Ngày 28-09-2014
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ mừng 200 năm tái lập Dòng Tên
J.B. Đặng Minh An dịch
08:27 28/09/2014
Nhân kỷ niệm 200 năm Đức Giáo Hoàng Piô VII tái lập dòng Tên sau 41 năm bị giải thể, hôm Thứ Bẩy 27 tháng 9, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự buổi cầu nguyện cùng với các linh mục Dòng Tên tại nhà thờ Gesù, Roma.

Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Dưới đây là bản dịch Việt Ngữ bài chia sẻ của ngài.


Anh em và bạn bè thân yêu trong Chúa,

Nhà dòng mang tên của Chúa Giêsu đã trải qua những thời điểm bách hại khó khăn. Trong thời gian lãnh đạo của Cha Lorenzo Ricci, "kẻ thù của Giáo Hội đã thành công trong việc đạt được sự đàn áp nhà dòng" (Gioan Phaolô II, Thông điệp gửi Cha Kolvenbach, ngày 31 tháng 7 năm 1990) bởi người tiền nhiệm của tôi là Đức Giáo Hoàng Clement XIV. Hôm nay, tưởng nhớ đến sự phục hồi nhà dòng, chúng ta được mời gọi để nhắc lại trong ký ức chúng ta, nhớ đến những ơn ích đã nhận được và những ân sủng đặc biệt (x Linh Thao, 234). Hôm nay, tôi muốn làm điều đó ở đây với các bạn.

Trong thời gian thử thách và gian nan, những đám mây của nghi ngờ và đau khổ sẵn sàng ùn ùn kéo đến nên không dễ gì để tiến về phía trước, tiếp tục cuộc hành trình. Nhiều cám dỗ ập đến, đặc biệt là trong những thời điểm khó khăn và khủng hoảng, chẳng hạn như cám dỗ muốn dừng lại để thảo luận các ý tưởng, để mặc cho mình bị cuốn đi vào tan hoang, hay là cám dỗ muốn tập trung vào thực tại bị bức hại, và không muốn nhìn thấy điều gì khác. Đọc những thư từ của cha Ricci, có một điều đánh động trong tôi, đó là khả năng của ngài tránh được những cám dỗ và đề nghị với các tu sĩ Dòng Tên, trong một thời điểm thật khó khăn, một viễn kiến giúp họ bắt rễ sâu xa hơn nơi linh đạo của Dòng.

Cha Tổng Quyền Ricci, người đã viết thư cho các cha dòng Tên tại thời điểm đó, trong khi quan sát những đám mây càng lúc càng dày đặc ở chân trời, đã củng cố họ trong tình anh em và trong sứ mệnh của Dòng. Cụ thể là trong thời gian hoang mang và bất ổn, ngài đã không lãng phí thời gian thảo luận về các ý tưởng và phàn nàn, nhưng đã chấp nhận gánh vác ơn gọi của Dòng.

Và thái độ này đã dẫn dòng Tên cảm nghiệm được cái chết và sự phục sinh của Chúa. Đối mặt với sự mất mát tất cả mọi thứ, ngay cả căn cước công khai của họ, họ không chống lại ý muốn của Thiên Chúa, họ không chống lại cuộc xung đột, để cố gắng tự cứu mình. Điều thật đẹp là nhà Dòng đã sống với cuộc xung đột cho đến cùng, không làm giảm thiểu nó. Nhà Dòng đã chấp nhận vâng lời sống trong nhục nhã cùng với Chúa Kitô bị sỉ nhục. Anh em trong Dòng đã không cứu mình khỏi cuộc xung đột bằng những mánh lới xảo quyệt và các chiến lược phản kháng. Trong sự hoang mang và nhục nhã, Dòng ưa thích được sống trong sự nhận biết thánh ý Thiên Chúa, mà không tìm kiếm một lối thoát ra khỏi cuộc xung đột một cách nhẹ nhàng.

Sự yên tĩnh bề ngoài không bao giờ thỏa mãn tâm hồn chúng ta, nhưng hòa bình thực sự mới chính là một ân sủng của Thiên Chúa. Ta chớ bao giờ tìm kiếm sự "thỏa hiệp" dễ dàng cũng chớ thực hành thứ "hòa bình chủ nghĩa" hời hợt. Chỉ có sự phân định mới cứu chúng ta khỏi sự mất gốc thực sự, khỏi sự "đàn áp" thực sự trong con tim, đó là sự ích kỷ, sự thế tục hóa, và mất đi chân trời của chúng ta. Hy vọng của chúng ta là Chúa Giêsu; và chỉ là Chúa Giêsu mà thôi. Vì vậy, cha Ricci và nhà Dòng trong suốt thời kỳ lịch sử thống trị bởi sự đàn áp chứ không chỉ là một "ít câu chuyện" bôi nhọ, đã biết rằng tình yêu sẽ có tiếng nói cuối cùng trong lịch sử; và hy vọng - ngay cả trong đêm đen – cũng sẽ lớn hơn mong đợi của chúng ta.

Sự phân định phải được thực hiện với ý ngay lành, với một con mắt đơn giản. Vì lý do này, cha Ricci, chính trong thời gian hoang mang và bối rối này, đã nói về tội lỗi của các linh mục dòng Tên. Ngài không bảo vệ mình, không có cái cảm giác của một nạn nhân giữa những gọng kềm lịch sử, nhưng ngài thừa nhận mình là một tội nhân. Nhìn vào chính mình và nhận ra chính mình như một tội nhân tránh được tình trạng đưa mình vào vị trí xem bản thân là nạn nhân trước một tên đao phủ. Nhận thức được chính mình như một tội nhân, thực sự công nhận mình như một tội nhân, có nghĩa là đặt mình trong thái độ đúng đắn để nhận được sự an ủi.

Chúng ta có thể xem xét qua quá trình phân định, và sứ vụ mà Cha Tổng Quyền đã chỉ ra cho Dòng. Năm 1759, khi các nghị định Pombal triệt hạ tỉnh Dòng Bồ Đào Nha, cha Ricci sống với cuộc xung đột, không phàn nàn và không để mình bị cuốn vào tan hoang, nhưng mời gọi cầu nguyện để có một tinh thần, một tinh thần siêu nhiên thực sự của ơn gọi, sự ngoan ngoãn hoàn hảo trước ân sủng của Thiên Chúa. Năm 1761, cơn bão tiến vào Pháp, Cha Tổng Quyền kêu gọi đặt tất cả niềm tin nơi Thiên Chúa. Ngài muốn anh em trong nhà Dòng tận dụng lợi thế của những khó khăn cho một cuộc thanh tẩy nội tâm rộng lớn hơn; những khó khăn này dẫn chúng ta đến Thiên Chúa và có thể mang lại vinh quang lớn hơn cho Ngài. Rồi, ngài đề nghị cầu nguyện, sống đời sống thánh thiện, khiêm tốn và vâng phục. Năm 1760, khi các linh mục dòng Tên người Tây Ban Nha bị trục xuất, ngài vẫn tiếp tục kêu gọi cầu nguyện. Và cuối cùng, vào ngày 21 Tháng Hai năm 1773, chỉ mấy tháng trước khi sắc lệnh Dominus ac Redemptor [sắc lệnh đình chỉ hoạt động của Dòng Tên do Đức Giáo Hoàng Clement XIV ký ngày 21/07/1773], với sự thiếu vắng hoàn toàn những giúp đỡ của con người, ngài nhìn thấy bàn tay của lòng thương xót của Thiên Chúa, mời gọi những người chịu thử thách, đừng tín thác vào ai ngoài Thiên Chúa. Niềm tin phải được phát triển ngay chính vào lúc hoàn cảnh cuộc đời ném chúng ta xuống đất. Điều quan trọng đối với cha Ricci là nhà Dòng, cho đến cuối cùng, vẫn phải giữ đúng tinh thần của ơn gọi của mình, đó là vì vinh quang rạng rỡ hơn của Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn.

Nhà Dòng, thậm chí phải đối mặt với sự sụp đổ của chính mình, vẫn giữ đúng mục đích khi được thành lập. Về điều này, cha Ricci kết thúc lời kêu gọi của mình bằng cách hô hào anh em sống tinh thần bác ái, đoàn kết, vâng lời, kiên nhẫn, sự đơn sơ Tin Mừng, tình bạn thật sự với Thiên Chúa. Mọi thứ khác đều là thế gian. Ngọn lửa của vinh quang rạng rỡ hơn của Thiên Chúa ngày nay vẫn cháy trong chúng ta, đốt cháy mọi tự mãn và bao bọc chúng ta trong một ngọn lửa, bùng cháy bên trong chúng ta, tập trung chúng ta và mở rộng chúng ta, làm cho chúng ta phát triển.

Bằng cách này, nhà Dòng đã trải qua thử thách tột cùng của sự hy sinh bất công, như trong lời cầu nguyện của Tobit, là người đang bị đè nặng tâm hồn bởi những đau buồn, thở dài, than khóc và sau đó cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, Ngài là Ðấng công chính, mọi việc Ngài làm đều chính trực, tất cả đường lối Ngài đều là từ bi và chân thật; chính Ngài xét xử thế gian. Và giờ đây, lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con, xin đoái nhìn và chớ phạt con vì những tội con đã phạm và những điều ngu muội của con cũng như của cha ông con. Các ngài đã đắc tội trước Thánh Nhan và bất tuân mệnh lệnh của Ngài. Ngài đã để chúng con bị cướp phá, phải tù đày và chết chóc, nên trò cười, đề tài châm biếm và bia nhục mạ cho mọi dân tộc, nơi chúng con đã bị Ngài phân tán” và kết thúc với lời cầu quan trọng nhất: “Không, Lạy Chúa, đừng ngoảnh mặt chẳng nhìn con”. (Tb 3,1-4.6d).

Và Chúa đã trả lời bằng cách gửi thiên thần Raphael đến loại bỏ các đốm trắng khỏi đôi mắt của Tobit, để ông lại một lần nữa có thể nhìn thấy ánh sáng của Thiên Chúa. Thiên Chúa giàu lòng xót thương, vương miện Thiên Chúa là lòng thương xót. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và cứu độ chúng ta. Đôi khi con đường dẫn đến sự sống nhỏ hẹp và chật chội, nhưng nếu chúng ta sống những hoạn nạn trong ánh sáng của lòng thương xót, thì chính những hoạn nạn này thanh tẩy chúng ta như lửa, chúng mang lại cho chúng ta nhiều an ủi và đốt nóng trái tim của chúng ta, trong khi làm chúng ta yêu mến những lời cầu nguyện. Những người anh tu sĩ Dòng Tên của chúng ta khi chịu đàn áp đã nhiệt thành trong tinh thần và trong việc phục vụ Chúa, vui mừng trong hy vọng, bền đỗ trong hoạn nạn, kiên vững trong lời cầu nguyện (Rm 12:13). Và điều đó đã mang lại vinh dự cho nhà Dòng, dù chắc chắn không có những lời ca ngợi xứng đáng. Sự đời luôn luôn là thế.

Chúng ta hãy nhớ lịch sử của chúng ta: Nhà Dòng "đã được ban cho ân sủng không chỉ tin vào Chúa mà thôi nhưng còn được chịu đau khổ vì Ngài" (Phi-líp 1:29). Chúng ta phải cố nhớ điều này.

Con tàu của Dòng đã bị vây quanh bởi những con sóng và không có gì đáng ngạc nhiên cả. Ngay cả con thuyền của Phêrô ngày nay cũng bị dập vùi. Bóng đêm và các thế lực của bóng tối luôn luôn ở gần. Chèo chống thật mệt mỏi. Các tu sĩ Dòng Tên phải là các "tay chèo dũng cảm và thành thạo" (Piô VII, Sollecitudo omnium Ecclesiarum). Chèo mạnh lên, ngay cả trước cơn gió ngược! Chúng ta hãy chèo chống trong việc phục vụ Giáo Hội. Chúng ta hãy chèo với nhau! Nhưng trong khi chúng ta chèo chống - tất cả chúng ta hãy cùng chèo, thậm chí Giáo Hoàng cũng chèo trong con thuyền của Thánh Phêrô - chúng ta phải cầu nguyện rất nhiều, “Lạy Chúa, xin cứu chúng con! Lạy Chúa xin cứu dân Người! Lạy Chúa, ngay cả khi chúng con là những kẻ hèn tin, xin cứu chúng con. Chúng ta hãy hy vọng nơi Chúa! Chúng ta hãy luôn luôn tín thác nơi Người!”

Nhà Dòng, đã được phục hồi bởi người tiền nhiệm của tôi là Đức Piô VII, được tạo thành từ những người đàn ông dũng cảm và khiêm tốn trong việc làm chứng cho niềm hy vọng, tình yêu và sự sáng tạo tông đồ từ Chúa Thánh Thần. Đức Pius VII đã viết về mong muốn khôi phục lại Dòng để "hỗ trợ mình một cách thích đáng cho các nhu cầu tâm linh của thế giới Kitô giáo, không phân biệt dân tộc và quốc gia" (ibid). Vì thế, ngài đã cho phép các tu sĩ Dòng Tên vẫn tản mác đây đó [tại Vương Quốc Prussia và tại Nga], nhờ một vị vua Lutheran và một vị vua Chính thống "để vẫn hiệp nhất trong cùng một thân thể." Cầu xin cho Dòng luôn hiệp nhất trong một thân thể!

Và Dòng đã ngay lập tức truyền giáo và sẵn sàng phục vụ Tòa Thánh, dấn thân quảng đại "dưới ngọn cờ của thánh giá cho Chúa và Đấng Đại Diện của Ngài trên trần gian". Dòng tái tục hoạt động tông đồ, rao giảng và giảng dạy, thực thi các thừa tác vụ tâm linh, nghiên cứu khoa học và hoạt động xã hội, truyền giáo và chăm sóc cho người nghèo, người đau khổ và thiệt thòi.

Hôm nay, Dòng cũng đang đương đầu với thảm kịch của người tị nạn và người di tản với trí thông minh và sự cần cù; và Dòng cố gắng với sự sáng suốt để hội nhập công việc phục vụ của mình với đức tin và sự đề cao công lý phù hợp với Tin Mừng. Tôi xác nhận hôm nay những gì Đức Phaolô VI đã nói với chúng ta tại Hội Nghị Khoáng Đại lần thứ 32 mà chính tai tôi đã nghe, đó là "Bất cứ nơi nào trong Giáo Hội, ngay cả trong những tình huống khó khăn và khắc nghiệt nhất, giữa ngã tư của các ý thức hệ, trong các chiến hào xã hội, nơi đã và đang xảy ra sự đối đầu giữa những khát vọng sâu xa nhất của con người và thông điệp lâu năm của Tin Mừng, nơi đó có những linh mục dòng Tên. "

Năm 1814, tại thời điểm phục hồi, các tu sĩ Dòng Tên đã có một đàn chiên nhỏ, một "nhà Dòng nhỏ", nhưng sau thử thách của thánh giá đã biết làm thế nào để đầu tư vào sứ mệnh to lớn là đưa ánh sáng Tin Mừng đến tận cùng bờ cõi trái đất. Hôm nay chúng ta cũng phải cảm thấy như vậy: đi ra, và truyền giáo. Căn tính Dòng Tên là căn tính của một người đàn ông yêu mến Thiên Chúa, yêu thương và phục vụ anh em mình, thể hiện bằng gương sáng không chỉ nơi những gì người ấy tin, mà còn nơi những gì người ấy hy vọng, và nơi Đấng mà người ấy đặt trọn niềm tin của mình (x 2 Tim 1:12). Linh mục Dòng Tên muốn trở thành người bạn đồng hành với Chúa Giêsu, chia sẻ cùng những cảm xúc với Người.

