Ngày 31-08-2017
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Suy Niệm Chúa Nhật XXII Thường Niên – Năm A
Lm. Anthony Trung Thành
10:02 31/08/2017
Liền sau khi Phêrô tuyên tín rằng: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16), Đức Giêsu đã loan báo cho các môn đệ biết “Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Nghe vậy, Phêrô kéo Người ra và can ngăn Người rằng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (x. Mt 16,22). Phêrô cho rằng làm như vậy là đúng, là cần thiết, và chắc chắn sẽ được Thầy khen ngợi như lần trước. Nhưng không ngờ rằng, lần này chẳng những Thầy không khen mà còn quở mắng ông một cách thậm tệ: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23). Lần trước được Thầy khen “vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (x. Mt 16,17). Còn lần này bị Thầy quở mắng vì “tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (x. Mt 16,23). Qua lời răn dạy của Đức Giêsu giúp chúng ta nhìn lại con người của mình, lắm lúc ý nghĩ của chúng ta chưa chắc là ý nghĩ của Chúa, thậm chí còn trái với ý nghĩ của Chúa (x. Is 55, 8). Cho nên, trong các sự việc hằng ngày chúng ta đừng vội làm theo ý riêng của mình mà cần phải tìm kiếm và tuân theo ý của Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu cũng đã luôn sống theo thánh ý Chúa Cha, Ngài khẳng định rằng: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (x. Ga 4,34). Trong vườn Cây Dầu, trước cuộc khổ nạn sắp xảy đến, Ngài đã cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Ý của Chúa được thể hiện qua Lời của Ngài, qua các Giới răn, qua các Bề trên hợp pháp, qua cha mẹ… Ý của Chúa còn được thể hiện một cách cụ thể qua lời mời gọi của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).

Lời mời gọi này diễn tả hai khía cạnh: khía cạnh tiêu cực, đó là “từ bỏ mình”; khía cạnh tích cực, đó là “vác thập giá”.

“Từ bỏ mình” nghĩa là từ bỏ ý riêng của bản thân để tuân theo ý Chúa. Từ bỏ mình là từ bỏ con người cũ tội lỗi để mặc lấy con người mới. Từ bỏ mình là từ bỏ những thói hư, tật xấu, những tham, sân, si. Từ bỏ mình là từ bỏ cả những cái thân thiết khi Chúa đòi hỏi như nhà cửa, ruộng nương, người thân. Từ bỏ mình là từ bỏ những thứ cồng kềnh khi chúng ta chấp nhận đi con đường hẹp. Đi con đường hẹp đòi hỏi phải hy sinh, phải “liều mất” để “được”. Đi con đường hẹp sẽ nên hoàn thiện, sẽ đạt được hạnh phúc vĩnh cửu. Đức Giêsu đã nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16, 25-26).

Còn “vác Thập giá mình” là đón nhận những đau khổ trong cuộc sống một cách vui vẻ với niềm hy vọng sẽ được hạnh phúc đời sau, giống như Đức Giêsu đã trải qua đau khổ rồi mới tới vinh quang phục sinh:

Những đau khổ đó có thể do tội lỗi gây ra. Sau khi Adong phạm tội, Thiên Chúa đã cho ông biết : “Ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,17-19);

Những đau khổ đó có thể tự mình gây nên cho mình: Một sự thiếu tiết độ, một thói quen xấu có thể làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, dẫn đến cái chết. Lái xe không cẩn thận, không giữ luật giao thông nên gây ra tai nạn. Nghiện thuốc lá, nghiện rượu gây ra các chứng bệnh phổi, tim v.v.;

Những đau khổ đó có thể do chính con người gây nên cho nhau: Hằng ngày có biết bao nhiêu vụ bắt cóc trẻ em, cướp bóc, hận thù, kỳ thị, ghen ghét, giết chóc, đàn áp, cáo gian, đánh đập, làm thực phẩm độc vv…Những đau khổ đó là do người thân, bạn bè, những người trong xã hội, những người ghét chúng ta gây ra;

Những đau khổ đó có thể do chính vũ trụ bất toàn: Động đất, bão lụt, hạn hán, ôn dịch…gây ra biết bao đau khổ cho con người;

Những đau khổ đó có thể do chúng ta mang danh là kitô hữu: Các cuộc bắt bớ các kitô hữu qua các thời kỳ lịch sử cho chúng ta thấy điều đó. Chính Đức Giêsu cũng đã từng nói : “Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét…” (x. Mt 10,22). Vì thế, để trung thành với luật Chúa và Giáo hội, người kitô hữu phải chấp nhận đau khổ.

Nhìn lại đời sống đức tin, để từ bỏ mình và vác thập giá mình đi theo Chúa một cách trọn vẹn không phải là chuyện dễ dàng. Có khi chúng ta cũng giống như Phêrô không sẵn sàng đón nhận những đau khổ xảy đến với mình, không đón nhận đau khổ trong niềm vui và hy vọng nhưng còn có thái độ gượng ép, thậm chí nhiều khi còn phàn nàn kêu trách Chúa. Người đàn ông trong câu chuyện ngụ ngôn sau đây có lẽ cũng là hình ảnh của mỗi người chúng ta: Có một người đàn ông luôn than van về những nỗi khổ cực của mình gặp phải. Một hôm, thiên thần hiện đến nói với ông : “Con hãy theo ta ra nghĩa địa, vì nơi đó người ta để lại thánh giá của cuộc đời mình. Con hãy mang thánh giá của con ra đó, và hãy lựa thánh giá vừa sức với con.”

Ông ta mang thánh giá của mình ra quăng nơi nghĩa địa, ông bắt đầu chọn một cái khác nhẹ hơn, nhưng ông tìm kiếm mãi mà không được: vì có cây quá dài, nhưng có cây lại quá ngắn, có cây thì nhẹ nhưng sù sì, khó vác, có cây thì trơn tru nhưng lại quá nặng, và sau cùng ông nói với thiên thần : “Thưa thiên thần, cây nào cũng khó vác quá, chỉ có cây con định vứt đi là vừa với sức của con thôi.”

Thiên thần trả lời: “Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh giá vừa với sức của con, con hãy vui lòng đón nhận mà vác đi trọn cuộc đời của mình, đừng than van gì nữa.”

Ước gì mỗi người chúng ta biết “từ bỏ mình và vác thập giá mình” trong niềm vui và hy vọng. Nhờ đó, khi Con Người ngự đến trong vinh quang, chúng ta được lãnh nhận phần thưởng xứng với sự cố gắng của chúng ta. Amen.

Lm. Anthony Trung Thành
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:08 31/08/2017
101. SAU KHI GIÀU CÓ
Một người nọ sau khi giàu có thì trở thành kiêu ngạo. Một sáng nọ ông ta đi coi hoa, sau khi về nhà thì cổ họng nói không ra tiếng với vợ:
- “Tôi bệnh rồi bà ạ”
Bà vợ hỏi bệnh gì, ông ta nói:
- “Lúc coi hoa thì bị giọt nước trên hoa tường vi rơi trúng, lạnh chịu không nổi, mau đi mới bác sĩ”.
Vợ nói:
- “Hồi mới đầu tôi và ông cùng nhau đi xin ăn chùa nơi Khổ Trúc Lâm, mưa lớn ướt cả một đêm cũng không thể nghiêm trọng như thế này, ông đều quên rồi sao ?”
(Giải Uẩn thiên)

Suy tư 101:
Con người ta khi gia cảnh còn nghèo túng thì dù mưa to gió bão cũng không làm gì được họ, nhưng đến khi giàu có thì đầu trần ra nắng một chút cũng sợ bị cảm, gió hơi mát một chút cũng sợ nhức đầu sổ mũi...
Có người khi nghèo túng thì từ cách nói năng đi đứng đều không có thói quen lịch sự, hoặc lễ giáo gia phong, nhưng khi có vài đồng lẻng kẻng trong túi thì phê bình người này không lịch sự với mình, người kia bê bối, người nọ mất dạy.v.v...
Có người khi có tiền trong túi thì học làm sang chảnh chọe chê bai cơm dở nước hôi; có người thích trở thành tiểu thơ đài các cái chi cũng không muốn làm vì sợ nhan sắc đen đủi xấu xí, khác với khi còn nghèo nàn cái chi cũng không chừa, miễn có cơm ăn là được, bất kể nắng cháy khét tóc, nước mưa ăn mòn chân.
Người được gọi là anh hùng là người không những không thay đổi theo hoàn cảnh mưa nắng, mà còn là người trung kiên trong cách sống của mình dù cho có tiền hay không có tiền, dù cho phú túc hay nghèo khó, vì tâm hồn họ đã có một thứ giàu có hạnh phúc, đó là tinh thần vui tươi của Phúc Âm.
Không ai có thể quên được cảnh hàn vì xưa kia của mình, nhưng cũng có rất nhiều người quên đi cái quá khứ đói rách của mình để trở thành người kệch cợm với thói xa hoa phung phí chảnh chọe của mình.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csj b.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư

-------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:41 31/08/2017

34. Cầu nguyện là con đường dẫn dắt của thánh đức, là con sông của thánh sủng, là kho của thần ân.

(Thánh nữ Teresa of Avila)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"

------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
TV Thời Sự Giáo Hội và Thế Giới Ngày Nay, Thứ Tư 30/8/2017
VietCatholic Network
00:57 31/08/2017
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây

Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô. VietCatholic xin kính chào quý vị và anh chị em trong tình yêu thương của Chúa Kitô và Mẹ Maria. Kính thưa quý vị và anh chị em, chương trình Truyền Hình của chúng tôi hôm nay gồm có các tin chính như sau:

1- Buổi Tiếp Kiến Chung với Đức Thánh Cha, thứ Tư 30 tháng Tám.

2- Một cuộc tấn công khủng bố nhắm vào Vatican chỉ là vấn đề sớm muộn.

3- Đức Hồng Y Pietro Parolin, các điều chủ yếu trong triều Giáo Hoàng Phanxicô: Chống nghèo đói, tạo hòa bình, và bắc cầu.

4- Kỷ niệm 300 năm đội triều thiên ảnh Đức Mẹ Nữ Vương Ba Lan.

5- Kitô Giáo lan truyền nhanh chóng trong giới trẻ Iran.

6- Phát ngôn viên của Đạo trưởng Hồi giáo phái Sadrist tuyên bố: vị Đạo trưởng này sẽ được Đức Giáo Hoàng tiếp kiến tại Vatican.

7- Kitô hữu lũ lượt trở về vùng bình nguyên Ninivê.

8- Huy hiệu chuyến viếng thăm nước Myanmar của Đức Thánh Cha Phanxicô: Tình yêu và Hòa bình.

9- Đại hội giới trẻ châu Âu vì hòa bình lần thứ 7.

10- Hội thảo giữa các Linh mục Dòng Tên và Tu sĩ Phật Giáo ở Campuchia.

11- Giới thiệu Thánh Ca: Tựa Nai Khát.

Xin mời quý vị theo dõi phần tin chi tiết:
 
ĐGH Phanxicô gởi lời chia buồn tới các nạn nhân bão Harvey.
Giuse Thẩm Nguyễn
17:46 31/08/2017
(EWTN News/CNA) Vatican City. Vào hôm thứ Năm, ĐGH Phanxicô đã nói lên sự cảm thông của ngài tới những người chịu thiệt hại do cơn bão Harvey và ngài dâng lời cầu nguyện cho các nạn nhân cũng như những nhân viên cấp cứu.

