến İznik để hát cho Đức Giáo Hoàng trong lễ kỷ niệm lịch sử Công đồng Nicaea. Anh chia sẻ niềm vui sâu sắc khi được chào đón Đức Giáo Hoàng Leo tại một nơi tượng trưng cho cả nguồn gốc và cuộc sống hiện tại của anh. Anh cho biết anh đã chuẩn bị trong nhiều tháng, không chỉ bằng cách luyện giọng mà còn bằng cách cầu nguyện về mặt tinh thần.

Anh say sưa nói về sứ mệnh đằng sau chuyến tông du này của Đức Giáo Hoàng, nhấn mạnh rằng mỗi quốc gia đều mang một ơn gọi riêng biệt. Anh nhớ lại việc có mặt trong các chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng Benedict XVI và Đức Giáo Hoàng Phanxicô đến Thổ Nhĩ Kỳ. “Đức Benedict là một người có chiều sâu thần học phi thường, và chuyến thăm của ngài với Đức Thượng Phụ Bartholomew là một khoảnh khắc đại kết khó quên. Đức Phanxicô là một cuộc cách mạng tích cực, ngài đã đưa Giáo hội trở về với người nghèo và người đơn sơ, với công lý và sự khiêm nhường.”

Nhìn về Đức Giáo Hoàng Leo, anh bày tỏ niềm hy vọng sâu sắc: “Tôi thấy nơi ngài sự hòa quyện giữa Đức Bênêđictô, Đức Phanxicô và Đức Gioan Phaolô II. Kể từ Đức Gioan Phaolô, Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội những vị giáo hoàng biết đồng hành với những dấu chỉ của thời đại, và đây là công trình của Thiên Chúa, không phải của chúng ta.” Đối với các Kitô hữu ở Thổ Nhĩ Kỳ, anh nói, các chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng là rất quan trọng. “Là một cộng đồng rất nhỏ, chúng tôi mang vẻ đẹp của việc giữ vững đức tin, nhưng nguy cơ bị cô lập là có thật. Chúng ta không được tự cô lập mình.”

Cũng là một thành viên của ca đoàn là Lili El-Helou, một sinh viên người Liban đã đến Thổ Nhĩ Kỳ hai năm trước. Cô chưa bao giờ nghĩ rằng một ngày nào đó mình sẽ hát trước Đức Giáo Hoàng, vậy mà hôm nay cô đã đứng giữa những người biểu diễn tại Nhà thờ Chính tòa Chúa Thánh Thần. Cô cũng sẽ hát bài Kyrie Eleison theo giai điệu Maronite, vào thứ Bảy tại Đấu trường.

Lili đã mô tả đời sống tâm linh của mình đã sâu sắc hơn như thế nào kể từ khi chuyển đến Istanbul, miêu tả giáo xứ là một nơi năng động, đoàn kết và tràn đầy sức sống, mặc dù số lượng người Công Giáo tham gia còn ít. Cô cho biết cô cảm thấy bình yên khi sống đức tin của mình ở Istanbul. Tuy nhiên, cô lưu ý rằng tình hình có thể "khó khăn hơn" ở các thành phố khác như İzmir, nơi các nữ tu đôi khi ngần ngại xuất hiện trong trang phục tu sĩ không phải do những hạn chế về mặt pháp lý, mà là do những phản ứng, bình luận và những cái nhìn soi mói.

Sự hiện diện của người Can-đê

Bầu không khí trong nhà thờ hôm thứ Sáu đã được nâng cao bởi một dàn hợp xướng đa ngôn ngữ, với giọng hát vang lên trong nhà thờ với những bài thánh ca bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, bao gồm cả tiếng Syria, một lời nhắc nhở về di sản Kitô giáo cổ xưa bắt nguồn từ vùng đất này.

Trong số đó có Sơ Sandra, một nữ tu Can-đê thuộc Dòng Nữ tu Thánh Tâm, người đã mô tả cơ hội được hát bằng tiếng Syria - ngôn ngữ mà Chúa Giêsu nói và được các Giáo hội Đông phương bảo tồn - là "một ân sủng sâu sắc và một khoảnh khắc tuyệt đẹp".

Bà đã kêu gọi tất cả các tín hữu cầu nguyện cho Thổ Nhĩ Kỳ, Đức Giáo Hoàng và cộng đồng Kitô giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ, bày tỏ hy vọng rằng chuyến viếng thăm sẽ củng cố sự hiệp nhất và hòa bình.
 
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV kỷ niệm Công đồng Ni-xê-a, kêu gọi các Kitô hữu vượt qua chia rẽ
Vũ Văn An
15:25 28/11/2025

Đức Giáo Hoàng Lêô XIV và Đức Thượng Phụ Đại Kết Bartholomew I của Constantinople tại một sự kiện đại kết kỷ niệm 1,700 năm Công đồng Ni-xê-a, tại Iznik, Thổ Nhĩ Kỳ, vào ngày 28 tháng 11 năm 2025. | Ảnh chụp màn hình: Vatican Media


Elias Turk của hãng tin CNA, từ Iznik, Thổ Nhĩ Kỳ, ngày 28 tháng 11 năm 2025, tường trình rằng: Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã kỷ niệm 1,700 năm Công đồng Ni-xê-a lần thứ nhất vào thứ Sáu tại thành phố Thổ Nhĩ Kỳ, nơi được biết đến trong lịch sử như chỗ ra đời của Kinh Tin Kính Ni-xê-a, kêu gọi các Kitô hữu vượt qua "nỗi ô nhục của sự chia rẽ" và tái khẳng định cam kết hiệp nhất.