Chiếu chỉ của Đức Piô VII khôi phục Dòng đã được ký kết vào ngày 7 tháng 8 năm 1814, tại Đền Thờ Đức Bà Cả, nơi cha thánh Ignatius của chúng ta cử hành Thánh Lễ đầu tiên của ngài vào đêm Giáng sinh năm 1538. Mẹ Maria, Đức Mẹ của Dòng, sẽ xúc động trước những nỗ lực phục vụ Con Mẹ của chúng ta. Xin Mẹ nhìn đến chúng ta và bảo vệ chúng ta luôn mãi.
 
Hãy thông hiểu trong đức tin, trong Thiên Chúa và niềm hy vọng đến từ Người
Bùi Hữu Thư
07:57 28/09/2014
Huấn từ của Đức Thánh Cha Phanxi cô trong Thánh Lễ hôm nay dành cho người cao niên

Vatican, ngày 28 tháng 9, 2014 (Zenit.org)

Hôm nay chúng ta công nhận bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe như Phúc Âm của sự gặp gỡ: sự gặp gỡ giữa giới trẻ và già, một cuộc gặp gỡ đầy niềm vui, đức tin và hy vọng.

Maria thì trẻ, rất trẻ, còn Elisabeth thì già, tuy nhiên lòng thương xót Chúa đã thể hiện nơi bà và trong sáu tháng qua, với chồng là Zacharia, bà đã có thai.

Ở đây, Maria đã bầy tỏ cho chúng ta biết lối đi: Mẹ đã đi thăm người chị họ lớn tuổi, để ở lại với bà, giúp bà, nhưng cũng là để học hỏi nơi bà, một người lớn tuổi, khôn ngoan.

Bài đọc một hôm nay vang vọng Giới Răn thứ Tư: “Hãy thờ kính cha mẹ để được sống những ngày dài nơi miền đất Chúa của ngươi đã ban cho ngươi” (Xh 20:12). Một dân tộc không có tương lai nếu không có những cuộc gặp gỡ giữa các thế hệ, không có con trẻ biết công nhận một cách biết ơn chứng tá của đời sống từ bàn tay của cha mẹ chúng. Và một phần của sự biết ơn này phải dành cho những người đã ban cho chúng ta sự sống và cho Cha chúng ta trên trời.

Có những lúc khi các thế hệ trẻ, vì các lý do phức tạp về lịch sử và văn hóa, cảm thấy có nhu cầu sâu đậm là phải tự lập đối với cha mẹ, phải “thoát ly” khỏi di sản của thế hệ tiền nhân. Đây là một hình thức nổi loạn của tuổi trẻ. Nhưng nếu sự gặp gỡ, sự tiếp xúc giữa các thế hệ không được tái thiết, nếu một sự cân bằng mới và có hiệu quả giữa các thế hệ không được phục hồi, thì hậu quả là một sự nghèo túng ghê gớm đối với mọi người, và sự tự do đang lan tràn trong xã hội này chỉ là một sự tự do giả tạo, và hầu như luôn luôn trở thành một hình thức của chủ nghĩa chuyên chế.

Chúng ta nghe điệp văn của Thánh Phaolô tông đồ trong lời khuyên Timôthy, và qua Timôty khuyên cộng đồng Kitô. Chúa Giêsu không bác bỏ luật lệ của gia đình và sự chuyển tiếp giữa các thế hệ, nhưng làm cho viên mãn. Chúa tác tạo một gia đình mới, trong đó mối liên kết thân thuộc không quan trọng bằng mối tương quan với Người, và bằng việc chúng ta phải làm theo Thánh Ý Chúa Cha. Tuy nhiên tình yêu Chúa Giêsu và Chúa Cha làm cho toàn hảo tình yêu chúng ta dành cho cha mẹ, anh chị em chúng ta, và cho ông bà; làm cho đổi mới các mối tương quan gia đình bằng Phúc Âm và Chúa Thánh Thần. Vì lý do này Thánh Phaolô yêu cầu Timôty, một mục tử, là cha của một cộng đồng, phải bầy tỏ lòng tôn kính đối với các vị cao niên và thành viên của các gia đình. Ngài bảo Timôty phải làm như vậy như một người con trai: đối xử với “các cụ ông như những người cha”, và “các cụ bà như những người mẹ” (1 Tim 5:1). Người lãnh đạo một cộng đồng không được miễn trừ trong việc vâng theo Thánh Ý Chúa như thế; thật vậy, tình yêu Chúa Kitô phải thúc đẩy người này làm như thế với một tình yêu mạnh mẽ hơn. Như Mẹ Maria, mặc dầu trở nên mẹ Đấng Cứu Thế, vẫn tự cảm thấy bị thúc đẩy bởi tình yêu Thiên Chúa đang nhập thể trong Mẹ để vội vã đi thăm người chị họ già nua.

Và do đó, chúng ta trở lại với gương mẫu đầy niềm vui, đức tin và hy vọng này. Chúng ta có thể hình dung ra Mẹ Maria, đến thăm nhà Elizabeth, nghe được bà và chồng bà là Zacharia cầu nguyện bằng những lời trong đáp ca hôm nay: “Vì lạy Chúa, Ngài là Đấng con trông đợi, là Đấng con tin tưởng ngay từ dộ thanh xuân…Xin đừng sa thải con lúc tuổi già xế bóng, chớ bỏ rơi con khi sức lực suy tàn…Cả lúc con già nua, da mồi tóc bạc, lạy Thiên Chúa, xin đừng bỏ rơi con để tường thuật quyền năng của Chúa cho tất cả các thế hệ tương lai” (Tv 71:5,9,18). Mẹ Maria lắng nghe, và gìn giữ tất cả trong lòng. Sự khôn ngoan của Elizabeth và Zachariah đã làm cho thần trí trẻ trung của Mẹ được thêm giầu mạnh. Họ không phải là những người thông hiểu về việc làm cha mẹ, đối với họ đây cũng là lần thụ thai đầu tiên. Nhưng họ là những nhà thông thái về đức tin, về Thiên Chúa, về niềm hy vọng đến từ Người: và đây là điều thế gian cần thiết ở mọi lứa tuổi. Mẹ Maria đã có thể lắng nghe hai người cha mẹ lớn tuổi khôn ngoan, và việc này đã tỏ ra quý giá trong hành trình của Mẹ là một phụ nữ, một người vợ, và một người mẹ.

Đức Trinh Nữ Maria cũng bầy tỏ cho chúng ta con đường: con đường của sự gặp gỡ giữa giới trẻ và giới già. Tương lai của một dân tộc cần có sự gặp gỡ này: giới trẻ đem lại sức mạnh giúp cho một dân tộc tiến bước, trong khi giới già củng cố sức mạnh này bằng ký ức và sự khôn ngoan truyền thống của họ.
 
Đức Thánh Cha gặp gỡ và cử hành thánh lễ với người cao niên
LM. Trần Đức Anh OP
09:46 28/09/2014
VATICAN. Sáng Chúa Nhật 28-9-2014, ĐTC Phanxicô đã gặp gỡ 40 ngàn người cao niên và dâng thánh lễ với hơn 80 ngàn tín hữu sau đó.

Từ 8.30 sáng, đã có khoảng 40 ngàn người cao niên đến từ 20 quốc gia, tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô, để tham dự cuộc gặp gỡ do Hội đồng Tòa Thánh về gia đình tổ chức với chủ đề ”Phúc lành sống lâu”.

Họ sinh hoạt với những bài đọc Kinh Thánh, trong đó có trình thuật về bà Sarah, người vợ son sẻ của tổ phụ Abraham, chuyện bà Ruth được con dâu Noemi săn sóc và tháp tùng, bà Elisabeth và chồng là Zacharia, rồi chứng từ, suy tư, chuyện kể, xen lẫn những bản nhạc.

Sinh hoạt

Lúc 9 giờ 22 phút, Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 tiến vào quảng trường. Năm nay đã 87 tuổi và nhận lời mời của ĐTC và tham dự phần gặp gỡ. Đây là lần thứ 3 ngài xuất hiện trước công chúng kể từ khi từ nhiệm. Lần đầu tiên ngày 22-2 năm nay tại Đền thờ Thánh Phêrô trong buổi lễ tấn phong các Hồng Y mới. Lần thứ hai ngày 27-4 trong lễ tôn phong hiển thánh cho hai ĐGH Gioan 23 và Gioan Phaolô 2.

Gần 9 giờ rưỡi, ĐTC Phanxicô đến và được một số ông bà nội với các cháu đón tiếp. Ngài ngồi trước bàn thờ cạnh Đức TGM Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về gia đình.

Trong lời chào mừng, Đức TGM gọi Đức Biển Đức 16 là ”ông nội đầu tiên” trong các ông bà nội ngoại hiện diện tại quảng trường, và nhắc đến tuổi già thường bị sống như một cuộc đắm tàu và mong manh, như một án phạt. Nhưng Đức TGM cũng gợi lại lời bà Anna Magnani hãnh diện vì những vết nhăn trên mặt mà bà đạt được từng nét một”.

Chứng từ đầu tiên được trình bày trước ĐTC và mọi người sau lời chào mừng của Đức TGM Paglia là ông bà Mubarak 74 tuổi và Anneesa Hano, người Irak, thành hôn từ 51 năm nay và có 10 người con, 12 người cháu. Họ đến từ thành phố Qaraqosh, gần Mossul ở miền bắc Irak. Họ đại diện cho rất nhiều gia đình Kitô bị trục xuất và tị nạn trước sự tấn công của lực lượng thánh chiến Nhà Nước Hồi giáo. Đức TGM Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về gia đình giải thích rằng: ”Chứng từ của đôi vợ chồng già người Irak này nhắc nhớ cho tất cả mọi người rằng chiến tranh thực là điều điên rồ; chúng tôi hy vọng thế giới học bài học này, như ĐGH Phanxicô đã nhắc nhở”.

Cùng với những lời kể của Ông bà Mubarak và Anneesa Hano, có một băng Video được Elisa Grevo và Federico Fazzuoli thực hiện, kể lại những địa điểm và các tiếng chuông nhà thờ ở thành Alqosh như từ 2 ngàn năm nay ở vùng bình nguyên Ninive. Tiếng chuông này cùng với chuông của tất cả các nhà thờ Kitô khác tại đây đã im bặt từ ngày 6-8 năm nay sau khi bị dân quân của Nhà Nước Hồi giáo chiếm. Thay thế thánh giá trên tháp chuông thánh đường là lá cờ đen.

Một chứng từ khác là của cha Sebastiano, dòng Capuchino, cha gọi mình là một ông nội tinh thần của những người già, 120 người ở trong trung tâm tiếp đón ”Phanxicô và Clara”, cạnh đó có một hang đá Lộ Đức ở trong vườn. Trong số những người già ở trung tâm có những người bị bệnh suy thoái não bộ.

Huấn từ của Đức Thánh Cha

Sau phần chứng từ, ĐTC Phanxicô đã ngỏ lời với mọi người. Ngài đặc biệt cám ơn sự hiện diện của Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 và nhắc lại là ngài rất hài lòng vì sự hiện diện của Người ở Vatican, như một ông nội khôn ngoan. ĐTC cám ơn Ông bà Mubarak từ Qarakos đã đến đây với các con cháu, đại diện cho bao nhiêu tín hữu Kitô tại Irak bị bách hại dữ dội. Ngài nói: ”Bạo hành đối với người già là điều vô nhân đạo, cũng như bạo hành đối với trẻ em. Nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi anh chị em! Ngài ở với anh chị em! Các anh chị em này chứng tỏ cho chúng ta thấy trong những thử thách khó khăn nhất, những người già có đức tin như những cây tiếp tục mang lại hoa trái. Và điều này cũng giá trị đối với những tình trạng bình thương hơn, nhưng trong đó có thể có những cám dỗ khác, và những hình thức kỳ thị, như chúng ta đã nghe trong một số chứng từ.

ĐTC cũng tái khẳng định tuổi già là một thời kỳ hồng ân, trong đó Chúa lập lại lời kêu gọi hãy bảo tồn và thông truyền đức tin, Chúa mời gọi chúng ta cầu nguyện, và nhất là chuyển cầu cho người khác: Chúa mời gọi chúng ta hãy gần gũi những người đang cần. Những người già, những ông bà nội ngoại có khả năng hiểu những hoàn cảnh khó khăn và lời cầu nguyện của họ thật mạnh mẽ.

ĐTC nhắc đến tình trạng những nước bị bách hại tôn giáo, như ở Albani, chính các ông bà đã giúp rửa tội bí mật cho các cháu, mang lại đức tin cho các cháu. Họ can đảm trong cơn bách hại và đã cứu vãn đức tin tại các nước ấy.
Ngài tái lên án nạn gạt bỏ người già, bỏ rơi họ. Đó là hậu quả của nền văn hóa gạt bỏ gây hại lớn cho thế giới chúng ta. Trẻ em bị gạt bỏ, người trẻ cũng vậy, họ không có công ăn việc làm. Người già cũng bị gạt bỏ viện cớ là để duy trì một hệ thống kinh tế quân bình, nơi trung tâm của nền kinh tế ấy không có con người, nhưng chỉ có tiền bạc. Tất cả chúng ta được mời gọi chống lại thứ văn hóa gạt bỏ, bị nhiễm độc như thế.

Cuộc gặp gỡ kết thúc lúc 10 giờ 20. ĐTC Phanxicô tiến đến chào và cám ơn vị tiền nhiệm của ngài, rồi chào thăm một số nhân vật trước khi chuẩn bị bắt đầu thánh lễ cũng tại quảng trường.

Thánh lễ

Đồng tế với ngài có một số GM và 100 LM cao niên. Phần thánh ca, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh còn có ca đoàn Mẹ Giáo Hội gồm 80 ca viên. Quảng trường thánh Phêrô tăng thêm số người tham dự, họ đứng tràn ra tới đường Hòa Giải.

Trong bài giảng Thánh lễ, ĐTC đã diễn giải cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà chị họ Elisabeth và rút ra những bài học cho tương quan giữa các thế hệ già trẻ. Ngài nói:

”Bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, ngày hôm nay chúng ta đón nhận như Tin Mừng cuộc gặp gỡ giữa người trẻ và ngườ già: một cuộc gặp gỡ đầy vui mừng, đầy đức tin và hy vọng.

Maria là một người trẻ. Elisabeth là một người già, nhưng nơi bà có biểu lộ lòng từ bi của Thiên Chúa và từ 6 tháng nay, cùng với chồng là ông Zacaria, bà đang chờ đợi một người con.

Maria, trong hoàn cảnh ấy, tỏ cho chúng ta sự sống: đi gặp một người họ hàng già, ở với bà, chắc chắn là để giúp đỡ bà, nhưng nhất là cũng để học hỏi nơi bà, là người già, một sự khôn ngoan trong cuộc sống.