Trong thư gởi tới ĐHY Daniel DiNardo của Galveston, Houston, chủ tịch HĐGM Hoa kỳ vào ngày 31 tháng Tám, ĐGH đã bày tỏ “sự an ủi gần gủi và mối quan tâm mục vụ của ngài” đến tất cả những người bị ảnh hưởng bởi “ cơn bão cuồng đã đổ vào hai tiểu bang Texas và Louisiana trong những ngày này.”

Thư được ký bởi ĐHY Quốc Vụ Khanh Pietro Parolin, ĐGH đã “rất xúc động bởi sự mất mát to lớn về sinh mạng và sự tàn phá rộng lớn về tài sản mà thiên tai này để lại.”

ĐGH cũng dâng lời cầu nguyện cho các nạn nhân và gia đình của họ cũng như rất nhiều người đã bằng cách này hay cách khác tham gia tích cực vào việc cứ trợ, phục hồi và tái thiết”

Theo CNN, cho đến nay cơn bão Harvey đổ bộ vào Houston tuần trước và là một cơn báo mạnh nhất trong vòng 50 năm qua, đã làm 37 người chết và hằng ngàn người phải rời bỏ nhà cửa lánh nạn.

Sau khi tàn phá vùng đông của Houston, cơn bão chuyển về cảng Arthur và hiện nay đang tiến vào Louisiana lúc sáng sớm hôm thứ Tư và hàng ngàn người phải bỏ chạy.

Mặc dù mực nước ở Houston đã bắt đầu rút, nhưng một phần ba thành phố vẫn còn ngập nước và nhân viên cứu trợ vẫn không biết là còn bao nhiêu người cần phải trợ giúp.

Sáng sớm hôm thứ Tư, người ta nghe thấy hai tiếng nổ từ nhà máy hóa chất Arkema, nằm ở Crosby, cách trung tâm thành phố Houston 30 dặm về phía đông bắc và bị mất điện trong lũ lụt. Chính phủ cho rằng sẽ còn nhiều tiếng nỗ nữa do hậu quả của cơn bão.

Trong điện tín của ngài, ĐGH lên tiếng tin tưởng rằng “nhu cầu giúp đỡ “to lớn và cấp bách” cho hằng ngàn người bị ảnh hưởng của bão sẽ tạo sự đoàn kết và hỗ trợ lẫn nhau theo truyền thống tốt đẹp của đất nước này.

Ngài cam kết cầu nguyện và đã ban phép lành “như là một bằng chứng về sự an ủi, tăng cường sức mạnh và bình an trong Thiên Chúa.”

Giuse Thẩm Nguyễn
 
Trường Trị, Trung hoa: đàn áp tôn giáo vẫn quyết liệt, giáo dân Vương Thôn canh thức 24 giờ.
Trần Mạnh Trác
19:31 31/08/2017
Trường Trị (AsiaNews 31-8-2017): Người công giáo ở Trường Trị (Sơn Tây, Trung Hoa) đang thay phiên nhau canh thức 24 giờ để bảo vệ ngôi nhà thờ Vương Thôn và khu đất xung quanh khỏi bị tịch thu và phá hủy, mặc dù áp lực cuả chính quyền ngày càng tăng lên.

Nhằm ngăn chặn các tín hữu giao tiếp với nhau, mạng Wechat, một phiên bản WhatsApp ở Trung Quốc đã bị chặn. Các trang web của giáo phận địa phương cũng bị chặn.

Trang web cuả giáo phận đã mang thông tin, hình ảnh và video của cuộc canh thức và những bạo lực chống lại người công giáo địa phương và linh mục do những tên côn đồ làm việc cho chính quyền địa phương.

Tất cả tin tức trực tuyến về vụ việc cũng bị kiểm duyệt.

Nhắc lại vào năm 2012 theo quy định của pháp luật Trung Quốc, nhà thờ Vương Thôn, thánh bổn mạng là Stephano, và khu đất xung quanh, đã được trả lại cho giáo phận (bị tịch thu từ thời Mao Trạch Đông nhiều chục năm trước.)

Kể từ đó, giáo hội địa phương đã bắt đầu tu bổ lại ngôi nhà thờ, nhưng một vài tháng trước chính quyền địa phương lại quyết định chiếm đoạt lấy đất để xây dựng một công viên.

Một số thành viên của giáo hội lo lắng rằng sớm hay muộn thì ngôi nhà thờ cũng sẽ bị tịch thu và phá hủy vì có nhiều dự án bất động sản siêu lợi nhuận đã được đề ra.

Hai ngày trước, chính phủ bắt đầu phá một bức tường, nhưng phải dừng lại vì áp lực biểu tình của ít nhất một ngàn người và các linh mục.

Côn đồ, binh lính và cảnh sát đã xông vào hành hung và gây thươmg tích cho một số linh mục và tín hữu. Sau những bạo lực ấy, chủ tịch làng ra lệnh ngưng công tác phá hủy, nhưng những chiếc xe ủi vẫn còn nằm ở gần đó.

Người công giáo địa phương đã quyết định tiếp tục ngồi canh thức 24 giờ. Đêm qua hàng trăm tín hữu vẫn cầu nguyện và đọc kinh Mân Côi. Trong những ngày tới, họ sẽ phân chia ra từng nhóm 10 người để thay phiên nhau canh thức suốt đêm.

Giám mục địa phương, đức cha Phêrô Đinh Linh Bân (Ding Lingbin), vẫn còn đang đàm phán với chính quyền, nhưng cho đến nay chưa đạt được một giải pháp nào có thể đáp ứng nhu cầu cuả giáo đoàn. Hôm nay, đức giám mục sẽ gặp người đứng đầu của cục tôn giáo địa phương.
 
Tuyên úy Thủy quân Lục chiến Hoa kỳ hy sinh tại Việt Nam trên đường phong thánh
Thanh Quảng sdb
20:05 31/08/2017
Một Tuyên úy Thủy quân Lục chiến Hoa kỳ đã hy sinh tại chiến trường Việt Nam: Lm Vinh-Sơn-Tê Capodanno trên đường phong thánh.

Thanh Quảng sdb

(Bài tổng hợp từ website father-capodanno.org)

Cha Papodanno dâng lễ tại chiến trướng
Cha Papodanno dâng lễ tại chiến trướng dù chỉ có một binh lính
Cha Papodanno giải tội
Cha Papodanno chúc lành trước giờ hành quân
Súng đạn bom rơi, chết chóc, dẫy đầy tang thương thảm cảnh là những hình ảnh quen thuộc trong suốt 30 năm nội chiến 1954-1975 tại Việt Nam. Đó cũng là một trang bi hùng lịch sử của quê hương dân tộc Việt đã làm mủn lòng biết bao người trên thế giới! Trong niềm tin và trong sự hiệp thông huyền nhiệm của Giáo hội, chúng ta khám phá ra hình ảnh khổ nạn của Chúa Giêsu hiện diện với dân tộc Việt Nam và với những người đứng chung chiến tuyến cố ngăn chặn làn sóng Cộng sản trên quê hương đất nước Việt Nam. Trong số những người này có linh mục Tuyên úy Thủy quân lục chiến Hoa kỳ Vincent Capodanno. Dù thời gian phục vụ của Ngài thật ngắn ngủi vì cha đã sớm dâng hiến trọn vẹn tình yêu và mạng sống mình vì lý tưởng phục vụ đã viết lên một huyền thoại về của lễ dâng hiến vì lý tưởng trời cao...

Sống và đồng hành với những chàng lính thủy trẻ trung yêu đời hay đời lính thì những ngôn từ chửi bới, văng tục tĩu hẳn là không thiếu... Cho nên sự hiện diện của cha như một thiên thần thơ dại giữa bày lang sói, nếu không muốn nói là giữa những chàng thanh niên niên quỉ sứ sống triết thuyết hiện sinh, đang sống và hưởng thụ được ngày giờ nào thì sống, vì cái chết lúc nào cũng như đang cận kề rình rập quanh mình!

Thời thơ ấu: Vincent Capadano được sinh ra ở một hải đảo nhỏ Staten gần thành phố New York vào năm 1929, bé được chào đón vào đời trong vòng tay yêu thương của mẹ cha là những người di dân tới Hoa kỳ gốc Ý rất đạo hạnh. Chàng là người em út trong một gia đình mười anh chị em. Cha chàng làm hai nghề, hàng ngày ông phải thức dậy lúc 3 giờ sáng để sửa soạn hàng cho cửa tiệm tạp hoá của gia đình trước khi ông tới làm việc tại một công ty đóng tàu. Ban ngày thì vợ của ông trông coi cửa hàng với sự trợ giúp của bày con.

Anh em của cha Capodanno là ông James nhớ lại: "Gia đình chúng tôi là một ‘thế giới thân thiện, gần gũi, và rất yêu thương đùm bọc lẫn nhau". Chúng tôi luôn làm việc chung với nhau. Bữa ăn tối là trọng tâm của cuộc sống gia đình. "Chúng tôi không bao giờ bắt đầu ăn cho đến khi mọi người ngồi vào bàn, ngay cả chú chó cũng quẩn quanh gần bàn!" Anh em chúng tôi người học đàn, người đọc sách báo giải trí, hay chơi với nhau ở sân sau nhà như chơi cầu tụt, nhảy giây, ném banh v.v...

Ông James nhớ em Vincent của mình là một trang thanh niên "rất bình dị và bình thường" nhưng em có một niềm tin vững mạnh và lòng đạo đức tốt lành. Dù Vincent không dành nhiều giờ cầu nguyện, nhưng giống như cha mẹ và 9 anh chị em, em luôn vui vẻ dấn thân, hăng say trong những sinh hoạt của cộng đoàn giáo xứ, nhiệt tâm trong các công tác đoàn thể. Em được săn sóc và bao bọc rất kỹ. Năm 1949, trong kỳ học đầu tiên tại Đại học Fordham, chàng sinh viên trẻ tâm sự với một người bạn thân rằng chàng muốn trở thành một linh mục chứ không mộng làm bác sĩ, như chàng nghĩ trước đây.

"Khát vọng được chia sẻ nỗi khổ đau của Chúa và tha nhân"

Cùng năm đó, Capodanno xin vào dòng Truyền giáo Maryknoll. Như nhiều thanh niên khác chàng bị thu hút vào đời sống tu trì qua các lời khấn và sứ mệnh truyền bá Tin mừng Phúc âm cho mọi người đặc biệt đến các vùng đất xa xôi...

Hai mẫu gương của người tu sĩ Maryknoll mà Capodanno cũng như các đồng bạn cùng lớp rất ngưỡng mộ là Đức Giám mục Phanxicô Xavier Ford, người đã chết rũ tù Cộng sản tại Trung Hoa năm 1950 với khẩu hiệu cuộc đời của Ngài là "cùng chịu đau khổ với Chúa". Người thứ hai là Đức Giám Mục Patrick Byrne, người bị những người Cộng sản Bắc Triều Tiên bắt. Đức cha đã nói với các linh mục đồng bạn của Ngài rằng nếu Ngài bị hành quyết, Ngài sẽ vui chịu để thông hiệp với "những thương đau" của anh em mình.