Đức Giáo Hoàng đã phát biểu trong buổi cầu nguyện đại kết được tổ chức tại di tích khảo cổ Vương cung thánh đường Thánh Neophytos cổ thời trên bờ Hồ Iznik, phía đông nam Istanbul. Cuộc gặp gỡ đánh dấu một trong những khoảnh khắc mang tính biểu tượng nhất trong chuyến tông du của ngài tới Thổ Nhĩ Kỳ, nơi tập trung mạnh mẽ vào công cuộc tiếp cận đại kết và liên tôn.

“Tất cả chúng ta được mời gọi vượt qua nỗi ô nhục của sự chia rẽ,” ngài nói, đồng thời kêu gọi các Kitô hữu nuôi dưỡng “mong muốn hiệp nhất mà vì thế Chúa Giêsu đã cầu nguyện và hy sinh mạng sống của mình.”

Đức Giáo Hoàng Leo và Thượng phụ Đại kết Bartholomew I, được coi là người đứng đầu giữa các giám mục Chính thống giáo Đông phương ngang hàng, đã được hai giám mục Chính thống giáo cao cấp chào đón trước khi tiến đến bục bên cạnh tàn tích bị chìm của Vương cung thánh đường. Hai vị lãnh đạo đứng trước các biểu tượng của Chúa Kitô và Công đồng, cùng nhau thắp nến.

Iznik, trước đây là Ni-xê-a, nằm cách Istanbul khoảng 130 km về phía đông nam. Tàn tích của một Vương cung thánh đường Kitô giáo ban đầu được dâng kính Thánh Neophytos, một vị tử đạo trẻ tuổi bị giết năm 303 trong cuộc đàn áp của Diocletian, lần đầu tiên được xác định vào năm 2014 sau khi các bức ảnh chụp từ trên không cho thấy hình dáng của một nhà thờ bị chìm. Vương cung thánh đường đã sụp đổ trong một trận động đất năm 740, và tàn tích của nó hiện có thể nhìn thấy từ bờ hồ.

Trong bài giảng, Đức Leo nói rằng lễ kỷ niệm là “một cơ hội quý báu để chúng ta tự hỏi Chúa Giêsu Kitô là ai trong cuộc sống của nam giới và nữ giới ngày nay, và Người là ai đối với mỗi người chúng ta.” Ngài cảnh báo không nên giản lược Chúa Kitô thành “một dạng lãnh đạo lôi cuốn hay siêu nhân,” nhắc lại việc Ariô phủ nhận thiên tính của Chúa Kitô và việc Công đồng bảo vệ nhân tính trọn vẹn và thiên tính trọn vẹn của Chúa Giêsu.

“Nếu Thiên Chúa không trở thành con người, thì làm sao các tạo vật tử sinh có thể tham gia vào sự sống bất tử của Người?” Đức Giáo Hoàng đặt câu hỏi, nhấn mạnh đến những gì đang bị đe dọa trong cuộc tranh luận vào thế kỷ thứ tư.

Đức Leo nói rằng lời tuyên xưng đức tin của Công đồng Nicea vẫn là nền tảng cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu trên toàn thế giới. Trích dẫn Kinh Tin Kính, ngài nhấn mạnh việc tuyên xưng Chúa Kitô là “đồng bản thể với Đức Chúa Cha”, mô tả đó là “một mối dây liên kết sâu sắc đã hiệp nhất tất cả các Kitô hữu.” Trích dẫn Thánh Augustinô, ngài nói thêm: “Mặc dù chúng ta, những Kitô hữu, là nhiều, nhưng trong một Chúa Kitô, chúng ta là một.”

Ngài nói tiếp: Một Kitô giáo được hòa giải có thể “làm chứng đáng tin cậy cho Tin Mừng” và mang đến “một lời tuyên xưng hy vọng cho tất cả mọi người.”

Đức Giáo Hoàng cũng mở rộng lời kêu gọi về tình huynh đệ vượt ra ngoài thế giới Kitô giáo, nhấn mạnh rằng việc công nhận đích thực Thiên Chúa là Cha đòi hỏi phải tôn trọng tất cả mọi người như anh chị em. Ngài cảnh báo không nên lợi dụng tôn giáo “để biện minh cho chiến tranh, bạo lực, hay bất cứ hình thức chính thống hay cuồng tín nào”, và thay vào đó kêu gọi “gặp gỡ, đối thoại và hợp tác huynh đệ”.

Lịch trình của Đức Giáo Hoàng Leo tại Thổ Nhĩ Kỳ bao gồm một loạt các sự kiện đại kết, trong đó có việc ký kết tuyên bố chung với Đức Thượng phụ Bartholomew I vào ngày 29 tháng 11 tại Cung điện Thượng phụ. Chuyến đi của ngài cũng mang chiều kích liên tôn. Trước đó vào thứ Sáu, ngài đã gặp Đại giáo sĩ Do Thái của Thổ Nhĩ Kỳ, thảo luận về chuyến thăm như một dấu hiệu của hòa bình và sự ủng hộ cho tất cả các cộng đồng tôn giáo. Vào thứ Bảy, ngày 29 tháng 11, ngài sẽ đến thăm Nhà thờ Hồi giáo Sultan Ahmed.
 
Nguyên văn diễn từ của Đức Leo XIV tại dịa điểm là nơi diễn ra Công đồng Ni-xêa
Vũ Văn An
17:16 28/11/2025

Di tích Vương cung Thánh đường Thánh Neophytus ở Iznik, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, nơi diễn ra Công đồng Ni-xê-a. Credit: Elias Turk/EWTN News


Đức Giáo Hoàng Leo XIV đã cùng với Đức Thượng phụ Đại kết Bartholomew I của Constantinople và các nhà lãnh đạo Kitô giáo khác đến địa điểm diễn ra Công đồng Ni-xê-a (nay là İznik, Thổ Nhĩ Kỳ) để kỷ niệm 1,700 năm kể từ Công đồng Đại kết đầu tiên.