Bài đọc thứ I, với những kiểu diễn tả khác nhau, vang vọng giới răn thứ tư: ”Hãy thảo kính cha mẹ, để ngươi được sống lâu tại đất nước mà Chúa là Thiên Chúa ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20,12). Không có tương lai đối với dân tộc nào không có cuộc gặp gỡ giữa các thế hệ, không có những người con với lòng biết ơn đón nhận chứng nhân của cuộc sống từ tay cha mẹ. Và trong sự biết ơn đối với người đã thông truyền cho bạn sự sống, cũng có lòng biết ơn đối với Chúa Cha ở trên trời.

Đôi khi có những thế hệ người trẻ, vì những lý do phức tạp về lịch sử và văn hóa, sống và cảm thấy một nhu cầu mạnh mẽ tự lập với cha mẹ, hầu như thể ”giải thoát mình” khỏi tàn tích của thế hệ trước đó. Thái độ đó như thể là thời kỳ niên thiếu nổi loạn. Nhưng nếu sau đó không phục hồi cuộc gặp gỡ, nếu không tìm lại một sự quân bình mới mẻ, phong phú giữa các thế hệ, thì hậu quả là một sự nghèo nàn đối với dân tộc và tự do thống trị trong xã hội là một thứ tự do giả tạo, hầu như luôn biến thành một chế độ độc đoán.

Cùng sứ điệp ấy cũng được thánh Phaolô gửi đến Timôthê, và qua thánh nhân, gửi đến cộng đoàn Kitô. Chúa Giêsu không bãi bỏ luật gia đình và sự chuyển tiếp giữa các thế hệ, nhưng đã kiện toàn luật ấy. Chúa đã hình thành một gia đình mới, trong đó liên hệ với Chúa và việc thi hành thánh ý Chúa Cha trổi vượt hơn các mối liên hệ máu mủ. Nhưng tình yêu đối với Chúa Giêsu và Chúa Cha đưa tới mức độ viên mãn tình yêu đối với cha mẹ, anh chị em, đối với các ông bà nội ngoại, đổi mới các quan hệ gia đình nhờ nhựa sống của Tin Mừng và Thánh Linh. Và như thánh Phaolô đã nhắn nhủ Timôthê, là một Chủ Chăn và vì thế cũng là cha của cộng đoàn, hãy có lòng kính trọng đối với những ngườ già và các thân nhân, và Ngài khuyên ông thi hành điều đó với thái độ con thảo: các ông cụ già ”như cha của mình”, ”bà cụ già như mẹ của mình” (Xc 1 Tm 5,1). Thủ lãnh cộng đoàn không được chuẩn chước khỏi thánh ý Chúa, trái lại, tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy thủ lãnh thi hành điều ấy với một tình yêu lớn lao hơn nữa. Như Đức Trinh Nữ Maria, tuy là Mẹ của Đấng Messia, nhưng cảm thấy được tình yêu Chúa thúc đẩy, Đấng đang nhập thể trong lòng Mẹ, và chạy đến bà chị họ già.

Và chúng ta hãy trở lại ”hình ảnh' đầy vui mừng và hy vọng, đầy đức tin và đức ái. Chúng ta có thể nghĩ rằng Đức Trinh Nữ Maria, ở nhà bà Elisabeth, cũng như bà và Zacaria chồng bà cầu nguyện với những lời của thánh vịnh đáp ca hôm nay: ”Lạy Chúa, Chúa là niềm hy vọng của con, là niềm tín thác của con ngay từ thời trẻ trung của con.. Xin đừng để con lâm vào tuổi già, đừng bỏ rơi con khi sức lực con tàn tạ.. Khi tuổi già đến và tóc bạc, lạy Chúa, xin đừng bỏ rơi con, cho đến khi con loan báo quyền năng Chúa, những công trình của Chúa cho mọi thế hệ” (Tv 71,5.9.18). Mẹ Maria trẻ trung lắng nghe và cẩn giữ mọi sự trong lòng. Sự khôn ngoan của bà Elisabeth và Zacharia đã làm cho tâm hồn trẻ được phong phú; họ không phải là chuyên gia về việc làm cha làm mẹ, vì đối với họ đó cũng là lần mang thai đầu tiên, nhưng là chuyên gia về đức tin, niềm tin nơi Thiên Chúa, về niềm hy vọng đến từ Chúa: đó là điều mà thế giới đang cần, trong mọi thời đại. Mẹ Maria đã biết lắng nghe các cha mẹ già và đầy kinh ngạc, đã cẩn giữ như kho tằng sự khôn ngoan của họ, và đó là điều quí giá đối với Mẹ, trong hành trình như một phụ nữ, một người vợ, người mẹ.

Như thế, Mẹ Maria chỉ cho chúng ta con đường: con đường gặp gỡ giữa những người trẻ và người già. Tương lai của một dân tộc nhất thiết đòi phải có cuộc gặp gỡ ấy: những người trẻ mang lại sức mạnh để dân tiến bước và người già củng cố sức mạnh ấy với ký ức và sự khôn ngoan bình dân.

Trong phần lời nguyện phổ quát bằng các ngôn ngữ Anh, Hoa, Đức, Ba Lan và Pháp, cộng đoàn đã cầu cho Giáo Hội, cho những người bị bách hại vì đức tin, xin Chúa ban cho họ sức mạnh trong con thử thách và bách hại, trong những tủi nhục và ngỡ ngàng; cầu cho những người già cô độc và bệnh tật, xin Chúa an ủi tâm hồn họ trong đau khổ và bỏ rơi, trong thử thách và sầu muộn; cầu cho các ông bà nội ngoại, xin Chúa tháp tùng công việc của họ trong quảng đại và khôn ngoan, trong sự mong manh và âm thầm.

Cuối thánh lễ, như thường lệ, ĐTC đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền tin. Trong bài huấn dụ ngắn, ngài mời gọi các tín hữu, các cộng đoàn, cầu nguyện cho Thượng HĐGM thế giới sẽ khai diễn Chúa Nhật tới 5-10-2014 về việc mục vụ gia đình. Ngài không quên phó thác biến cố quan trọng này cho sự chuyển cầu của Mẹ Maria là Phần rỗi của dân Roma và xin Mẹ phù hộ những người già trên toàn thế giới.

ĐTC cũng trao cho một số người cao niên đại diện cho mọi người khác sách Phúc Âm theo thánh Marco, ấn bản chữ to.
 
Thánh lễ tôn phong chân phước cho Đức Cha Álvaro del Portillo nhà lãnh đạo thứ hai của Opus Dei
Đặng Tự Do
17:53 28/09/2014
Hôm thứ Bẩy 27 tháng 9, nhà lãnh đạo thứ hai của Opus Dei đã được phong chân phước tại Madrid trong một thánh lễ ngoài trời với sự tham dự của hàng trăm ngàn người từ nhiều nước trên thế giới.

Đức Cha Alvaro Del Portillo đã là người kế tục Thánh Josemaria Escriva de Balaguer trong cương vị lãnh đạo phong trào Opus Dei. Án phong thánh cho ngài đã được Đức Thánh Cha Phanxicô xác nhận vào ngày 5 tháng 7 năm 2013 sau khi Tòa Thánh công nhận một phép lạ nhờ lời chuyển cầu của ngài tại Chilê.

Tháng 8 năm 2003, cháu bé Jose Ignacio Ureta Wilson mới chào đời có mấy ngày đã bị xuất huyết trầm trọng. Sau những cố gắng hết sức để cứu sống đứa bé, các bác sĩ chính thức tuyên bố đứa bé đã chết. Tuy nhiên, cha mẹ đứa bé vẫn kiên tâm cầu nguyện cùng Đức Cha Alvaro Del Portillo, người đã qua đời 9 năm trước đó, tức là vào năm 1994. Đứa bé đã sống lại trước sự kinh ngạc của các bác sĩ vì điện tim đồ cho thấy tim đứa bé đã ngừng đập trong suốt 30 phút. Jose Ignacio Ureta Wilson hiện đang sống một cuộc sống bình thường, đi học và chơi bóng đá.

Hàng chục tòa giải tội ngoài trời đã được dựng lên tại khu vực cử hành thánh lễ phong chân phước do Đức Hồng Y Angelo Amato, tổng trưởng Bộ Phong Thánh chủ sự với sự đồng tế của hàng trăm vị Giám Mục và đông đảo các linh mục.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi thư cho nhà lãnh đạo của Opus Dei, là Đức Cha Javier Echevarria Rodriguez trong đó ngài ca ngợi Chân Phước Alvaro là một mô hình của sự thánh thiện, “là người đã gửi cho chúng ta một thông điệp rất rõ ràng: ngài nói với chúng ta hãy tin tưởng vào Chúa, rằng Chúa là anh em, là bạn bè của chúng ta, là người luôn trung tín và luôn luôn ở bên cạnh chúng ta."

Đức Giáo Hoàng cũng nhấn mạnh rằng “Chân Phước Alvaro khuyến khích chúng ta không sợ đi ngược lại trào lưu thế gian và sẵn sàng chịu đựng để loan báo Tin Mừng, và dạy chúng ta rằng trong sự đơn giản và ngay trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, chúng ta vẫn có thể tìm thấy một con đường an toàn để nên thánh."

Đức Cha Alvalro del Portillo đã cống hiến cuộc đời mình để dạy người ta cách thế tìm Chúa trong cuộc sống hàng ngày của họ. Ngài cũng đã làm việc trong một số phòng ban của Giáo triều Rôma, và tham gia Công Đồng Chung Vatican II. Thêm vào đó, trong suốt cuộc đời, ngài đã giúp thăng tiến các sáng kiến xã hội trên toàn cầu.

Đức Cha Alvaro del Portillo là kỹ sư dân sự. Ngài là một trong những người đầu tiên theo Thánh Josemaría Escrivá, và nhanh chóng trở thành một trong những cộng tác viên thân cận nhất của thánh nhân. Năm 1944, ngài được thụ phong linh mục, và hai năm sau đó đến Rôma.

Sau cái chết của Thánh Josemaría, năm 1975, cha del Portillo được bầu làm người kế vị của thánh nhân. Ngày 28/11/1982, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban cấp quy chế Giáo Hạt Tòng Nhân cho Opus Dei và ngài trở thành Giám Chức đầu tiên.

Ngày 6 tháng Giêng năm 1991, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tấn phong Giám Mục cho cha del Portillo.

Những người biết đến Đức Cha del Portillo luôn nhớ đến ngài như một người cổ vũ nhiệt tình cho hòa bình và là người rất có khiếu hài hước, cũng như một người nỗ lực đem con người đến gần với Thiên Chúa.

Tuy nhiên, ít người biết rằng del Portillo là người ủng hộ hàng đầu trong việc thiết kế các hình ảnh về Đức Trinh Nữ Maria tại quảng trường Thánh Phêrô. Ý tưởng của ngài đã được Đức Gioan Phaolô II nồng nhiệt ủng hộ và đã giao cho ngài giám sát công việc này.

Tu hội Opus Dei, dịch ra tiếng Việt nghĩa là “Kỳ Công của Chúa”, được thành lập bởi Thánh Josemaría Escrivá vào năm 1928 tại Tây Ban Nha nhằm qui tụ những người Công Giáo muốn hiến thân làm việc tông đồ và theo đuổi con đường trọn lành trong khi vẫn tiếp tục các công việc và nghề nghiệp của mình giữa đời.

Tu hội Opus Dei được Thánh Giáo Hoàng Phaolô Đệ Nhị nồng nhiệt cổ vũ và đã ban cấp quy chế giáo hạt tòng nhân cho tu hội. Những thành công và đóng góp lớn lao của Opus Dei dành cho Giáo Hội đã khiến tu hội trở thành mục tiêu bị bách hại dã man trong các nước cộng sản. Tình trạng bách hại Opus Dei ở các nước tư bản tuy không dã man bằng các nước cộng sản nhưng không kém phần ác liệt. Chẳng hạn, như cuốn sách "The Da Vinci Code" của Dan Brown đã quay thành phim vào năm 2006 miêu tả Opus Dei như một giáo phái bí mật, thèm khát quyền lực, thậm chí là giết người trong âm mưu bao che cho điều mà hắn ta tự tưởng tưởng ra là Chúa Giêsu đã cưới bà Maria Magdalêna làm vợ và có con, và dòng máu của họ sống sót đến ngày hôm nay và Opus Dei phải tìm giết những người ấy.

Trước những cáo buộc trâng tráo nhằm bôi nhọ mình như vậy, tu hội có một đường lối thông tin sáng suốt. Tận dụng các phương tiện truyền thông mới như mạng lưới điện toàn cầu, tu hội trình bày trong thanh thản sự thật về mình. Ngày này, Opus Dei là một trong những tu hội lớn mạnh trong Giáo Hội. Opus Dei hiện đã có mặt tại 66 quốc gia trên thế giới với 90,000 thành viên trong đó khoảng 2% là các linh mục.

Thánh lễ tôn phong chân phước cho Đức Cha Álvaro del Portillo
Hàng chục tòa giải tội
Xưng tội trước thánh lễ
Thánh lễ phong chân phước
Thánh lễ phong chân phước
 
ĐTC chủ sự buổi cầu nguyện với anh em dòng Tên tại nhà thờ Gesù, Roma.
Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
19:50 28/09/2014
ĐTC chủ sự buổi cầu nguyện với anh em dòng Tên tại nhà thờ Gesù, Roma.

ROMA. Hôm 27.9 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô – vốn xuất thân từ dòng Tên – đã chủ sự buổi cầu nguyện cùng với các tu sĩ Dòng Tên và các ân nhân tại nhà thờ Gesù, Roma, trong tâm tình kỷ niệm 200 năm dòng Tên được tái lập sau một khoảng thời gian bị giải thể.

Sau bài hát khởi đầu và lời chúc bình an của Đức Thánh Cha, cả cộng đoàn đã cùng nghe lại một đoạn thư của cha Giovanni Roothaan, cha Tổng Quyền thứ 21 của dòng Tên, gửi cho toàn dòng, nhắc nhở các Giêsu hữu về căn tính của mình, là các chiến sĩ chiến đấu dưới ngọn cờ của Đức Kitô, sẵn sàng ra đi đến mọi biên cương để làm vinh danh Chúa hơn. Sau đó, bảy ngọn nến được rước tới ảnh Đức Mẹ Trên Đường, tượng trưng cho Nhà Mẹ Curia và 6 Vùng của Dòng trên toàn thế giới là Châu Phi-Madagasca, Mỹ Latin, Nam Á, Đông Á-Úc, Châu Âu và Mỹ.

Tiếp sau đó, Đức Thánh Cha chia sẻ với mọi người về bài Tin Mừng theo thánh Gioan 15,9-17: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em…” Ngài nói qua một vài biến cố liên quan đến việc Dòng Tên được thành lập, rồi bị giải thể, sau đó được tái lập lại. Ngài cũng nhắc đến căn tính của người Giêsu hữu là tội nhân được Chúa thương cứu vớt và mời gọi trở nên bạn đường của Chúa, vì thế, phải luôn cầu nguyện, xin Thiên Chúa cứu mình. Ngài cũng nói đến sứ mạng của Dòng là làm tất cả mọi sự nhằm tìm kiếm Vinh Danh cho Thiên Chúa hơn. Ngài cũng xin Đức Mẹ Maria đồng hành và nâng đỡ Dòng trên hành trình phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.