Cha Capodanno đã ghi khắc những lời tâm huyết này trong tâm lòng cha, nên năm 1958 cha xin đi phục vụ những người Hakka ở Tây Đài Loan. Đối với một người rất tỉ mỉ tươm tất như cha thì bước khởi đầu cho đời sống truyền giáo với một chương trình thời khóa biểu lỏng lẻo, đời sống hoang sơ thiếu thốn thì thật là khó để mà thích ứng! Tuy nhiên, cha Capodanno đã hoàn tất vai trò trách nhiệm của mình một cách vui vẻ nhiệt tình. Linh mục Dan Dolan, người đã làm việc với cha trong sáu tháng nhận xét rằng cha hết sức quan tâm và nỗ lực trong mọi công việc như chuẩn bị và dâng lễ hàng ngày, sửa soạn các đại lễ như Tuần thánh và Giáng sinh, dạy giáo lý và tiếp xúc với các thành viên trong cộng đoàn địa phương.

Sau 7 năm làm việc ở Đài Loan, cha Capodanno được đổi về trường trung học ở Hồng Kông. Cha không vui lắm trước sự hoán chuyển này! Vì là một nhà truyền giáo Maryknoll bình thường, cha thích ở lại đất nước mà cha đã quen thuộc... Nhưng cha vẫn tín thác ra đi.

Vì không thể trở về Đài Loan nữa nên cha Capodanno được yêu cầu đi phục vụ như một Tuyên úy Hải quân cho Thủy quân lục chiến Mỹ tại Việt Nam. Bài sai đó được ban hành vào tháng 8 năm 1965 và năm tháng sau, cha được biệt phái về đơn vị Hải quân ở Newport, tại đảo Rhode.

Bài sai gửi cha đi phục vụ cho quân đội dường như không phù hợp lắm với một cuộc sống thô bạo, nhan nhản những lời thô tục, những "tiếng chửi thề" của những người lính Thủy quân lục chiến… Nhưng cha hiểu rõ sứ vụ làm chứng tá Tin mừng yêu thương nâng đỡ các quân nhân Mỹ tại chiến trường Việt Nam. Cha đã khám phá ra tiếng mời gọi của Thiên Chúa để ra đi trao hiến chính mình trọn vẹn hơn cho người khác và vì tha nhân. Những gì Ngài kinh nghiệm được ở Đài Loan chỉ là một sự khởi đầu cho sứ mệnh truyền giáo của cha.

Theo linh mục Dan người viết về tiểu sử của cha Capodanno cho hay có lẽ cha bị ảnh hưởng của cha Raoul Plus, một nhà truyền giáo sống vào thế kỷ Thế chiến thứ nhất, với nền tu đức mọi người theo Chúa Kitô “hãy trở thành một Chúa Kitô cho tha nhân, hiến tất cả thời giờ và nghị lực xác hồn cho Chúa và tha nhân - đó là phương châm sống cho người tông đồ."

Vị Linh Mục Dấn Thân

Cha Capodanno đã đến Việt Nam vào Tuần Thánh năm 1966. Ngài được gửi về Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 7, đóng ở phía Nam Đà Nẵng, một thành phố ở miền đông Nam Việt Nam. Ngài là một Tuyên úy Công giáo duy nhất trong vùng, nên trách vụ của Ngài thật rộng lớn. Ngài đã muốn trở nên trống rỗng để mặc lấy hình ảnh của Chúa Kitô trong mọi sự ở mọi nơi.

Những người lính Thủy quân lục chiến nhanh chóng đặt cho cha Capodanno cái biệt danh là "kẻ phục dịch”, vì ngài chia sẻ mọi sự cho họ. Bất cứ khi nào họ cần tới cha, cha dường như đang ở đó - cầu nguyện với người bị thương, an ủi người đang hấp hối, và khuyến khích những người đi chiến đấu. Điều đáng trân quí nhất mà tất cả mọi người lính đều nhìn nhận cha Capodanno là một người trong số họ, cha không phải là kẻ xa lạ hay giai cấp mặc dầu cha không bao giờ mang vũ khí, ngoại trừ khi có nghĩa vụ phải làm như vậy! Vũ khí của cha là tình yêu và tinh thần.

Cha Capodanno đồng hành với trung đoàn trên mọi chiến trường, liều mạng vì quân binh của mình. Một lần, trong một cuộc bị tấn công bằng lựu đạn, cha cầm đèn pin cho một quân nhân săn sóc người bị thương. Vào một dịp khác, cha chạy qua một rặng thông bảy mươi lăm cây đang bừng bừng cháy để tới một người lính Thủy quân lục chiến bị thương và cõng anh về chốt an toàn. Trong các trận địa, cha làm người tải thương, cha cầu nguyện chúc lành xức dầu cho các tử sĩ... Cha chẳng màng tới sự an vi của mình, mặc dù cha đã từng tự thú cha cũng biết sợ "như mọi người."

Cha Capodanno làm việc không ngừng nghỉ, mỗi ngày cha dâng lễ, ngồi tòa giải tội và luôn sẵn sàng để hướng dẫn tâm linh cho binh lính. Lúc rảnh rỗi cha thường đi bộ và lắng nghe những người lính tâm sự. Cha làm việc rất khuya, sống theo lý tưởng mà cha mô tả trong bài giảng của cha: "Niềm tin vào Chúa Kitô mang lại cho cha một ý nghĩa sâu xa và mời gọi cha cách khẩn cấp, không phải quá khứ hay tương lai mà là giây phút hiện tại ngay bây giờ! Mỗi người chúng ta đều được Thiên Chúa ban cho nhiều tài khéo và năng khiếu. Chúng ta hãy tự hỏi mình đã và xử dụng chúng ra sao? Nếu chúng ta không xử dụng bây giờ, chúng ta sẽ không bao giờ xử dụng chúng vì lúc nào chúng ta cũng có cớ để bào chữa."

Thiếu tá Ray Harton nhớ lại một trong những cuộc chạm trán đầu tiên của ông với cha Capadanno khi ông đang chuẩn bị cho một chiến dịch tấn công địch. Cha ấy chỉ đi lướt qua và dừng lại một thoáng, nhưng ánh mắt của Ngài như có một thần lực thu hút tôi... làm cho tâm hồn tôi dâng trào thổn thức!

Ngoài Trận địa.

Cha Capodanno tại chiến trường an ủi xức dầu tử sĩ
Cha Capodanno trước ngôi nhà nguyện mái tranh vách lá
Thế rồi Thiếu tá Harton gặp lại cha trong giữa mặt trận. Sáng ngày 4 tháng 9 năm 1967, cha Capodanno tình nguyện đi tác chiến với các đơn vị Thủy quân lục chiến đang không vận để giải cứu một đơn vị trong khu vực tranh chấp ở Quế Sơn. Biết rằng đây là cuộc chiến đầy khốc nghiệt, Ngài đã dành nhiều giờ trong đêm để cầu nguyện cho những người lính đã hy sinh và đang nguy tử.

Không bao lâu sau máy bay chở cha Capadanno hạ cánh, đơn vị của cha bị một lực lượng gần hai ngàn binh lính Bắc Việt bao vây. Khi đội quân Thủy lục chiến của cha vượt qua đỉnh đồi, thì bị trọng pháo bắn và đại liên bắn liên hồi... Người lính truyền tin vừa điện cho hay "Quân binh của chúng ta đang bị càn quét!". Và rồi một tin nhắn khác "Có nhiều người bị thương và hấp hối..."

Nghe tin ấy cha Vincent quyết tâm đến với anh em binh lính của cha. Cha đã chạy tới chạy lui, đưa người bị thương và ban bí tích cuối cùng cho những người hấp hối. Mặc dù bị bắn hai lần - một lần vào mặt và một lần vào tay phải - cha vẫn tiếp tục tìm kiếm người bị thương, nói với họ, "Chúa Giêsu nói con hãy vững tin. Chúa là sự thật và là sự sống”.

Một trong những người lính mà cha cứu giúp là Thiếu tá Ray Harton, ông bị thương và mất nhiều máu, ông sắp chết… Nhìn lên và thấy cha Capodanno, ông tự thú: "Tôi không thể giải thích được, khi cha ấy chạm vào tôi và tôi nghe thấy giọng của cha, tôi cảm nhận được một sự bình an mà tôi chưa bao giờ có trước đây cũng như sau này."

Cha Capodanno trấn an Thiếu tá Harton rằng "Chúa ở với chúng ta mọi nơi mọi lúc" và chúc lành cho ông bằng bàn tay trái còn nguyên vẹn của cha. Sau đó, một quân nhân bị thương khác la lên đau đớn, và cha Capodanno chạy ùa đến giúp đỡ anh ta. Khi cha vừa quỳ xuống, một loạt liên thanh nổ rền giết chết cả hai người ngay lập tức. Vài giờ sau, một trong những người lính lấy xác cha Capodanno cho hay tên khắp thân thể cha bị nát bấy với 27 mũi đạn nhưng gương mặt "Cha như đang mỉm cười, và mắt cha khép lại như đang ngủ hoặc đang cầu nguyện."

Cha Vincent Capodanno đã được trao tặng Huân chương danh dự cao quí nhất của Quốc hội vì lòng dũng cảm của cha.

Nhà truyền giáo không bao giờ ngừng nghỉ

Tin tức về cái chết của cha Capodanno làm rung động toàn thể Thủy quân Lục Chiến trên khắp miền Nam Việt Nam. Chỉ trong một thời gian ngắn mà cha đã gây nhiều âm hưởng cho cuộc sống của anh em binh lính một cách sâu xa. Một năm sau, nhiều anh em Thủy quân lục chiến đã thốt lên "Cha Capadanno đã dâng hiến mạng sống của cha, không ai trên trần thế này có thể làm được gì nữa ngoại trừ Đức Kitô... Nhiều anh em Thủy quân lục chiến và binh lính đã trở lại đạo Công giáo nhờ tấm gương hy sinh của cha. Họ nói “đối với tôi, cha ấy là một vị thánh."

Nhưng câu chuyện thực sự đã không kết thúc với cái chết của cha vì cha Capodanno la một nhà truyền giáo, Ngài sẽ không ngừng làm việc, ngay cả sau khi cha đã qua đời." Nhờ vào những trang sử của tác giả Mode viết về cha Capadanno làm cho nhiều người xúc động trước tấm gương hy sinh xả thân của cha mà chạy tới cầu nguyện với cha.

Cha Capodanno đã sống và chết như một vị tử đạo phục vụ những người phục vụ cho một cuộc chiến chính nghĩa. Qua cái chết, Cha Capodanno đã truyền cảm hứng của lòng quả đảm và hy vọng cho tha nhân, nhiều người đã chạy tới kêu cầu khấn xin Ngài cho những nhu cầu của cuộc sống. Một số người đã nhận được những ơn chữa lành qua việc cầu thay nguyện giúp của cha. Gồm một nữ tu Việt Nam được chữa lành khỏi bệnh ung thư.

Một trường hợp khác là ông Ernest, một bác sĩ thú y Việt Nam đang thất vọng và muốn tự vẫn, tình cờ ông ta mở chiếc ví ra thấy một tờ giấy của mẹ ông viết lại lời cầu nguyện với cha Capadanno. Ông đã đọc những lời nguyện ấy và nhờ lời cầu nguyện của cha Capodanno, Ernest đã vượt qua được giờ phút khủng khoảng. Ông Ernest vẫn còn sống cho tới ngày nay.

Một sự kiện khác liên quan đến một người đàn ông tên là Vincent, người có con trai cũng được gọi là Vincent đang hấp hối vì một căn bệnh về máu. Người cha đưa con đến mộ của cha Capodanno trên đảo Staten, ông đặt cậu con lên đó và cầu nguyện… Cậu bé đã được chữa lành đến nỡi các bác sĩ phải công nhận cậu bé được chữa lành cách lạ lùng.