Buổi cầu nguyện đại kết diễn ra tại các cuộc khai quật khảo cổ của Vương cung thánh đường Thánh Neophytus cổ thời, được xây dựng vào năm 380 tại địa điểm diễn ra Công đồng Đại kết Kitô giáo đầu tiên, do Hoàng đế Constantine I triệu tập vào năm 325.

Trong dịp này, Đức Leo XIV đã đọc bài diễn văn sau đây, dựa vào bản tiếng Anh của Tòa Thánh:

Anh chị em thân mến,

Trong một giai đoạn lịch sử được đánh dấu bởi nhiều dấu hiệu bi thảm, trong đó con người phải chịu vô số mối đe dọa đến chính phẩm giá của mình, kỷ niệm 1700 năm Công đồng Ni-xê-a I là một cơ hội quý báu để tự hỏi Chúa Giêsu Kitô là ai trong đời sống nam nữ ngày nay, và Người là ai đối với mỗi người chúng ta.

Câu hỏi này đặc biệt quan trọng đối với các Kitô hữu, những người có nguy cơ giản lược Chúa Giêsu Kitô thành một dạng lãnh đạo lôi cuốn hay siêu nhân, một sự xuyên tạc cuối cùng dẫn đến nỗi buồn và hoang mang (x. Đức Lêô XIV, Bài giảng, Thánh lễ Pro Ecclesia, ngày 9 tháng 5 năm 2025). Bằng cách phủ nhận thiên tính của Chúa Kitô, Ariô đã giản lược Người thành một trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại, phớt lờ thực tại Nhập Thể, đến nỗi thần tính và nhân tính vẫn tách biệt không thể cứu vãn. Nhưng nếu Thiên Chúa không làm người, thì làm sao các tạo vật tử sinh có thể tham dự vào sự sống bất tử của Người? Điều đã được đặt ra tại Công đồng Ni-xê-a, và vẫn đang được đặt ra ngày nay, chính là đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa, Đấng, trong Chúa Giêsu Kitô, đã trở nên giống chúng ta để làm cho chúng ta “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1:4; x. Thánh Irênê, Chống Các Lạc Giáo, 3, 19; Thánh Athanasiô, Về Sự Nhập Thể, 54, 3).

Lời tuyên xưng đức tin Kitô học này có tầm quan trọng nền tảng trong hành trình mà các Kitô hữu đang thực hiện hướng đến sự hiệp thông trọn vẹn. Bởi vì nó được chia sẻ bởi tất cả các Giáo hội và Cộng đồng Kitô giáo trên toàn thế giới, bao gồm cả những nơi, vì nhiều lý do khác nhau, không sử dụng Kinh Tin Kính Nix êa-Constantinốp trong phụng vụ của họ. Thật vậy, đức tin “vào một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, sinh ra bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời... đồng bản thể với Đức Chúa Cha” (Kinh Tin Kính Ni-xê-a) là một mối dây liên kết sâu sắc đã và đang gắn kết tất cả các Kitô hữu. Theo nghĩa này, trích dẫn Thánh Augustinô, trong bối cảnh đại kết, chúng ta cũng có thể nói rằng, “mặc dù chúng ta là nhiều, nhưng trong một Đức Kitô, chúng ta chỉ là một” (Giải thích Thánh vịnh 127). Do đó, với ý thức rằng chúng ta đã được liên kết bởi một mối dây sâu sắc như vậy, chúng ta có thể tiếp tục hành trình gắn bó ngày càng sâu sắc hơn với Lời Chúa được mặc khải nơi Chúa Giêsu Kitô, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, trong tình yêu thương và đối thoại lẫn nhau. Bằng cách này, tất cả chúng ta được mời gọi vượt qua nỗi ô nhục của những chia rẽ mà tiếc thay vẫn còn tồn tại và nuôi dưỡng khát vọng hiệp nhất mà vì thế Chúa Giêsu đã cầu nguyện và hy sinh mạng sống. Càng hòa giải, chúng ta, những Kitô hữu, càng có thể làm chứng đáng tin cậy cho Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, một lời loan báo hy vọng cho tất cả mọi người. Hơn nữa, đó là một sứ điệp hòa bình và tình huynh đệ phổ quát vượt qua ranh giới của các cộng đồng và quốc gia của chúng ta (x. Đức Phanxicô, Diễn văn gửi các tham dự viên Phiên họp Toàn thể của Hội đồng Giáo hoàng về Cổ vũ Hiệp nhất Kitô giáo, ngày 6 tháng 5 năm 2022).

Ngày nay, toàn thể nhân loại đang đau khổ vì bạo lực và xung đột đang kêu gào hòa giải. Khao khát hiệp thông trọn vẹn giữa tất cả những người tin vào Chúa Giêsu Kitô luôn đi kèm với việc tìm kiếm tình huynh đệ giữa mọi người. Trong Kinh Tin Kính Ni-xê-a, chúng ta tuyên xưng đức tin “vào một Thiên Chúa, là Cha”. Tuy nhiên, sẽ không thể gọi Thiên Chúa là Cha nếu chúng ta từ chối nhìn nhận tất cả những người nam và người nữ khác, những người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, là anh chị em (x. Công đồng Chung Vatican II, Tuyên ngôn Nostra Aetate, 5). Có một tình huynh đệ phổ quát giữa nam và nữ, bất kể sắc tộc, quốc tịch, tôn giáo hay quan điểm bản thân. Các tôn giáo, tự bản chất, là nơi lưu giữ chân lý này và nên khuyến khích các cá nhân, nhóm và dân tộc nhận ra và thực hành điều này (x. Đức Lêô XIV, Diễn văn bế mạc Cuộc họp Cầu nguyện cho Hòa bình, ngày 28 tháng 10 năm 2025). Hơn nữa, chúng ta phải mạnh mẽ bác bỏ việc sử dụng tôn giáo để biện minh cho chiến tranh, bạo lực, hoặc bất cứ hình thức chính thống hay cuồng tín nào. Thay vào đó, con đường cần theo đuổi là con đường gặp gỡ, đối thoại và hợp tác huynh đệ.