Tiếp sau bài chia sẻ của Đức Thánh Cha là nghi thức tuyên khấn lại của tất cả các Giêsu hữu hiện diện tại đây. Với lời mời gọi của cha Bề Trên Cả, các Giêsu hữu muốn thân thưa lại cùng Chúa lời tuyên khấn mà họ đã thực hiện. Trước sự hiện diện và bảo trợ của Đức Trinh Nữ Maria, họ muốn dâng trót cuộc đời phục vụ Chúa, “nhờ Máu Thánh Đức Giêsu Kitô là Đấng nhân từ khoan hậu vô biên, đoái nhận của lễ toàn thiêu này như hương thơm ngào ngạt… Xin Chúa ban ân sủng dồi dào để chúng con hoàn tất lễ toàn thiêu ấy.”

Sau đó là những lời nguyện dâng lên Chúa với nhiều ngôn ngữ khác nhau, tượng trưng cho tính phổ quát nhưng hiệp nhất của Dòng trên toàn thế giới: Bồ Đào Nha, Đức, Swahili, Anh, Tây Ban Nha, Croatia, Malayalam.

Sau lời cảm ơn của cha Bề Trên Cả dành cho Đức Thánh Cha vì sự hiện diện quý báu cùng những chia sẻ của ngài là nghi thức sai đi. Đức Thánh Cha trao cho cha Bề Trên Cả cuốn Sách Thánh và nói với các Giêsu hữu rằng: “Anh em hãy ra đi và đốt cháy cả thế giới, hãy mang đến cho mọi người ngọn lửa Tin Mừng cứu độ.”

Buổi cầu nguyện kết thúc bằng phép lành của Đức Thánh Cha và bài hát Salve Regina trước bức ảnh Đức Mẹ Trên Đường.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Dòng Chúa Cứu thế VN kỷ niệm Kim khánh ngày thành lập tại Thái Hà
Phạm Huy Thông
11:16 28/09/2014
HÀ NỘI - Nhân 50 năm ngày tỉnh dòng Chúa Cứu thế VN được chính thức thiết lập ở Việt Nam (1964-2014), tỉnh dòng CCTVN đã tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm Kim khánh tại nhà thờ Thái Hà ( Hà Nội), nơi có tu viện của dòng. Chương trình kỷ niệm kéo dài từ ngày 25 đến 27-9-2014.

Sáng ngày 25-9, Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt đã từ Châu Sơn về tu viện Thái Hà để chúc mừng ngày vui của dòng. Nhiều giáo dân biết tin đã tập trung về sân nhà thờ để gặp ngài. Nhằm mời gọi giáo dân tham gia cộng tác với dòng trong các sứ vụ của mình đặc biệt là việc giới thiệu Tin mừng cho anh chị em sắc tộc thiểu số, bênh vực công lý và hòa bình, nâng đỡ những người yếu thế, ngày 26-9, nhà dòng tổ chức cuộc hội thảo với chủ đề “Tin vui cho bạn nghèo” để giới thiệu về chương trình “Gia đình giáo dân thừa sai dòng CCTVN”. Khoảng 300 người đã tham dự. Cha Giám tỉnh Pham Trung Thành và nhiều cha trong dòng đã tham dự. Có những người từ các giáo phận khác ở miền Bắc và cả miền Nam cũng có mặt. Linh mục Giuse Hồ Đắc Tâm- Phó Giám tỉnh của dòng đã thuyết trình với đề tài “ Giáo dân thừa sai dòng CCT”. Tiếp đó, linh mục Giuse Nguyễn Ngọc Bích, cố vấn tỉnh dòng đã thuyết trình đề tài “ Đường hướng và sứ mạng của giáo dân thừa sai dòng CCT”. Sau bữa cơm trưa thân mật, các tham dự viên đã chia làm 8 nhóm để thảo luận. Mỗi nhóm do một linh mục của dòng phụ trách và thảo luận một vấn đề. Đại diện các nhóm đã báo cáo kết quả. Các nhóm đều đánh giá cao việc nhà dòng xây dựng “ Gia đình thừa sai dòng CCT” để người giáo dân có cơ hội cộng tác với sứ vụ của nhà dòng. Một số người cho rằng, từ trước tới nay chỉ biết dòng CCTVN phản biện xã hội, bênh vực cho công lý và hòa bình nay biết thêm một sứ vụ chính của dòng và nhiều người sẵn sàng cộng tác với nhà dòng, rất mong được hướng dẫn, đào tạo. Linh mục Nguyễn Ngọc Bích đã đúc kết và trả lời những thắc mắc của tham dự viên.

Lúc 18h30, thánh lễ mừng chân phước Gaspa- linh mục của dòng CCT được tổ chức trang trọng do cha Giám tỉnh chủ sự và các cha của dòng đồng tế. Nhiều lẵng hoa chúc mừng đã được dâng lên và cha Giám tỉnh đã thay mặt tỉnh dòng đón nhận. Trong các lẵng hoa, đặc biệt có lẵng hoa của gia đình TS Cù Huy Hà Vũ, gia đình Nguyễn Hữu Vinh ( Ba Sàm) như lời tri ân với nhà dòng trong thời gian vừa qua đã luôn cầu nguyện, hiệp thông với những người bị đối xử bất công.

Sau lễ, linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh- Thường trực Ban Truyền thông tỉnh dòng đã giới thiệu bằng hình ảnh quá trình hình thành của dòng CCT tại Việt Nam được đánh dấu bằng 3 thừa sai tỉnh dòng thánh Anna, Quebec, Canada đến Huế ngày 30-11-1925. Tiếp đó, với sự giúp đỡ của các thừa sai Canada, các linh mục, tu sĩ Dòng CCT người Việt dần dần đã đủ khả năng đảm nhiệm sứ vị và đến năm 1964, tỉnh dòng CCTVN đã được chính thức công nhận độc lập. Trải qua thời gian, nhiều linh mục, tu sĩ của dòng đã dũng cảm, kiên trì gieo đức tin đến mọi vùng của đất nước nhất là vùng các dân tộc thiểu số. Hiện dòng CCTVN có 270 linh mục, 14 phó tế, 26 tu sĩ. Các giáo điểm của dòng đã phủ kín các giáo phận. Dòng CCTVN cũng đi đầu trong việc đấu tranh cho công lý và hòa bình thông qua các buổi cầu nguyện Chúa Nhật cuối tháng, văn phòng công lý và hòa bình đã đón tiếp hồ sơ nhiều dân oan và dũng cảm đương đầu với bạo lực để bảo vệ tài sản của Giáo Hội.

Sau đó, mọi người cùng cầu nguyện Taize với chủ đề Tạ ơn.

Lúc 10h ngày 27-9, thánh lễ tạ ơn do Đức TGM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn chủ tế. Cùng đồng tế với Đức TGM có các Đức Cha giáo phận Thái Bình, Thanh Hóa, Hải Phòng, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Phát Diệm, Hà Nội và Đức Cha Giuse Nguyễn Văn Yến- Phó Chủ tịch Ủy ban bác ái giáo tỉnh Hà Nội. Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên giảng thuyết rất hùng hồn. Đức Cha Giuse đã cảm tạ hồng ân Chúa đã ban cho giaó hội Việt Nam có một dòng nhiệt thành truyền giáo và bênh vực người nghèo như dòng CCTVN. Phát biểu cuối lễ Đức TGM Phêrô cũng dành nhiều lời ca ngợi dòng CCTVN. Ngài nói rằng, khi làm Giám mục Đà Lạt 19 năm thì 16 tết, ngài đã đến ăn tết với linh mục Nguyễn Hưng Lợi- một linh mục của dòng CCTVN. Cha Lợi đã đến một miền đất rất khó khăn ở Lâm Đồng và đã truyền giáo thành công.

Mọi người cùng dùng bữa trưa thân mật để chia vui với nhà dòng nhân sự kiện lịch sử này.
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Vấn đề ly dị và tái hôn trong Đạo Công Giáo (13)
Vũ Văn An
03:25 28/09/2014
Các suy tư và gợi ý khác

Mackin

Theodore Mackin kết luận cuộc nghiên cứu dài của ông về ly dị và tái hôn bằng một ít suy tư có tính phê phán (243). Thiển nghĩ nên nhấn mạnh rằng đây chỉ là các suy nghĩ, chứ Mackin không bao giờ muốn đặt mình ra bên ngoài thẩm quyền của Giáo Hội.

Vụ Utrecht-Haarlem

Mackin trích dẫn nố hôn phối của Utrecht-Haarlem, mà phán quyết đầu tiên xẩy ra ngày 12 tháng 8 năm 1971 (244). Thiển nghĩ ta không cần đi sâu vào lý do tại sao vụ này lại đến tai Toà Án Tối Cao của Rôma. Chỉ biết khi các thẩm phán của Tòa này đọc phán quyết của vụ án, họ không khỏi ngỡ ngàng khi thấy các thẩm phán tại Utrecht lý luận dựa vào giáo huấn của Gaudium et spes, cho rằng hôn nhân là cộng đồng thân mật của sự sống và tình yêu. Cộng đồng này có thể tan rã và tình yêu biến mất và do đó, hôn nhân cũng chết theo. Một điểm nữa là nguyên tắc xưa từng được nhắc đến trên đây, tức nguyên tắc “sự ưng thuận tạo nên hôn nhân” đã mặc lấy một ý nghĩa mới. Nếu hôn nhân là cộng đồng của sự sống và tình yêu, một diễn trình vốn liên tục, thì sự ưng thuận này không còn là một hành vi pháp lý được hoàn tất trong giây lát nữa, một trao đổi quyền lợi pháp lý một lần vĩnh viễn. Đúng hơn, nó nằm trong bản chất của một cam kết liên tục! Các thẩm phán lý luận rằng đôi bên phải thực sự muốn có cuộc kết hợp vợ chồng của họ trong tất cả cái viên mãn của nó, và nếu không như thế, nghĩa là nếu họ cứ sống trong sự thoái hóa liên tục của hôn nhân, thì điều đó đủ để suy đoán là có một thiếu sót gì đó trong việc ưng thuận kết hôn của họ. Mackin trích dẫn phán quyết của Tòa Tối Cao như sau: “Đọc vụ án này, người ta tức khắc kết luận rằng cuộc kết hợp ngắn ngủi này (chưa đầy 4 tháng) không hẳn là một cuộc hôn nhân. Nó không phát triển đến chỗ trở thành một cộng đồng sự sống và tình yêu bình thường” (245).

Khỏi cần nói cũng thấy các phán quyết trước đã bị đảo ngược. Một ủy ban được thành lập đã giải thích rằng Gaudium et spes không nói đến các khía cạnh pháp lý của hôn nhân. Ủy Ban cũng cho hay: hôn nhân là mối tương quan pháp lý, một dây liên kết nhờ đó, người đàn ông và người đàn bà trở thành chồng và vợ và dây liên kết này tiếp tục hiện hữu một cách độc lập đối với bất cứ thay đổi nào sau đó trong ý chí của đôi bên, các thay đổi ý chí này sẽ không tác động gì đối với tính thành hiệu của hôn nhân. Đối tượng của việc ưng thuận hôn nhân là chính hai người phối ngẫu và bản chất việc ưng thuận muốn là ưng thuận vĩnh viễn này sẽ còn mãi suốt trong cuộc sống của đôi bạn (246). Mackin cho hay: yếu tính của hôn nhân là pháp lý, các nét không có tính pháp lý chỉ là phụ thuộc, bản sắc pháp lý mới chính là dây liên kết hôn nhân. Ủy Ban trên nói thêm: dây liên kết này bất khả tiêu. Trong bài diễn văn đọc trước Tòa Thượng Thầm Rôma, Đức GH Phaolô VI đã nhắc lại rằng tình yêu vợ chồng không hẳn là yếu tố chủ yếu đến độ tính thành hiệu của hôn nhân phải tùy ở nó mới hiện hữu (247). “Do đó, ta nhất quyết bác bỏ rằng với sự thất bại của một số yếu tố chủ quan như tình yêu vợ chồng, hôn nhân không còn hiện hữu như ‘một thực tại pháp lý’ nữa. Vì thực tại này có nguồn gốc trong sự ưng thuận một lần vĩnh viễn, có hiệu lực về phương diện pháp lý. Do đó, về phương diện luật lệ, ‘thực tại’ này tiếp tục hiện hữu, vì nó không hề lệ thuộc tình yêu mới hiện hữu được. Vì khi đưa ra lời ưng thuận tự do của họ, hai vợ chồng không làm gì khác ngoài việc bước vào và định vị chắc chắn (inseruntur) trong một trật tự khách quan hay trong một định chế, một điều vốn lớn hơn họ và không hề lệ thuộc họ mới có bản chất cũng như luật lệ riêng của mình. Hôn nhân không bắt nguồn từ ý chí tự do của con người, mà là được Thiên Chúa thiết lập. Người muốn nó được tăng cường và soi sáng bằng lề luật của Người” (248).

Như thế, các người phối ngẫu đem vào hiện hữu dây liên kết pháp lý qua hành vi ý chí của họ, tức lời ứng thuận kết hôn được họ công khai nói lên. Lời ưng thuận này tạo ra hiệu quả của nó lúc đó và mãi mãi; hành vi này không phải là việc từ từ lớn mạnh trong kết hợp mà rất có thể sau đó sẽ kết thúc trong đời sống vợ chồng. Mackin kết luận: vì bản chất và luật lệ của hôn nhân là công việc của Thiên Chúa, nên rõ ràng Người đã mạc khải để ta thấy rằng hôn nhân là sợi dây liên kết pháp lý không thể bị tấn công và Đức Giáo Hoàng hẳn muốn nói rằng thuật ngữ “sợi dây liên kết bất khả tiêu” mà lần đầu tiên xuất hiện trong thế kỷ 12 đã được đưa ra đâu đó trong mạc khải của Thiên Chúa, tuy ngài không xác định vị trí của nó trong mạc khải này.

Thư Êphêsô và tính bất khả tiêu

Vấn đề khác của Mackin là: điều gì khiến cho các cuộc hôn nhân bí tích đã hoàn hợp thì không thể bị tiêu hủy. Giáo huấn truyền thống của Thư Êphêsô 5:21-33 như sau: Thánh Phaolô dạy rằng mọi cuộc hôn nhân của hai Kitô hữu đều là hình ảnh của liên hệ yêu thương giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Lý luận truyền thống của thần học là: vì liên hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội là liên hệ không ai đánh đổ được, nên thực tại nhân bản làm hình ảnh cho nó (liên hệ vợ chồng) cũng không thể tiêu hủy được, chứ không phải không nên tiêu hủy nó. Mackin cho hay: luận lý học nguyên cớ ở đây không có tính đạo nghĩa học (deontological), không phải nên là, mà có tính hữu thể học (ontological), một luận lý học về điều thực sự là. Nhưng thần học không thể giải thích được việc làm thế nào phẩm tính trong mối liên hệ được làm hình ảnh (imaged relationship), về phương diện hữu thể học, lại tạo ra được cùng một phẩm tính ấy trong mối liên hệ tạo hình ảnh (imaging relationship). Theo Mackin, nơi nào các người phối ngẫu Kitô giáo biết rằng khi lấy nhau, họ tự cam kết làm hình ảnh cho tính bất diệt của tình yêu Chúa Kitô dành cho Giáo Hội của Người, họ đều có bổn phận phải cố gắng sống tính bất diệt ấy trong hôn nhân của họ. Nhưng nếu nói rằng cuộc hôn nhân của hai người phối ngẫu vốn bất diệt vì nó là hình ảnh tính bất diệt của Chúa Kitô thì quả là khó hiểu. Mackin tiếp tục chỉ ra các yếu kém khác được ông nhìn thấy trong việc không có sự tương ứng giữa liên hệ tạo hình ảnh và liên hệ được làm hình ảnh. Thí dụ, điều gì sẽ xẩy ra khi một cuộc hôn nhân “chết yểu”, lúc đó, việc tạo hình ảnh nằm ở đâu? (249).