Tất cả những ơn lạ do cha phù trợ được sưu tập lại và gửi về cho Bộ phong Thánh tại Vatican để học hỏi và điều tra theo dõi. Khi nào Giáo hội công nhận là phép lạ thì cha Capodanno sẽ được nâng lên hàng Chân phước và cuối cùng là Hiển thánh.

Ngày 21 tháng 5 năm 2006, cha Capodanno đã được tuyên phong là “Đấy Tớ Chúa Chúa”. Các nguyên nhân và tiến trình phong thánh cho cha còn đang được tiến hành. Là con dân Việt Nam chúng ta hãy chạy tới khẩn cầu ngài thương đến quê hương đất nước chúng ta có được tự do nhân quyền và dân chúng được thừa hưởng quyền sống nhân bản tự do hạnh phúc.

Những Lời cầu nguyện cùng cha Vincent Capadanno:

Chân dung cha Vinvent Capodanno


Lời nguyện do ĐGM Timothy P. Broglio soạn:

Lạy Thiên Chúa toàn năng và từ ái, Chúa hằng thương nhìn đến những ai chạy đến kêu cầu lòng thương xót của Chúa qua lời chuyển cầu của Tôi tớ Chúa là linh mục Vinh-Sơn-Tê Capodanno, vị thừa sai và là Tuyên úy Thủy Lục quân, con nguyện xin Ngài cầu xin cùng Chúa cho con ơn ………… (liệt kê ra). Chớ gì sự hy sinh quả cảm của cha năm xưa đã mang lại ơn cứu rỗi và ủi an cho những người lính thủy mà Cha phục vụ trên bãi chiến trường, thì nay xin cha thương nhận lời con cầu xin. Con cầu xin cùng Thiên Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen.

Lời nguyện do Đức Hồng Y Edwin F. O’Brien soạn:

Lạy Thiên Chúa Đấng chữa lành và ban sức mạnh cho người thế qua bàn tay của Con Cha là Đức Giêsu Kitô, xin nhận lời chúng con tha thiết cầu xin qua lời chuyển cầu của linh mục Chúa là cha Vinh-Sơn-Tê Capodanno, vị thừa sai và là Tuyên úy năm xưa đã xoa dịu các vết thương và ủi an nâng đỡ các binh sĩ tử thương nơi tiền tuyến. Nay xin thương nhận lời con cầu nguyện giữa cuộc chiến tâm linh đời con mà ban cho con ơn …….. (liệt kê ra). Con nguyện xin cùng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đến muôn thưở muôn đời. Amen.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Khánh thành nhà thờ giáo xứ Thiên Đăng giáo phận Ban Mê Thuột
Vũ Đình Bình
09:27 31/08/2017
Thiên Đăng - một giáo xứ nghèo, có 2.800 tín hữu, đa số là bà con đồng bào dân tộc Êđê, chỉ có khoảng 500 tín hữu người Kinh, nên việc xây dựng được ngôi Nhà thờ xứng đáng để thờ phượng Chúa là ước mơ xa vời của bà con giáo dân Giáo xứ Thiên Đăng. Nhưng nhờ Ơn Chúa, nhờ những tấm lòng quảng đại của Quý vị Ân nhân xa gần, nhờ sự nỗ lực và sự hiệp nhất cùng chung tay xây dựng của toàn thể cộng đoàn Dân Chúa với Cha Quản xứ, Ngôi Thánh Đường khang trang, rộng rãi đã hoàn thành.

Xem Hình

Sáng hôm nay, ngày 31.8.2017, Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản, Giám mục Giáo phận đã về chủ tế Thánh lễ Tạ Ơn, khánh thành và Cung hiến Bàn thờ Nhà thờ Giáo xứ Thiên Đăng.

Cùng về hiệp dâng Thánh lễ, chia sẻ niềm vui với cộng đoàn Giáo xứ Thiên Đăng có Cha Chưởng Ấn, Cha Quản lý, Quý Cha Quản Hạt, Quý Cha Quản Xứ, Phó Xứ các Giáo xứ lân cận, Quý Tu sĩ nam nữ, Quý vị đại diện chính quyền các cấp, Quý vị Ân nhân, Quý vị Tân khách, và đông đảo tín hữu gần xa,…

Trong nghi thức cung hiến Bàn Thờ, Đức Giám mục nguyện xin Thiên Chúa cho Bàn Thờ trở nên nguồn hiệp nhất của Hội Thánh và nguồn đồng tâm giữa anh em để các tín hữu đến đây kín múc được tinh thần yêu thương nhau, để khi mọi người quy tụ trong Nhà thờ này thì trở nên một thân thể duy nhất trong Đức Kitô. (Audio BÀI GIẢNG)

Trước đây, vào năm 1959, dưới thời Cha già Augustinô Hoàng Đức Synh, Thiên Đăng là Giáo họ có truyền thống đạo đức mang tên Giáo họ Tân Điền. Năm 1964, do chiến tranh, thời thế nhiễu nhương, nhà thờ bị đốt cháy, các tín hữu phải ly tán, tản mác khắp nơi. Sau năm 1975, nhiều người trở về quê cũ lập nghiệp, nhưng đời sống đức tin vẫn gặp nhiều trở ngại. Mãi đến năm 2003, Cha GB. Phạm Thế Truyền được giao trách nhiệm truyền giáo tại Giáo điểm Phú Xuân và Cuôr Đăng thì đời sống đạo của các tín hữu mới bắt đầu thăng tiến. Ngày 10.5.2005, Tòa Giám mục thành lập Giáo xứ Thiên Đăng, thuộc Giáo hạt Buôn Hô, tách ra khỏi Giáo xứ mẹ Nam Thiên, bao gồm các xã Cuôr Đăng, xã Ea Rưng huyện Cư M’gar và một phần nhỏ của Nông trường Thắng Lợi huyện Krông Păk (Phước An).

Nhà thờ Giáo xứ Thiên Đăng mang tước hiệu Chúa Thăng Thiên, khởi công xây dựng từ tháng 12 năm 2015, trên khu đất dài 105 mét, ngang 30 mét do gia đình ông Y Như, một gia đình công giáo nhượng lại tại Km 18.50 quốc lộ 14 đường đi Gia Lai - Kon Tum. Ngày 17.3.2016, Đức Giám mục Giáo phận đã về dâng Thánh lễ tạ ơn, làm phép khu đất và chủ sự nghi thức Đặt đá xây dựng.

Sau hơn 1 năm nỗ lực cùng với sự quảng đại rộng tay giúp đỡ của Quý vị Ân nhân xa gần, Nhà thờ đã hoàn thành. Tuy không nguy nga tráng lệ nhưng mang sắc thái của người dân tộc Êđê, tuyệt mỹ, hài hòa giữa khung cảnh núi rừng cao nguyên thơ mộng. Nhà thờ Thiên Đăng là một thành quả xứng đáng của những người nông dân chân lấm tay bùn, của những người tín hữu luôn tin cậy vững vàng, nhiệt thành yêu mến Chúa. Nhà thờ Thiên Đăng chắc chắn sẽ là điểm hội tụ yêu thương, hiệp nhất, là điểm tựa trong công cuộc loan báo Tin Mừng, là nơi họp nhau cầu nguyện, tán tụng Thiên Chúa vì bao hồng ân của Người nơi đại ngàn Tây Nguyên, nắng gió này. Từ nơi đây, ánh sáng đức tin sẽ được lan tỏa làm rạng danh Thiên Chúa và mang an bình đến cho mọi người.

Vũ Đình Bình
 
Họ đạo Trà Bàn trung tu nhà thờ, kỷ niệm 85 năm thành lập
Người Giồng Trôm
09:52 31/08/2017
Rất rất chân thành, trong tâm tình biết ơn trong ngày ghi dấy kỷ niệm mừng hoàn tất trùng tu thánh đường Trà Ban, Cha Sở Andrê Hồng Anh Kiệt đã ngỏ với cộng đoàn : “... trước hết con tạ ơn Chúa, con cảm ơn Đức Cha Stêphanô bởi lẽ khi ngôi nhà thờ mục nát dâng lễ trong mưa, con có trình với Đức Cha Stêphanô về việc trùng tu nhà thờ, Đức Cha nghe con nói xong, Đức Cha nói : “Ông cứ ở nhà, lo làm lễ, kinh phí để tui lo”. Đức Cha biết con khù khờ không biết ăn nói, sợ xin xong không ai cho mà còn bị rầy nên ngày hôm nay hoàn tất việc sửa chữa ngôi nhà thờ này là do Đức Cha, Ban Xây Dựng giáo phận lo. Con không dám làm lớn, chỉ mời trong tình gia đình. Nếu con làm lớn thì quả thật là một sự bỉ ổi ... vì tất cả là do ân nhân của Giáo Phận và Đức Cha Stêphanô lo. Chính vì thế, hôm nay con cám ơn Đức Cha và ân nhân của Giáo Phận”.

Xem Hình

Phải nói rằng trong trường hợp này, vị cha chung của Giáo Phận Cần Thơ đã quá hiểu và quá yêu thương họ Trà Ban cũng như Cha Andre. Đức Cha Stêphanô đã đứng ra để lo liệu việc trùng tu ngôi thánh đường Trà Ban để Cha Andre chỉ chuyên tâm lo mục vụ cho họ đạo và không phải bận tâm đến tiền bạc. Có lẽ Đức Cha biết người con của mình rất đơn sơ và chân thành hay nói đúng hơn là không biết ăn nói để xin tiền như bao nơi khác.

Với tất cả tâm tình như thế của Cha Andre đã gói ghém tất cả tấm lòng tạ ơn Chúa, biết ơn Đức Cha để rồi ngày hôm nay, 31 tháng 8 năm 2017, Trà Ban dâng Thánh Lễ tạ ơn là điều chính đáng và hợp tình hợp nghĩa.

Từ sáng sớm, nhiều người thân quen cũng vì tình vì nghĩa với Cha Andre đã đến với họ đạo Trà Ban, có cả xe từ Tiền Giang, Bến Tre và cả Sài Gòn xa xôi nữa. Tất cả về đây như một gia đình với Trà Ban. Phải nói rằng ngày hôm nay là một ngày đáng nhớ của họ đạo nhỏ bé và xa xôi của Cần Thơ.

9 g 00, Thánh Lễ đồng tế tạ ơn Chúa được cử hành cách trang nghiêm và số sắng. Chủ tế là Cha Anphongsô Lê Kim Thạch, cùng đồng tế với Cha Anphongsô có hơn hai mươi linh mục thân quen của Cha Andre và họ đạo Trà Ban.

Mở đầu Thánh Lễ, Cha Anphongsô Lê Kim Thạch (cháu ruột Đức Cha Emmanuel Lê Phong Thuận – cũng là cha hạt trưởng hạt Vị Thanh – giáo phận Cần Thơ) đã ngỏ tâm tình tạ ơn Chúa của họ đạo Trà Ban. Cha Anphongsô mời gọi cộng đoàn cùng sám hối xin Chúa tha thứ tội lỗi để cộng đoàn bước vào Thánh Lễ.

Trong bài chia sẻ, Cha giảng mời cộng đoàn cùng nhìn lại tâm tình tạ ơn và gói ghém tạ ơn cho đủ nghĩa hơn bằng thái độ khiêm nhường của vua A Khaz và Mẹ Maria. Đỉnh điểm lời xin vâng thánh ý Chúa Cha đó chính là thái độ vâng phục của Chúa Giêsu ... Để kết, Cha giảng mời cộng đoàn hãy trở nên là những ngôi đền thờ di động để mang Chúa đến cho người khác. Trước khi kết thúc bài chia sẻ, Cha giảng mời cộng đoàn cùng tạ ơn Chúa vì biết bao nhiêu hồng ân Chúa đã trao ban cho Trà Ban suốt 85 năm qua và cũng như hồng ân Chúa trên Cha Sở Andre suốt 16 năm làm linh mục.