Tôi vô cùng biết ơn Đức Bartholomew, vì với sự khôn ngoan và tầm nhìn xa trông rộng, ngài đã quyết định cùng nhau kỷ niệm 1700 năm Công đồng Ni-xê-a ngay tại nơi công đồng được tổ chức. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các vị Lãnh đạo Giáo hội và Đại diện các Cộng đồng Kitô giáo Thế giới đã nhận lời mời tham dự sự kiện này. Nguyện xin Thiên Chúa Cha, Đấng toàn năng và nhân từ, lắng nghe những lời cầu nguyện tha thiết mà chúng ta dâng lên Người hôm nay, và ban ơn cho dịp kỷ niệm quan trọng này mang lại nhiều hoa trái hòa giải, hiệp nhất và hòa bình.
 
Nguyên văn bài giảng của Đức Leo XIV trong cử hành phụng vụ tại Nhà thờ Chính tòa Chúa Thánh Thần ở Istanbul với các Giám mục, Linh mục, tu sĩ nam nữ, và nhân viên mục vụ
Vũ Văn An
18:31 28/11/2025

Đức Leo XIV ngỏ lời với các giám mục, linh mục, tu sĩ, nhân viên mục vụ tại Nhà thờ Chính tòa Chúa Thánh Thần tại Istanbul, Thổ nhĩ Kỳ ngày 28 tháng 11, 2025. Credit: Vatican Media


Theo CNA, trong bản tin ngày 28 tháng 11, để kết thúc ngày thứ hai tại Thổ Nhĩ Kỳ, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã gặp gỡ các giám mục Công Giáo của nước này và dùng bữa tối tại Phái đoàn Tòa thánh, nơi ngài đang lưu trú.

Có 19 giám mục đã nghỉ hưu và đang tại chức tại Thổ Nhĩ Kỳ, phụ trách Tổng giáo phận Latinh Izmir và các Hạt Đại diện Tông tòa tại Anatolia và Istanbul. Ngoài ra còn có các Tổng giáo phận Armenia và Can-đê, các Tổng giáo phận Công Giáo Hy Lạp và Syria.

Tại Nhà thờ Chính tòa Chúa Thánh Thần ở Istanbul trong ngày thứ hai của ngài tại đất nước này, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã có bài phát biểu với các giám mục, linh mục, tu sĩ, nhân viên mục vụ và giáo dân. Người Công Giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ chiếm khoảng 0,05% trong tổng số 85 triệu dân của đất nước này.

Sau đây là nguyên văn bài giảng theo bản tiếng Anh của Tòa Thánh:

Kính thưa quý Đức Cha,
Kính thưa quý anh em linh mục,
Kính thưa quý nữ tu, nam tu sĩ, nhân viên mục vụ,
và toàn thể anh chị em,


Tôi rất vui mừng được hiện diện với anh chị em. Tôi tạ ơn Chúa vì trong chuyến Tông du đầu tiên, Người đã ban cho tôi ân sủng được viếng thăm “miền đất thánh” này, Thổ Nhĩ Kỳ, nơi câu chuyện dân tộc Israel gặp gỡ sự ra đời của Kitô giáo, nơi Cựu Ước và Tân Ước giao thoa và nơi những trang sử của vô số Công đồng được viết nên.

Đức tin hiệp nhất chúng ta có nguồn gốc sâu xa. Vâng theo lời mời gọi của Thiên Chúa, tổ phụ Abraham của chúng ta đã khởi hành từ Ur thuộc xứ Can-đê, và sau đó, từ vùng Harran ở phía nam Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, ông đã lên đường đến Đất Hứa (x. St 12:1). Vào thời viên mãn, sau khi Chúa Giêsu chịu chết và phục sinh, các môn đệ của Người cũng đến Anatolia. Tại Antioch, nơi Thánh Ignatius sau này trở thành giám mục, họ lần đầu tiên được gọi là “Kitô hữu” (x. Cv 11:26). Từ thành phố đó, Thánh Phaolô đã bắt đầu một số cuộc hành trình tông đồ của mình, dẫn đến việc thành lập nhiều cộng đoàn. Tương tự như vậy, tại Êphêsô trên bờ biển bán đảo Anatolia, nơi mà, theo một số nguồn cổ xưa, Thánh Gioan, Môn đệ và Nhà viết Tin Mừng được yêu mến, đã sống và qua đời (x. Thánh Irênê, Chống Các Lạc Giáo, III, 3, 4; Eusebius thành Caesarea, Lịch sử Giáo hội, V, 24, 3).

Hơn nữa, chúng ta nhớ lại với lòng ngưỡng mộ lịch sử Byzantine vĩ đại, động lực truyền giáo của Giáo hội Constantinốp và sự lan truyền của Kitô giáo khắp vùng Mặt Trời Mọc. Ngay cả ngày nay tại Thổ Nhĩ Kỳ vẫn còn nhiều cộng đồng Kitô hữu theo nghi lễ Đông phương - Armenia, Syria và Can-đê - cũng như các cộng đồng theo nghi lễ Latinh. Tòa Thượng phụ Đại kết vẫn là điểm tham chiếu cho cả tín hữu Hy Lạp và các tín hữu Chính thống giáo khác.

Các bạn thân mến, các cộng đồng của các bạn đã nảy sinh từ sự phong phú của lịch sử lâu dài này, và chính các bạn là những người được kêu gọi hôm nay để vun đắp hạt giống đức tin được truyền lại cho chúng ta bởi Abraham, các Tông đồ và các Giáo phụ. Lịch sử trước mặt anh chị em không chỉ là điều để tưởng nhớ rồi tôn kính như một quá khứ huy hoàng khi chúng ta nhìn với sự cam chịu trước sự nhỏ bé của Giáo Hội Công Giáo về mặt số lượng. Trái lại, chúng ta được mời gọi đón nhận một tầm nhìn Tin Mừng, được Chúa Thánh Thần soi sáng.

Khi nhìn bằng con mắt của Thiên Chúa, chúng ta khám phá ra rằng Người đã chọn con đường bé nhỏ, xuống giữa chúng ta. Đây chính là con đường của Chúa, mà tất cả chúng ta được mời gọi làm chứng. Các tiên tri loan báo lời hứa của Thiên Chúa bằng cách nói về một mầm non sẽ nảy mầm (x. Is 11:1). Chúa Giêsu khen ngợi những người bé nhỏ tin tưởng vào Người (x. Mc 10:13–16). Người dạy rằng Nước Thiên Chúa không tự áp đặt bằng những màn phô trương quyền năng (x. Lc 17:20–21), nhưng lớn lên như hạt giống nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống được gieo trên đất (x. Mc 4:31).

Luận lý học bé nhỏ này chính là sức mạnh đích thực của Giáo hội. Điều này không nằm ở nguồn lực hay cơ cấu của Giáo hội, cũng như hoa trái sứ mệnh của Giáo hội không phụ thuộc vào số lượng, quyền lực kinh tế hay ảnh hưởng xã hội. Thay vào đó, Giáo hội sống nhờ ánh sáng của Chiên Con; được quy tụ quanh Người, Giáo hội được sai đi vào thế giới nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Trong sứ mệnh này, Giáo hội liên tục được mời gọi tin tưởng vào lời hứa của Chúa: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con” (Lc 12,32). Chúng ta cũng hãy nhớ lại lời Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Một cộng đồng Kitô giáo mà các tín hữu, linh mục và giám mục không đi theo con đường nhỏ bé thì không có tương lai… Nước Thiên Chúa nảy mầm trong những điều nhỏ bé, luôn luôn trong những điều nhỏ bé” (Bài giảng tại Nhà nguyện Thánh Marta, ngày 3 tháng 12 năm 2019).

Giáo hội tại Thổ Nhĩ Kỳ là một cộng đoàn nhỏ bé, nhưng lại sinh hoa kết trái như hạt giống và men của Nước Trời. Vì vậy, tôi khuyến khích anh chị em vun trồng một thái độ tinh thần đầy hy vọng, tin tưởng, bắt nguồn từ đức tin và sự kết hợp với Thiên Chúa. Cần phải làm chứng cho Tin Mừng với niềm vui và hướng về tương lai với niềm hy vọng. Một số dấu hiệu hy vọng đã hiện hữu rõ ràng. Vì vậy, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ơn để nhận ra và nuôi dưỡng chúng. Có lẽ còn có những dấu hiệu khác mà chúng ta cần phát biểu một cách sáng tạo thông qua sự kiên trì trong đức tin và chứng tá.

Trong số những dấu hiệu đẹp đẽ và đầy hứa hẹn nhất, tôi nghĩ đến rất nhiều người trẻ đang đến gõ cửa Giáo Hội Công Giáo với những câu hỏi và mối quan tâm của họ. Về khía cạnh này, tôi kêu gọi anh chị em tiếp tục công việc mục vụ tốt đẹp mà anh chị em đang làm. Tôi cũng khuyến khích anh chị em lắng nghe, đồng hành với người trẻ, đặc biệt chú ý đến những lĩnh vực mà Giáo hội tại Thổ Nhĩ Kỳ được kêu gọi phục vụ: đối thoại đại kết và liên tôn, truyền bá đức tin cho người dân địa phương, và phục vụ mục vụ cho người tị nạn và người di cư.

Khía cạnh cuối cùng này xứng đáng được suy gẫm đặc biệt. Sự hiện diện đáng kể của người di cư và người tị nạn tại đất nước này đặt ra cho Giáo hội thách thức phải chào đón và phục vụ một số người dễ bị tổn thương nhất. Đồng thời, bản thân Giáo hội này phần lớn là người nước ngoài, và nhiều người trong số anh chị em – các linh mục, nữ tu và nhân viên mục vụ – đến từ các vùng đất khác. Điều này đòi hỏi một cam kết đặc biệt đối với việc hội nhập văn hóa để ngôn ngữ, phong tục và văn hóa Thổ Nhĩ Kỳ ngày càng trở nên của riêng anh chị em. Hơn nữa, việc truyền bá in Mừng luôn diễn ra thông qua sự hội nhập văn hóa như vậy.

Tôi cũng muốn nhắc lại rằng chính tại vùng đất này của anh chị em, tám Công đồng Chung đầu tiên đã được tổ chức. Năm nay đánh dấu kỷ niệm 1700 năm Công đồng Ni-xê-a lần thứ nhất, một “cột mốc trong lịch sử Giáo hội cũng như của toàn thể nhân loại” (Đức Phanxicô, Diễn văn trước Ủy ban Thần học Quốc tế, ngày 28 tháng 11 năm 2024). Sự kiện luôn quan trọng này đặt ra trước mắt chúng ta một số thách thức mà tôi muốn đề cập.

Đầu tiên là tầm quan trọng của việc nắm bắt bản chất của đức tin và trở thành Kitô hữu. Xung quanh Kinh Tin Kính, Giáo Hội tại Ni-xê-a đã tìm lại được sự hiệp nhất của mình (x. Tông sắc Spes Non Confundit, 17). Kinh Tin Kính không chỉ đơn thuần là một công thức giáo lý; mà còn là một lời mời gọi tìm kiếm – giữa những cảm thức, linh đạo và văn hóa khác nhau – sự hiệp nhất và cốt lõi thiết yếu của đức tin Kitô giáo, đặt trọng tâm vào Chúa Kitô và Truyền Thống của Giáo Hội. Ni-xê-a vẫn đặt ra câu hỏi: Chúa Giêsu là ai đối với chúng ta? Trở thành Kitô hữu về bản chất có nghĩa là gì? Kinh Tin Kính, được đồng thanh tuyên xưng, trở thành một tiêu chuẩn để phân định, một la bàn, một trung tâm mà niềm tin và hành động của chúng ta phải xoay quanh. Khi nói về mối liên hệ giữa đức tin và việc làm, tôi muốn cảm ơn các tổ chức quốc tế đã hỗ trợ các hoạt động từ thiện của Giáo Hội, đặc biệt là sự giúp đỡ dành cho các nạn nhân sau trận động đất năm 2023. Ở đây, tôi muốn nhắc đến Caritas Quốc tế và Tổ chức Giúp đỡ các Giáo Hội Có Nhu Cầu (Kirche in Not).

Thách thức thứ hai là sự cấp bách của việc tái khám phá nơi Chúa Kitô khuôn mặt của Thiên Chúa Cha. Ni-xê-a khẳng định thiên tính của Chúa Giêsu và sự bình đẳng của Người với Chúa Cha. Nơi Chúa Giêsu, chúng ta tìm thấy khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa và lời phán quyết của Người về nhân loại và lịch sử. Chân lý này liên tục thách thức những quan niệm của chúng ta về Thiên Chúa bất cứ khi nào chúng không phù hợp với những gì Chúa Giêsu đã mặc khải. Chân lý này mời gọi chúng ta không ngừng phân định về các hình thức đức tin, cầu nguyện, đời sống mục vụ và linh đạo của mình. Nhưng cũng có một thách thức khác, mà chúng ta có thể gọi là “chủ nghĩa Ariô mới”, hiện diện trong văn hóa ngày nay và đôi khi ngay cả trong số các tín hữu. Điều này xảy ra khi Chúa Giêsu được ngưỡng mộ ở mức độ thuần túy con người, thậm chí có thể với sự tôn trọng tôn giáo, nhưng lại không thực sự được coi là Thiên Chúa hằng sống và chân thật giữa chúng ta. Thiên tính của Người, quyền thống trị của Người trên lịch sử, bị lu mờ, và Người bị hạ thấp xuống thành một nhân vật lịch sử vĩ đại, một bậc thầy thông thái, hay một vị tiên tri đấu tranh cho công lý — nhưng không hơn không kém. Ni-xê-a nhắc nhở chúng ta rằng Chúa Giêsu Kitô không phải là một nhân vật của quá khứ; Người là Con Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta, dẫn dắt lịch sử hướng tới tương lai mà Thiên Chúa đã hứa ban.

Cuối cùng, thách thức thứ ba là sự trung gian của đức tin và sự phát triển của giáo lý. Trong bối cảnh văn hóa phức tạp, Kinh Tin Kính Ni-xê-a đã diễn tả bản chất của đức tin thông qua các phạm trù triết học và văn hóa của thời đại. Nhưng chỉ vài thập kỷ sau, tại Công đồng Constantinốp lần thứ nhất, chúng ta thấy đức tin ấy đã được đào sâu và mở rộng hơn nữa. Nhờ sự phát triển giáo lý này, một công thức mới đã xuất hiện, Kinh Tin Kính Nixêa-Constantinốp mà chúng ta cùng tuyên xưng trong các phụng vụ Chúa Nhật. Ở đây, chúng ta cũng học được một bài học quan trọng: đức tin Kitô giáo phải luôn được diễn tả bằng ngôn ngữ và phạm trù của nền văn hóa trong đó chúng ta đang sống, giống như các Giáo phụ đã làm tại Ni-xê-a và trong các Công đồng khác. Đồng thời, chúng ta phải phân biệt bản chất của đức tin với các công thức lịch sử diễn tả đức tin ấy — những công thức luôn mang tính cục bộ và tạm thời, và có thể thay đổi khi giáo lý được hiểu sâu sắc hơn. Chúng ta hãy nhớ lại rằng vị Tiến sĩ mới nhất của Giáo hội, Thánh John Henry Newman, đã nhấn mạnh đến sự phát triển của giáo lý Kitô giáo, bởi vì giáo lý không phải là một ý tưởng trừu tượng, tĩnh tại, mà phản ánh chính mầu nhiệm Chúa Kitô. Do đó, sự phát triển của nó mang tính hữu cơ, gần giống như một thực tại sống động, dần dần làm sáng tỏ và diễn tả đầy đủ hơn cốt lõi của đức tin.