Thực ra, Mackin không chấp nhận việc mọi cuộc hôn nhân của hai Kitô hữu đều là hình ảnh liên hệ yêu thương giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. “Trên thực tế, Giáo Hội không phải là một hiền thê, sau khi được đức lang quân của mình thanh tẩy (như hình ảnh được Thánh Phaolô diễn tả trong Êphêsô 5), tuyệt đối trung thành với Người. Trên thực tế, đó là một xã hội gồm những người đàn ông và những người đàn bà, trong đó, một số trung thành, một số không, nhưng không một ai trung thành theo cách hình ảnh kia đòi hỏi. Kết luận duy nhất về các cuộc hôn nhân trong đời thực mà ta có thể rút ra từ việc minh chứng thần học dựa vào ẩn dụ Giáo Hội là: các người đàn ông và đàn bà tạo thành Giáo Hội trong đời thực phải cố gắng sống trung thành với Chúa Kitô như thế nào, thì các người phối ngẫu trong đời thực cũng phải cố gắng sống trung thành với nhau như vậy. Tóm lại, điều mà việc minh chứng minh kia có thể tạo ra không phải là biết được một sự kiện hữu thể học tức bản chất của hôn nhân Kitô Giáo, mà chỉ biết được sự khẩn trương đạo nghĩa học tác dụng trên cuộc hôn nhân đó” (250).

Câu hỏi nữa là: cuộc hôn nhân của những cặp đã rửa tội nhưng không đạo đức lắm làm sao có thể là hình ảnh của sự kết hợp có tính thánh hóa và hết sức đạo đức giữa Chúa Kitô và Giáo Hội được, khi những người này một là không hiểu tí gì về sự kết hợp kia hai là bác bỏ nó. Đây là câu hỏi ta đã nhắc trên đây về việc cuộc hôn nhân bí tích cần phải có đức tin. Nó khiến ta phải thắc mắc liệu hai Kitô hữu đã rửa tội nhưng bản thân không có đức tin có thể thực hiện được một cuộc hôn nhân theo bí tích hay không.

Mackin cho rằng cách dùng đoạn thư Êphêsô này để bênh vực tính bất khả tiêu của hôn nhân là như sau: “Viết dưới sự linh hứng của Thiên Chúa, Thánh Tông Đồ Phaolô dạy rằng: hôn nhân của hai Kitô hữu là hình ảnh mối liên hệ yêu thương giữa Chúa Kitô và Giáo Hội.
Mà mối liên hệ này bất khả tiêu, nên hôn nhân của hai Kitô hữu cũng bất khả tiêu theo nghĩa không thể nào phá hủy được nó bao lâu cả hai người phối ngẫu còn sống” (251).

Ông cho hay: ta phải nhớ hai điểm sau: a) vì hôn nhân của hai Kitô hữu là hình ảnh cuộc kết hợp không thể tiêu hủy giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, nên nó không hề hấn gì trước bất cứ mưu toan nào nhằm tiêu hủy nó, b) tính bất khả tiêu căn để này chỉ có đối với các cuộc hôn nhân bí tích đã hoàn hợp. Người ta từng lý luận rằng điểm a) ít nhất cũng đã được chứa đựng một cách mặc nhiên trong chương 5 Thư Êphêsô, còn điểm b) thì được rút ra từ Sáng Thế 2:4 và được Chúa Kitô trích dẫn như sau: hai người phối ngẫu trở nên một thân xác. Mackin đặt câu hỏi liệu điểm a) trên thực tế có chính xác không và liệu hôn nhân của bất cứ hai Kitô hữu nào cũng là hình ảnh của liên hệ bất khả tiêu của Chúa Kitô với Giáo Hội.

Như thế, thực ra Thánh Phaolô có ý nói điều gì? Hiển nhiên là ngài sử dụng cuộc hôn nhân có tính ẩn dụ của Chúa Kitô với Giáo Hội một cách loại suy để huấn giáo các cặp vợ chồng Kitô Giáo. Đây là lời huấn giáo, khuyên bảo. Chứ ngài không nói, như hàng bao thế kỷ qua vẫn chủ trương, rằng hôn nhân của các Kitô hữu đã rửa tội là hình ảnh cuộc hôn nhân có tính ẩn dụ của Chúa Kitô với Giáo Hội (252). Người ta hoài nghi không biết Thánh Phaolô có thực sự sử dụng loại suy này theo đạo nghĩa học để đặt nghĩa vụ lên vai các cặp vợ chồng Kitô Giáo hay không. Nhưng nhất định là ngài không có ý định sử dụng nó theo hữu thể học để quả quyết mối liên hệ nhân quả, nghĩa là vì mối liên hệ siêu hình của Chúa Kitô với Giáo Hội là bất khả tiêu, nên cuộc hôn nhân có tính hiện thực về thể lý của bất cứ và của mọi cặp vợ chồng Kitô giáo nào cũng là bất khả tiêu; không những không bao giờ nên bỏ chúng, mà còn không gì có thể tiêu hủy được chúng, trừ sự chết. Làm thế nào tính bất khả diệt trong mối liên hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội lại có thể khiến cho mọi cuộc hôn nhân giữa hai Kitô hữu bất khả tiêu được? Mackin bảo: làm gì có dây liên kết nhân quả. Ông cũng nghi vấn cả việc cuộc hôn nhân có tính ẩn dụ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội là bất khả tiêu vì một số chi thể của Giáo Hội từng đơn phương kết liễu cuộc kết hợp của họ với Chúa Kitô. Dĩ nhiên, luôn luôn sẽ còn Giáo Hội vì luôn luôn còn những chi thể trung thành với Chúa Kitô. Mackin kết luận rằng điều được liên hệ vợ chồng Kitô hữu biểu tượng là cố gắng của Chúa Kitô để tạo ra tính bất diệt trong Giáo Hội như một toàn bộ bằng cách cố gắng tạo ra tính bất diệt này nơi các chi thể Giáo Hội để vợ chồng Kitô hữu phản ảnh một thực tại bất toàn, một thực tại đang cố gắng tự hoàn tất mình nhưng luôn có thể thất bại và do đó, hôn nhân phải thành thực cố gắng đạt tới tính bất khả tiêu nhờ ơn Chúa Thánh Thần.

Bất khả tiêu và việc hoàn hợp

Mackin cũng xem sét tính bất khả tiêu theo quan điểm hôn nhân là một bí tích hoàn hợp và theo sự kiện truyền thống vốn coi hôn nhân được hoàn tất nhờ hoàn hợp. Ông cho hay điều này chỉ xẩy ra khi ta coi hôn nhân như một khế ước. Vậy điều gì sẽ xẩy ra nếu hôn nhân được coi như một giao ước, nghĩa là, không phải một cuộc trao đổi ưng thuận để vợ chồng sử dụng quyền tính dục của nhau, mà là cuộc trao đổi ưng thuận của vợ chồng về chính con người của mình? Liệu loại hành vi có thể hoàn hợp giao ước hôn nhân trong đó hai vợ chồng thực hiện việc hiến chính con người của mình cho nhau, một sự chia sẻ thân mật trọn bộ cuộc sống, lại có thể chỉ là một hành vi giao hợp đơn độc được không?

Các bản văn Tin Mừng

Mackin một lần nữa xét đến các bản văn Tin Mừng. Ông cho hay: ít nhất từ thế kỷ thứ hai, rõ ràng Giáo Hội đã nhìn nhận rằng Chúa Kitô không dạy rằng mọi cuộc hôn nhân, không trừ cuộc nào, đều bất khả tiêu. Thánh Mátthêu đã bao gồm câu ngoại trừ vào Tin Mừng của mình và Thánh Phaolô đã cho phép việc tiêu hủy các cuộc hôn nhân hỗn hợp về tôn giáo. Các thầy dạy trong Giáo Hội hiểu Chúa Kitô muốn dạy rằng chỉ những cuộc hôn nhân thuộc một loại nào đó mới bất khả tiêu mà thôi. Có điều, Người không dạy điều đó một cách minh nhiên và do đó, đã không ban hành một qui định có tính luật pháp. Việc Thánh Máccô ghi lại giáo huấn của Chúa Kitô về ly dị nằm trong ngữ cảnh một loạt các đòi hỏi đặt lên những ai sẽ trở thành môn đệ của Người (các chương 9 và 10). Các đòi hỏi này không phải là luật theo phong tục hay luật theo qui chế. Chúng là thách đố, là yêu cầu, là mời gọi.

Thomas Deidun thì đặt vấn đề như sau: “Tại sao các bản văn như Mc 10:11 và Lc 16:18, tức các bản văn ngăn cấm ly dị, được giải thích một cách chiểu tự như là các công bố pháp lý vượt thời gian và tuyệt đối, trong khi các bản văn như Lc 6:29 và 14:33, là các bản văn, hiểu một cách chiểu tự, đòi ta phải chủ hòa và tự từ bỏ của cải vật chất như những điều kiện để được làm môn đệ, lại được xem sét nửa vời coi như không tuyệt đối, hay ít nhất, cũng với một sự mềm dẻo tinh tế của khoa chú giải? Có phải vì những đòi hỏi sau được coi như biểu tượng (nghĩa là không được giải thích một cách chiểu tự) hay như việc đảo ngược căn để các giá trị mà việc xuất hiện nước trời gần kề sắp sửa thực hiện, trong khi các lời phán về ly dị được coi là cung cấp nền tảng pháp lý cho tập tục thịnh hành lúc đó trong nhiều cộng đoàn; và do đó, khác về chủng loại với các thách đố có tính biểu tượng của nước trời? Nhưng nếu thế, phải nghĩ sao về sự kiện: trong Máccô, câu phán về ly dị lại diễn ra trong cùng một ngữ cảnh tổng quát như lệnh truyền phải tự cắt bỏ phần cơ thể để tránh làm gương mù gương xấu, và lệnh truyền phải từ bỏ giầu sang để theo chân Chúa Giêsu; còn trong Mátthêu, một trong các câu phán về ly dị đã diễn ra trong chính ngữ cảnh các đòi hỏi đầy nghịch lý của các mối phúc?” (253).

Mackin cho rằng Chúa Giêsu không truyền cho các người theo Người đừng tìm kiếm hay cho phép việc tiêu hôn. Người chỉ truyền cho các người chồng đừng tiếp tục tập tục được các rabbi bảo trợ là được phép đơn phương bỏ vợ. Người tham chiếu Sách Sáng Thế, cho thấy trong hôn nhân, người đàn ông và người đàn bà đã trở nên một con người và người vợ không hề là tài sản của người chồng.

Deidun thì cho hay: “… Liệu có những yếu tố có tính giải thích khác mà ta phải đem ra để xem sét các lời phán về ly dị hay không? Những yếu tố đó có lẽ được sự quan tâm của Chúa Giêsu đối với thế yếu kém của phụ nữ trong xã hội Do Thái khuyến khích chăng? Dĩ nhiên, chính người chồng, người, mà dưới con mắt luật lệ Do Thái, luôn chiếm thế ưu tiên, mới là mục tiêu cho sự cấm đoán của Chúa Giêsu… Rất có thể các bản văn nói về ly dị, ngay khi tỏ ra đang thần học hóa tính bất khả tiêu của hôn nhân, khởi thủy cũng chỉ muốn thủ chức năng tiên tri lên án bất công, hơn là cung cấp nền tảng siêu hình cho một qui định luật pháp bất di bất dịch, là điều chỉ tổ làm xấu thêm tình thế của nạn nhân vô tội của bất công mà thôi” (254).

Thực ra Mackin cho rằng, trong Giáo Hội sơ khai, lời của Chúa Kitô đã bị Thánh Mátthêu giải thích và thích ứng bằng câu ngoại trừ và cả thánh Phaolô cũng làm thế trong thư gửi tín hữu Côrintô. Các ngài đã làm thế dù biết rằng theo Chúa Kitô, hai vợ chồng đã được Thiên Chúa kết hợp và họ không nên phân ly nhau. Hơn nữa, lời của Chúa Kitô vẫn tiếp tục được giải thích và thích ứng dọc dài qua nhiều thời đại bằng phép tiêu hôn của các vị giáo hoàng. Bởi thế “… các sinh viên hiện đại có thể đặt câu hỏi các bậc thầy đương đại có thể giải thích và thích ứng các lời lẽ ấy cách nào cho những người đàn ông và đàn bà hiện đang mắc kẹt trong những cách thế mà hậu bán thế kỷ 20 đã vẽ ra, hay ít nhất đã thừa nhận” (255).

Mackin thấy rằng các bậc thầy Công Giáo từng thực hiện ba điều. Thứ nhất, vào cuối thế kỷ thứ tư, có hai lý thuyết và kỷ luật vận hành trong Giáo Hội. Tại đế quốc Phương Đông, có một lý thuyết và kỷ luật lỏng lẻo dựa vào câu ngoại lệ của Thánh Mátthêu. Còn tại đế quốc Phương Tây, thì có một lý thuyết mỗi ngày một nghiêm ngặt hơn bác bỏ việc sử dụng câu ngoại trừ này và dựa vào Thánh Máccô nhưng lại duy trì giáo huấn của Thánh Phaolô. Các nhà cầm quyền trong Giáo Hội Phương Tây dần dần đã lập lý thuyết này thành kỷ luật. Thứ hai, vào các thế kỷ 12 và 13, Giáo Hội Phương Tây đã sáng nghĩ ra câu định nghĩa có tính mệnh lệnh (prescriptive) về hôn nhân nhận tính bất khả tiêu làm thành phần của nó với ý định ngăn ngừa nhà cầm quyền dân sự không được quyền tiêu hủy các cuộc hôn nhân mà dành quyền này cho giáo quyền mà thôi. Sau cùng, nhà cầm quyền Giáo Hội dành các cuộc hôn nhân thực sự bất khả tiêu cho những cuộc hôn nhân bí tích đã hoàn hợp. Như thế, giáo huấn của Chúa Kitô đã được thích ứng tùy theo hoàn cảnh. Các giải thích và thích ứng này là thành phần trong bản chất và giáo huấn của Giáo Hội. Nhưng trong cố của mình nhằm cứu vớt và duy trì định chế hôn nhân, có phải các nhà cầm quyền Công Giáo đã phá hoại các bên kết ước hôn nhân không có ơn gọi sống độc thân va không có cơ hội thứ hai không?