Trước khi cộng đoàn nhận phép lành cuối Lễ, Cha Andrê Hồng Anh Kiệt đã nói lời cảm ơn rất chân tình nói lên ý nghĩa của Thánh Lễ hôm nay. Sau đó, vị đại diện cộng đoàn đã cảm ơn Đức Cha, Cha Quản Hạt, quý Cha, quý tu sĩ nam nữ và cộng đoàn, nhưng trước hết vị đại diện vẫn bày tỏ lòng tri ân đến Thiên Chúa.

Sau Lễ, cộng đoàn cùng nhau chia sẻ bữa cơm thân mật với nhau bên hông nhà xứ. Đặc biệt, trong bữa cơm, cộng đoàn được thưởng thức tiếng hát rất tình cảm của Cha Thọ - nguyên cha sở Trà Ban. Khi Cha Thọ vừa dứt tiếng hát thì linh mục ca sĩ Nguyễn Sang xuất hiện. Cùng với sự hiện diện của Cha có đoàn múa phụ họa. Hết sức dễ thương và trân quý, cộng đoàn được thưởng thức tiếng hát của nữ ca sĩ Giao Linh, Phương Hồng Ngọc, Họa Mi ...

Thánh Lễ tạ ơn kỷ niệm 85 năm thành lập họ Trà Ban và mừng hoàn thành việc trùng tu Thánh Đường Trà Ban khép lại nhưng lời tạ ơn vẫn tiếp tục bởi lẽ như tâm tình của Cha giảng : “Những lời tạ ơn của chúng con không mang thêm gì cho Chúa nhưng mạng lại cho chúng con ơn cứu độ đời đời”. Xin Chúa tiếp tục yêu thương và gìn giữ họ đạo Trà Ban trong tình thương của Chúa như Chúa đã gìn giữ suốt 85 năm qua.

 
Tin Đáng Chú Ý
Theo LHQ, Châu á-Thái bình dương có 80 phần trăm sông bị ô nhiễm, 1.8 triệu người chết vì nước uống mỗi năm.
Xavier Nguyễn Đông
19:27 31/08/2017
Islamabad (AsiaNews 31-8-2017)-80 phần trăm các con sông ở khu vực Châu á-Thái bình dương đang bị ô nhiễm, và khoảng 1,8 triệu người bị chết mỗi năm vì nước uống, theo báo cáo mới nhất của Liên hiệp quốc.

Đây là báo cáo cuả chương trình môi trường Liên Hiệp Quốc (UNEP), chuẩn bị cho cuộc họp lần thứ hai của các bộ trưởng và các tổ chức môi trường của khu vực Châu á-Thái bình dương, sẽ khai mạc tại Bangkok vào ngày 5 tháng 9, bản bá cáo cho thấy rằng các chính phủ đã thất bại trong việc cung cấp nước sạch cho người dân và bảo vệ môi trường.

Nghiên cứu bao gồm 41 quốc gia, tập trung vào vấn đề được coi là cấp bách là ô nhiễm môi trường. Những vụ nổi danh gồm có Trung Quốc với vụ 100 triệu chai nước ngọt bị nhiễm độc , Ấn Độ với ô nhiễm ở sông Hằng gây chết người mãi mãi, Pakistan với số người ngộ độc lớn nhất ờ bờ sông Indus, Bangladesh với 43.000 người chết hàng năm, Việt Nam với vụ Formosa gây ô nhiễm ven biển và Thái Lan là quốc gia thải chất plastic ra biển nhiều nhất.

Theo nghiên cứu, các chất ô nhiễm phổ biến nhất trong vùng là những chất hữu cơ, thực phẩm hư thối, muối, kim loại nặng, thuốc trừ sâu và hóa chất từ công nghiệp.

Tạo ra ô nhiễm là vì nước thải không được điều trị hoặc điều trị dối trá, phân bón quá độ từ đồng ruộng, nước thải đổ ra từ công nghiệp và nước rỉ ra từ các bãi rác, và thực phẩm hư thối và nước mưa làm trôi đất xuống từ những vùng đã bị suy thoái.

Một trong những nguyên nhân nữa là việc thiếu vệ sinh, như đại tiện ra ngoài đồng, dẫn đến ô nhiễm mặt đất và mạch nước.

Bởi vì chính trị ngoảnh mặt làm ngơ, 1.7 tỷ người đã không được tiếp cận với vệ sinh cơ bản, và 80 phần trăm nước thải đã không được điều trị hoặc điều trị rất ít trước khi thải ra các nguồn nước.

Các bệnh tật liên quan đấn nước bẩn bao gồm giun sán, suy dinh dưỡng, mắt hột, đau gan, giun chỉ, sốt rét và sốt xuất huyết.

Một yếu tố ô nhiễm khác ảnh hưởng đến sức khỏe con người là sự tích tụ của kim loại nặng trong các loại cây được dùng làm thực phẩm, thường xảy ra khi người ta khai khẩn các nơi bị ô nhiễm.

Sau cùng nhưng không kém tai hại là rác rến. Các khu vực đô thị trong vùng tạo ra khoảng 1.21 tấn rác mỗi ngày. Vào năm 2025, số lượng này sẽ tăng gấp đôi, tới 2.65 tấn.

Nếu không xử lý rác đúng cách, rác sẽ phân rã và gây ra ô nhiễm không khí, gây mùi khó chịu, làm suy thoái mặt đất, nước hồ, mạch nước và toàn thể hệ sinh thái.
 
Văn Hóa
Chút cảm nhận của một người đang tìm hiểu Dòng Nữ Tỳ Chúa Giêsu Tình Thương: Ngồi vào chỗ cuối
Maria Thân Thị Nguyệt
09:06 31/08/2017
Trong thực tế có chỗ đầu thì phải có chỗ cuối đó là điều hiển nhiên, con người hay bàn tới và phấn đấu vị trí hàng đầu, nhưng ở đây chúng ta lại nói đến việc “ngồi vào chỗ cuối”, cái chỗ mà chẳng mấy ai ưa! Không ưa là một chuyện, mà trái lại con người lại ghét cay ghét đắng, họ tìm cách né tránh và thoát ra khỏi chỗ cuối, phải chăng chỗ cuối là chỗ luôn trống và chờ đợi người khác ngồi vào chăng?
Vậy, chỗ cuối là chỗ nào các bạn nhỉ? Trong thực tế chúng ta luôn hiểu “chỗ cuối” là vị trí sau cùng. Thật thế, điều tôi thấy một cách hiển nhiên trong thực tế về chỗ cuối một cách dễ hình dung là những dịp tết, hè,… đi xe khách về thăm quê, cảnh hành khách to tiếng tranh nhau ngồi vào chỗ đầu, có những hành khách ngồi vào chỗ cuối thì họ thà hoãn lại chuyến đi vào lúc khác, có những hành khách vì cần thiết họ cũng phải chịu ngồi vào chỗ cuối với vẻ mặt không vui khó chịu; một thực tế nhỏ cho thấy rằng ai cũng chỉ nghĩ đến quyền lợi của cá nhân và ít ai thích, bằng lòng ngồi vào chỗ cuối.
“Ngồi vào chỗ cuối” như chúng ta nói trên đã đúng với điều Thiên Chúa muốn chăng? Ở đây tôi xin mượn vị trí rốt hết, để cùng các bạn đi khám phá một nhân đức cao quý nơi phẩm giá con người “nhân đức khiêm nhường”, sự khiêm nhường đích thực mà Thiên Chúa muốn là gì? Chúng ta chỉ đạt đến sự khiêm nhường đích thực khi chúng ta họa lại hình ảnh của Thiên Chúa, mẹ Maria, các Thánh nhân,…như lời kinh khiêm nhường dạy bảo chúng ta rằng:

Xem Hình

Lạy Chúa xin giải thóat con:
Khỏi lòng ham ước được quí chuộng
Khỏi lòng ham ước được yêu mến
Khỏi lòng ham ước được tôn vinh
Khỏi lòng ham ước được trọng kính
Khỏi lòng ham ước được ca tụng
Khỏi lòng ham ước được ưu đãi hơn người
Khỏi lòng ham ước được tín nhiệm,
Khỏi lòng ham ước được hoan hô
Khỏi lo sợ bị hạ nhục
Khỏi lo sợ bị khinh chê
Khỏi lo sợ bị khiển trách
Khỏi lo sợ bị vu khống
Khỏi lo sợ bị lãng quên
Khỏi lo sợ bị cười chê
Khỏi lo sợ bị xử bất công
Khỏi lo sợ bị nghi ngờ
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con lòng ao ước:
Cho người khác được yêu mến hơn con
Cho người khác được quí chuộng hơn con
Cho, trước dư luận thế gian, người khác được đề cao, còn con phải hạ xuống
Cho người khác được tuyển chọn, còn con bị lọai bỏ
Cho người khác được ca tụng, còn con bị quên lãng
Cho người khác được ưu đãi hơn con trong mọi sự
Cho người khác được thánh thiện hơn con, miễn là con được nên thánh theo nghĩa vụ con.

(Đức Hồng Y Raphael Merry Del Val)

Thật vậy, trong thâm tâm tôi luôn có một khao khát, và một sự thúc đẩy tập sống theo đức khiêm nhường thật mãnh liệt, tôi luyện tập hằng ngày để sống đức khiêm nhường sao cho đúng, nhưng thật khó các bạn ạ; khi tìm hiểu về sự khiêm nhường theo thánh ý Chúa, tôi đã bắt gặp lời kinh cầu khiêm nhường, tôi liền đọc, đọc xong tôi thấy rùng mình khiếp sợ, mồ hôi tuôn chảy, vì sức tôi quá yếu đuối mà cái tôi thì lại quá cao, tôi cũng là con người sao tôi có thể sống và cầu xin những điều như lời kinh dạy,…Tôi đã từng có lần tự nhủ tôi sống như thế này là được là khiêm nhường rồi! Qủa đúng như câu nói của Karl Marx nói rằng: “Khiêm tốn bao nhiêu cũng chưa đủ, tự kiêu một chút cũng là thừa”. Còn thời đại chúng ta hôm nay thì sao các bạn, người ta vẫn quý trọng và tôn vinh sự khiêm nhường nhưng ngược lại không ai sống theo sự khiêm nhường, có khi người khiêm nhường được xem như là đi ngược với thời đại, đó là con người nhu nhược, lạc hậu, ngớ ngẩn và không thể sống trong một xã hội mưu mô đầy toan tính này. Nói như vậy, không có nghĩa là không còn những người bước theo con đường khiêm hạ “Ngồi vào chỗ cuối”. Vâng, có đấy các bạn ạ!

Bây giờ tôi chỉ nói với các bạn “ hãy đến mà xem”, đó là nơi gia đình thân thương của những nữ tu nhỏ bé khiêm hạ “ Hội Dòng Nữ Tỳ Chúa Giê Su Tình Thương”, sống trên mảnh đất lịch sử của những chứng nhân truyền giáo tiên khởi tại chủng viện Làng Sông – Qui Nhơn – Bình Định. Các nữ tu đã sống họa lại hình ảnh của Thiên Chúa mà họ hằng yêu mến, như lời của Đức Mẹ thưa lên rằng: “Vâng tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1, 38), với linh đạo của Chúa Giê Su hơn hai ngàn năm trước, nhưng luôn mới mẻ và đầy sức sống: “Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối…”. (Lc 14,10).