Các bạn thân mến, trước khi kết thúc, tôi muốn nhắc lại một người mà các bạn rất yêu quý, Thánh Gioan XXIII, người đã yêu thương và phục vụ người dân đất nước này. Ngài đã viết: "Tôi muốn lặp lại những gì tôi cảm nhận trong lòng mình: Tôi yêu đất nước này và cư dân của nó." Nhìn từ cửa sổ nhà Dòng Tên, những người đánh cá bận rộn với thuyền và lưới trên eo biển Bosporus, ngài nói tiếp: “Cảnh tượng ấy làm tôi xúc động. Đêm nọ, khoảng một giờ sáng, trời mưa như trút nước, nhưng những người đánh cá vẫn ở đó, không hề nao núng trong công việc nặng nhọc của họ… Noi gương những người đánh cá ở Bosporus – làm việc ngày đêm với những ngọn đuốc thắp sáng, mỗi người trên chiếc thuyền nhỏ của mình, theo sự hướng dẫn của các vị lãnh đạo tinh thần – đây là bổn phận nghiêm túc và thánh thiêng của chúng ta.”

Tôi hy vọng rằng anh chị em cũng sẽ được thúc đẩy bởi chính niềm đam mê này, để giữ cho niềm vui đức tin luôn sống động, và tiếp tục làm việc như những người đánh cá can đảm trên con thuyền của Chúa. Xin Đức Maria Rất Thánh, Mẹ Thiên Chúa, chuyển cầu cho anh chị em và gìn giữ anh chị em trong sự chăm sóc của Mẹ. Xin cảm ơn.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
MÙA VỌNG LÒNG MONG CHÚA ĐẾN
Lm Nguyễn Xuân Trường
23:58 28/11/2025
A V1 MÙA VỌNG LÒNG MONG CHÚA ĐẾN

Video:

Chúa Nhật I Mùa Vọng đã tới, bắt đầu Năm Phụng Vụ mới. Nếu ngày đầu năm được gọi là ngày Tết: Tết Tây, Tết Ta, thì hôm nay chính là “Tết Đạo”. Chúng ta cầu chúc cho nhau một năm mới đầy ắp những việc lành phúc đức, để đời tỏa sáng và làm sáng danh Chúa như lời mời gọi của Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam.

Mùa Vọng là mùa mong chờ Chúa đến. Chúa đến bất ngờ, nên Chúa Giêsu mời gọi: Hãy canh thức và sẵn sàng.
1. CANH THỨC. Thánh Phaolô trong bài đọc II ví cuộc đời như một đêm dài sắp tàn. Canh thức là không để tâm hồn ngủ mê trong những đam mê tội lỗi như “chè chén say sưa, cãi cọ ghen tương”, nhưng hãy “ăn ở đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày”. Canh thức là giữ cho đôi mắt đức tin luôn mở rộng để nhận ra Chúa đến trong từng khoảnh khắc: trong phút cầu nguyện, một câu Kinh Thánh, nơi một tha nhân, hay một biến cố đời thường. Hãy tỉnh thức để “loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng”, nghĩa là mặc lấy chính Chúa Kitô.

2. SẴN SÀNG. Sẵn sàng không phải là ngồi yên chờ đợi, mà là lên đường. Lời Đáp Ca mời gọi chúng ta “lên đền thánh Chúa”. Lên đền thờ không phải chỉ để xin ơn này ơn nọ, mà cốt lõi là để lắng nghe Chúa chỉ dạy và bước theo đường lối Chúa. Khi nhân loại đi trong đường lối Chúa, họ sẽ “đúc gươm đao thành cuốc thành cày”, họ biến đổi tâm hồn từ ghen ghét thành yêu thương, kiến tạo một cuộc sống bình an no ấm.
Mùa Vọng là thời gian hướng chúng ta về Chúa trong cả ba chiều kích: Hướng về quá khứ mừng Chúa Giáng Sinh, hướng tới tương lai mong chờ Chúa quang lâm, và quan trọng nhất là hướng vào hiện tại để đón Chúa. Hãy đón Chúa ngự vào lòng dạ, vào gia đình và cộng đoàn chúng ta, để cuộc đời tràn đầy ân sủng và bình an. Amen.
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Khuôn mặt mùa Vọng trong tầm nhìn của con mắt
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
14:47 28/11/2025
Khuôn mặt mùa Vọng trong tầm nhìn của con mắt

Hằng năm mùa Vọng, mùa chuẩn bị tâm hồn đón mừng lễ Chúa Giêsu Kitô giáng sinh làm người, Đấng là ánh sáng của Thiên Chúa từ trời cao xuống trần gian. Ánh sáng ngọn nến, đèn điện chiếu sáng từ trong thánh đường, nơi nhà tư nhân cùng ngoài đường phố tạo nên không khí lộng lẫy nhiều mầu sắc như dòng nước chẩy ngoài dòng sông, nơi dòng suối hay bờ biển…

Những trạng thái, hình ảnh này lôi kéo chú ý tầm nhìn đôi con mắt.

Đôi con mắt của con người là cơ quan nhậy bén dễ tiếp thu những biến cố hình ảnh sự việc xảy ra bên ngoài trong thiên nhiên, nơi đời sống xã hội giữa con người với nhau. Tầm nhìn hay cái nhìn hướng về một người khác, sự việc gì diễn tả ý thích sự để tâm chú ý tới. Và qua đó muốn nhắn gửi đến người nào đó, sự việc nào, tâm tình kính trọng nể vì.

Và tầm nhìn con mắt cũng có thể ẩn chứa mang ý nghĩa khác nữa, khi không chú ý để mắt nhìn, hay quay hướng không nhìn đến ai, đến sự việc gì nữa. Cử chì này của từ con mắt muốn nói lên điều đó, người đó không quan trọng, không hấp dẫn cho chú ý để mắt tới!

Trong đời sống khi nẩy sinh sự hiềm khích hay tranh cãi nhau giữa con người, họ thường nói: Người đó tôi không thể, không muốn nhìn đến nữa!