Deidun cho hay: “Nhưng có nhiều cách hơn để nghiêm chỉnh tiếp thu một giáo huấn hơn là biến nó thành một qui định pháp lý bất di bất dịch. Ta đã từng nghiêm chỉnh tiếp thu mệnh lệnh của Tin Mừng đòi phải tha thứ cho anh em và bố thí cho người nghèo. Ta đã chứng tỏ rằng ta nghiêm chỉnh tiếp thu chúng bằng cách không ngừng biến chúng thành đối tượng để giảng thuyết và làm chứng. Ta tiếp nhận phương thức tiên tri hơn là phương thức luật pháp. Vậy thì có điều gì trong các bản văn Tân Ước ngăn cản không cho ta tiếp nhận cùng một phương thức như thế đối với tính vĩnh viễn của hôn nhân?” (256).

Ông phân biệt một bên là lệnh truyền một bên là qui luật. Lệnh truyền có khả năng tự thích ứng với hoàn cảnh của người ta trong khi qui luật thì thường không có khả năng ấy. Điều cực kỳ cái nhiên là Thánh Mátthêu và cả Thánh Phaolô nữa hiến cho ta các điển hình về sự mềm dẻo có tính mục vụ áp dụng vào các cuộc hôn nhân trong đó, có sự bất công không thể nào khoan thứ được, bằng cách nhìn nhận giá trị của cuộc hôn nhân thứ hai nào có hứa hẹn đem lại lòng chung thủy lâu bền hơn sau khi cuộc hôn nhân đầu tan vỡ. Như thế, hôn nhân được xem sét dưới khía cạnh hiện sinh chứ không dưới khía cạnh pháp lý (257).

Kelly

Cả Kelly nữa cũng bênh vực một cái nhìn mới đối với giáo huấn của Giáo Hội về tính bất khả tiêu (258). Ông nhấn mạnh rằng ông không chủ trương coi các giải thích của mình đại diện cho giáo huấn của Giáo Hội, nhưng đây là “cách hữu ích để hiểu tính bất khả tiêu dưới ánh sáng việc Giáo Hội chấp nhận mô thức liên hệ giao ước cho hôn nhân” (259). Ông không hề bác bỏ tính bất khả tiêu của hôn nhân hay thách thức nó, mà đúng hơn xét xem liệu một mẫu thức mới về hôn nhân có cho phép ta nhìn nó dưới một ánh sáng mới và phong phú hơn không. Theo ông, không nên tìm căn gốc của tính bất khả tiêu ở thiện ích của xã hội mà là ở chính bản chất của tình yêu cam kết hiến cuộc đời cho nhau của hai vợ chồng.

Thể hiện tính bất khả tiêu – Cam kết và thành tựu

Phải đưa tính bất khả tiêu vào trong chính cuộc hôn nhân. Đây là một nhiệm vụ cần phải làm. Kelly thích nói tới sự trung thành mãn đời của tình yêu vợ chồng hơn là tính bất khả tiêu của hôn nhân. Bất khả tiêu là điều gì đó cần phải được thể hiện trong hôn nhân. Điều này không có nghĩa: hôn nhân chỉ bất khả tiêu khi một người phối ngẫu đã chết, nghĩa là nhìn lại quá khứ, một ai đó sẽ nói “vâng đúng, cuộc hôn nhân đã từng bất khả tiêu”. Theo Kelly, nền tảng khởi thủy của tính bất khả tiêu nằm ở lòng trung thành mà hai bên cam kết cho nhau, một cam kết vô điều kiện đối với lòng trung thành mãn đời chứ không hẳn ở việc thành tựu của nó. Ông tin rằng đây chỉ là một cách khác để nhìn tính bất khả tiêu mà thôi. Ông đồng ý rằng lý thuyết này có ý nói: một số cuộc hôn nhân sẽ không đạt tới tính bất khả tiêu nội tâm này, trái lại sẽ thoái hóa và tan vỡ, nhưng điều này không có nghĩa chúng không bao giờ bất khả tiêu vì hôn nhân đã có tính bất khả tiêu khởi thủy phát sinh từ cam kết khởi thủy. Như thế, lý thuyết này hàm nghĩa tính bất khả tiêu có hai bình diện có tính bắt buộc. Ông không bác bỏ việc hôn nhân là một khế ước nhưng liên hệ mới nằm tại tâm điểm của hôn nhân hơn.

Ông đương đầu với lời phản bác cho rằng tính bất khả tiêu như thế là tính bất khả tiêu có điều kiện “bao lâu cuộc hôn nhân còn tồn tại”. Ông bác bỏ điều ấy vì theo ông, tính bất khả tiêu bao gồm hai yếu tố, là bổn phận phải chu toàn trách nhiệm họ đã tự cam kết và chính trách nhiệm ấy. Họ có thể thất bại không chu toàn được trách nhiệm nhưng cam kết nguyên thủy phải chu toàn nó thì không có điều kiện gì cả (260).

Kelly đặt câu hỏi: liệu các tòa án hôn phối có phải là những nơi tốt nhất để khảo sát các cuộc hôn nhân hay không và có cần coi trọng một cách thích đáng “tài trí bẩm sinh và trực giác” của người ta không và liệu họ có quyền duy trì xác tín riêng cho rằng cuộc hôn nhân vô hiệu nếu họ tin nó là như thế (261). Phương thức duy nhân vị của ông về hôn nhân thách thức diễn trình tiêu hôn hiện nay. Bao lâu hôn nhân được coi như một khế ước, thì không có khó khăn gì vì một hành vi pháp lệnh có thể giải thoát người ta khỏi một khế ước có tính trói buộc về luập pháp. Nhưng phương thức duy nhân vị đối với hôn nhân đòi phải xử lý các vụ tiêu hôn giống diễn trình vô hiệu hóa (nullity) vì liên hệ bản vị của tình yêu hiến thân không thể bị tiêu hủy. Còn đối với giáo huấn hiện nay về hoàn hợp, Kelly thấy phương thức “hai trong một thân xác” có tính thể lý quá đáng. Theo ông, nó phải hơn một sự kết hợp thể lý. Hôn nhân thực sự hoàn hợp khi chồng và vợ thực sự cảm nghiệm nhau như một cặp, không thể sống nếu không có nhau. Kelly thắc mắc liệu một cuộc hôn nhân như thế có bao giờ chết yểu được hay không dù rất có thể tiêu hủy nó. Ông chấp nhận việc không phải mọi cuộc hôn nhân bí tích đều hoàn hợp kiểu này và không phải ai cũng sẵn sàng đồng ý với lối giải thích này (262). Đàng khác, Kelly nghĩ rằng sự tan vỡ hôn nhân cũng giống như sự hư nát của bánh thánh đã truyền phép. Sự hiện diện của Chúa Giêsu ngưng trong trường hợp sau thế nào thì bí tích cũng ngưng trong trường hợp trước như thế.

Giáo huấn của Chúa Giêsu

Giáo huấn của Chúa Giêsu về tính bất khả tiêu liên hệ ra sao với cái hiểu của Kelly? Ông tin rằng “hai trong một thân xác” có ý nói “tính đơn nhất trong hiệp thông”. Do đó, khi Chúa Giêsu bác bỏ ly dị, cho rằng khởi thủy không như thế, Người có ý nhắc đến gốc rễ thực sự của tính bất khả tiêu, nghĩa là tính đơn nhất (oneness) trong hiệp thông là biểu tượng của sự đơn nhất trong Hiệp thông của Thiên Chúa. Do đó, sự đơn nhất trong hiệp thông này không thể chỉ có tính nhất thời (transitory); nó chỉ chân chính đầy đủ khi đạt được sự vĩnh viễn, một vĩnh viễn phản ánh được sự trung tín của Thiên Chúa (263).

Luật tiệm tiến

Kelly thảo luận tiếp tới luân lý tính khách quan của cặp ly dị và tái hôn đang sống trong tình trạng tội lỗi và luân lý tính chủ quan của họ khi họ thành thực tin rằng tiếp tục sống trong cuộc hôn nhân thứ hai là điều đúng. Ông nói tới ‘luật tiệm tiến’ là luật nói tới “loại tình thế lưỡng nan trong đó 2 điểm tập chú khác nhau hiện diện song song cho dù hiện nay chúng không thể hoàn toàn cùng một hàng ngũ với nhau được. Tập chú thứ nhất (có thể gọi là tập chú ‘phổ quát’) là giá trị hay luật phổ quát có liên quan tới thiện ích con người nhân bản nói chung, và giá trị này thách thức cá nhân bất kể hoàn cảnh cá biệt của họ. Tập chú thứ hai (có thể gọi là tập chú ‘đặc thù’) liên hệ tới cả khả năng của cá nhân trong giai đoạn này của lịch sử phát triển bản thân của họ lẫn bất cứ nét nào trong hoàn cảnh cá biệt của họ có thể mang theo một ý nghĩa nhân bản đặc biệt” (264).

Luật tiệm tiến liên hệ tới việc mỗi ngày một liên kết hai tập chú trên nhiều hơn nhưng vẫn chấp nhận để tập chú đặc thù là tập chú xác định giúp cá nhân đưa ra quyết định của mình trong hoàn cảnh đặc thù ấy. Đây là hoàn cảnh không thoả đáng và lý tưởng là cả hai tập chú được liên kết một cách thích đáng theo hàng dọc. Điều này có thể không xẩy ra đối với một số cá nhân trừ khi có sự thay đổi vốn vượt quá quyền kiểm soát của họ. Kelly nhấn mạnh rằng điều này không giống như đạo đức học hoàn cảnh (situation ethics) và người ta phải nhìn nhận sự căng thẳng giữa hai tập chú này. Ông tin rằng lý thuyết này có thể áp dụng đối với những người ly dị và tái hôn. “Điều đòi hỏi ở họ là một quyết định mà theo khả năng của họ, được đưa ra một cách đúng đắn, nghĩa là, phải dành tầm quan trọng thích đáng cho các giá trị quan trọng nhất theo khả năng họ nhận biết. Hơn nữa, như đã nói, khởi từ nơi họ đang dính líu là khởi đi từ các hoàn cảnh liên ngã và xã hội hiện nay của họ” (265).

Do đó, Kelly tin rằng bước vào cuộc hôn nhân thứ hai hay tiếp tục sống trong nó có thể được coi là quyết định đúng đắn đối với nhiều người Công Giáo. Quyết định này còn có thể mô tả là quyết định tốt về luân lý. Cho nên, sử dụng hạn từ tội lỗi để chỉ hoàn cảnh của họ là điều không thích đáng, có một điều xấu trong đó nhưng đó là điều một số nhà thần học gọi là “sự xấu không có tính luân lý”. Thật đáng tiếc khi cuộc hôn nhân thứ hai của họ không thể hoà giải với chủ điểm tập chú quan trọng của lòng thủy chung mãn đời của vợ chồng. Ông tiếp tục duyệt xét lý luận cho rằng tình thế của người ly dị và tái hôn, một cách khách quan, đi ngược lại tính bất khả tiêu của giao ước tình yêu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội và đặt câu hỏi liệu điều đó có loại họ khỏi bí tích Thánh Thể hay không. Theo ông, không thể coi việc ngăn cấm họ rước lễ là kết luận thần học thiết yếu; nó quá nhấn mạnh tới Phép Thánh Thể như là dấu chỉ một cộng đồng đã hiện hữu rồi mà quên sức mạnh của nó trong việc giúp cộng đồng này đạt được sự hợp nhất lớn lao hơn. Thiển nghĩ các luận điểm của Kelly không thuyết phục lắm và ngay cả không đúng nữa. Chúng không thêm gì mới cho các luận điểm đã trình bầy trên đây và đã bị Đức Giáo Hoàng và CDF bác bỏ.

Còn về sự kiện nếu chấp nhận cho người ly dị và tái hôn lãnh nhận các bí tích sẽ khiến cho tín hữu hiểu lầm và lẫn lộn đối với giáo huấn của Giáo Hội về tính bất khả tiêu, Kelly đặt câu hỏi liệu việc từ khước các bí tích có phải là phương thế hữu hiệu nhất để làm chứng cho giáo huấn của Giáo Hội chăng. Ông tin rằng điều ngược lại mới đúng, cùng với trợ giúp gia tăng của mục vụ. Về việc sau, trong những năm gần đây, đã có nhiều tiến bộ đáng kể. Kelly tin rằng sự sống và việc hàn gắn mới có thể xuất hiện qua việc bước vào cuộc hôn nhân thứ hai. Giáo Hội nên nhìn nhận việc ấy như một thiện ích. Nhưng cả hai người phối ngẫu của cuộc hôn nhân đầu nên nhìn nhận trách nhiệm đối với cuộc tan vỡ vì chính họ đã góp phần tạo nên nó. Họ cần sẵn sàng thống hối và tha thứ. Bên có lỗi nên mong muốn sự tha thứ của bên vô tội và biết đánh giá đúng gương mù mình đã gây ra.

Sau khi cho rằng mình tin là Giáo Hội có thể cho phép người ly dị và tái hôn chịu các bí tích, Kelly tiếp tục hỏi liệu những người này, trên thực tế, có thể chịu các bí tích hay không. Dựa vào luật lệ, Kelly cho rằng có đủ lý lẽ để tin là họ không bị ngăn cản. Ta đã bàn chi tiết tới điểm này rồi (266). Và Kelly nại tới nguyên tắc: luật hoài nghi không có tính bắt buộc. Thiển nghĩ lý luận của Kelly không vững vì những điểm ta đã trình bầy trên đây. Kelly sau đó gợi ý rằng nếu có lệnh cấm nào, thì lệnh cấm ấy phải được giải thích theo các nguyên tắc của khoa thần học luân lý.

Theo Ông, dù các tuyên bố của các vị giáo hoàng rõ ràng dạy rằng người ly dị và tái hôn không được chịu các bí tích trên phương diện chính thức, một số nhà chú giải vẫn tin rằng đấy không hẳn là một lệnh cấm tuyệt đối, vì phương thức tiếp cận nền thần học luân lý của Rôma luôn phân biệt giữa nguyên tắc luân lý và thực hành mục vụ. Để một nguyên tắc có tính hữu hiệu thực sự, nó phải được phát biểu một cách rõ ràng, không hàm hồ và không có điều kiện (qualification). Nhưng với mục vụ, thì luôn có chỗ dành cho sự mềm dẻo. Thiển nghĩ kết luận như thế có hơi lạ lẫm. Kelly cho rằng điều này có thể giải thích lý do tại sao CDF tuy viết một lá thư không khoan nhượng chút nào nhưng lại hàm ý một phương thức cởi mở hơn nhiều ở phần ghi chú nói về việc tham khảo các tác giả đã được nhìn nhận và đưa ra các giải đáp xem ra hàm hồ một cách không cần thiết đối với những câu hỏi hết sức rõ ràng. Ông lý luận như thế này: “Nói một cách thô thiển hết sức, thì phương thức này có nghĩa: giáo quyền nói chữ “không” một cách hết sức rõ ràng đối với khả thể cho phép người ly dị và tái hôn chịu các bí tích nhưng chữ “không” không chút hàm hồ này chỉ có ý nhằm các mục tiêu công bố công khai mà thôi. Nó có ý làm chứng một cách công khai rõ ràng sự cam kết của Giáo Hội đối với tính bất khả tiêu. Nhưng nó không có ý định trở thành hướng dẫn viên cho thực hành mục vụ. Vì thực hành mục vụ vận hành trên một bình diện khác hẳn và là quan tâm của nền thần học mục vụ. Đây là bình diện trong đó, sự hướng dẫn phải được đưa ra cho các diễn trình quyết định khó khăn trong hoàn cảnh cần phải xem sét các giá trị khác, ngoài tính bất khả tiêu và trong đó, mọi tính đặc thù của giai đoạn phát triển bản thân nơi cá nhân và hoàn cảnh đặc biệt của họ phải được tính tới” (267).