- Đó là chỗ mà “cơ sở chính để tựa đầu” của nhà Dòng chỉ là nơi Giáo phận cho tạm dung chứ không phải là những tòa cao ốc sang trọng, tiện nghi.
- Đó là chỗ mà từ sáng tinh mơ tới khi hoàng hôn buông xuống thay vì những đôi tay được thảnh thơi lướt web, truy cập Google, du lịch qua màn ảnh nhỏ với các đường link internet…thì làm bạn với luống rau, luống cà, hay ra ruộng để cuốn rơm khi bữa cơm trưa vừa xong vội vã !.
- Đó là chỗ của màu áo xám tro, cái gam màu của “tro bụi cuộc đời”, của mai danh ẩn tích !
- Đó là chỗ của hành trang lý tưởng, của tương lai cuộc đời không được đánh giá qua bằng cấp thấp cao, gia đình thế giá…mà cốt lỏi đó chính là yêu mến Chúa Giêsu và sẵn sàng “rửa chân cho anh chị em mình”.
- Đó là chỗ của những bữa cơm đạm bạc, mà trên bàn không bao giờ thiếu những món rau quả thấm đẫm những giọt mồ hôi của các chị em.
- Đó là chỗ của những tiện nghi tối thiểu và nguồn sống mỗi ngày không phải được bảo đảm do những cơ sở kinh tế tự thân mà chủ yếu được nhận lãnh từ biết bao nhiêu tấm lòng quảng đại sẻ chia bố thí.
- Đó là chỗ mà mọi thành viên có thể sống chan hòa như một mái ấm và hàng ngày đều có thể mở cửa để đón tiếp hết mọi người.
- Đó là chỗ mà mà các Đấng Bản Quyền, các vị cha anh, mẹ chị…đến viếng thăm, hiện diện, sẻ chia, nâng đỡ…như những người thân yêu trong một gia đình mà không hề phân vai trên trước…!
- Đó là chỗ của không gian trầm lắng chốn dân dã quê mùa, ruộng đồng sông nước, chân lấm tay bùn…, của mái ngói rêu phong, của lịch sử lâu đời ghi dấu cội nguồn đức tin, của cái nôi văn hóa lừng danh chữ Quốc ngữ, của trung tâm đào tạo hàng ngàn linh mục…
- Đó là chỗ mà sức sống và điểm tựa cho cả cuộc đời thánh hiến, cuối cùng, chính là Chúa Giêsu, đang hiện diện đợi chờ mỗi ngày trong Thánh Thể và nhẹ nhàng thúc bách qua Phụng Vụ, qua Tòa Giải Tội, qua Lời Chúa, qua các chị em…bằng lời nhỏ nhẹ âm thầm nhưng mãnh liệt sâu lắng: “Hãy đến ngồi vào chỗ cuối !”.

Maria Thân Thị Nguyệt
(Đang dấn thân tìm hiểu Dòng Nữ Tỳ Chúa Giêsu Tình Thương).





 
Tản mạn chuyện nhà đạo: Tổng Giáo phận Sài Gòn: “Mùa gió chướng”
LM Giuse Nguyễn Bình An
13:50 31/08/2017
Các linh mục thuộc Tổng giáo phận Sài Gòn đang tham dự tuần tĩnh tâm năm tại Đại Chủng Viện Thánh Giuse, từ ngày 28-31.8.2017. Theo chương trình, năm nay linh mục đoàn sẽ suy tư và cầu nguyện theo chủ đề: Hình ảnh Linh mục theo nhãn quan của Đức Thánh Cha Phanxicô.Đức cha Mátthêu Khôi -Giám mục Giáo phận Quy Nhơn giảng phòng.

Các bài giảng được khai triển lần lượt như sau :

  • Một nhà tu sống khiêm tốn và phục vụ
  • Một mục tử sống gần gũi với đại chúng.
  • Một chứng nhân của niềm vui Tin Mừng
  • Một nhà giáo dục đức tin và đào tạo Tông đồ.
  • Một thừa tác viên của Lòng Thương Xót.
  • Một tông đồ luôn sẵn sàng ra đi.


Nghe qua đề tài các bài giảng trong tuần tĩnh tâm này, ai cũng cảm thấy hấp dẫn. Đúng là hình ảnh linh mục theo nhãn quan Đức Phanxicô là một đề tài hấp dẫn và thiết thực. Linh mục không thể xa rời đại chúng,nhưng phải hòa đồng, và cả cúi mình xuống phục vụ mọi người, trao ban niềm vui và bình an cho mọi người. Người ta nói: “Hữu xạ tự nhiên hương”, làm sao đời sống linh mục lan tỏa được “chất Tin Mừng” cho những người mình gặp gỡ.Chuyện linh mục sống giản dị và khiêm tốn cũng cần lắm trong xã hội hôm nay, xã hội toàn cầu hóa, xã hội nhiều người đang sống ảo.Linh mục biết mình có quyền đứng giảng Lời Chúa giữa cộng đoàn. Thế là linh mục tưởng mình là “anh biết tuốt”, cái gì cha cũng đúng, cái gì cha cũng biết, tự mình có quyền “sinh sát” trong dân chúng, mà không bao giờ biết lắng nghe người khác.

Ơn gọi linh mục quả là một huyền nhiệm không hiều nổi, xuất phát từ tiếng gọi của Thiên Chúa. Linh mục là con người với những tính tình, những yếu đuối dễ sa ngã, linh mục được gọi từ cộng đoàn dân Chúa, nhưng được tách riêng ra để chuyên lo việc thờ phượng Thiên Chúa,ngài được dâng hiến cho Thiên Chúa, đồng thời linh mục cũng được trao ban cho mọi người.

Người viết xin dừng lại ở đây đề tài bài giảng thứ 6 của tuần tĩnh tâm “Một tông đồ luôn sẵn sàng ra đi”.Sở dĩ người viết đặt đầu đề : "Tổng giáo phận Sài Gòn, mùa gió chướng” là vì; cứ vào độ tháng 8, sau tuần tĩnh tâm các linh mục trong giáo phận nhà lại râm ran chuyện cha này sẽ đổi đi xứ kia, tin hành lang, tin chính thức đủ kiểu. Các linh mục Sài gòn nói đây là “mùa gió chướng”, ai không bị chạm tới, không phải đổi xứ khác thì coi như yên thân. Vì cứ sau tuần tĩnh tâm hằng năm bề trên giáo phận lại công bố đợt thuyên chuyển linh mục.

Theo lẽ thường, chuyện thuyên chuyển và bổ nhiệm linh mục giáo phận là một sinh hoạt bình thường. Nhưng có lẽ cả người giáo dân và linh mục đều xem chuyện thuyên chuyển là điều bất thường, có quan niệm sai lầm là cha nào “bị gì đó” mới phải chuyển đổi xứ khác và đủ thứ chuyện để nói, khách quan có và chủ quan cũng có… Ai cũng xem đây là “mùa gió chướng”, vì có cha phải rời bỏ nơi mình đã thân quen, để ra đi đến một xứ mới, phải làm quen lại từ đầu, rời bỏ nơi mình đã xây dựng với bao công khó và vất vả để rồi ra đi. Nếu nói theo lời bài thánh ca nào đó : “Nguyện xin Chúa giúp con bắt đầu và lại bắt đầu, dù khi thất vọng dù khi mỏi mòn con vẫn cậy trông”.

Bắt đầu lại nơi nhiệm sở mới là thể hiện lòng vâng phục bề trên,đó là vâng phục Thánh ý Chúa trong tư cách người tông đồ sẵn sàng ra đi, sẵn sàng bỏ lại, bỏ lại những điều xem ra chính đáng nhất.Bỏ lại lòng yêu mến của người giáo dân, những lời “khóc lóc nỉ non”, đến giáo xứ mới, bắt đầu lại với Đức Kitô, cùng làm việc và cộng tác với những con người mới.Giáo xứ nào cũng có những khó khăn và thuận lợi,nhưng với khả năng mà Chúa ban cho các linh mục, các ngài phải biến những bất lợi thành thuận lợi, vì lòng yêu mến Chúa và lòng nhiệt thành với Giáo hội. Giáo xứ nào mà linh mục coi sóc quá lâu trên chục năm thì xem như khó đón nhận được cái ích lợi của “mùa gió chướng” đem lai. Sinh hoạt giáo xứ cứ đều đặn, mùa nào thức ấy, hiểu ý cha hết rồi, dân cứ làm theo ý cha là được. Mỗi linh mục với tính cách, quan điểm nhận thức, phương cách làm việc, hay chương châm cuộc sống khác, sẽ mang lại cho giáo xứ mình coi sóc một bộ mặt mới. Có thể ở thời cha xứ này, cả giáo xứ chuyên lo việc bác ái,thường xuyên phát quà cho người nghèo,tổ chức những buổi khám bệnh miễn phí, những xuất ăn từ thiện cho người cơ nhỡ túng thiếu… Nhưng đến thời cha xứ mới, cả giáo xứ cùng nhau thi đua học hỏi giáo lý, có những lớp giáo lý cho đủ mọi thành phần và cho các giới.

Như vậy, thuyên chuyển linh mục chuyện phải có, nhờ đó sinh hoạt của giáo phận được tốt đẹp và nhịp nhàng, nhất là bổ nhiệm cho các giáo xứ mà linh mục coi sóc đã đến tuổi nghỉ hưu và cần có nhân sự mới. Người giáo dân thương linh mục lắm, chỉ nên cầu nguyện cho các ngài, nâng đỡ cho các ngài bằng những thăm hỏi và giúp đỡ tinh thần. Ở đâu cũng là đàn chiên của Chúa mà linh mục được giao phó dẫn dắt. Linh mục cần lời cầu nguyện của chúng ta để chu toàn bổn phận phục vụ dân Chúa, sống như con người trao ban hy sinh cho người khác.

Tâm lý người giáo dân bao giờ cũng so sánh giữa cha sở mới và cha sở cũ, muốn cha sở mới phải điều hành giáo xứ giống như cha sở cũ, cha sở mới phải có cung cách làm việc giao tiếp như cha sở. Các giáo xứ mà cha cha sở coi sóc giáo xứ hai ba chục năm thì cha mới về giáo xứ ấy thật khó khăn trong việc lãnh đạo. Cha sở cũ là “Number One”, với biết bao công trạng và thành tích xây dựng và phát triển giáo xứ về mọi mặt thì làm sao cha sở mới về theo kịp, nhất là các linh mục “chân ướt chân ráo” và chưa kể cha sở mới “linh mới” còn đang học hỏi kinh nghiệm mục vụ. Chuyện điều hành giáo xứ, chuyện trăm người ngàn ý, không ai giống ai, mỗi người muốn cha sở phải theo ý mình, theo mô hình của mình vẽ ra.

Không biết “Mùa gió chướng” năm nay có được bình yêu đi qua. Khi tôi viết những dòng này chưa thấy tổng giáo phận công bố thuyên chuyển linh mục, ngoài đợt thuyên chuyển bổ nhiệm tháng 7 vừa qua. Xin giáo dân có cái nhìn tích cực hơn trong chuyện thuyên chuyển linh mục, thay vì xem là “mùa gió chướng” khó chịu, thì hãy xem là “Làn Gió mới của Thánh Thần”, để giáo xứ được canh tân.