Khi muốn xây dựng mối liên hệ tương quan với ai, ta thường đi tìm cơ hội truyền đi tín hiệu bằng cái nhìn phát tỏa từ đôi con mắt với người đó. Cung cách này nói lên muốn nhìn tận mặt người đó.

Trong đời sống tâm linh cũng diễn xảy ra như thế trong kinh thánh. Người cầu nguyện, như trong Thánh Vịnh, xin Thiên Chúa đừng ẩn mặt che dấu con người, nhưng hướng tầm nhìn đến. (Tv 103,3). Người có lòng tin tưởng trong suốt dọc đời sống hướng con mắt nhìn về Thiên Chúa tìm kiếm ánh mắt tầm nhìn của Ngài. Họ mong ước cho mình cùng cho người khác, ánh mắt tầm nhìn của Thiên Chúa chiếu tỏa trên đời sống mọi người

Lịch sử sáng tạo vũ trụ ( St 1,1,1) bắt đầu với lời” Hãy có ánh sáng!”. Từ ngày đó thiên nhiên vũ trụ tất cả mọi loài thụ tạo sống trong tương quan với ánh sáng. Sự kiện này trái ngược chiều với bóng tối đêm đen mang không khí u buồn ảm đạm cho vũ trụ thiên nhiên, nhất là trong mùa Thu, mùa Đông tối trời mùa Vọng.

Thánh Gioan đã nói lên tâm tư lòng xác tín” Thiên Chúa là ánh sáng, nơi Ngài không có bóng tối đêm đen.( 1. Ga 1,5). Ánh sáng thần thánh của Thiên Chúa chiếu soi vào vũ trụ trần gian: Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng là ánh sáng của Thiên Chúa từ trời cao sinh xuống trần gian làm người.

Làn ánh sáng chiếu tỏa lung linh ngảy lễ mừng Chúa giáng sinh nơi cây thông giáng sinh, nơi những ngôi sao giáng sinh và nhiều hơn nữa là hình ảnh diễn tả ánh sáng của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Ánh sáng những ngọn nến mùa Vọng dẫn đưa tâm trí con người từ từ tiến đến ánh sáng Chúa Giêsu.

Với cơ quan đôi mắt con người nhìn nhận ra những diễn biến hình ảnh bên ngoài nổi hiện ra. Nhưng con người có thể nhìn nhiều hơn nữa: không chỉ hình ảnh bên ngoài với đôi con mắt, nhưng còn nhìn bằng trái tim tâm hồn vùng nội tâm sâu thẳm nữa!

Với trái tim tâm hồn nhìn được sâu xa hơn ý nghĩa điều ẩn dấu đàng sau hình ảnh diễn biến thể hiện ở bên ngoài.

Trong tiểu thuyết Cậu hoàng tử nhỏ của Antoien de Saint Exepery có câu nói thời danh về khía cạnh nầy: Người ta chỉ nhìn thấy rõ bằng trái tim tâm hồn những gì cốt lõi không có hình ảnh nổi hiện ra cho đôi con mắt!

Thánh Phaolo đã nói lên tâm tình cầu xin: Xin Thiên Chúa soi lòng mở tâm trí anh em được nhìn thấy!

Và Thánh Gioan khẳng định bằng con mắt thường con người không thể bắt gặp được Thiên Chúa “ Không ai đã nhìn thấy Thiên Chúa chúng ta. “ ( Ga 1,18).

Như vậy bằng trái tim tâm hồn con người có thể khám phá nhận ra dấu vết của Thiên Chúa ẩn hiện trong thiên nhiên cũng như trong đời sống con người. Đức tin vì thế là tầm nhìn bằng trái tim tâm hồn.

Với đôi con mắt thường con người nhìn ra những hình ảnh, mầu sắc thể hiện ra bên ngoài. Nhưng nhiều khi không thể nhìn thấy rõ, có trường hợp nơi những người không thể nhìn thấy gì những sự việc, hình ảnh sát gần, có những người lại không thể nhìn thấy rõ những sự vật hình ảnh ở đàng xa… Vì thế cần đến sự trợ giúp cho nhìn thấy. Đó là chiếc kính đeo bên ngoài trên đôi con mắt, hay kỹ thuật tinh vi hơn nữa với vòng kính áp tròng ( Contact lensen) được gắn vào tròng con mắt.

Trong ý nghĩa bóng tâm linh, với những điều còn ẩn kín sâu xa dù con mắt trái tâm tâm hồn cũng chưa thể nhận ra rõ, lúc đó cần đến sự trợ giúp cho trái tim tâm hồn nhìn nhận hiểu ra ý nghĩa còn tiềm tàng nẩn chứa: chiếc kính áp tròng trái tim tâm hồn, chiếc kính trái tim tâm hồn.

Chiếc kính trợ giúp trái tim tâm hồn không là một vật thể hữu hình. Nhưng là những lời chỉ đạo hướng dẫn tâm linh, mà Chúa Giêsu Kitô đã loan truyền trong Tin Mừng: Thiên Chúa là ánh sáng tình yêu cho trần gian. Ánh sáng của Thiên Chúa là ánh sáng hòa bình, ánh sáng ơn tha thứ cứu chuộc cho tâm hồn đời sống con người.

Trong ánh sáng này con người với trái tim của mình nhìn thấy rõ sâu hơn những gì trong nội tâm tâm linh.

Mùa Vọng, mùa đón chờ ánh sáng Thiên Chúa, mùa của con mắt nhìn thấy ánh sáng bên ngoài, và với con mắt trái tim tâm hồn nhìn nhận ra ánh sáng thần linh Thiên Chúa, nguồn ân đức bình an cho đời sống thể hiện nơi hài nhi Giêsu thành Bethlehem.

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long