Thiển nghĩ lý luận của Kelly giống như một cố gắng bám lấy cọng rơm cuối cùng (clutching at straws) và đúng hơn ông đang đùa dỡn với các công bố của huấn quyền. Lá thư của CDF là câu trả lời cho thư mục vụ và các nguyên tắc chăm sóc mục vụ của các vị giám mục vùng Thượng Sông Rhine (thậm chí còn muốn ngỏ với mọi vị giám mục nữa). Bởi thế, thiển nghĩ khó có thể cho rằng CDF có một nghị trình bí ẩn mà Thánh Bộ đã không muốn tiết lộ liên quan đến thực hành mục vụ.

Kelly tự hỏi việc cấm chịu các bí tích đối với người ly dị và tái hôn nên được giải thích chặt chẽ ra sao. Ông cho rằng lệnh cấm đó không được lồng vào luật pháp của Giáo Hội mà chỉ được coi như hậu quả tất yếu của việc Giáo Hội hiểu về hôn nhân và Thánh Thể. Cái nhìn về “hậu quả tất yếu” này có chính xác hay không? Ông tin rằng có lý do mạnh để nghĩ ngược lại và ông trích dẫn các tạp chí thần học và giáo luật của thập niên trước (1980) để hỗ trợ quan điểm của mình.

Bất đồng có trách nhiệm

Ông cho rằng bất đồng có thể là quyết định Kitô giáo hoàn toàn có trách nhiệm, dĩ nhiên trong các giới hạn nào đó. Đây không phải là bất trung. Người ta có quyền giả thiết rằng những người bất đồng như thế có đủ lý do nghiêm túc để làm vậy và họ sẵn sàng tiếp nhận thay đổi. Theo ông, điều đó không y hệt việc “theo tiếng lương tâm của bạn” là việc có thể hàm nghĩa một chống đối chống lại ích chung của cộng đồng. Bất đồng có trách nhiệm có căn bản vững chắc trong thánh truyền. Như thế, trong ngữ cảnh cuộc tranh luận hiện nay, nó có thể có nghĩa: người Công Giáo ly dị và tái hôn có thể thực hiện một quyết định Kitô giáo hoàn toàn có trách nhiệm khi tiến lên chịu các bí tích. Ông kể ra các điều kiện mà ta vốn liệt kê trước đây a) cuộc hôn nhân thứ nhất đã đổ vỡ vô phương cứu chữa và không có khả thể nào có thể phục hoạt được nó b) mọi bổn phận về đức công bằng đối với người phối ngẫu kia và con cái của cuộc hôn nhân ấy đã được thanh thỏa c) cuộc hôn nhân thứ hai được sống cách chân thành và cuối cùng d) ý muốn chịu các bí tích phải được thúc đẩy bởi một đức tin chân chính. Dù thừa tác viên bí tích có bổn phận trình bầy giáo huấn chính thức của Giáo Hội, họ không nên cảm thấy mình bị bó buộc phải khước từ bí tích đối với những người như thế. Tuy nhiên, việc từ khước ấy vẫn có thể xẩy ra nếu tình huống của những người đó thực sự có tính gây gương mù gương xấu và tạo nên cảnh xuống dốc nghiêm trọng nơi cộng đoàn địa phương.

Thiển nghĩ: mọi chuyện này chẳng qua đề cập tới lương tâm của cá nhân. Nhưng cá nhân nào cũng có bổn phận phải giáo dục lương tâm mình theo giáo huấn đúng đắn và Đức GH Gioan Phaolô II, trong thông điệp Veritatis splendor, vốn cảnh cáo chống lại việc tách biệt một giáo huấn có giá trị phổ quát và qui phạm của lương tâm cá nhân tự quyết định điều đúng điều sai. “Trên căn bản này, đã có mưu toan nhằm hợp pháp hóa các giải pháp tự gọi là ‘mục vụ’ trái với giáo huấn của Huấn Quyền, và biện minh cho lối chú giải ‘sáng tạo’ theo đó, lương tâm luân lý không hề bị trói buộc, trong mọi trường hợp, vào một giới răn tiêu cực đặc thù. Không ai lại không hiểu ra rằng những phương thức này thách thức chính bản sắc của lương tâm luân lý liên quan tới tự do nhân bản và lề luật Thiên Chúa” (268).

Kelly ngần ngại không muốn cho rằng linh mục nào chứng dám việc kết hôn của một cặp đã ly dị và nay tái hôn sau khi đã tuân thủ các điều kiện được ông kể ra trên đây đều được biện minh. Ông chỉ nghĩ rằng mục tử có thể chia sẻ một vài hình thức cầu nguyên hay chúc lành nào đó với cặp này để nói lên sự hỗ trợ và sự khích lệ của mình trong khi cho mọi người biết rõ đây không phải là cuộc cử hành chính thức cuộc hôn nhân của họ theo qui luật Giáo Hội. Nhưng Kelly quả có trích dẫn Tông Huấn Familiaris consortio số 84 trong đó, Đức GH Gioan Phaolô II ngăn cấm bất cứ loại nghi lễ nào đối với người ly dị nay tái hôn. Ông đồng ý: phải tỏ lòng tôn trọng đối với bí tích hôn phối, đối với cặp vợ chồng, với cộng đoàn và các tín hữu nói chung nhưng không đồng ý việc ngăn cấm bất cứ nghi thức nào!

McDonald

Trong một bài đăng trên tờ Clergy Review (269), Kevin McDonald đã phê bình quan điểm của Kelly. Về hôn nhân, ông bảo rằng nó đã trở thành một định chế trong đó, người ta chờ mong được thỏa mãn xúc cảm và hạnh phúc bản thân. Phẩm chất một cuộc hôn nhân được đo bằng độ thâm sâu của thỏa mãn xúc cảm trong nó. Theo McDonald, sự thật là có thể có cuộc hôn nhân hoàn toàn chân thực nhưng trong đó, các người phối ngẫu không tìm được độ thâm sâu của thỏa mãn ấy và hơn nữa, lòng trung thành hỗ tương của họ không tùy thuộc vào độ sâu ấy. Ông nhấn mạnh rằng đối với hai Kitô hữu, hôn nhân là một bí tích. Hôn nhân kéo ta vào mối liên hệ của Chúa Kitô với Giáo Hội của Người. Chính nhờ cam kết suốt đời của họ, vợ chồng lớn lên trong Chúa Kitô, một môi trường trong đó, họ hiến thân cho nhau trong sự trung thành hoàn toàn. Ông cũng chỉ rõ sự kiện này là theo Kelly, việc biện minh cho cuộc hôn nhân thứ hai hệ ở hạnh phúc và phúc lợi được nó phục hồi cho một ai đó từng chịu đau khổ vì ly dị và nay trở thành độc thân và lẻ loi. Dù người ta có thể trải nghiệm điều ấy, nhưng MacDonald cho rằng: phải xem sét điều ấy trong ngữ cảnh giáo huấn Kitô giáo về tính dục và đức trong sạch. Đối với hôn nhân, có một chiều kích luân lý. “Hôn nhân phải đặt căn bản trên việc cùng chọn một mục tiêu chung và mục tiêu chung này phải là một điều gì đó tốt ngay trong nó (kiểu nói cổ điển gọi là bonum honestum) chứ không phải chỉ là một điều gì đó tốt cho tôi (kiểu nói cổ điển gọi là bonum utile). Việc theo đuổi mục tiêu chung tạo nên một kiểu hỗ tương làm căn bản thực sự cho hôn nhân và nhất thiết loại bỏ được khả thể duy thực dụng (utilitarianism) nghĩa là sử dụng hay vất bỏ một con người khác” (270).

McDonald sau đó cho hay: con cái và sự kết hợp là các thiện ích khách quan và nhờ chọn lựa chúng, ta được kéo vào mầu nhiệm Chúa Kitô.

Thiển nghĩ: McDonald đã đánh trúng tim đen điểm yếu trong lý thuyết của Kelly. Bí tích hôn phối hệ ở việc theo đuổi của hai con người cam kết với nhau suốt đời để cùng tìm kiếm thiện ích luân lý. Phải nắm chắc điều này: ta cần khao khát hạnh phúc và thỏa mãn, nhưng hạnh phúc và thỏa mãn này phải lệ thuộc luân lý. Cuộc hôn nhân nào trên căn bản chỉ có tính thực dụng quả đi ngược lại điều này (271). Một lần nữa, nếu hôn nhân tùy thuộc thỏa mãn và hạnh phúc, thì đâu là định mức mà dưới đó, người ta có thể nói không có hôn nhân? Liệu có một lúc nào đó trong cuộc hôn nhân ấy, nó bỗng ngưng không còn là một cam kết thỏa đáng nữa, có thể nói nó đã chết? Không hề có thước đo nào đo được tình yêu và cam kết.

Buckley

Timothy Buckley, trong cuốn What Binds a Marriage (272), có đưa ra một bản tóm lược lịch sử thần học của hôn nhân, bao gồm các tư liệu được bàn tới ở phần đầu sách này (273). Trong chương thứ 2, tác giả tập chú vào ý niệm dây liên kết làm cho hôn nhân thành bất khả tiêu. Buckley thấy có sự không nhất quá trong lời giải thích về sợi dây này. Thí dụ, tác giả nói rằng nó được dùng trong trật tự tự nhiên, liên hệ tới mọi cuộc hôn nhân và cả theo nghĩa đặc biệt liên hệ tới các cuộc hôn nhân thuộc quyền tài phán của Giáo Hội. “Giáo Hội Công Giáo quan tâm tới việc bênh vực tính thánh thiêng và tính vĩnh viễn của hôn nhân như một định chế đối với mọi người hay chỉ đối với những ai là thành viên của Giáo Hội?” (274).

Theo ông, Thánh Augustinô không khai triển ý niệm dây liên kết như một thực tại hữu thể học theo qui cách Kinh Viện. Như ta đã thấy trước đây trong nghiên cứu này, đối với Thánh Augustinô, sự thánh thiện mới làm cho hôn nhân thành bất khả tiêu. Bản chất sacramentum là cam kết của hai người phối ngẫu đối với Thiên Chúa (275). Các nhà Kinh Viện, trái lại, đã sử dụng sợi dây liên kết để mô tả bản chất bất khả tiêu của hôn nhân. Buckley, khi nhắc tới Mackin (276), đã cho rằng hình như Thánh Tôma Aquinô rất thích tuyên bố một cách không hàm hồ rằng sợi dây liên kết tự nhiên của hôn nhân là tuyệt đối bất khả tiêu, nhưng vì tập tục của Giáo Hội vốn tiêu hủy một số cuộc hôn nhân Kitô giáo, nên ngài đã không thể tuyên bố như thế. Ngài chưa bao giờ giải quyết dứt điểm tại sao việc giao hợp sau sự ưng thuận của vợ chồng lại làm cho các cuộc hôn nhân Kitô giáo thành bất khả tiêu tuyệt đối. Buckley cũng nhắc tới chân phúc Scotus, người vốn phân biệt một bên là việc kết hợp trong hôn nhân được sự ưng thuận hỗ tương làm cho hữu hiệu, và bên kia là tính bất khả tiêu của sợi dây liên kết do khế ước tạo nên, sẽ được lồng vào giáo huấn của Giáo Hội. Đối với Bộ Giáo Luật năm 1983, Buckley trích dẫn điều 1134 nói về sợi dây này, sợi dây tự chính bản chất của nó vốn vĩnh viễn và độc hữu phát sinh từ một cuộc hôn nhân thành hiệu. Ở đây, ông chú giải rằng hình như Giáo Hội muốn ban cho sợi dây này một cuộc hiện hữu tự quyền riêng của nó.

Ông trích dẫn lời của Thomas Doyle trong cuốn Chú Giải Của Mỹ về Giáo Luật nói rằng: dây liên kết này là một thực tại hữu thể học, mà sự hiện hữu không còn lệ thuộc ý chí của một mình hai vợ chồng nữa (277). Điểm chủ yếu trong phương diện này là lời quả quyết của Doyle cho rằng khi Giáo Hội thủ đắc được năng quyền đối với hôn nhân trong thời Trung Cổ, việc hiểu sợi dây liên kết này chuyển từ một bổn phận luân lý hoàn toàn qua việc hiểu nó như một thực tại riêng biệt (278). Trái lại, Ladislas Orsy lại tin rằng dây liên kết này không thể tự nó hiện hữu được (279). Ông bảo: nó là tạo phẩm của Luật, bất kể là nhân hay thiên luật. Nó là liên hệ phu thê đặc biệt của các người phối ngẫu, một liên hệ nghĩa vụ nhưng vì bí tích, nó được ơn thánh Chúa và cam kết của Người đối với các người phối ngẫu đóng ấn.

Buckley tiếp tục cho hay: dây liên kết có tính bí tích này được định nghĩa thuộc một trật tự hoàn toàn khác với dây liên kết tự nhiên. Nhưng sự phân biệt này không bao giờ được minh xác một cách thỏa đáng khi đề cập tới tính bất khả tiêu vì niềm tin căn bản vẫn cho rằng mọi cuộc hôn nhân đều bất khả tiêu cả. Hay nhất mới chỉ có điều này được đưa ra: tính bất khả tiêu của cuộc kết hợp bí tích được chính bí tích tăng cường. Người ta cũng vốn cho rằng vì phép rửa ban cho ta một ấn tín (character), nên khi hai người rửa tội kết hôn với nhau, dây liên kết của họ cũng được đưa vào cùng một trật tự hữu thể học ấy.

Tuy thế, Buckley nêu lên câu hỏi sau: “Nếu trong trật tự hữu thể học, hôn nhân của hai người đã rửa tội lập tức (ipso facto) tạo nên một bí tích, thì làm thế nào một mẩu luật lệ chỉ có tính kỷ luật lại có thể tác động trên sự kiện hữu thể học ấy? … Như ta đã thấy, sắc lệnh Ne Temere ấn định phép rửa là tiêu chuẩn duy nhất để có hình thức giáo luật, nhưng Bộ Giáo Luật năm 1917 đã sửa đổi chủ trương này đến độ những ai không được dưỡng dục trong đức tin đều bị loại ra khỏi quyền tài phán của Bộ Luật này. Khi qui định đó bị bãi bỏ vào ngày 1 tháng 8 năm 1948, thì việc này có nghĩa: một ai đó, được rửa tội là Công Giáo, sẽ vô tình tạo nên sợi dây liên kết bí tích có tính hữu thể học vào ngày 31 tháng 7 năm 1948 vì đã kết hôn tại một phòng đăng ký, nhưng sau đó 24 tiếng đồng hồ, cũng trong cùng những hoàn cảnh y hệt như thế, ông ta lại không tạo nên dây liên kết như vừa nói. Ít nhất, đối với tâm thức hiện đại ngày nay, thật khó mà quan niệm được một Thiên Chúa mà hành động lại bị luật lệ con người kiểm soát một cách như vậy” (280).

Buckley cũng đề cập tới cuộc hôn nhân của những người rất ít đức tin, nhưng ta đã bàn đến hoàn cảnh này ở trên rồi, nên không cần nhắc lại ở đây. Đây cũng không phải là chỗ để bình luận về trọn cuốn sách của Buckley. Ông bàn đến khá nhiều tình huống khác nhau mà ta đã đề cập đến rồi trong cuộc nghiên cứu này. Ông dựa vào giáo dân cũng như hàng giáo sĩ để thực hiện các cuộc điều tra của mình. Ông trình bầy các suy nghĩ cuối cùng của mình như sau: “Cuộc nghiên cứu này cho rằng trong lãnh vực ly dị và tái hôn, Giáo Hội Công Giáo đã tự giam mình vào mạng lưới chằng chịt của luật lệ. Mạng lưới này, oái oăm thay, đã được dệt do cố gắng muốn giải quyết các vấn nạn mục vụ chung quanh các vấn đề này vào những thời điểm khác nhau của lịch sử. Vì các giải pháp mục vụ được lồng vào các qui định luật pháp và các qui định này được thấm nhuần nhờ lối giải thích của nền siêu hình Kinh Viện, là nền siêu hình vốn định nghĩa dây liên kết bí tích của hôn nhân là một thực tại độc lập đối với mối liên hệ của vợ chồng, nên kết quả tất yếu mới là tình huống như ta thấy hiện nay. Điều này nghiêng nặng về việc phải thiết định được là liệu sợi dây liên kết đã hoàn hợp về phương diện bí tích và do đó tuyệt đối bất khả tiêu có thực sự hiện hữu hay không? Phần lớn cuộc tranh luận trong Giáo Hội Công Giáo đã trực tiếp tránh né việc thách thức quan điểm có tính tín lý này, một quan điểm làm căn bản cho kỷ luật của Giáo Hội. Tôi tin chắc rằng tiến bộ đáng kể chỉ có thể có khi quan điểm đó được tháo bỏ” (281).

Sau khi đã bình luận về cuốn sách của Kelly, Buckley cho rằng không cần phải định nghĩa lại sợi dây liên kết hay tính bất khả tiêu, mà chỉ cần cho thấy sự mâu thuẫn trong giáo huấn của Giáo Hội. Ông nhắc đến các số 1614 và 1640 của Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo. Số 1614 dạy rằng hôn nhân bất khả tiêu nhưng ở số 1640, Sách lại nói dè dặt mà cho rằng cuộc hôn nhân bí tích đã hoàn hợp mới không thể bị tiêu hủy. Buckley cho rằng cách Giáo Hội đạt tới điều đó không minh bạch chút nào và người ta không rõ có phải Chúa thiết dựng sự vật cách đó hay không (282).

Kết luận



Nay là lúc phải rút ra một số kết luận từ cuộc điều tra dài dòng của ta về ly dị và tái hôn. Về vấn đề tòa trong, rõ ràng huấn quyền chưa chấp nhận khả thể “giải pháp tòa trong” đã được đề nghị từ thập niên 1970. Điều này thấy rõ trong giáo huấn Familiaris consortio của Đức Gioan Phaolô II, trong Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo, và trong nhiều công bố của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin. Sự trì chí của một số người trong việc tìm ra các tiểu dị trong giáo huấn này hình như chưa được biện minh. Đối với hoàn cảnh tranh cãi, đường hướng chính thức vẫn là: nếu cuộc hôn nhân không thành hiệu, người ta có thể chứng minh điều đó ở tòa ngoài. Nhưng đường hướng này vẫn chưa giải quyết được các khó khăn khác đã được nêu ra như thiếu tòa án, không có khả năng đương đầu với số lượng lớn lao những người muốn tìm giải pháp cho hoàn cảnh bất thường của họ, các trì hoãn lâu dài không giải quyết các vụ án v.v… Người ta không rõ các giải pháp như hình thức ngoại thường của hôn nhân hay hôn nhân theo lương tâm có đã được áp dụng chưa.

Liên quan đến các hoàn cảnh khó khăn, vấn đề sử dụng hình thức oikonomia hình như chưa được giải quyết. Dường như chưa có câu trả lời nào cho lời yêu cầu nghiên cứu việc đó như một giải pháp có thể có đối với các tình huống bất thường của hôn nhân. Sau cùng, dù một số ngả đường đã được mở ra cho việc tìm hiểu dây hôn phối, dường như chúng không được theo dõi qua bất cứ hành động chính thức nào. Bất cứ việc trở về với Thánh Kinh nào và bất cứ việc nghiên cứu nào về diễn biến của học lý trong Giáo Hội đều bổ ích và đáng lưu ý nhưng liệu chúng có đem lại được một cuộc tái lượng giá điều vốn được coi là truyền thống thì vẫn còn là nghi vấn. Điều quan trọng là không nên quên rằng ta đang sống trong một Giáo Hội hết sức sinh và năng động dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Tước bỏ một số thêm thắt không cần thiết trong phụng vụ là một chuyện, chúng cũng là luật lệ của Giáo Hội. Thay đổi điều được tin là luật tự nhiên hay luật của Chúa lại là một điều khác hẳn.

Xin trích dẫn đoạn sau đây của Provost: “Bất kể là bàn tới tính bất khả tiêu, hoàn hợp, đức tin, hay chính dây hôn phối, đều ít nhất có hai phương thức tổng quát đối với vấn đề tái hôn trong Giáo Hội. Một phương thức đề nghị thay đổi giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân một cách trực tiếp hay gián tiếp, bằng cách tái giải thích nó tận gốc rễ. Phương thức kia chủ trương duy trì giáo huấn hiện nay nhưng thích ứng thực hành của Giáo Hội theo cái hiểu rộng rãi hơn về việc phải áp dụng giáo huấn ấy ra sao vào các trường hợp cá biệt. Theo cái nhìn ngay thẳng có tính tri thức, phương thức thứ nhất có sức lôi cuốn hơn. Nhưng bên trong ngữ cảnh truyền thống, điều quan trọng là phải nhìn nhận sức mạnh của phương thức thứ hai. Nó làm vang lên lý thuyết “chủ thuyết-giả thuyết” (thesis-hypothesis) từng giúp thích ứng các liên hệ giữa Giáo Hội và nhà nước gần một thế kỷ qua cho tới khi giáo huấn về vấn đề ấy được Công Đồng Vatican II thay đổi. Trong các vấn đề hôn nhân, nhiều thay đổi đã diễn ra trong quá khứ do thực hành của Giáo Triều hơn là do các tuyên bố có tính tín lý. Khuynh hướng thứ hai có lẽ đang có nhiều hy vọng thực tiễn đạt được một số giải đáp nào đó cho các hoàn cảnh hôn nhân khó còn có thể chịu đựng được” (283)

Tác giả này nhấn mạnh rằng có một sự ngần ngại có tính lịch sử nơi các viên chức của Giáo Hội trước sự thay đổi các chính sách căn bản khi bị áp lực của công chúng và bao lâu áp lực của công chúng còn tập chú vào vấn đề này, người ta ít có hy vọng có được sự tái giải thích giáo huấn căn bản.

_________________________________________________________________________________________________________
(243) Provost, Op. Cit., tr.169-170.
(244) Mackin, Divorce and Remarriage, Chương 18: Some Critical Reflections, các tr.505-548.
(245) Nên nhớ rằng niên biểu ở đây là năm 1971 trước Bộ GL 1983 và nhiều tuyên bố khác sau đó. Nói cách khác, ta phải xem vụ Utrecht trong ngữ cảnh của nó.
(246) Mackin, Op, cit., tr.509.
(247) Lý luận này cũng có thể áp dụng vào Bộ Luật 1983, là bộ, như ta đã thấy, coi hôn nhân vừa là giao ước vừa là khế ước.
(248) Diễn văn với Tòa Thượng Thẩm Roma, 9 tháng 2, 1976.
(249) Mackin, Op. cit., tr.513.
(250) Mackin, Op. cit., tr.517-519.
(251) Ibid., tr.523.
(252) Ibid., tr.530.
(253) Nhưng Chúa Thánh Thần đã nói gì suốt các thế kỷ qua?
(254) Thomas Deidun, The New Testament divorce texts and Roman Catholic Practice, Unpublished Seminar Paper. tr.1.
(255) Deidun, Op. cit., tr.2.
(256) Mackin, Op.cit., tr.542.
(257) Deidun, Op. cit., tr.7.
(258) Ibid.
(259) Cuốn sách của Kelly phát hành năm 1982. Ở đây, nhắc tới ấn bản mới và mở rộng năm 1996
(260) Kelly, Op. cit., tr.ix.
(261) Kelly, Op. cit., xem tr..24.
(262) Chúng tôi thấy điều này khó chấp nhận được, không có qui luật hay tiêu chuẩn nào nhờ đó ta đạt được sự chắc chắn tinh thần. Điều này khác hẳn với tính liêm chính của lương tâm ta.
(263) Ông không cho biết đây là loại hôn nhân nào nếu không hoàn hợp theo nghĩa ông hiểu từ ngữ này.
(264) Ta không thể bác bỏ được rằng sự kết hợp của một người đàn ông và một người đàn bà trong hôn nhân phản ảnh sự hợp nhất của Chúa Cha và Chúa Con nhưng đối với chúng tôi hình như đặt tính bất khả tiêu trên căn bản này là điều không hữu lý.
(265) Kelly, Op. cit., Chương 3: Sacraments for the Divorced-Remarried-The Theological Arguments. tr.51.
(266) Kelly, Ibid., tr.52.
(267) Trang 73 tt.
(268) Kelly, Op. cit., Chương 4: Sacraments for the Divorced-Remarried- What can we do in practice? tr.67.
(269) Veritatis splendor, Đức GH Gioan Phaolô II, 6 tháng 8, 1993.
(270) Kevin McDonald, Divorce and Remarriage, Clergy Review, 1983, các tr.193-198. Xem Kelly, Op. cit., 160-170.
(271) Kelly, Op. cit., tr.169.
(272) Sự khác nhau giữa việc mưu cầu hạnh phúc (eudaimonology) và việc mưu cầu sự thiện khách quan (luân lý tính) đã được giải thích rõ trong Đạo Đức Học của chân phúc Rosmini.
(273) Buckley, Op. cit. Tác phẩm này nguyên thủy được soạn do yêu cầu của Ủy Ban Hôn Nhân và Đời Sống Gia Đình như một phúc trình cho Hội Đồng Giám Mục Anh và Wales, và sau đó được sử dụng trong luận án tiến sĩ của tác giả tại ĐH London năm 1996.
(274) Buckley, Op. cit., Chương 2, các tr.28-73.
(275) Buckley, Op. cit., các tr.28-9.
(276) Xem ở trên tr. 21.
(277) Mackin, Divorce and Remarriage, các tr.347-348.
(278) The Code of Canon Law: A Text and Commentary, James A. Corriden và nhiều người khác biên tập, London: Geoffrey Chapman, 1985. Xem tr.766.
(279) Ibid., p.808.
(280) Ladislas Orsy, Marriage in Canon Law: Texts and Comments: Reflections and Questions, Leominister: Fowler Wright, 1988.
(281) Buckley, Op. cit., tr.66. Lý luận này hoàn toàn không thuyết phục được chúng tôi; thiển nghĩ phải tính tới “quyền chìa khóa”, tức quyền trói cởi của Giáo Hội. Người ta cũng có thể áp dụng lối lý luận này vào việc sử dụng các năng quyền của linh mục.
(282) Buckley, Op. cit., tr.179.
(283) Provost, Op. cit., tr.195.

Thư Mục

Các Nguồn:

Codex Iuris Canonici (1917), Typis Polyglottis Vaticanis, MCMLVI.
Codex Iuris Canonici (1983), Libreria Editrice Vaticana.
The Code of Canon Law, Collins, 1983.
Catechism of the Catholic Church, St Pauls, 1995.
Familiaris Consortio, Pope John Paul II, St Paul Publications, 1982.
Veritatis Splendor, Pope John Paul II, Catholic Truth Society, 1993.
Vatican Council II Documents, ed. Walter Abbott, Geoffrey Chapman, 1996.
Congregation of the Doctrine for the Faith, Letter to the World’s Bishops, 1994, Origins, 27 October 1994.
The Canon Law Letter and Spirit, The Canon Law Society of Great Britain and Ireland, E.J.Dwyer, 1995.
T.Lincoln Bouscaren S.J. and Adam C.Ellis S.J., Canon Law. A Text and Commentary, Bruce, 1951.
The Code of Canon Law. A Text and Commentary, eds. James A. Corriden, Thomas J. Green, Donald E. Heintschel, Paulist Press, 1985.
Jone, Heribert, O.F.M.Cap., Adelman, Urban, O.F.M.Cap., Moral Theology, The Newman Press, Maryland, 1956.

Các Sách:

Brown, Raymond E., An Introduction to the New Testament, Doubleday, 1997.
Mackin, Theodore,
- Marriage in the Catholic Church, What is Marriage? , Paulist Press 1982.
- Marriage in the Catholic Church, Divorce and Remarriage, Paulist Press, 1984.
- Marriage in the Catholic Church, The Marital Sacrament, Paulist Press, 1989.
Wrenn, Lawrence G.,
- Procedures, Canon Law Society of America, 1987.
- Annulments, Canon Law Society of America, 1996.
Haring, Bernard, No Way Out, St Paul Publications, 1990.
Kelly, Kevin T., Divorce and Second Marriage, (Revised Edition), Geoffrey Chapman, 1996.
Buckley, Timothy J., CSsR., What Binds Marriage? , Geoffrey Chapman, 1997.
Orsy, Ladislas, Marriage and Canon Law, Michael Glazier, 1986.
Robinson, Geoffrey, Marriage Divorce and Nullity, Dove Communications, 1984.

Các Bài Báo

Provost, James H.,
- Intolerable Marriage Situations Revisited, The Jurist 40 (1980) 141-196
- Intolerable Marriage Situations: A Second Decade, The Jurist 50 (1990) 573-612.
Urrutia, Francisco Javier, S.J., The “Internal Forum Solution” Some Comments, The Jurist (40) 1980 128-140.
Travers, Patrick J., Reception of the Holy Eucharist By Catholics Attempting Remarriage After Divorce And The 1983 Code Of Canon Law, The Jurist 55 (1995) 187-217.
Manning, M., Reception Of Holy Communion By Divorced And Remarried Catholics, Canon Law Newsletter of Great Britain and Ireland, Document No. XI, September 1997, Pp.63-71.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Cổ Thụ Trên Ngàn
Lê Trị
21:06 28/09/2014
CỔ THỤ TRÊN NGÀN
Ảnh của Lê Trị
Ngàn năm tuế nguyệt trơ gan
Thân tàn nhưng vẫn hiên ngang giữa trời.
(Lê Trị)