Chúa Thánh Thần hoạt động trong giáo xứ qua các vị chủ chăn, làm cho giáo xứ luôn mới mẻ, mọi người có thể trở nên chứng nhân Tin Mừng. Mỗi giáo xứ ở trên một địa bàn có hoàn cảnh sắc thái riêng,người mục tử phải biết dung hòa, biết đón nhận những khác biệt, lắng nghe sự cộng tác của mọi người, miễn sao cho danh Chúa được cả sáng giữa môi trường giáo xứ.

Linh mục chánh xứ không bao giờ trở nên “quan địa phương”, coi sóc giáo xứ theo cảm tính của mình, đòi hỏi được dân cung phụng chăm sóc, nhưng linh mục phải tìm kiếm tiếng nói chung giữa mọi thành phần trong giáo xứ,kiến tạo tình yêu và sự hiệp nhất. Đức Thánh Cha Phanxicô thường có những lời khuyên cụ thể dành cho linh mục như, linh mục giảng ngắn lại, linh mục đừng quan liêu, linh mục mang mùi chiên, linh mục phải biết lên án sự dữ.Tựu chung các lời khuyên đó giúp cho linh mục gần gũi với mọi người, mang trong người linh mục “mùi chiên”, những khổ đau,bệnh tật của từng con chiên,những con chiên đau bệnh, bị thương tích.

Xin dừng lại bài viết ở đây với những định nghĩa của giáo luật về linh mục chánh xứ, để mọi người cùng cộng tác với cha sở của mình và có cái nhìn bao dung hơn với những khuyết điểm lầm lỗi của các linh mục,nhờ đó ơn Chúa được tuôn đổ dư tràn nơi các giáo xứ.Ước gì người giáo dân luôn yêu mến kính trọng các linh mục chánh xứ của mình, hãy chân thành góp ý sửa chữa những sai lỗi các ngài, để các ngài phục vụ cộng đoàn tốt hơn như lòng Chúa mong ước.

Định nghĩa của Giáo luật về linh mục chánh xứ: “Linh mục chính xứ là chủ chăn riêng của giáo xứ, dưới quyền giám mục. Ngài được kêu gọi để chia sẻ thừa tác vụ của Chúa Kitô trong các chức vụ giảng dạy, thánh hóa và cai quản, với sự hợp tác của các linh mục khác, phó tế, và với sự giúp đỡ của giáo dân chiếu theo luật” (đ 519).
 
Mừng Anh Vừa Tròn 75 Cái Xuân Xanh
Nguyễn Kim Ngân
17:29 31/08/2017
Thân tặng anh V. và nhóm U-80

Vừa nhận được lời cháu V. mời dự sinh nhật thứ 75 của anh, em nhớ ngay đến câu nói hóm hỉnh, tuy đơn sơ, ngây ngô tinh tỉnh, thế mà lại thời danh bất ngờ, như đã được trích dẫn rộng rãi trên mạng lưới toàn cầu, đó là lời của Bố Larry Lorenzoni (SDB trên vùng San Francisco), đại khái thế này: “Birthdays are good for you. Statistics show that the people who have the most, live the longest.” Xin tạm dịch thoát ý là: “Mừng sinh nhật thì tốt lắm. Thống kê cho biết người càng mừng nhiều sinh nhật bao nhiêu thì càng sống thọ bấy nhiêu.”

Thời gian thật như chớp mắt. Mới ngày nào anh em mình còn dong duổi trên lưng ngựa sắt để ra sân vận động Linh Xuân Thôn tập dượt đá bóng, chuẩn bị cho mùa giải thanh niên Thủ Đức. Thế mà thấm thoát đã gần nửa thế kỷ rồi đấy! Bây giờ ra sân anh em mình còn chạy nổi để…nhặt được bóng thôi thì cũng kể là kỳ công rồi.

Nếu theo Đỗ Phủ, “nhân sinh thất thập cổ lai hy,” thì anh đã vượt quá cái ngưỡng hiếm hoi của con người bình thường rồi đó. Còn nếu theo thống kê thời đại (vietnamnet.vn--ngày 29/09/2016), tuổi thọ trung bình của người Việt Nam mình hôm nay là 75.6, đứng thứ hai Đông Á (dưới Singapore, 82.1, nhưng trên Mã Lai 74.7, Thái Lan 74.4, Indonesia 68.9, Philippines 68.3, Campuchia 68.2, Lào 66.1…) thì anh vừa đúng tuổi thọ trung bình. Nhưng nếu theo tiêu chuẩn của Thánh Kinh, thì anh vẫn chưa tới mức: “Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi…” (TV 90:10).

Nói cho vui thế thôi, chứ sống chết là ở trong tay Chúa. Mỗi ngày được sống thêm là cả một hồng ân, điều mà ta thường không để ý tới, cứ “take it for granted’ theo kiểu nói của người Mỹ. Thực ra, ngay sự hiện hữu của bản thân mình cũng đã là một huyền nhiệm: Tại sao ta lại được sinh ra, chứ không phải mãi mãi chìm ngập trong hư vô? Mà sinh ra sao lại là người Việt Nam, chứ không phải là Ấn Độ, hay Mỹ, hoặc Mễ như người hàng xóm bên nhà? Bởi vì ta được Chúa thương, đơn giản thế thôi! Và đó là lý do mình phải đọc Kinh Cám Ơn mỗi ngày: “Con cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành vô cùng, chẳng bỏ con không đời đời, mà lại sinh ra con, cho con được làm người…” Rồi từng ngày sống, từng niềm vui hay nỗi buồn, tất cả cũng đều do Chúa, đúng như sách Giảng Viên đã viết: “Đối với con người, không có gì tốt hơn là ăn uống và hưởng những thành quả do công lao khó nhọc mình làm ra ! Nhưng chính tôi đã thấy là điều đó cũng do Thiên Chúa mà đến, vì có ai ăn uống, có ai cảm thấy vui mừng phấn khởi mà không nhờ Thiên Chúa ban cho?” (GV 2: 24-25) Sau đó, Giảng Viên kết luận: “Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người.” (3:14)

Thực ra, con người ngày nay càng ngày càng sống thọ hơn xưa, do sự phát triển về nhiều mặt từ khoa học, kỹ thuật, đến khoa y tế, dinh dưỡng, khoa bảo trì sức khỏe, kéo dài tuổi thọ, khoa thể dục thể thao… Người ta không còn sợ chết yểu nữa, trái lại, người ta đang cố công tìm hiểu mọi cách thức sống tuổi thọ một cách đầy phẩm chất, thoải mái, hạnh phúc sung mãn. Hằng ngày không biết bao nhiêu thứ thuốc chống lão hóa, bao nhiêu loại kem làm trẻ da được quảng cáo nhan nhản trên truyền hình truyền thanh. Còn các hãng bảo hiểm thì thi nhau chế tạo những chương trình “chăm sóc dài hạn”, cùng với việc người ta xây cất thêm hoặc nâng cấp các viện dưỡng lão cũng như thăng tiến dịch vụ tới mức tối đa nhằm phục vụ một lớp người đang gia tăng sĩ số và nhu cầu phục vụ.

Oái oăm thay, trong khi con người ngày càng sống thọ hơn, thì chính thế giới này lại đang bị lão hóa, bởi giới già ngày càng đông, mà giới trẻ ngày càng ít đi: tuổi trẻ ngày nay tuy vẫn lập gia đình hoặc sống chung không hôn thú, nhưng rất ngại sinh đẻ. “Marriage: yes, kids: no”. Chính vì thế, nghe nói ở Nhật có một dịch vụ ngày càng thịnh hành là người giữ trẻ đem trẻ con đến các viện dưỡng lão để làm công việc giải khuây cho các cụ. Chỉ cần nhìn thấy lũ trẻ nô đùa hồn nhiên, cười nói ríu rít, ngay cả khóc nhè, cũng làm cho các cụ thấy ấm lòng và vui vẻ y như tìm lại được những ngày ấu thơ và tạm quên đi những tháng năm chầm chậm như thể ngừng trôi bên trong khuôn viên “nhà giữ già.” Điều này cũng tự nhiên thôi. Có người bảo rằng nếu bạn muốn trẻ và gầy, thì cứ giao du với quý vị lớn tuổi và đẫy đà. Thảo nào quý cha thầy SDB lúc nào cũng tươi trẻ vì suốt ngày cứ quanh quẩn với đám nhóc tì, chạy nhẩy, đá bóng (ngay cả giữa buổi trưa nắng gắt), hoặc chơi game với chúng. Sống và làm việc với giới trẻ và cho giới trẻ. Đúng là “phụng sự Chúa trong niềm hân hoan” của tuổi trẻ.

Triết gia Immanuel Kant viết về quy luật hạnh phúc thế này: “Hạnh phúc là khi có việc gì đó để làm, có ai đó để yêu, và có điều gì đó để hy vọng. “ Bây giờ, ngoài sáng nhà thờ, chiều nhà thánh, việc của anh là giữ nhà trông cháu, chăm sóc vườn tược, vui thú điền viên, họp mặt bè bạn. Về khoản “có ai đó để yêu” thì cho dù chị đã “mang lời khấn nhỏ, bỏ anh đứng bên đời kia” (Trịnh Công Sơn: Đêm Thấy Ta Là Thác Đổ), thì anh vẫn còn có đàn con và lũ cháu ngoại bên cạnh, và đương nhiên trở thành chuyên viên giữ trẻ lúc nào không hay. Chúc anh “được sống lâu bên đàn con cháu” (TV 128:6) vì “con cái là hồng ân của Chúa, và con mình sinh hạ là phần thưởng Chúa ban (TV 127: 3). Nhân đây, xin nói thêm với anh là người Mỹ hay kháo láo với nhau thế này: ‘mình phải đối xử tử tế với con cái bởi lẽ chính chúng nó sẽ quyết định chọn viện dưỡng lão nào để đưa mình vào.’ Rồi cũng sẽ đến lượt Việt Nam mình thế thôi.

Đành rằng có tuổi thì cái gì cũng chậm lại, từ đi đứng (xương cốt rã rời, nếu may mà không bị bệnh gout) cho đến di chuyển (mắt mũi kèm nhèm sao dám lái nhanh). Nhưng ngược lại, cái tốc độ lão hóa thì gia tăng vùn vụt (đang xuống dốc mà). Chẳng thế mà mới năm ngoái đến năm nay sao thấy nó khác nhau một trời một vực. Thôi thì cũng đành chứ biết sao? Tuy nhiên, không ai có thể xóa được nét thanh xuân vẫn được giữ kỹ trong đáy sâu tâm hồn mình, đúng như câu thơ ai đó vừa ngâm: “Soi gương thì thấy mình già, soi lòng lại thấy mình là…thanh niên.” Thi sĩ John Andrew Holmes (1904—1962) đã dùng một hình ảnh khá cụ thể khi viết: “Lúc đã có tuổi, tâm hồn bạn phải tươi tắn, nở ra như một đóa hoa hồng chứ đừng cuốn khép lại như một loài bắp cải.” Việt Nam ta có câu: “Gừng càng già càng cay.” Còn Tây thì họ bảo: “Rượu càng để lâu càng ngon.” Hoặc: “Cây vĩ cầm càng cũ kỹ thì tiếng đàn lại càng du dương.” Thực ra thì đời người đâu khác gì hoa trái: từ mầm xanh ra đến cành non, từ nụ trổ ra hoa, từ trái ương đến trái chín vàng ươm. Cái gì cũng có thời của nó, đúng như Giảng Viên đã viết: “Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời: một thời để chào đời, một thời để lìa thế ;một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây…(GV 3:1-8)

Phải đấy, cho dẫu từ nay trở đi, “tiền mua nến còn mắc hơn tiền mua bánh sinh nhật”—theo lối nói của danh hề Bob Hope—không ai có thể ngăn được nét tươi trẻ của nhánh cây trong hồn mình vẫn vun tưới hàng ngày. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Bốn mươi là mùa thu của tuổi trẻ, còn năm mươi chính là mùa xuân của tuổi già.” Nếu vây thì anh mới đang ở đầu mùa hè của giai đoạn hậu trung niên mà thôi. “Tuổi tác không đo lường bằng năm tháng. Thiên nhiên không phân phối năng lực một cách đồng đều đâu: có người vừa sinh ra đã già khọm, còn có người thực sự sung sức ở tuổi 70.” Đó là tuyên bố của Dorothy Thompson (1893—1961), một nhà báo và văn sĩ lừng danh của Mỹ. Hóa ra, già trẻ không do tuổi tác, mà “ở tại lòng ta.” Tuy nhiên, từ sau lời rao giảng của Chúa Giêsu, sống trẻ--dẫu ở vào lứa tuổi nào chăng nữa--không còn là một chọn lựa tùy ý, thích thì làm, không thì thôi, mà đã trở thành một điều kiện để vào thiên đàng: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào." (Mc 10:13-16).

Chúc anh, nhân dịp mừng sinh nhật thứ 75, giữa muôn vàn những niềm vui nỗi buồn chợt đến chợt đi của cuộc đời, luôn sống với tâm hồn tươi trẻ, để lúc nào Chúa gọi thì được vào thiên đàng thẳng một mạch.

Lễ Lao Động Hoa Kỳ 2017
 
Người vô thần và người mất đức tin giúp ta trở thành những nhà truyền giảng Tin Mừng tốt hơn
Vũ Văn An
17:56 31/08/2017
Các cuộc thăm dò gần đây cho thấy con số người vô thần và rời khỏi Giáo Hội Công Giáo ngày càng đông hơn. Nên các nhà truyền giảng Tin Mừng ngày nay không thể không cảm thấy bị thách thức bởi hiện tượng này. Mà dù có vô cảm đối với vấn đề này đi chăng nữa, các vị cũng được người ta nhắc nhớ khôn nguôi.

Đó là trường hợp của linh mục Robert E. Lauder, giáo sư triết học tại Đại Học St John, tác giả cuốn Pope Francis’ Profound Personalism and Poverty (Resurrection Press) và loạt bài thuyết giảng “The Catholic Novel” trên YouTube. Cha kể lại
:

Sau các buổi thuyết giảng của tôi, đều có một ai đó, thường là một phụ huynh, đến nói với tôi một cách buồn bã về một người khác, thường là đứa con trai hay đứa con gái, không còn tìm được thích thú nào nữa trong đức tin Công Giáo. Mỗi lần như thế, họ đều để lại cho tôi nhiều câu hỏi khiến tôi phải vật lộn với chúng: làm cách nào cha có thể đem một ai đó trở về với đức tin? Làm cách nào cha có thể rao giảng tin mừng cho những người không còn tìm được chút giá trị gì trong mối liên hệ của họ với Thiên Chúa đầy yêu thương?

Gần đây, hai con người bất ngờ đã giúp tôi đào sâu và sắc bén hóa các câu trả lời của mình, tôi hy vọng thế. Một người hoàn toàn xa lạ. Còn người kia là bạn của tôi, một linh mục đã về hưu. Cả hai đều đã từ bỏ đức tin Kitô Giáo.

“Con không tin Thiên Chúa”, một thanh niên tuyên bố như thế trong một buổi hỏi thưa nhân một bài nói chuyện của tôi về triết học nhân vị tại trụ sở Công Nhân Công Giáo ở Bowery, thuộc thành phố New York, cách nay vài năm. “Con không tin có đời sau. Con cũng không thèm dành thì giờ để suy nghĩ về các vấn đề này. Con không cảm thấy mình có xu hướng suy nghĩ về chúng, và con cảm thấy chẳng có lỗi gì. Con chỉ sống cuộc sống của mình”.

Anh ta cùng với một nhóm nhỏ các sinh viên của một trường đại học Công Giáo tới dự giảng khóa của tôi, và tôi thấy anh là người can đảm dám nói lên quan điểm riêng của mình trước một cử tọa Công Giáo đông đảo. Tôi gần như lập tức nghĩ tới tiểu thuyết gia Walker Percy—nỗi bận bịu với điều ông gọi là “sự phiền muộn” (“the malaise”) và tình cảm qúy mến ông dành cho cha đẻ của chủ nghĩa hiện sinh, Søren Kierkegaard (1813-55).

Điều Percy gọi là sự phiền muộn thì Kierkegaard mô tả như một nỗi thất vọng (despair): bị mất hút trong cái hàng ngày, không có khả năng hay không sẵn lòng đối chất với các câu hỏi tối hậu. Kierkegaard nghĩ rằng mọi người đều sống một trong ba tinh cầu hiện hữu sau đây: 1) mỹ thuật, nghĩa là đắm chìm trong các khoái cảm giác quan của thế giới này mà không một chút ý thức gì về sự siêu việt; 2) đạo đức học, một thứ chủ nghĩa Khắc Kỷ (stoicism), chỉ nhấn mạnh tới bổn phận, dấn than và trung thành với luật lệ; và 3) tôn giáo, tức mối tương quan liên bản vị với Thiên Chúa, một mối tương quan đạt được không phải nhờ lý trí hay luận điểm hoặc chứng cớ mà là qua cái nhẩy vọt của đức tin. Người thực hiện bước nhẩy vọt này sẽ phải sống cách nào đó để làm chứng cho sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa. Chứng tá này vừa là một dấu hiệu vừa là một lời mời ngỏ với người khác.

Trong phần lớn cuốn tiểu thuyết đầu tay của Percy, tức cuốn The Moviegoer, Binx Bolling, người kể chuyện và là nhân vật chính, sống trong tinh cầu mỹ thuật, nhưng luôn đi tìm kiếm. Anh nhận định: “biết mình có khả năng tìm kiếm là đã thấy mình đang đi tới một điều gì đó. Không đang đi tới một điều gì đó là đang thất vọng”. Cuối cùng, nhờ tương quan yêu thương với một công nương trẻ rất cần người khác, Binx đã làm một bước nhẩy vọt tới Thiên Chúa.

Lúc ấy tôi mong được nói chuyện với người sinh viên sau buổi giảng bài của tôi ở trụ sở Công Nhân Công Giáo, nhưng anh ta đã rời khỏi trước khi tôi được anh ta chú ý. Nếu có dịp, có lẽ tôi sẽ đối chất với anh ta bằng một số câu hỏi liên quan tới môn siêu hình mà tôi vốn đặt ra cho các sinh viên trong các lớp triết học của tôi: Anh nghĩ đời sống có ý nghĩa gì? Nếu không có Thiên Chúa, thì đâu là các hệ luận đối với đời sống? Nếu không có Thiên Chúa, há đời người chẳng phi lý hay sao? Nếu đời là phi lý, thì kinh nghiệm yêu và được yêu của anh là gì, và đâu là ý nghĩa của tương quan yêu thương?

Tôi nghĩ không có gì sai đối với các câu hỏi trên, nhưng giờ đây tôi e rằng khi nêu chúng ra, dường như tôi là một nhà cải đạo chứ không hẳn một nhà truyền giảng Tin Mừng đối với người thanh niên này. Có lẽ tôi nghĩ tôi có thể lý luận khiến anh ta bước vào niềm tin. Sau khi suy nghĩ, tôi hiểu ra rằng truyền giảng Tin Mừng đòi hỏi nhiều hơn việc nêu lên các câu hỏi bằng lời nói. Kierkegaard nghĩ đúng: chìa khóa là làm chứng bằng chính đời mình. Không ai có thể làm bất cứ ai khác trở lại. Việc trở lại chân thực phải là việc của tự do. Khi tôn trọng tự do của người khác, ta mô phỏng Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên tự do của con người và tôn trọng sự tự do này.

Trong “Niềm Vui Tin Mừng”, Đức Giáo Hoàng Phanxicô viết như sau về các nhà truyền giảng Tin Mừng: “Thay vì tỏ ra muốn áp đặt các nghĩa vụ mới, các nhà truyền giảng nên chứng tỏ mình là người muốn chia sẻ niềm vui của họ, hướng dẫn họ tới chân trời cái đẹp, và mời gọi họ tới bàn tiệc thơm ngon. Giáo Hội lớn mạnh không nhờ việc cải đạo, mà là ‘nhờ sự lôi cuốn’”.

Đáng lẽ tôi phải nhớ các lời lẽ trên khi ngồi ăn trưa để chờ gặp một người bạn già, một linh mục đã về hưu. Khi thuật lại hành trình ra khỏi đức tin của mình, ông bạn tôi lý luận rằng niềm tin Kitô Giáo không tạo được bất cứ khác biệt cụ thể nào đối với đời một con người. Ngài bảo: “cha tin một vị Thiên Chúa có bản vị, còn tôi, tôi tin một năng lực hiện sinh. Việc này không tạo nên bất cứ khác biệt nào trong lối sống của chúng ta”. Tôi vội vàng đáp lại “dĩ nhiên là có. Tôi có thể liên hệ với một vị THiên Chúa có bản vị. Tôi không thể liên hệ với một năng lực hiện sinh”.

Tôi thấy vui khi nhận định của tôi làm ngài im lặng. Tôi có lời nói sau cùng, thắng cuộc tranh luận. Nhưng nhìn lại cuộc chuyện trò, tôi thắc mắc không biết ông bạn tôi có vô tình thách thức tôi phải trở nên một nhà truyền giảng Tin Mừng, một chứng tá, hơn là một nhà cải đạo không? Có phải bước đầu tiên trong tương quan truyền giảng Tin Mừng là người truyền giảng Tin Mừng phải được truyền giảng Tin Mừng hay không?

Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại rằng Thiên Chúa là thành phần của đời mỗi người, cả những người không bao giờ nghĩ tới Thiên Chúa hay cho rằng mình đã mất hết đức tin vào Thiên Chúa. Trong cuộc phỏng vấn đăng trên tờ America hồi tháng Chín năm 2013, Đức Phanxicô nói thế này:

“Tôi có sự chắc chắn của một tín điều là: Thiên Chúa hiện diện trong đời sống mọi người, Thiên Chúa quả hiện diện trong đời sống mọi người. Cha có thể, cha phải cố gắng tìm kiếm Thiên Chúa trong mọi cuộc nhân sinh. Mặc dù đời sống một con người là mảnh đất đầy chông gai và cỏ dại, nó vẫn luôn có chỗ để hạt giống tốt mọc lên. Cha phải tín thác vào Thiên Chúa”.

Với “sự chắc chắn của một tín điều" trên, nhìn lại hai tương tác của mình, tôi không còn thấy chúng gây nản lòng nữa. Đối với một nhà truyền giảng Tin Mừng, nản lòng không phải là một giải pháp. Không, tôi không thay đổi được tâm trí của bất cứ ai. Nhưng có lẽ, dù chàng sinh viên trẻ và vị linh mục về hưu không hề có ý định, một cách gián tiếp, họ vẫn là những nhà truyền giảng Tin Mừng cho tôi. Tại sao không? Chúa Thánh Thần thổi đâu tùy ý Người.
 
VietCatholic TV
Lần hạt 5 sự thương tại Đền Thánh Đức Mẹ Fatima
VietCatholic Network
17:26 31/08/2017
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây