Ngày 30-07-2008
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Bánh hóa nhiều
Phaolô Phạm Xuân Khôi
06:48 30/07/2008
Chú Giải Tin Mừng Chúa Nhật XVIII Thường Niên – A (Mt 14:13-21)

Trong Cựu Ước, ông Môsê đã giải thoát dân Do Thái khỏi ách nô lệ tội lỗi và đưa họ về Đất Hứa. Trên đường về Đất Hứa ông đã vâng lệnh Thiên Chúa truyền lại cho dân Lề Luật và những chỉ thị của Ngài. Đồng thời Thiên Chúa cũng ban cho họ lương thực hằng ngày là mana để họ có sức mà hành trình. Chúa Giêsu là Môsê mới. Chúa đến để cứu thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và dẫn đưa chúng ta về quê trời. Chúa đến để cho chúng ta được sống và được sống dồi dào (Ga 10:10), vì Người ban cho chúng ta Lề Luật mới (Ga 13:34) và Lời Hằng Sống. Hơn nữa, Người cũng ban cho chúng ta chính Mình Máu Thánh của Người làm lương thực dưỡng nuôi chúng ta trên đường lữ khách trần gian. Ngày nay mỗi lần tham dự Thánh Lễ là chúng ta cũng được Chúa nuôi dưỡng như dân Do Thái trong bài Tin Mừng hôm nay bằng hai loại Bánh Hằng Sống là Lời Người và Bí Tích Thánh Thể. Đồng thời Chúa cũng sai chúng ta vào trần gian và bảo chúng ta rằng, “Các con hãy cho họ ăn”.

Mt 14:13 - Khi ấy Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, thì Người rời bỏ nơi đó, xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người.

Khi Chúa Giêsu nghe tin Thánh Gioan Tẩy Giả bị tiểu vương Hêrôđê Antipa giết, Người tránh đi một nơi hoang địa thanh vắng. Nhiều người nghĩ rằng Chúa tránh đi vì sợ chết. Thánh Giêrônimô cho rằng Chúa tránh đi không phải vì sợ, nhưng là vì Người muốn làm gương cho chúng ta biết giữ mình để chu toàn bổn phận Thiên Chúa trao phó, như Người dạy trong câu Matthêu 10:23: “Khi người ta khủng bố các con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác.” Ðồng thời Người cũng vào đó để cầu nguyện.

Trong Chương 13 thì Chúa Giêsu và các môn đệ đang ở phía Tây của Biển Hồ là vùng đất dưới quyền Hêrôđê Antipa, là kẻ giết Thánh Gioan, nên các ngài đi thuyền qua vùng đất của tiểu vương Phillipê. Dân chúng nhìn theo hướng thuyền đi nên đoán được rằng Người đi đâu, và đã đi bộ mà theo Người. Thực ra khoảng cách đi bộ phải xa gấp đôi khoảng cách chèo thuyền vì phải đi vòng quanh bờ hồ, nhưng họ đã đến trước, chứng tỏ họ ao ước nghe Người giảng dạy biết bao.

Ngày nay nhân loại cũng vẫn đổ xô đi tìm Chúa như dân Do Thái ngày xưa. Nghe chỗ nào có Chúa là người ta tụ đến, như trong Đại Hội Giới Trẻ ở Sydney vừa qua hay là trong chuyến Tông Du Hoa Kỳ của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI. Nhưng người ta cũng đổ xô đi tìm những chúa khác, là những chúa chỉ thỏa mãn sự hiếu kỳ của họ mà không giúp ích gì cho đời họ, như vụ 200,000 người Đức đến Bálinh để nghe Obama và ra về đầy thất vọng, hoặc tìm đến những hí trường để mua được một vài giây phút giải trí tạm bợ. Là môn đệ của Chúa, chúng ta có nhiệm vụ chỉ cho đám đông dân chúng này biết rằng Chúa thật đang ở đâu như Đức Thánh Cha đã nhắn nhắn nhủ giới trẻ ờ Sydney rằng “Chúng con hãy trở thành tông đồ cho bạn bè chúng con!”

Mt 14:14 - Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ.

Chúa thấy đám đông thì động lòng thương. Thánh Marcô (Mk 6:34) thêm rằng vì họ như đàn chiên không người chăn. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa tỏ ra là Đấng hay Thương Xót. Ở đây Chúa Giêsu tỏ ra Người là hiện thân của Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Không ai có thể hiểu được Lòng Thương Xót của Thiên Chúa cho đến khi Chúa con xuống thế để chia sẻ thân phận con người với chúng ta. Người đã trở nên một người yếu đuối, nghèo nàn, hèn mọn và tầm thường trong xã hội như đa số chúng ta. Người ở với loài người bằng một trái tim nhân loại để cùng thương cảm với họ. Ngày nay Người cũng vẫn ở với nhân loại bằng con tim của mỗi Kitô hữu. Thật vậy, Chúa dùng chúng ta để đem Lòng Thương Xót đền cho thế gian đau khổ và tội lỗi. Người đang nhắn nhủ mỗi người chúng ta qua Thánh Faustna: “Trong giao ước cũ Cha gửi các ngôn sứ đến với những lời răn đe - Hôm nay Cha sai con đi với Lòng Thương Xót của Cha. Trước ngày công lý, Cha đang gửi đến loài người ngày thương xót.” (Nhật Ký Thánh Faustina, V, 155). Vậy Chúa cũng muốn mỗi người chúng ta đi vào thế gian để thương xót, chữa mọi tật nguyền và chỉ cho những người mà chúng ta gặp mỗi ngày biết chân lý.

Vậy chúng ta phải làm gì để chu toàn sứ mạng này. Có nhiều cách để giúp đỡ tha nhân, nhưng đối với Thiên Chúa động cơ nào thúc đẩy chúng ta giúp đỡ tha nhân mới là quan trọng. Trong Học Thuyết Xã Hội Công Giáo, Hội Thánh dạy chúng ta rằng tôn trọng nhân phẩm phải là động lực của tất cả mọi việc xã hội chúng ta làm. Con người có nhân phẩm vì họ là hình ảnh của Thiên Chúa. Nhân phẩm này phải được tôn trọng từ khi thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên. Giúp đỡ tha nhân là giúp họ sống xứng đáng đời sống con người.

Nhiều người giúp đỡ tha nhân không nhằm mục đích tôn trọng hay nâng cao nhân phẩm của họ nhưng vì những mục đích thầm kín của mình. Thí dụ như có những chính trị gia đưa ra những chương trình xã hội rất bùi tai trong mùa bầu cử lúc thoạt đầu nghe ra rất nhân đạo, nhưng khi nhìn kỹ lại thì chỉ để dụ dỗ cử tri mà kiếm phiếu. Có những người đề ra các chương trình giúp đỡ người nghèo rất hấp dẫn, nhưng đồng thời lại ủng hộ phá thai. Lý do là người nghèo có thể bỏ phiếu cho họ nên họ mua chuộc, còn các thai nhi không có quyền bỏ phiếu nên họ nhẫn tâm chà đạp nhân phẩm các em. Như thế đâu phải là nhân đạo thật mà là nhẫn đạo. Như thế đâu phải lo cho người nghèo mà lo cho địa vị của mình.

Xét lại mình, đôi khi tôi cũng làm những việc đạo đức hay từ thiện một phần vì muốn được danh tiếng hay vì thêm quen biết để kinh doanh,chứ không phải hoàn vì thương người. Và như thế tôi cũng chưa thật sự có một tâm tình yêu người như Chúa muốn tôi yêu họ. Dù bề ngoài chưa chắc ai biết ý định thầm kín của tôi. Nhưng Thiên Chúa biết.

Ngoài ra, mục đích của Chúa Giêsu là đến nơi thanh vắng để nghỉ ngơi và cầu nguyện, nhưng khi thấy nhu cầu của dân chúng thì Người thay đổi chương trình ngay. Thái độ của Chúa Giêsu cho thấy rằng làm việc tông đồ cần có chương trình, nhưng cũng phải uyển chuyển, chứ không phải lúc nào cũng dựa vào nguyên tắc.

Mt 14:15-18 - Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: "Đây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn". Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn". Các ông thưa lại rằng: "Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá". Người bảo các ông rằng: "Hãy đem lại cho Thầy".

Trước hết, Chúa Giêsu phải làm và nói điều gì hấp dẫn lắm đến nỗi những kẻ theo Người quên cả ăn và ở lỳ với Người đến chiều. Tin Mừng Marcô còn nói thêm rằng “Người dạy họ nhiều điều”(Mc 6:34). Những điều Chúa giảng dạy cả ngày đó không được ghi trong cả bốn sách Tin Mừng, nhưng chắc chắn là những điều quan trọng mà các Tông Đồ sau này truyền lại cho Hội Thánh qua Thánh Truyền. Người Tin Lành thường đồng hóa Lời Chúa với các sách Thánh Kinh. Còn Công Giáo coi chính Đức Kitô là Lời Chúa (x. GLCG 108). Lời này được truyền lại cách sống động trong Hội Thánh qua Thánh Kinh và Thánh Truyền. Chính vì thế mà theo Hội Thánh dạy rằng cả Thánh Kinh và Thánh Truyền là hai cách khác nhau để truyền lại Lời Chúa (x. GLCG 80-82). Cả hai hợp thành “Kho Tàng Đức Tin” của chúng ta (x. GLCG 84).

Các môn đệ lo âu cho dân chúng là điều phải. Nhưng Chúa mốn chính các ngài phải cho họ ăn, bởi vì lời nói mà không có việc làm chỉ là những lời vô nghĩa, như Thánh Giacôbê viết, “Nếu có một người anh em hay chị em không có gì để mặc, và thiếu đồ ăn hằng ngày, và một người trong anh em bảo họ, ‘Hãy đi bình an, có áo ấm, cơm no,’ mà không cho họ những gì họ đang cần cho thân xác, thì nào được ích gì?” (Gia 2:15-16). Chúa cũng bảo chúng ta là những môn đệ của Người rằng “các con hãy cho họ ăn”. Chúa muốn các môn đệ phải cố gắng trước. Các ông chỉ tìm tìm được năm cái bánh và hai con cá. Thế là đủ cho năm ngàn người rồi, còn thiếu bao nhiêu thì Chúa sẽ bù cho.

Nhiều người trong chúng ta vì thấy khả năng mình quá giới hạn nên tiếc không dám dùng để giúp đỡ người khác, và đưa ra bao nhiêu lời bào chữa hay ho: một con én không làm nên mùa xuân, không có mợ thì chợ cũng đông… Chúa không cần tài của chúng ta nhưng cần tấm lòng của chúng ta, một tấm lòng biết rung động, biết cảm thông với những đau khổ, thiếu thốn và nhu cầu của người khác, và một bàn tay sẵn sàng lấy những gì mình đang có ra mà dâng lên cho Chúa. Một tâm hồn biết phó thác cho Chúa, biết dâng lên Chúa và chia sẻ với người khác chính những gì thiết yếu của mình, chứ không phải là những đồ thừa của mình. Các môn đệ chỉ có năm cái bánh và hai con cá. Một số lượng thực phẩm quá nhỏ cho mấy thầy trò, nhưng các ông đã chia sẻ hết với mọi người. Và Chúa đã không để các ông bị thiếu thốn.

Mt 14:19 - Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng.

Việc Chúa Giêsu truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ xanh để Người ban phát thức ăn cho họ nhắc lại cho chúng ta hình ảnh vị mục tử nhân lành đưa đàn chiên đến ăn cỏ nơi đồng xanh (x. Tv 23:2). Việc dân chúng ngồi ăn là hình ảnh Chúa Giêsu sẽ quy tụ toàn thể nhân loại trong bữa tiệc trên Trời (x. Lc 14:15).

Bánh mà Chúa đang ban cho mọi người không những chỉ là bánh nuôi phần xác mà còn là bánh nuôi linh hồn. Bánh ấy trước hết là Lời giáo huấn của Người rồi sau đó mới là thức ăn. Bằng cách ban bánh cho họ, người muốn chứng tỏ rằng Lời Người là Lời Thiên Chúa (x. TL 8:3; KN 16:26; Mt 4:4).

Việc Chúa cầm lấy bánh tạ ơn là dấu hiệu báo trườc Bí Tích Thánh Thể mà Chúa thiết lập trong Bữa Tiệc Ly. “Hội Thánh nhận ra các phép lạ hóa bánh ra nhiều, khi ‘Chúa Giê-su đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ phân phát để nuôi sống đám đông"’, tiên báo sự phong phú của tấm bánh duy nhất là ‘Thánh Thể’ (x. Mt 14,13-21; 15,32-39)” (GLCG 1335).

Chúa ngước mắt lên trời dâng lời chúc tụng chứng tỏ sự liên hệ của Người với Đức Chúa Cha. Việc Chúa bẻ bánh ra và trao cho các môn đệ để các ông phân phát là hình ảnh mà Người đang ban chính Mình Người cho chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể qua thừa tác vụ linh mục của Hội Thánh. Chúa Giêsu chính là Bánh hằng sống được bẻ ra trên bàn thờ Thánh Giá để nuôi nhân loại (Ga 6).

Vậy bài Tin Mừng hôm nay cũng tiền trưng cho hình ảnh của Thánh Lễ mà chúng ta cử hành trong Hội Thánh với hai bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể.

Mt 14:20-21 - Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn. Số người ăn là năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ.

Mọi người được ăn no nê nhắc lại lời chúc tụng Thiên Chúa nuôi dân Do Thái trong Cựu Ước (Tv 78:29). Chúa Giêsu là một Môsê mới, là Đấng đến để cho chúng ta ăn uống thỏa thuê mà không phải trả tiền như ngôn sứ Isaia nói trong bài đọc thứ nhất (Is 55: 1-3) hôm nay.

Chúa không những chỉ ban cho đủ ăn mà còn ban cho dư thừa đến mười hai giỏ đầy. Mười hai ở đây chỉ mười hai chi tộc Israel, mà cũng chỉ Mười Hai Tông Đồ, là nền tảng của Hội Thánh tương lai. Việc bánh còn dư thừa này chứng tỏ là Chúa lúc nào cũng đại lượng với chúng ta. Ở đây đáng lẽ phải dịch là những miếng bánh còn dư chứ không nên dịch là những mếng bánh vụn, vì tiếng Hy Lạp viết là των κλασματων nghĩa là những miếng đã được bẻ ra, và περισσευον có nghĩa là còn dư lại chưa ai ăn, vượt quá khẩu phần. Như vậy đây là những miếng bánh Chúa bẻ ra trao cho các môn đệ phân phát còn dư lại, chứ không phải những mẩu bánh vụn người ta ăn không hết rồi bỏ đi. Mà số người chắc cũng phải đến cả chục ngàn vì chỉ có đàn ông không đã năm ngàn người.

Mười hai thúng đầy - Trong bài này dịch là thúng thì không chỉnh lắm. Đúng ra phải dịch là giỏ. Giỏ là dịch chữ κοφινος của Hy Lạp (bản NAB dịch là wicker basket, bản Bible de Jerusalem dịch là couffin, còn bản TOB dịch là panier). Trong chuyện bánh hóa ra nhiều nuôi năm ngàn người này, cả bốn Tin Mừng đều dùng chữ κοφινος - giỏ (Mt 14:20; Mk 6:43; Lk 9:17; Jn 6:13) chứ không dùng chữ σφυρις - thúng. Có nhiều người cho rằng chuyện bánh hóa ra nhiều này và chuyện nuôi bốn ngàn người (Mt 15:32; Mk 8:1) là một, nhưng nếu đọc kỹ thì thấy ở lần thứ hai này người ta dùng thúng – σφυρις (Mt 15:37) (các bản tiếng Anh dịch là basket, các bản tiếng Pháp (Bible de Jerusalem và TOB) dịch là corbeille) thay vì giỏ. Theo truyền thống thì người Do Thái dùng giỏ chứ không dùng thúng. Học giả William Barclay viết rằng người Do Thái khi đi xa thường mang giỏ theo với họ (xem William Barclay – The Gospel of Mark 6:35-44). Như thế chứng tỏ rằng hai phép lạ xảy ra ở hai địa điểm khác nhau, lần đầu ở khu vực của người Do Thái, vì người ta dùng giỏ để đựng bánh, lần thứ hai ở khu vực Dân Ngoại vì dùng thúng.

Ngày nay một số học giả Thánh Kinh không tin có phép lạ nên cho rằng Chúa Giêsu không làm cho bánh hóa ra nhiều, mà Người chỉ là một nhà hùng biện có tài thuyết phục mọi người bỏ bánh mà họ mang theo trong mình ra để chia sẻ với nhau. Dù không tin phép lạ, nhưng khi giải thích cách này họ đã vô tình cắt nghĩa rằng Chúa Giêsu đã làm một phép lạ cả thể hơn là biến đổi lòng những kẻ nghe Người giảng dạy từ ích kỷ chỉ khư khư giữ cho mình thành những người vị tha biết chia sẻ với người khác.

Câu hỏi để suy nghĩ và thảo luận

1. Tại sao Chúa Giêsu lại rút lui và đến một nơi hoang vắng? Người đến đó để làm gì? Phản ứng của Người về việc dân chúng kéo đến phá đám Người ra sao? Nếu bạn là Chúa Giêsu thì bạn cảm thấy thế nào?

2. Nếu bạn phải dọn đồ ăn cho năm ngàn người trong một buổi picnic, bạn sẽ cho họ ăn gì?

3. Nếu bạn là một môn đệ đang ở đó như trong câu 15 thì bạn cảm thấy thế nào? Và bạn phản ứng ra sao khi Chúa bảo bạn hãy cho họ ăn?

4. Câu chuyện này có những gì liên quan gì đến việc Chúa lập Phép Thánh Thể?

5. Nếu bạn là một trong những thực khách hôm đó thì bạn cảm thấy thế nào? Bạn sẽ làm gì cho Chúa Giêsu để đáp lại việc Người làm cho bạn?

6. Các môn đệ tìm thấy nơi Chúa Giêsu quyền năng mới nào? Quyền năng này Chúa còn tiếp tục thể hiện trong thế giới hôm nay không? Bạn có tìm thấy quyền năng đó nơi Chúa Giêsu không?
 
Bài nhạc: ''Viên Gạch và Niềm Tin''
Nguyễn Anh Tài
14:18 30/07/2008
Mời thưởng thức bản nhạc và lời của Nguyễn Anh Tài: "Viên Gạch và Niềm Tin".
 
Lễ thánh Anphongsô, Đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế
LM Giuse Nguyễn Hưng Lợi, C.Ss.R
17:49 30/07/2008
LỄ THÁNH ALFONSO, ĐẤNG SÁNG LẬP DÒNG CHÚA CỨU THẾ
Ngày 1 tháng Tám, Mt 9, 35-10.1

MỘT VỊ THÁNH TUYỆT VỜI

Có rất nhiều cách để nên thánh, tuy nhiên mỗi vị thánh lại nên thánh bằng những phương pháp riêng của mình, hay nói một cách nôm na, mỗi vị thánh đều sống hoàn hảo trong bậc sống của mình giữa biển đời mênh mông của thế gian, giữa trăm ngàn khó nguy thử thách của cuộc hành trình đi về quê trời. Mỗi vị thánh có một cách sống. Nhưng chung qui tất cả những vị thánh đều có một mẫu số chung: đó là tình yêu. Thánh Anphongsô, Đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế cũng không đi ra ngoài mẫu số đó. Thánh Phaolô trong bài ca đức ái đã viết thật rõ ràng, thật dễ thương: “Dù tôi có thể nói được các tiếng lạ lùng, dù tôi có thể làm phép

lạ dời núi chuyển non, dù tôi có thể làm được không biết bao nhiêu công việc…nếu tôi không có đức bác ái tôi chỉ là tiếng thanh la chũm chọe, hay não bạt chập cheng”.

SỰ MONG CHỜ CỦA CON NGƯỜI HOÀN TOÀN TRÁI NGƯỢC VỚI Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA:

Con người của thánh Anphongsô quả thực có một cái gì đó kỳ diệu và lạ lùng. Cái mà thế gian cho là tuyệt vời, trước mặt Thiên Chúa lại là không. Thực vậy, Thánh Anphongsô là một con người rất tài giỏi: Ngài đã đậu hai bằng tiến sĩ về luật đạo và đời khi tuổi còn rất trẻ, Ngài mới gần 16 tuổi đời. Nếu nói đến sự thành công, phải công nhận Thánh Anphongsô đã thành công ngoài ý muốn. Với tuổi trẻ tài cao, sinh ra trong gia đình quí tộc, Thánh Anphongsô có thể thẳng tiến trên đà danh vọng, có một chỗ đứng vững chắc trong xã hội thời đó.

Tuy nhiên, con người có dự tính của con người, Thiên Chúa có lối suy nghĩ và con đường của Ngài. Thánh Anphongsô ngay từ lúc còn nhỏ đã lòng tôn kính Đức Mẹ, đã luôn biết cầu nguyện. Với trí khôn thông minh, trong sáng, Thánh Anphongsô đã trổi vượt các bạn trẻ cùng trang lứa. Đọc lại tiểu sử của Ngài, chúng ta bắt gặp mẫu chuyện nhỏ sau nhưng qua câu truyện này, ta nhìn ra con người của Thánh Anphongsô. Chuyện viết rằng lúc 12 tuổi, Anphongsô đã có đời sống nguyện ngắm, đã sống thân tình mật thiết với Chúa. Một hôm không hiểu chơi trò gì, Anphongsô đã thắng chúng bạn và vớ được nhiều tiền, khiến có bạn nổi khùng la lối và đưa ra những câu khó nghe. Thánh Anphongsô khóc và ném tiền trả lại bạn bè, lẩn trốn vào vườn cây. Chiều đến, các bạn sửa sọan trở về nhà, không thấy Anphongsô đâu, liền bủa đi tìm kiếm Anphongsô. Các bạn chẳng thấy Ngài đâu, nên họ kêu la ầm ĩ, tìm kiếm khắp nơi. Cuối cùng, các bạn của Anphongsô đã thấy Ngài đang quì dưới chân Đức Mê cầu nguyện và xuất thần đến nỗi không nghe thấy tiếng các bạn la lối, tìm kiếm Ngài.Một lần khác, khi Ngài đã lớn, cha Ngài là ông Giuse đang nổi trận lôi đình với tên đầy tớ, Ngài chạy lại can gián cha mình, thế là Ngài nhận được ngay một cái bạt tai của người Cha. Ngài lặng lẽ về phòng, đến bữa tối, mẹ Ngài không thấy con đâu, chạy đi tìm thì bắt gặp Ngài đang quì khóc dưới chân Thánh Giá. Những câu chuyện nhỏ trên đây cho thấy sự thánh thiện, lòng đạo đức của Ngài đã thắng lòng tự ái và tính tự kiêu. Nhưng, những việc trên đây chưa thấm vào đâu với biến cố năm 1723 về một vụ thua kiện của Ngài. Thiên Chúa quả có con đường của Người vì thánh Phaolô viết trong thư gửi tín hữu Roma:

“Sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào!
Quyết định của Người ai dò cho thấu!
Đường lối của Người, ai theo dõi được” (Rm 11, 33).

Vụ thua kiện năm 1723 đúng là cái chết con người tự nhiên Anphongsô, nhưng cũng là bước vượt rào, đột phá của ơn thánh, mở ra một con đường mới dài lâu và không ai có thể lường trước được. Đường lối của Thiên Chúa là thế và cuộc đời của Anphongsô đã đi vào một ngõ quanh mới của con đường cứu độ.

CHÚA DẪN ANPHONGSÔ TRÊN CON ĐƯỜNG MỚI:

Cha mẹ của Anphongsô, đặc biệt là ông Giuse luôn muốn con mình trở lại tòa án. Cuộc xung đột giữa Anphongsô và ông cụ thân sinh càng lúc càng trở nên gay gắt. Ông cụ khóc lóc muốn con trở lại làm việc nơi pháp đình vì chính lúc đó gia đình của Anphongsô cũng đang có chuyện kiện tụng quan trọng. Nhưng như có một linh tính thần thiêng nào đó, Anphongsô đi về phía bệnh viện của các bệnh nhân bất trị. Đang thăm hỏi bệnh nhân, Anphongsô bỗng thấy có một luồng sáng lạ lùng bao quanh mình, bệnh viện như thể quay cuồng, đảo lộn trong cơn động đất, rồi trong thân tâm Anphongsô như nghe có tiếng nói rõ ràng, chậm rãi từng tiếng một: “Hãy bỏ thế gian đó, mà hiến mình cho Ta”. Anphongsô bàng hoàng, bối rối nhưng Ngài vẫn trấn tĩnh lo cho bệnh nhân. Thánh nhân ra về, nhưng khi đi xuống cầu thang, Ngài vẫn bị chao đảo, vẫn nghe thấy tiếng nói lúc nãy: “Hãy bỏ thế gian đó, và hiến mình cho Ta”. Anphongsô vừa đi vừa suy nghĩ, Ngài quyết định không trở về nhà ngay mà đi thẳng đến nhà thờ Đức Mẹ Chuộc Kẻ Làm Tôi, quỳ phục dưới chân Đức Mẹ xin ơn soi sáng. Ngay lúc ấy, lần thứ ba, ánh sáng lại lóe lên, cuốn hút Anphongsô vào cõi linh thiêng, siêu phàm. Trong cõi thâm sâu của tâm hồn và dưới sự tác động mạnh mẽ của Chúa Thánh Thần, Thánh Anphongsô hiến thân phục vụ Thiên Chúa và cam kết trở thành linh mục của Chúa. Thánh Anphongsô đã cởi thanh kiếm quí tộc đeo bên mình, đặt lên bàn thờ làm tin và quyết tâm từ bỏ tất cả để hiến mình cho Đức Kitô. Từ ngày hôm nay, suốt đời của Thánh Anphongsô, Ngài sẽ không bao giờ quên được ngày hôm ấy và nhà thờ ấy. Sau này, mỗi lần có dịp trở lại Napôli, Ngài không bao giờ quên ghé nhà thờ và tạ ơn Đức Mẹ Chuộc Kẻ Làm Tôi.

Thánh Anphongsô đã đổi đời từ ngày đặt thanh bao kiếm tượng trưng cho hàng quí tộc trong nhà thờ dâng kính Đức Mẹ Chuộc Kẻ Làm Tôi. Năm 1726, Thánh Anphongsô chịu chức phó tế và được giảng trong mọi nhà thờ ở Napôli và Ngài rất nổi danh. Sau cơn bệnh thập tử nhất sinh, Thánh Anphongsô đã lãnh nhận sứ vụ linh mục đúng vào ngày thứ bảy 21/12/1726.Từ nay lãnh vực họat động của Thánh Anphongsô trở nên rộng lớn hơn và cảm nghiệm về những người vô học, những trẻ lang thang bụi đời, những kẻ chăn dê chăn cừu, những kẻ bơ vơ tất bạt luôn là nỗi ưu tư canh cánh của thánh Anphongsô. Ông Giuse, thân phụ của Thánh Anphongsô tuy không còn gay gắt như xưa, nhưng trong lòng vẫn tiếc nuối và mang một mối hận không phai nhòa được. Một hôm vào năm 1729, tình cờ, ông đi ngang nhà thờ Chúa Thánh Thần, nghe tiếng con ông đang giảng. Ông Giuse tò mò bước vào nhà thờ. Nghe xong bài giảng của Thánh Anphongsô, ông đã được biến đổi hoàn toàn. Khi Thánh Anphongsô có dịp ghé về thăm nhà, ông Giuse chạy ra ôm choàng lấy Anphongsô và nói: “Con ơi ! Cha biết ơn con vô cùng ! con đã dậy cho Cha biết Thiên Chúa, chúc tụng con ngàn lần vì con đã sống đẹp lòng Chúa như vậy!”.

Năm 1730, Thánh Anphongsô đã kiệt sức vì làm việc quá hăng say và nhiệt tâm, do đó, Ngài phải kiếm nơi tĩnh mịch để nghỉ ngơi, và ý Chúa nhiệm mầu đã định cho Ngài lập ra một Dòng mới chuyên lo cho những người nghèo, giàng đại phúc và cầu nguyện…

Năm 1732, Dòng Chúa Cứu thế được khai sinh trên nền tảng của Thánh Anphongsô, một con người đạo đức, thánh thiện, đầy nhân bản và tài hoa.

THÁNH ANPHONGSÔ ĐÃ ĐỂ CHO ÁNH SÁNG CỦA CHÚA CHIẾU SUỐT CON NGƯỜI CỦA MÌNH:

“Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì”. Thánh Anphongsô đã bỏ tất cả mọi sự để theo Chúa, Ngài bỏ danh vọng, của cải, chức trưởng nam, từ bỏ tất cả thế gian để chiếm cho bằng được các linh hồn và chiếm được Chúa. Lời mời gọi của Chúa trong thâm tâm sâu kín ba lần: “Hãy bỏ thế gian đó, mà tận hiến đời mình cho Ta”. Thánh Anphongsô đã nhanh nhẹn theo lời gọi của Chúa. Ngài đã để ánh sáng của Chúa chiếu dọi mọi ngõ ngách cuộc đời của Ngài. Và Ngài đã sống có thể nói được là trần trụi trước mặt Thiên Chúa, Ngài chỉ là người vô dụng trước mặt Chúa và để Chúa hướng dẫn đời Ngài. Ngài đã để lại gương sáng chói cho Giáo Hội, cho các sĩ tử Dòng Ngài về: Đức khiêm nhượng, sự vâng phục, đức khó nghèo tuyệt đối, sự trinh khiết tuyệt vời của Ngài và sự cầu nguyện không ngừng của Ngài. Thánh Anphongsô cũng đã dậy các sĩ tử của Ngài về lòng ham mê lao động trí óc. Ngài đã để lại cho Nhà Dòng, cho Giáo Hội biết bao pho sách có giá trị về luân lý, về đạo đức, về sự thánh thiện. Ngài là vị thánh hết sức tuyệt vời của Chúa. Ngài ra đi về nhà cha ngày 01/8/1789. Năm 1871, Đức Thánh Cha Piô IX đã đặt cho Ngài tước hiệu tiến sĩ Hội Thánh và Đức Giáo Hoàng Piô XII đặt Ngài làm quan thầy các Cha giải tội và các nhà luân lý.

Lạy Cha, trong mọi thời đại,
Cha ban cho Hội Thánh những gương mẫu đời sống toàn vẹn.
Xin cho chúng con hằng noi gương Thánh Giám Mục Anphongsô Maria
mà nhiệt thành hoạt động cho lợi ích thiêng liêng của mọi người,
để mai sau đáng được Cha ân thưởng cùng với Thánh Nhân
(Lời nguyện nhập lễ, lễ Thánh Anphongsô)
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:59 30/07/2008
CÂY VIẾT CỦA THÁNH THOMAS.

N2T


Thomas Aquino là một nhà thần học rất có tiếng tăm, vào lúc cuối đời đột nhiên ngừng không viết nữa. Thư kí của ngài oán trách vì sách viết chưa hoàn thành, Thomas nói: “Thầy Rui-qi-na ạ, trước đây nhiều tháng, lúc tôi cử hành thánh lễ, thể nghiệm được mấy việc thật huyền bí, từ đó trở đi, tôi liền mất đi sự hứng thú để viết sách. Bây giờ, mấy việc liên quan đến ngôi vị của Thiên Chúa, đối với tôi mà nói thật khô khan nhạt nhẽo”.

Như thế mà nói, một vị học giả phải như thế nào, mới trở thành nhà thần bí ?

Có một nhà thần bí sau khi xuống núi, lập tức có một người vô thần đến trước mặt chuyện trò, dùng giọng châm biếm nói: “Từ nguồn hoan lạc, ngài đem lại cho chúng tôi cái gì nào ?”

Nhà thần bí liền trả lời: “Tôi dự dịnh là trong áo của tôi bỏ đầy những bông hoa đem về tặng cho bạn bè. Nhưng ở đó, tôi đắm say trong mùi hương thơm của vườn hoa, thế là cởi áo bỏ xuống đựng đầy hoa là hoa.

(Trích: Ý rộng ngoài trời)

Suy tư:

Khi viết lách thì nhà văn thường tưởng tượng, trí tưởng tượng càng phong phú thì câu truyện càng hấp dẫn ly kỳ, nhưng câu truyện của nhà văn càng sát với thực tế thì càng đánh động người đọc nhiều hơn.

Thánh Thomas Aquino viết nhiều sách về Thiên Chúa, nhất là về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, do sự cảm nghiệm đắm chìm trong ơn sủng mà ngài viết rất hay về Thiên Chúa, nhưng khi đã cảm nghiệm về Thiên Chúa rồi, thì ngài không viết gì về Ngài nữa, bởi vì ngài biết không miệng lưỡi trí khôn nào của con người có thể hiểu biết về Thiên Chúa.

Khi bạn đã yêu rồi, thì tất cả các bức thư tình đều không thể so sánh với những lần cùng sánh vai người yêu dạo bước trên đường; khi bạn đã yêu rồi, thì cả ngàn bông hoa đẹp tặng cho người yêu, cũng không bằng một lần ôm người yêu vào lòng và nói “anh (em) yêu em (anh)”, bởi vì tình yêu không những là cảm nghiệm mà còn là trao cho và đón nhận.

Nếu bạn yêu Thiên Chúa thật sự, thì cả ngàn lời cầu nguyện cũng không bằng một lần bạn thực hiện lời của Ngài trong cuộc sống, đó chính là cảm nghiệm và sống cho tình yêu Thiên Chúa vậy.
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:00 30/07/2008
N2T


24. Cầu nguyện của chúng ta càng kiên trì và không chán nản, thì Thiên Chúa càng vui thích tiếp nhận và nghe lời chúng ta.

(Thánh Jerome)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Cựu chuyên gia về Phá Thai phơi bày những lời dối trá của Phong Trào Phò Phá Thai Hoa Kỳ
Pau Anh
09:50 30/07/2008
Cựu chuyên gia về Phá Thai phơi bày những lời dối trá của Phong Trào Phò Phá Thai Hoa Kỳ

Bác Sĩ Bernard Nathanson cho biết: "Chúng tôi nhận tội là đã lường gạt một cách nghiêm trọng" khi Ông nói về ngành kỹ nghệ phá thai

Dr. Nathanson
TORONTO, ON (LifeSiteNews.com & Tim Waggoner) - Vào ngày 9 tháng 7 năm 2008 vừa qua, người điều khiển chương trình nói chuyện CFRB là Spider Jones đã phỏng vấn cựu chuyên gia phò phá thai, Bác sĩ Bernard Nathanson về những dính liếu của Ông trong quá khứ vào phong trào phá thai, và việc chuyển hướng của Ông về lại với quan điểm phò sinh.

Đã có khoảng thời gian mà Nathanson hoàn toàn bị đắm chìm trong phong trào ủng hộ phá thai của Hoa Kỳ, bằng việc cùng sáng lập ra Liên Đoàn Hành Động về Các Quyền Được Phá Thai Quốc Gia (National Abortion Rights Action League hay viết tắt là "NARAL") và đã từng chứng kiến tới 75,000 vụ phá thai trong tư cách là giám đốc của cơ sở phá thai.

Trong suốt chương trình talk show CFRB, Nathanson nhắc lại những thủ thuật lừa bịp và gian dối mà chính Ông và NARAL đã dựa vào để đẩy mạnh việc hợp pháp hóa chuyện phá thai và việc khiến cho mọi người chấp nhận chuyện phá thai.

Ông nói:

"Chúng tôi lý luận rằng có khoảng từ 5 đến 10 ngàn người phụ nữ hằng năm đã phải chết đi vì những vụ phá thai cẩu thả, trong khi đó con số thật sự thì chỉ có từ 200 đến 300 người mà thôi; và chúng tôi cũng lên tiếng nói rằng có khoảng hàng triệu cuộc phá thai bất hợp pháp mỗi năm diễn ra tại Hoa Kỳ, trong khi đó con số thật sự thì chỉ có khoảng 200,000 vụ mà thôi. Tức là chúng tôi đã dùng thủ thuật lừa bịp một cách tàn bạo, trắng trợn và quá đáng."

Ông giải thích thêm về lý do tại sao có chuyện đó xảy ra bằng cách nói rằng:

"Điều tôi muốn ám chỉ đến đó là trong tư cách là một thành viên sáng lập và là chủ tịch của ủy ban y học, tôi đã chấp nhận những con số đó từ một chuyên viên thống kê về sinh học có tên là Christopher Teetsy, và Ông này đã cùng với vợ của Ông chuyển những số liệu kể trên đến cho chúng tôi tại NARAL. Lúc đó, chúng tôi không hề kiểm chứng là những con số có đúng thật sự hay không vì đó không phải là nhiệm vụ của chúng tôi, do đó chúng tôi đành phải chấp nhận chúng vì những quyền lợi của các tiêu chuẩn cao hơn, hay ít ra vì những mục tiêu khác cao hơn mà chúng tôi muốn đạt được."

Việc Nathanson từ bỏ ngành kỹ nghệ phá thai để chuyển hướng sang phong trào phò sinh đã gây ra tiếng vang lớn trong giới chuyên cổ võ về việc phá thai, trước sự kiện của máy siêu âm vào những năm đầu thuộc 1970s.

Ông cho biết trái tim của Ông đã phải xúc động khi nhận ra rằng một bào thai đúng thật sự là một con người sau khi Ông xem một đứa bé chưa được chào đời đã bị dội trở ra từ một dụng cụ hút dùng trong việc phá thai trước khi đứa bé này bị hút trở lại từ bụng mẹ.

Nathanson đã đặt tiêu đề cho cuốn video nói về sự kiện này đó là "Tiếng Kêu Cứu Thầm Lặng" (The Silent Scream) và bắt đầu dùng nó để làm lan truyền ra sứ điệp phò sinh.

Tuy nhiên, Tổ Chức Kế Hoạch Hóa Gia Đình (Planned Parenthood) đã giở sang trang khác của NARAL khi biết cây cổ thụ chuyên ủng hộ phá thai tung ra cuốn video kể trên, và lên tiếng tố cáo đó là cuốn video giả tạo. Nathanson đã xác nhận về những tin đồn này, và nhìn nhận đó chính là những thủ thuật láo lường và dơ bẩn mà NARAL dùng đến.

Ông nói:

"Tổ Chức Kế Hoạch Hóa Gia Đình phải chịu trách nhiệm về việc này. Cuốn băng video đó không phải là giả tạo vì điều mà chúng tôi đã làm để minh chứng về tính xác đáng của cuốn phim đó chính là: chúng tôi đã gởi nó đến cho Bác Sĩ Ian Donald ở Tô Cách Lan - người vốn là cha đẻ ra máy siêu âm, và cũng là người đã sáng chế ra máy siêu âm. Vị Bác Sĩ này đã xem qua đoạn phim, và Ông đã viết trong bản khai có tuyên thệ rằng: tất cả những điều trong cuốn phim là thật, không có sự giả mạo nào cả, hay không có sự thay đổi nào cả về tốc độ hay bầt kỳ thứ nào khác."

Nathanson sau đó cho biết thêm rằng:

"Tổ Chức Kế Hoạch Hóa Gia Đình giờ đây dùng đến chuyện phá thai như là một hình thức kiểm tra sinh sản, thì đó cũng là kết quả của một sự giả tạo khác của những kẻ chuyên ủng hộ cho việc phá thai.

Một trong những chuyện hoang đường vốn đã lừa bịp được công chúng qua trung gian của giới truyền thông chính là tìm mọi cách để hợp pháp hóa chuyện phá thai để những cuộc phá thai bất hợp lệ, được trở nên hợp lệ hơn mà thôi. Thực chất mà nói, chuyện phá thai giờ đây đang được chủ yếu dùng đến như là một phương cách để ngăn ngừa việc sinh sản mà thôi trên khắp cả thế giới lẫn tại Hoa Kỳ nữa.

Những người cổ võ cho chuyện phá thai từ chối nhìn thấy điều mà hầu hết mọi người giờ đây đang thừa nhận đó là bào thai chính là một con người, và chúng ta không có lý do gì để mà diệt chủng nó tới mức độ tàn bạo và tới con số khủng khiếp được."

T.B. Cũng tin thêm cho Quý Vị biết rằng: Bác Sĩ Bernard Nathanson sau này đã hối lỗi, và đã gia nhập đạo Công Giáo, và giờ đây là người mạnh mẽ cổ võ cho sứ điệp Phò Sinh.

Quý Vị có thể xem thêm chi tiết về lời thú tội của Bác sĩ Nathanson tại địa chỉ: http://www.aboutabortions.com/Confess.html

Và bài phỏng vấn của Cha Frank Pavone thuộc Hội Các Linh Mục Bảo Vệ Sự Sống với Bác sĩ Nathanson, vốn được trình chiếu trên đài truyền hình Công Giáo EWTN trong chương trình "Bảo Vệ Sự Sống" (Defending Life) tại địa chỉ: http://www.priestsforlife.org/media/nathansoninterview.htm
 
Tổng Thống Philippine đồng hành cùng các giám mục trong việc bảo vệ sự sống
John Bosco Nguyễn Hoàng Thương
10:32 30/07/2008
Manila (AsiaNews) - “Bằng cách cổ võ kế hoạch tự nhiên và giáo dục phụ nữ, chúng ta đã hạn chế tăng dân số xuống còn 2,04 phần trăm trong suốt thời kỳ cầm quyền của chúng ta so với con số 2,36 phần trăm vào thập niên 1990”. Đây là tuyên bố của Tổng Thống Phi Luật Tân Gloria Macapagal Arroyo trong diễn văn hằng năm “tình hình đất nước (SoNA)” trình bày trước Hạ nghị viện. Bà đã công khai đồng hành với người Công Giáo và hoan nghênh lời mời gọi của Hội đồng Giám Mục để chiến đấu bảo vệ sự sống từ lúc thụ thai.

Tổng Thống Arroyo nhấn mạnh lập trường của bà trong việc ủng hộ các biện pháp kế họach hóa gia đình theo tự nhiên – mang lại hiệu quả trong cuộc chiến chống tăng dân số quá nhanh – và tố cáo các chiến dịch ồ ạt nhằm mục đích cổ võ cho việc sử dụng biện pháp tránh thai nhân tạo trong đó có việc sử dụng bao cao su. Tổng Thống Arroyo, một người Công Giáo sống đạo và là bà mẹ của ba đứa con nói thêm: “Lựa chọn có hiểu biết nghĩa là tài sản, để có nhiều cặp gia đình hơn nữa vốn hầu hết là người Công Giáo biết về kế hoạch hóa gia đình theo cách tự nhiên”, đã được minh chứng là mang lại hiệu quả bằng các nghiên cứu khoa học. Tổng Thống Arroyo nhắc lại chính sách gia đình trước đây dưới thời Tổng Thống Fidel Ramos, một người Tin Lành, vốn ủng hộ các biện pháp ngừa thai, là chính sách sai lầm không thể nào đạt được mục tiêu chỉnh đốn sinh nở. Cuối cùng, vị nguyên thủ quốc gia bác bỏ suy đoán về hạn chế gia tăng dân số vì thiếu nguồn cung lương thực: “Kể từ năm 2000 sản lượng gạo tăn trung bình 4,07 phần trăm/năm, gấp đôi tỷ lệ gia tăng dân số”. bà khẳng định và trích dẫn dữ liệu chính thức.

Trong những tuần qua, Giáo Hội Công Giáo Phi Luật Tân đã lặp lại tuyên bố phản đối dự luật đang được xem xét tại quốc hội trong đó cổ võ việc sử dụng các biện pháp tránh thai nhân tạo và ủng hộ hợp pháp hóa phá thai. Hôm 25/7, tại Đại Học Thánh Tôma, Dòng Đa Minh, các giám mục đã tổ chức buổi cầu nguyện canh thức với sự tham dự của hơn 12.000 tín hữu để biểu lộ sự không đồng tình với luật Sức khỏe Sinh sản. Đức Hồng y Gaudencio Rosales, Tổng Giám Mục của Manila đã mời gọi các cặp vợ chồng hiện diện “thực hiện tính kỷ luật và tự kiềm chế”, ngài nhắc lại rằng tính thiếu kỷ luật trong phạm vi tính dục đã mang lại hậu quả cho các khía cạnh khác của đời sống vợ chồng, làm hủy hoại các nền tảng cơ bản của nó. Ngài khẳng định: “Nếu có kỷ luật trong chuyện chăn gối, thì cũng sẽ có kỷ luật nơi đường phố, nơi học đường, cũng sẽ có kỷ luật trong chính phủ”, ngài nhấn mạnh đến mối quan hệ gần gũi giữa tính dục và đời sống của cộng đồng xã hội, vốn là điều cần phải suy tư.

Edcel Lagman, người đề xướng luật Sức khỏe Sinh sản nói rằng: “sự xác nhận của tổng thống về kế hoạch hóa gia đình tự nhiên là lựa chọn của bà và chúng tôi tôn trọng điều đó”, nhưng ông lại nhấn mạnh sự ủng hộ của mình đối với luật kế họach hóa gia đình, vốn để “mọi cặp gia đình ở đất nước chúng ta” được “tự do” và được bảo vệ. Quan điểm này bị các giám mục hết sức bác bỏ, theo đó vấn đề sự sống con người không thuộc lĩnh vực chính trị mà thuộc “vấn đề đạo đức”.

Hội đồng Giám Mục Phi Luật Tân đã đã cảm kích phát biểu của vị nguyên thủ quốc gia nhưng đang chờ đợi các biện pháp cụ thể, bắt đầu từ việc bác bỏ luật “phò phá thai”. Các giám mục cũng trích dẫn một nghiên cứu của Stephen M. Krason, Chủ tịch Hiệp hội các Khoa học gia Công Giáo và là giáo sư Đại học Phanxicô ở Steubenville, Ohio, Hoa Kỳ, theo đó tỷ lệ sinh trong nước đã suy giảm ổn định kể từ năm 1970 và sẽ giảm đến mức một cặp vợ chồng dưới 2 con vào năm 2030. Cuối cùng, ông tố cáo các chính sách cưỡng bức trong vấn đề kiểm soát sinh sản được tài trợ bởi Qũy Dân Số Liên Hiệp Quốc, vốn là nhà tài trợ và nguồn ngân qũy chính trong việc kiểm soát dân số ở Phi Luật Tân.
 
Thượng phụ Aleksij II quyết định tham dự Thượng Hội đồng Đại kết, quan hệ Moscow và Constantinople ấm lên
John Bosco Nguyễn Hoàng Thương
10:33 30/07/2008
Kiev (AsiaNews) - Nước sông Dniepr dường như đã làm tan đi băng giá giữa Constantinople và Mạc Tư Khoa sau một tranh cãi nóng bỏng ở Nga về sự hiện diện của Đức Thượng phụ Bartholomew I trong việc cử hành kỷ niệm 1.020 năm Kitô giáo có mặt ở Ukraine. Sau những ngày lễ hội, đích thân Đức Thượng phụ Aleksij II đã công bố rằng ngài sẽ tham gia Thượng Hội đồng Thượng phụ Chính Thống giáo Đại kết ở Constantinople được tổ chức vào tháng Mười tới. Tòa Thượng phụ Nga đã không tham dự Thượng Hội đồng Thượng phụ Chính Thống giáo Đại kết từ năm 2000.

Tuyên bố chung thông cáo với báo chí của Thượng phụ Bartholomew I và Thượng phụ Aleksij II đưa ra kết luận rằng: không còn nghi ngờ gì nữa về kết quả rất quan trọng đến từ việc cử hành nghi lễ ở Kiev. Đức Thượng phụ Bartholomew quả quyết: “đối thoại luôn luôn là điều quan trọng nhất vì chúng ta luôn chịu trách nhiệm về hiệp nhất của Chính Thống giáo”. Về phần mình Đức Thượng phụ Aleksij cám ơn Đức Thượng phụ Đại kết vài lần và nói rằng ngài đồng ý rằng mọi vấn đề cần phải giải quyết qua đối thọai “mà không trở thành công cụ của các chính trị gia”.

Lễ hội đã được khai mạc giữa những tranh cãi. Mạc Tư Khoa đã chỉ trích quyết định của Đức Thượng phụ Bartholomew I dẫn đầu đoàn đại biểu đến từ Tòa Thượng phụ Đại kết tham dự lễ hội ở Kiev. Những người giúp việc của Thượng phụ Aleksij II đã gây áp lực một cách vô duyên với các Giáo Hội Chính Thống khác không được đến dự các nghi lễ ở Ukraine. Tranh cãi giữa Mạc Tư Khoa và Constantinople đã diễn ra qua một số sự kiện: đầu tiên là ở Rhodes (Hy Lạp) vào năm 2007, khi Mạc Tư Khoa tuyên bố không tham dự Thượng Hội đồng Thượng phụ Chính Thống giáo Đại kết năm 2008; sau đó là ở Ravenna khi các đại diện Mạc Tư Khoa bỏ hội nghị vì họ phản đối sự có mặt của Giáo hội Chính Thống Estonia mà Mạc Tư Khoa không công nhận. Sự đối đầu bắt đầu suy giảm khi Đức Thượng phụ Aleksij II quyết định tham dự lễ hội ở Kiev.

Kể từ khi đặt chân đến Kiev hôm thứ Sáu, Đức Thượng phụ Bartholomew đã nói rằng chuyến đi của ngài không có ý định xác nhận lại “quyền tối cao” của ngài mà chỉ “góp phần liên đới với Giáo hội Ukraine… và vinh danh các gương tử đạo trong trận đói Holotovol vào năm 1932-1933, những nạn nhân cơn thịnh nộ của người vô thần”. Trong suốt thời gian có mặt ở Ukraine, Thượng phụ Bartholomew đã gặp Tổng Giám Mục Vladimir, đại diện của Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa; Thượng phụ Filaret, người đứng đầu Giáo Hội Chính Thống Ukraine (độc lập với Mạc Tư Khoa); và Đức Hồng y Lubomir Huzar, Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Byzantine (Uniate).

Trong buổi chiêu đãi do Tổng Giám Mục Vladimir tổ chức dành cho đoàn Thượng phụ Đại kết, Đức Thượng phụ Bartholomew đã bày tỏ tiếc nuối về “bàn tiệc này, các huynh đệ từ các giáo hội khác từ vùng đất Ukraine lại vắng mặt”. Ngài tái khẳng định: “Thiện ý của Mẹ Thiên Chúa của Constantinople sẽ hàn gắn những rạn nứt giữa con cái Mẹ”.

Tổng Giám Mục của Albania, một nhân vật có uy tín trong thế giới Chính Thống, lưu ý rằng thường người ta quên sự tồn tại của Kitô giáo trong vùng địa lý rộng lớn này sau sự trổi dậy của Hồi giáo và sự sụp đổ của các trung tâm thuộc về Tòa Thượng phụ cổ ở Alexandria, Giêrusalem và Antioch là do Tòa Thượng phụ Đại kết ở Constantinople.

Và hầu như chắc chắn những gì là rất tốt phải là hàng đầu, sau những con số và những quan tâm to lớn, báo chí Thổ Nhĩ Kỳ đã nhấn mạnh đến vai trò của Constantinople trong việc Kitô giáo hóa và trong nền văn minh Ukraine.

Đức Tổng Giám Mục Kyrill của Smolensk nói rằng cuộc họp mặt, nhất là sau tuyên bố của hai Thượng phụ Bartholomew và Aleksij, “mang lại bầu khí cho đời sống mới trong quan hệ giữa hai Giáo Hội”. Một trong những trợ lý thân cận của ngài xác nhận rằng “một giải pháp cho rạn nứt giữa Giáo Hội Chính Thống Ukraine độc lập (vốn bị Mạc Tư Khoa xem là ly giáo) và những người trung thành với Mạc Tư Khoa là tạm thời cho phép mỗi nhà thờ tự quyền quyết định chọn Tòa Thượng Phụ muốn gia nhập”. Điều này cho thấy rằng trong Giáo Hội Chính Thống Nga có những người không đồng tình với những hành động độc đoán của một số thành viên”.
 
Linh mục Dòng Tên Ladaria và Linh mục Spreafico và được tấn phong Giám Mục
Trần Hoàn Chỉnh
10:55 30/07/2008
VATICAN - Tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Gioan Laterano, Linh mục Dòng Tên Luis Ladaria Ferrer, giáo sư thần học tín lý tại Đại học giáo hoàng Gregorian đã được tấn phong giám mục sau khi ngài được Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI bổ nhiệm làm tổng thư ký Bộ Giáo Lý Đức Tin thay thế Đức Tổng Giám Mục Angelo Amato.

Tân GM Luis Ferrer, SJ
Đây là lần đầu tiên một tu sĩ Dòng Tên được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Thư Ký Bộ Giáo Lý Đức Tin, nhân vật cao cấp hàng thứ 2 của Bộ. Vị tân Tổng Thư Ký Bộ Giáo Lý Đức Tin năm nay 64 tuổi. Ngài đã gia nhập Dòng Tên tháng 10 năm 1966, và đã được thụ phong linh mục tháng 7 năm 1973. Từ năm 1986 đến năm 1994, Đức Tân Tổng Giám Mục Luis Francisco Ladaria Ferrer là phó viện trưởng Đại Học Gregoriana, Là chuyên viên về Thần Học Tín Ký, ngài là cố vấn của Bộ Giáo Lý Đức Tin từ năm 1995, và là Tổng Thư Ký của Uỷ Ban Thần Học QuốcTế từ năm 2004.

Cùng được tấn phong giám mục với cha Ladaria trong dịp này là cha Ambrogio Spreafico, Viện trưởng Đại học Urbanianum. Ngài đã được bổ nhiệm làm giám mục phụ tá của Giáo phận Frosinone

Vị chủ phong trong lễ phong chức này là Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh. Trong bài giảng lễ, Đức Hồng Y Bertone đã nhấn mạnh rằng các giám mục phải trở nên thầy dạy cũng như là những chứng nhân không bao giờ đánh mất niềm hy vọng và phải sẵn sàng rao giảng trong một thế giới chưa hoàn hảo

(Nguồn: H2onews.org)
 
Đức Giáo Hoàng sẽ thăm viếng Đền Đức Mẹ tại Pompei
Bùi Hữu Thư
12:45 30/07/2008

Đức Giáo Hoàng sẽ thăm viếng Đền Đức Mẹ tại Pompei



Pompei, ngày 28 tháng 7, 2008 (Zenit.org) - Đức Giáo Hoàng Benedict XVI sẽ viếng thăm Đền Thánh Đức Mẹ Mân Côi tại Pompei vào tháng 10 này.

Đức Giám Mục Carlo Liberati ở Pompei đã tuyên bố điều này trong một bản tin tuần qua rằng Đức Giáo Hoàng sẽ dâng thánh lễ ngày 19 tháng 10 tại Đền Đức Mẹ và đọc một kinh Đức Mẹ do Chân Phước Bartolo Longo (1841-1926) biên soạn.

Đền Thánh Đức Mẹ Mân Côi tại Pompei, Ý


Chân Phước Longo là một người theo đạo Satan nhưng sau đó hối cải và trở thành một thành viên Dòng Ba Đa Minh, và dâng hiến cuộc đời còn lại cho Đức Nữ Đồng Trinh Maria. Năm 1980, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ban cho ngài danh hiệu “Tông Đồ Kinh Mân Côi.”

Đức Giám Mục Liberati cho hay, “Đức Giáo Hoàng Benedict XVI sẽ trông cậy vào sự cầu bầu của Mẹ Thiên Chúa và những lời cầu nguyện của chúng ta cùng với các suy niệm và kết quả của Thường Hội Đồng Giám Mục sẽ được tổ chức tại Vatican trong Tháng Đức Mẹ tháng 10.”

Thượng Hội Đồng Giám Mục sẽ có chủ đề “Lời Chúa trong Đời Sống và Sứ Mệnh của Giáo Hội” và được tổ chức vào ngày 5 đến ngày 26 tháng 10 tại Vatican.

Đức Giám Mục cũng cho hay Đức Giáo Hoàng Benedict XVII sẽ cầu nguyện cho sự “hiệp nhất trong các gia đình, sự trung thành giữa các cặp vợ chồng, và sự can đảm trong việc dậy dỗ con cái về đức tin.”
 
TGM Thủ Lãnh Anh giáo truyền thống Episcopal ước muốn tái hiệp nhất với Roma
Peter Nguyễn Minh Trung
14:38 30/07/2008
ROMA - Trong một lưu luân lưu giữa Đức Hồng Y Levada, Tổng trưởng Thánh bộ Giáo lý Đức tin và Tổng Giám Mục John Hepworth, thủ lãnh Giáo hội Anh giáo truyền thống đã cho thấy sự ấm áp trong mối quan hệ giữa hai giáo hội khi hai bên bắt đầu đề xuất những ước muốn hiệp nhất hoàn toàn.

TGM John Hepworth
TGM Hepworth viết trên tờ Messenger Journal rằng ngài đã phúc đáp lá thư "nồng ấm và đầy khích lệ" mà ngài nhận được từ ĐHY Levada hôm 25 tháng 07. Vị TGM cho biết toàn thể giáo hội Anh giáo truyền thống được khích lệ lớn lao từ lá thư của ĐHY Levada. Lá thư của ĐHY viết cho vị TGM để khẳng định "mối quan tâm sâu sắc" của Thánh bộ Giáo lý Đức tin về "triển vọng hiệp nhất trọn vẹn" được TGM Hepworth đề xướng năm 2007.

Trong lá thư đề ngày 05 tháng 07, ĐHY Levada cho biết Thánh bộ Giáo lý Đức tin đang nghiên cứu những đề xuất của TGM Hepworth trình lên thay cho tất cả các Giám mục Anh giáo truyền thống. Những đề xuất đó được vị TGM trình bày trong dịp ngài viếng thăm văn phòng Thánh bộ Giáo lý Đức tin của ĐHY Levada tại Vatican ngày 09 tháng 10 năm 2007.

ĐHY Levada viết: "Như những tháng hè đang đến, tôi khẳng định với ngài sự quan tâm nghiêm túc của Thánh bộ Giáo lý Đức tin về triển vọng hiệp nhất trọn vẹn đã được đề cập."

Đức Hồng Y chú ý thêm rằng tình hình nội bộ Liên hiệp Anh giáo nhìn chung "diễn ra ngày càng phức tạp" từ sau chuyến viếng thăm Vatican của vị Tổng Giám Mục. ĐHY cho biết Thánh bộ Giáo lý Đức tin sẽ thông báo cho TGM Hepworth về sự hiệp nhất ngay khi Thánh bộ ở trong điều kiện sẵn sàng để "trả lời một cách rõ ràng hơn".

ĐHY Levada kết thư bằng lời chúc lành, đoạn viết: "Tôi liên lỉ cầu nguyện và chúc lành cho ngài cũng như toàn thể anh em Giám mục Anh giáo truyền thống."

ĐHY Levada và GM D'Arcy
Trong thông điệp được gửi đi hôm 25 tháng 07 cho toàn thể các Giám mục Anh giáo truyền thống và những người cộng tác với giáo hội này, Đức TGM Hepworth bày tỏ ước ao được hiệp nhất đầy đủ với Tòa Thánh, ngài cũng đã gửi kèm theo đó bản sao bức thư của ĐHY Levada cùng những lời chú thích của riêng mình.

Trong lá thư của TGM Hepworth phúc đáp ĐHY Levada được xuất bản trên tờ Messenger Journal có viết: "Tôi xin thay mặt toàn thể 'anh em Giám mục của tôi' trả lời Đức Hồng Y bằng tất cả lòng thành rằng, tôi tái khẳng định quyết tâm của chúng ta theo đuổi sự hiệp nhất trọn vẹn mà chính Đức Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha trong Bữa Ăn Cuối Cùng, bất chấp những hy sinh cá nhân có thể xảy đến."

Vị TGM nói bức thư của ĐHY Levada động viên "toàn thể Liên hiệp" và "những người bạn giúp đỡ Liên hiệp".

TGM Hepworth "cảm ơn cách đặc biệt" ĐHY Levada vì "sự đề cập đầy rộng lượng" của ĐHY về viễn tượng tái hiệp nhất hoàn toàn. Vị TGM nói rằng việc hiệp nhất trọn vẹn là một con đường mòn "hiếm khi được đi qua trong quá khứ" nhưng thật "thiết yếu" để đong đầy khát vọng hợp nhất các Kitô hữu.

Ngài cho biết sẽ khuyến khích các tín hữu của mình cầu nguyện cho Đức Thánh Cha, cho ĐHY Levada cũng như toàn Thánh bộ Giáo lý Đức tin và, cho tất cả những giáo sĩ, giáo dân nào đang "tiến gần hơn bao giờ hết tới sự hiệp thông với Tòa Thánh, trong Đức Kitô."

Theo website của Liên hiệp Anh giáo tại châu Mỹ, tổng số tín hữu Anh giáo truyền thống trên thế giới ước tính lên đến 400.000 người.

(Nguồn: http://www.catholicnewsagency.com/new.php?n=13393)
 
Đức Thánh Cha nghỉ ngơi và đọc sách tại thư viện chủng viện Bressanone
Peter Nguyễn Minh Trung
15:45 30/07/2008
ROME (CNA) - Trong suốt ngày thứ hai của kỳ nghỉ tại chủng viện cổ kính Bressanone miền Bắc Italia, Đức Thánh Cha Benedict XVI đã dành trọn thời gian của ngài để nghỉ ngơi và nghiên cứu trong thư viện nổi tiếng của chủng viện.

Cũng như ngày đầu tiên, ĐTC vẫn chỉ ở trong phòng của ngài và thư viện tại chủng viện 400 năm tuổi này chứ chưa dành thời giờ dù chỉ để dạo bước ngoài vườn.

Trong lúc ấy tại Bressanone, những người dân bản địa nói tiếng Đức đã tổ chức ăn mừng sự hiện diện của Đức Thánh Cha tại đây sau 4 năm vắng bóng ngài. Một đĩa CD mới sẽ được ra mắt bao gồm những bài hát đa âm ghi lại diễn biến những hội nghị đã diễn ra tại Bressanone từ năm 1990. Những hội nghị lúc đó chủ yếu được Đức Hồng Y Joseph Ratzinger khai mạc, đĩa CD sắp ra mắt là một phần của "Sáng kiến Brixner về âm nhạc và nhà thờ". Nó sẽ được giới thiệu trước vào thứ 5 cho những phóng viên đi theo tháp tùng Đức Thánh Cha trong suốt kỳ nghỉ hè.
 
TNS McCain gặp gỡ cá nhân với TGM Charles Chaput
Peter Nguyễn Minh Trung
15:47 30/07/2008
DENVER - Thượng nghị sĩ John McCain đang ở Colorado trong chuyến viếng thăm thứ hai của ông đến đây trong vòng một tuần và, trong chuyến đi này TNS McCain đã dành thời gian để tìm gặp gỡ riêng với Đức Tổng Giám Mục Charles Chaput, TGM Denver.

Sau khi đến Denver hôm thứ ba, TNS McCain đã phát biểu lúc 18 giờ 25 chiều tại Làng Cherry Hills.

09 giờ 30 sáng thứ 4, TNS John McCain và vợ là bà Cindy McCain đã gặp gỡ Đức TGM Charles Chaput. Đức TGM mô tả cuộc gặp gỡ đã diễn ra trong bầu khí rất riêng tư và cho phóng viên CNA bất cứ bình luận nào.

Sau khi tiếp xúc với Đức TGM Chaput, ứng cử viên tổng thống đảng Cộng Hòa đã đến thăm công ty trang thiết bị Wagner ở Aurora, CO.

Tuần trước, TNS McCain cũng tới Colorado để phát biểu tại Hội nghị Diễn đàn Châu Mỹ GI. Ông cũng đã ghé qua Aspen để gặp gỡ Đức Dalai Lama XIV khi Đức Dalai Lama đang ở Aspen tham dự một diễn đàn về tự do cho Tibet.
 
Tòa Thánh đã phê chuẩn miễn trừ tình trạng giáo sĩ cho cựu Giám mục Tổng thống Fernando Lugo
Peter Nguyễn Minh Trung
16:35 30/07/2008
ASUNCÍON (CNA) - Tòa Thánh đã phê chuẩn miễn trừ tình trạng giáo sĩ cho cựu Giám mục Fernando Lugo (hiện nay là tổng thống Paraguay) thông qua Đức Sứ thần Tòa Thánh tại Paraguay.

Tổng thống Fernando Lugo (cựu giám mục)
Trong một sắc lệnh hôm nay được ký bởi Tổng trưởng Thánh bộ Giáo sĩ, Đức Hồng Y Giovanni Batista Re, chấp nhận miễn trừ tình trạng giáo sĩ của cựu Giám mục Lugo. Sắc lệnh có đoạn viết: "Đức cha Fernando Armindo Lugo Mendez, SVD, nguyên Giám mục San Pedro đã yêu cầu Thánh bộ Giáo sĩ miễn trừ tình trạng giáo sĩ vào ngày 18 tháng 12 năm 2006, để có thể tham gia cuộc bầu cử tổng thống nước Cộng hòa Paraguay."

Sắc lệnh giải thích thêm: "Tòa Thánh, sau nhiều nỗ lực can ngăn Giám mục Fernando Lugo khỏi vị trí ứng cử viên chạy đua vào chức tổng thống của nước Cộng hòa Paraguay bất thành (cf. CIC can. 285&2), nay miễn trừ Giám mục Lugo khỏi sự ràng buộc của Bộ Giáo sĩ." Và cho giám mục Lugo hoàn tục trở lại tình trạng giáo dân.

Sứ thần Tòa Thánh Orlando Antonini nói: "Đây là lần đầu tiên việc như thế này được chấp thuận. Sự kiện được chấp thuận bởi vì dân chúng đã chọn ngài và... bởi vì tình trạng giáo sĩ không thích hợp với việc làm tổng thống".

Sắc lệnh viết tiếp: "Tình hình gần đây được tạo bởi ứng cử viên tổng thống Cộng hòa Paraguay, cựu Giám mục Fernando Lugo cho thấy, để đảm bảo lợi ích tốt nhất cho quốc gia Paraguay và để phân biệt rõ ràng giữa chức vụ tổng thống dân sự nước Cộng hòa Paraguay và quyền tài phán của Thánh bộ Giáo sĩ đòi buộc, chức vụ tổng thống mà Giám mục Fernando Lugo sắp đảm nhiệm lại một lần nữa đòi hỏi phải được ở trong tình trạng không chức thánh."

Sắc lệnh khẳng định rằng: "Thực tế, sự chấp nhận của Giám mục Lugo trở thành tổng thống nước Cộng hòa Paraguay không phù hợp với bổn phận của một Giám mục cũng như không phù hợp để tiếp tục ở trong tình trạng giáo sĩ."

"Chính vì thế, sau nhiều lần xem xét kỹ lưỡng tất cả các tình huống, Đức Thánh Cha Benedict XVI quyết định miễn chuẩn Giám mục Fernando Lugo khỏi tình trạng giáo sĩ, và kết quả tất yếu là các quyền vốn có của một giáo sĩ tự nó không còn, bên cạnh đó cũng miễn trừ Giám mục Fernando Lugo khỏi những lời khấn đã khấn hứa khi trở thành giáo sĩ của Dòng Ngôi Lời (Society of the Divine Word, SVD) và, miễn trừ Giám mục Fernando Lugo khỏi tình trạng độc thân giáo sĩ (cf. CIC can. 291) cũng như các thừa tác vụ mà tình trạng giáo sĩ đòi buộc (cf CIC can. 292)."

Đã từ 10 năm qua, giám mục Lugo phục vụ cho dân nghèo trong vùng San Pedro của Paraguay, nhưng vào cuối năm 2006, vị giám mục này đã bỏ áo dòng giáo sĩ và lao mình vào con đường chính trị, mặc dầu bị Tòa Thánh phản đối.

Cựu giám mục Lugo quyết định ra tranh cử tổng thống Paraguay và đã thắng. Do vậy Vatican cứu xét lại tình trạng giáo sĩ của tân tổng thống Paraguay. Lễ tuyên thệ nhậm chức của tân tổng thống sẽ xẩy ra vào ngày 15.8.2008 tại ASUNCÍON, tức là Lễ Đức Mẹ Lên Trời, cũng là 1uan thầy của quốc gia Paraguay.

Nhận được tin này tân tổng thống Lugo nói với các phóng viên như sau: Tôi thành tâm cám ơn Đức Thánh Cha Benedictô XVI vì quyết định này không phải là dễ dàng gì với Vatican. Vatican tái xem xét lại lời xin của tôi cho lợi ích của quốc gia này".

Sứ thần Antonini tuyên bố: "Ngài (Hugo) không phải là ở ngoài giáo hội, chỉ là không còn trong hàng giáo phẩm, và đó là điều mà ngài đã xin".

Cuối cùng, sắc lệnh nhấn mạnh: "Đức Thánh Cha cổ vũ và ủng hộ Ông Fernando Armindo Lugo Mendez trung thành với đức tin Công giáo khi được rửa tội và sống một cuộc đời dưới ánh sáng Phúc Âm."

Đức Sứ thần Tòa Thánh tại Paraguay cho biết thêm rằng hành động của Giáo hội trong trường hợp ông Lugo "là dựa trên những lý do đặc biệt chăm sóc đoàn chiên theo đúng giáo luật" và "Giáo hội không từ bỏ vai trò ngôn sứ của mình, nhưng sẽ tiếp tục các mối quan hệ với chính quyền dân sự bằng việc giải thích rõ ràng hiến chế 'Gaudium et Spes' (Vui mừng và Hy vọng) của Công đồng Vatican II, theo đó, "cộng đồng chính trị và Giáo hội là hai thực thể độc lập tách rời trong chính tự bản chất. Tuy nhiên, cả hai, dù có những chuẩn mực khác nhau, nhưng đều phải phục vụ và cổ võ ơn gọi cá nhân cũng như ơn gọi xã hội cho tất cả mọi người."

(nguồn: http://www.catholicnewsagency.com/new.php?n=13398)
 
Số linh mục gia tăng tại Mỹ châu Latinh
Phêrô Trần Hoàn Chỉnh
20:31 30/07/2008
BOGOTA, Colombia (Zenit.org). Số lượng linh mục tại Mỹ Latinh và vùng Caribê đã gia tăng đáng kể từ năm 2000 đến năm 2005 mặc dù tình hình ơn gọi đang phải đương đầu với những thử thách khác nhau.

Một nhóm nghiên cứu thuộc Hội Đồng Giám Mục vùng Mỹ Latinh đã thu thập và phân tích những thông kê về tình hình ơn gọi trong 5 năm từ 22 quốc gia.

Nhìn chung, số linh mục triểu đã gia tăng khoảng 11.93% (từ 37.884 đến 42.405) trong khi đó, số linh mục dòng giảm nhẹ (từ 24.186 xuống còn 23.945).

Trong giai đoạn này, cứ 10 linh mục thì có 4 linh mục qua đời hoặc chuyển hướng. Trong 22 nước được nghiên cứu, đa có khoảng 1.080 linh mục chuyển hướng giữa năm 2000 và năm 2005. Chỉ duy nhất Belize và Puerto Rico là không xảy ra tình trạng này.

Hai quốc gia Nicaragua và Guatemala được xem là có tỷ lệ gia tăng số linh mục triều vào hàng cao nhất.

Bên cạnh đó, số nữ tu cũng có tăng chút đỉnh 0.91% (từ 126.287 năm 2000 lên 127.439 năm 2005)

Cũng theo thống kê này, không có quốc gia nào được đánh giá là chỉ có tăng hay chỉ có giảm. Tuy nhiên, chăng hạn như tại Cuba đã có sự gia tăng số lượng ở mọi loại ơn gọi ngoại trừ các chủng sinh dòng và ngược lại tại Argentina số lượng ơn gọi giảm ngoại trừ tổng số linh mục triều.

Các tác giả của nghiên cứu khuyến cáo không nên quá chú tâm vào số lượng, bởi vì theo họ “ tùy vào mỗi trường hợp, chúng ta phải nhìn vào các yếu tố xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa và tôn giáo có ảnh hưởng đến các thống kê ơn gọi này”, họ nói tiếp “ các yếu tố ảnh hưởng khác là phải xét đến tình hình của giáo hội địa phương, ví dụ như một dòng tu di chuyển các cơ sở đào tạo của họ từ nước này sang nước khác và điều đó làm tăng hay giảm số lượng các chủng sinh. Vì vậy một nghiên cứu chỉ dựa trên số lượng là không đủ”.
 
Thánh Giá Ngày Quốc tế Giới Trẻ đến từ Thánh Giá Năm Thánh 1983/1984
Đặng Thế Dũng
21:28 30/07/2008
Roma (Zenit)- Khi cử hành lễ Kỷ Niệm 25 năm thành lập Trung Tâm Giới Trẻ San Lorenzo, tại Roma, hôm ngày 15 tháng 3 vừa qua, ĐHY Paul Josef Cordes, hiện là chủ tịch Hội Đồng Toà Thánh Đồng Tâm (Cor Unum), đã chia sẻ không những về lịch sử Ngày Quốc Tế Giới Trẻ, mà còn nói về nguồn gốc của Thánh Giá Ngày Quốc Tế Giới Trẻ, đến từ Thánh Giá Năm Thánh 1983-1984.

ĐHY Paul Josef Cordes đã kể lại như sau:

“Lúc bắt đầu Năm Thánh Đặc Biệt 1983-1984, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lưu ý nơi Bàn Thờ chính của Đền Thờ Thánh Phêrô, thiếu một cây Thánh Giá lớn để thu hút chú ý của các bạn trẻ đến cầu nguyện nơi đó. Đức Thánh Cha liền cho dựng một cây Thánh Giá bằng gỗ cao hai thước tại nơi Bàn Thờ chính Đền Thờ Thánh Phêrô. Kết thúc Năm Thánh, ĐTC trao Thánh Giá Năm Thánh này cho các bạn trẻ của Trung Tâm San Lorenzo, với những lời như sau: Kết thúc Năm Thánh, Cha trao phó cho các bạn trẻ chúng con Cây Thánh Giá này, Thánh Giá của Chúa Kitô. Chúng con hãy mang Thánh Giá này khắp nơi trên thế giới, như là dấu chỉ Tình Thương của Chúa Giêsu đối với nhân loại. Chúng con hãy rao giảng cho tất cả mọi người biết rằng ơn cứu rỗi chỉ đến từ Chúa Kitô, Đấng đã chết và đã phục sinh!

Các bạn trẻ thuộc Trung Tâm San Lorenzo Roma sẵn sàng thi hành ước nguyện của ĐTC. Nhưng làm sao để mang Thánh Giá Chúa đến mọi nơi trên thế giới? Lúc đó, tôi thầm nghĩ đến “Thánh Giá” mà mọi môn đệ Chúa đều phải vác lấy khắp mọi nơi. Nhưng các bạn trẻ tại Trung Tâm San Lorenzo, thì hiểu về cây “Thánh Giá Năm Thánh bằng gỗ” mà ĐTC đã trao cho họ. Chính Thánh Giá cụ thể bằng gỗ này mà các bạn muốn rước đi khắp nơi trên thế giới. Trước hết, trong nhiều dịp khác nhau, các bạn trẻ thuộc Trung Tâm San Lorenzo đã rước Thánh Giá Bằng Gỗ này qua các nẻo đường Roma, đến với các bạn trẻ khác thuộc các phong trào như Phong Trào Hiệp Thông và Giải Phóng, các Phong Trào Thánh Linh, Phong Trào Tân Dự Tòng, v.v….Vào cuối mỗi cuộc rước Thánh Giá này, tại các Trung Tâm khác nhau, các bạn trẻ họp nhau suy tôn Lời Chúa, hát Thánh Ca và dành ra những giây phút tôn vinh Thánh Giá.

Tháng 7 năm 1984, Thánh Giá Năm Thánh lần đầu tiên được rước ra ngoài Roma, đến với “Đại Hội Công Giáo Đức” (Katholikentag) ở thành phố Monaco miền nam Nuớc Đức. Thoạt tiên Đức Giám Mục Phụ tá tại Tổng Giáo Phận Monacô, lúc đó là Đức Cha Tewes, mà nay đã qua đời, tỏ ra không mấy ủng hộ việc rước cây Thánh Giá Gỗ từ Roma đến Monaco, với lập luận cho rằng Thánh Giá Gỗ kia có chi đặc biệt mà phải cực nhọc rước từ Roma qua. Nếu muốn, thì tại Monaco này có thiếu gì Thánh Giá Gỗ như thế. Nhưng các bạn trẻ Trung tâm San Lorenzo cố thuyết phục với lý luận rằng đây là Thánh Giá Năm Thánh và rằng Đức Thánh Cha muốn cho Thánh Giá này được rước đi khắp nơi trên thế giới, như dấu chỉ ơn cứu rỗi đến từ Chúa Giêsu Kitô. Và các bạn trẻ đã hết sức vui mừng khi cuối cùng Thánh Giá Năm Thánh được suy tôn tại Đại Hội Công Giáo Đức năm 1984.

Sau đó, ĐTC muốn các bạn trẻ Trung tâm San Lorenzo đưa Thánh Giá Năm Thánh này sang Praha, Tiệp Khắc, đến với ĐHY Tomasek, lúc đó còn bị “giam lỏng” tại Toà Giám Mục của ngài. Đây là một thách thức lớn, vì Tiệp Khắc lúc đó còn là một quốc gia sống trong chế độ cộng sản khắt khe. Và Giáo Hội Công Giáo tại Tiệp Khắc lúc đó chưa được hưởng chút gì tự do như ngày nay! Nhưng kỳ diệu thay, các bạn trẻ San Lorenzo lại thành công đưa Thánh Giá Năm Thánh đến tận toà Giám Mục Praha, đích thân gặp Đức Hồng Y Tomasek. Ngài đã cảm động đến nỗi bật khóc trước mặt các bạn trẻ đã dám liều mạng mang Thánh Giá Năm Thánh đến với ngài.

Sau biến cố này, Thánh Giá Năm Thánh bắt đầu được rước qua các quốc gia thuộc đủ mọi đại lục, như là phần cử hành không thể thiếu, trước là để chuẩn bị và sau đó để cử hành Ngày Quốc Tế Giới Trẻ, như chúng ta thấy như hiện nay. Thánh Giá Năm Thánh đã biến thành Thánh Giá Ngày Quốc Tế Giới Trẻ, để nhắc mọi người nhớ lại Tình Yêu cứu rỗi của Chúa.
 
Những ngày nghỉ của Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI tại Bressanone
Đặng Thế Dũng
21:38 30/07/2008
Bressanone- Italia (Zenit 29 tháng 7)- Cùng với anh mình, Đức Ông Georg Ratzinger, Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI (ĐTC) đang nghỉ hè tại Bressanone.

Đức Cha Wilhelm Emil Egger, Giám Mục giáo phận Bolzano đã có cuộc gặp gỡ với các ký giả hôm thứ ba vừa qua, ngày 29 tháng 7, để giải thích về chương trình nghỉ hè của ĐTC. Đức Cha cho biết là ngài đã nhận rất nhiều lời yêu cầu được gặp ĐTC; nhưng ngài đã từ chối những yêu cầu này, với lý do là ngài có bổn phận “bảo vệ” những ngày nghỉ của ĐTC. Khi được hỏi về những nơi ĐTC sẽ đi dạo hay thăm viếng, trong những ngày nghỉ hè tại Bressanone, thì Đức Cha Egger trả lời là ngài không biết rõ chương trình và cũng không thể nói ra, bởi vì, nếu ngài có nói điều gì, thì chắc chắn là ĐTC sẽ không thể đi đâu được, vì dân chúng sẽ kéo đến, làm mất đi những giây phút riêng tư và nghỉ ngơi của ĐTC.

Đức Cha Egger chỉ cho biết cách chung rằng trong những ngày nghỉ này, ĐTC cầu nguyện, đọc sách báo, học hỏi thêm, đánh đàn dương cầm (piano), và viết phần thứ hai của tập sách “Chúa Giêsu thành Nazareth” và chuẩn bị Thông Điệp thứ ba về vấn đề xã hội. Dĩ nhiên, những sinh hoạt của ĐTC trong những ngày nghỉ này sẽ không theo quy củ của những ngày làm việc tại Vatican.

Như đã nói trước, trong hai tuần nghỉ tại Đại Chủng Viện ở Bressanone, ĐTC chỉ có ba lần tiếp xúc công khai mà thôi: đó là hai lần đọc kinh Truyền Tin Trưa, vào Chúa Nhật mùng 3 và mùng 10 tháng 8. Và một lần tiếp kiến hàng giáo sĩ giáo phận Bolzanô vào ngày mùng 6 tháng 8.

Ngày 11 tháng 8, ĐTC sẽ kết thúc hai tuần nghỉ hè, và trở về cư ngụ tại CastelGandolfo trong suốt mùa hè này.
 
Top Stories
Pope joins spiritually in traditional recitation of Rosary at the Vatican
VietCatholic
20:51 30/07/2008
VATICAN, July 30, 2008 - Pope Benedict XVI, who is on vacation in the city of Bressanone in northern Italy, spiritually joined in the traditional recitation of the Rosary that takes place in the Vatican Gardens each year on the feast of St. Martha.

In a telegram sent in his name by Cardinal Tarcisio Bertone, Vatican Secretary of State, the Pope encouraged those present at the annual event “to serve Jesus in our brothers and sisters, with a generous commitment.”

The Pope’s Vicar of the Diocese of Rome, Cardinal Angelo Comastri, presided at the Rosary and candlelight procession, which was held in the Vatican Gardens before statues of Our Lady of Czestochowa, Guadalupe, Lourdes and Our Lady of Mercy.

The cloistered nuns of the Mater Ecclesiae monastery—located on the Vatican grounds—joined in the Rosary via radio, which allowed them to lead the last decade of the Rosary from inside the monastery.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Thư cám ơn của Tuyên úy Đặc Trách Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới người Việt WYD4VN 2008
LM Chu Văn Chi
20:47 30/07/2008
SYDNEY - Sau đây là thư cám ơn của Linh Mục Paul Chu Văn Chi, Tuyên úy Đặc Trách Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới WYD4VN 2008

Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Tổng Giáo Phận Sydney
Ngày 25/07/2008

Trọng Kính Quý Đức Hồng Y,
Trọng Kính Quý Đức Tổng Giám Mục, Quý Đức Giám Mục,
Kính Thưa Quý Đức Ông, Quý Cha, Quý Tu Sĩ Nam Nữ,
Kính Gửi Quý Hội Đồng Mục Vụ, Quý Ban Mục Vụ, Hội Đồng Giáo Xứ, và Anh Chị Em các Cộng Đồng Công Giáo và các Xứ Đạo Việt Nam,
Kính Gửi Quý Cơ Quan Truyền Thông,
Cùng Quý Bạn Trẻ Việt Nam tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ XXIII rất thân yêu,

Ban Tổ Chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới WYD4VN chúng con xin chân thành cám ơn Quý Đức Hồng Y, Quý Đức Tổng Giám Mục, Quý Đức Giám Mục, Quý Đức Ông, Quý Cha, Quý Tu Sĩ Nam Nữ, Quý Hội Đồng Mục Vụ, Quý Ban Mục Vụ, Quý Hội Đồng Giáo Xứ, và Anh Chị Em các Cộng Đồng Công Giáo và các Xứ Đạo Việt Nam, Quý Cơ Quan Truyền Thông, đã cầu nguyện cho chúng con. Trong tâm tình tri ân, chúng con xin đặc biệt cám ơn Quý Bạn Trẻ Việt Nam rất thân yêu đã tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ XXIII vừa qua tại Sydney Australia.

Chúng con, Giới Trẻ Việt Nam trên toàn Thế Giới đã hội ngộ về Sydney, để cùng nhau cử hành Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới WYD2008 lần thứ XXIII với chủ đề: “Các con hãy nhận lấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên các con. Các con sẽ là chứng nhân của Thầy.” (TĐCV. 1:8). Àp Giới Trẻ Việt Nam từ bốn phương trời đã hân hoan hội ngộ tại Sydney Australia, miền Nam của quả địa cầu xa xôi ngàn dặm, nhưng đầy ắp những yêu thương của Thiên Chúa Cha, Tình Yêu của Chúa Giêsu Kitô, và Sức Mạnh Thần Lực của Chúa Thánh Thần, nguồn cậy trông nơi Mẹ Maria, mẫu gương tuyệt vời của Thánh Nữ Mc Killop, và tình yêu thương của những người con giòng giống Con Rồng Cháu Tiên, hạnh ngộ đặc biệt nơi đây, để cùng nhau chia sẻ Niềm Tin và Tình Yêu trong hồng ân Chúa Thánh Thần.

Trong tâm tình tạ ơn này, Ban Tổ Chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới WYD4VN chúng con:

Trước hết xin Tạ Ơn Thiên Chúa, đã thương mến và dìu dắt chúng con trong tất cả các sinh hoạt của Giới Trẻ Việt Nam trong những ngày Đại Hội Giới Trẻ.

Chúng con xin Tạ Ơn Mẹ La Vang, Mẹ Quê Hương Việt Nam, đã luôn đồng hành với chúng con trong suốt những ngày Đại Hội.

Chúng con xin Tạ Ơn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, đã bảo trợ và cầu bầu cho chúng con trong những ngày Đại Hội.

Chúng con ghi nhớ công ơn Các Tiền Nhân quý yêu của Dân Tộc Việt Nam, đã để lại cho chúng con niềm tự hào là người Việt Nam, đồng thời, đã để lại cho chúng con những gia tài quý giá của Dân Tộc Việt Nam, qua tình yêu thương, sự kiên cường, lòng nhân ái, mà chúng con đã cộng tác và hành xử tốt đẹp với nhau trong suốt những ngày Đại Hội.

Chúng con xin chân thành ghi ơn Quý Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên, Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân, Đức Cha Đôminicô Mai Thanh Lương, đã giảng dạy Giáo Lý và giảng thuyết cho chúng con trong những ngày Đại Hội.

Chúng con tri ân quý Cha, đặc biệt Quý Cha Đại Diện các Phái Đoàn, Quý Tu Sĩ Nam Nữ, đã đồng hành với chúng con trong những giờ phút yêu thương của Đại Hội Giới Trẻ.

Chúng con xin chân thành tri ân quý vị ân nhân gần xa, đã quảng đại nâng đỡ chúng con về vật chất lẫn tinh thần.

Chúng con xin cám ơn quý cơ quan truyền thông, đã cộng tác với chúng con trong những ngày trước Đại Hội, trong Đại Hội, và sau Đại Hội, để thông tin những điều cần thiết cho Giới Trẻ chúng con.

Chúng con chân thành cám ơn Tuyên Uý Đoàn Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Úc Châu, xin đặc biệt cám ơn Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu và Tiểu Bang NSW đã nâng đỡ khích lệ chúng con trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ XXII này.

Chúng con xin chân thành cảm tạ tình yêu thương và nâng đỡ của Ban Tuyên Uý, Ban Thường Vụ, Hội Đồng Mục Vụ, và các thành viên trong Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Tổng Giáo Phận Sydney.

Và đặc biệt, trong niềm cảm tạ sâu sắc, Ban Tổ Chức WYD4VN xin chân thành cám ơn quý Bạn Trẻ Việt Nam từ 4 phương trời, đã hy sinh về Sydney, để cùng chia sẻ Niềm Tin và Yêu Thương với Thần Lực của Chúa Thánh Thần. Cám ơn những ân tình, những cộng tác, những chia sẻ của quý bạn. Chính nhờ quý bạn, mà Đại Hội Giới Trẻ lần thứ XXIII thành công. Chúng tôi vinh dự vì có quý bạn đồng hành.

Chúng tôi xin chân thành cám ơn quý bạn trẻ trong Liên Ca Đoàn Lê Bảo Tịnh, Liên Đoàn Thanh Niên Công Giáo, Liên Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Nữ Vương Hoà Bình, và quý bạn trẻ đã tích cực dấn thân, để chắp cánh cho Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới đạt được thành công.

Chúng con xác tín rằng, với hồng ân của Thiên Chúa và Mẹ La Vang, Mẹ Quê Hương Việt Nam, cùng sự yêu thương nâng đỡ và cộng tác của toàn thể Quý Vị, là đáp số cho sự thành công của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ XXIII nói chung, và cho sự thành công tốt đẹp của những ngày Đại Hội Giới Trẻ Việt Nam nói riêng.

Nguyện xin Thiên Chúa và Mẹ La Vang, Mẹ Quê Hương Việt Nam, chúc lành cho Dân Tộc Việt Nam, nhất là trả công bội hậu cho toàn thể Quý Vị và đặc biệt chúc lành cho Quý Bạn Trẻ Việt Nam thân quý đã tham dự Đại Hội Giới Trẻ WYD 2008 năm nay. Nguyện chúc Quý Bạn Trẻ Việt Nam, sau khi đã lãnh nhận Thần Lực Chúa Thánh Thần, sẽ hăng say và dấn thân làm chứng nhân cho Chúa trong mọi hoàn cảnh, mọi môi trường, trong gia đình, ngoài xã hội, sống và thực hành theo chủ đề của WYD 2008: “Các con hãy nhận lấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên các con. Các con sẽ là chứng nhân của Thầy.” (TĐCV. 1:8).

Trong Chúa KiTô

Linh Mục Paul Chu Văn Chi
Tuyên úy Đặc Trách Đại Hội Giới Trẻ WYD4VN 2008


 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Một thoáng dừng chân tại Hà Nội và sang thăm Thái Hà
Hà Long
12:02 30/07/2008
HÀ NỘI - Sáng Chúa nhật, 27/7/2008 khắp phố phường Hà Nội tràn ngập cờ xí chào mừng ngày thương binh liệt sĩ bằng nhiều băng rôn nền đỏ chữ trắng, như câu “Phụng dưỡng bà mẹ anh hùng Việt Nam là trách nhiệm của toàn dân” hoặc “Đẩy mạnh phong trào đền ơn đáp nghĩa các thương binh” . Không biết nhà nước ta thật lòng thương những người đã hy sinh cho dân tộc hoặc với mưu đồ chỉ tốn một chút tuyên truyền làm dịu lòng người dân, nhất là thành phần đã bị lợi dụng xương máu trong cuộc chiến như: vợ mất chồng, con mất cha, cha mẹ nhiều năm mỏi mòn vẫn chưa tìm ra xác của đứa con đã chết trong chiến trường Miền Nam, hoặc muốn tìm kiếm đem con về quê chôn cất thì phải tự trả cho tất cả mọi phí tổn dịch vụ. Họ đang là những người thiệt thòi nhất trong một xã hội đầy dẫy bất công tại Việt Nam.

Sáng sớm tôi đón xe ôm đi từ Long Biên để sang giáo xứ Thái Hà tham dự thánh lễ. Xe chạy dài theo con đường Nguyễn Văn Cừ và vượt qua sông Hồng bằng cầu Chương Dương. Nhìn xuống nước lũ dâng cao cuồn cuộn từ miền trên đổ về với màu nước đỏ đậm và bên phải là chiếc cầu Long Biên lịch sử, chính nơi này một thời “Giặc Mỹ” ném bom làm cắt đứt mạch máu chính tiếp sức cho thủ đô Hà Nội. Muốn đến Thái Hà xe phải chạy qua Văn Miếu. Nơi góc đường Nguyễn Thái Học rẽ trái sang Phố Tôn Đức Thắng tôi đọc được 2 bảng viết to tướng dựng nơi góc đường: “Thi đua yêu nước - Yêu nước thì phải thi đua” - đây là câu nói của ông Hồ kêu gọi cách đây 60 năm dịp gợi lên lòng ái quốc, nay được chế độ Hà Nội đánh bóng trở lại. Giây phút ấy tôi nghĩ ngay đến các tham quan đang hoàn hành dân lành bằng câu: “Thi đua cướp đất - Cướp đất thì phải thi đua.” Bên cạnh đấy lại thêm một bảng to tướng với câu: “Người người thi đua - Nhà nhà thi đua - Cả nước thi đua.” Đúng với cuộc sống lầm than của người dân trong hoàn cảnh củi quế gạo châu, điện bị cúp liên tục và xăng dầu tăng vùn vụt lại còn phải dâng đôi tay làm thêm nghĩa vụ: “Người người thi đua đóng thuế nộp phạt - nhà nhà thi đua dâng đất cho lũ cướp ngày - Cả nước thi đua cúi gầm mặt lại cho lũ tham quan sai khiến.”

Đi tham dự thánh lễ Chúa nhật mà lòng cứ phát sinh các ác cảm như thế thì tâm tôi không đành nên vội nhắm mắt để xe chạy nhanh đến Thái Hà. Rẽ phải vào đường Nguyễn Lương Bằng nhìn thấy bệnh viện Đa Khoa Đống Đa, rẽ trái tiếp tục vào ngõ 180 thấy ngay cổng Đền Thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp - GX Thái Hà. Khi tôi đến đúng lúc vừa khởi hành thánh lễ. Một cha trẻ chủ tế. Nhà thờ không còn một ghế trống. Bên hành lang cánh trái nhiều giáo dân ngồi trên ghế nhựa trong bóng mát. Nhà thờ thoáng mát, âm thanh rõ ràng, ca đoàn hát lễ sốt sắng. Được đặt chân tới đây có một chút gì linh thiêng và hồi hộp cho tôi khi nghĩ lại những buổi cầu nguyện đòi lại đất đai và mức độ gia tăng khẩn trương khi khu đất bị hàng rào kẽm gai vây tỏa. Những vòng kẽm gai tôi vẫn còn thấy dựng tại một gốc cây bên vệ đường. Điều đánh động tôi nhất là trong lời kinh nguyện Thánh Thể vị chủ tế đã nhớ đến những người đã hy sinh xương máu trong cuộc chiến để xây dựng đất nước hoặc chiến đấu với một lý tưởng muốn xây dựng xã hội công bằng. Ngài còn thêm lời cầu cho công lý được thể hiện (trong việc đòi lại đất nhà dòng)...

Sau thánh lễ cả nhà thờ hát bài “Kinh Hòa Bình” và vị chủ tế đi sau thánh giá nến cao xuyên qua nguyện đường kính thánh Giêrađô để vào “Phố Đức Bà” đọc kinh và hát. Lần đầu tiên tôi đặt chân đến đây và tham gia cầu nguyện. Trên bờ rào biết bao nhiêu thánh giá bằng gỗ được gắn vào với các hình ảnh Đức Mẹ, Chúa Giêsu và các Thánh. Nơi đây có thể đã phát sinh các ơn lạ vì tôi nhìn thấy nhiều bảng tạ ơn Đức Mẹ được gắn trên bờ rào. Trên vòng kẽm gai cũng được đơm vào vài hình thánh giá. Số giáo dân đến cầu nguyện khoảng 70 người và đại diện cho mọi giới: em bé, trẻ, thanh niên, trung niên và bô lão.

Sau đó tôi tạt vào túp lều của hai cụ bà bền bỉ ăn ở và sống trong đó để giữ đất nhà thờ đã hơn nửa năm nay. Tôi được nghe hai cụ kể lại cách đây một tuần có một phái đoàn của Giới Trẻ Paris sau khi Đại Hội Giới Trẻ tại Sydney đã ghé thăm Thái Hà dâng thánh lễ và sau đó họ cùng với 2 cha người Pháp ra Phố Đức Bà cầu nguyện bên bờ rào. Hai cụ bà và giáo xứ thật phấn khởi về sự quan tâm của người nước ngoài. Hai cụ tếu lâm và tự hào cho rằng Phố Đức Bà đã nổi tiếng trên thế giới. Tôi vui theo và nói công ơn của hai cụ đóng góp vào không nhỏ đâu! Hai cụ bà lo công việc thắp nến, hương và trông nom “Phố Đức Bà” chu đáo như một đền thờ. Thật đáng kính nể cho lòng tin của họ đã trải qua một mùa đông rét mướt và đang phải sống với cái nóng như thiêu như đốt trong mùa hè này. Họ đang cần sự nâng đỡ tinh thần của tất cả chúng ta. Nhìn qua hàng rào thấy khu đất bỏ hoang, cỏ cao ngập đầu nhưng đảng ta vẫn hăm he chiếm lấy qua công văn số 2476/GĐ-UBND ngày 30/6/2008 và công văn số 4213/UBNN-NNĐC ngày 02/7/2008, cả hai công văn này đều do phó chủ tịch Vũ Hồng Khanh ký tên. Ông Khanh dương oai múa võ với câu kết thúc táo bạo trong văn thư: “... giải quyết và xử lý vi phạm theo qui định của luật pháp” . Câu hỏi được đặt ra: Ai là người đang vi phạm luật pháp ở Thái Hà???

Sau đấy tôi được may mắn gặp gỡ cha Bề Trên nhà dòng vài giây phút. Điểm chính ngài cho biết qua công văn mới nhất của thành phố họ chỉ trích lục những đoạn văn (rất qủy quyệt) thật có lợi cho chính họ, chứ không dám dùng các dữ liệu chính thống để trao đổi ngay thẳng với nhau. Đời nào cộng sản dám nói sự thật và chung quy các tham quan chỉ muốn cướp đất của người dân.

Tựu chung tôi thấy GX Thái Hà vẫn sinh hoạt mạnh mẽ: mở hội thi kinh trong mùa hè, đón tiếp và lo cơm nước cho hơn 150 sĩ tử thi vào đại học vừa qua, nhà dòng đang xây dựng 10 mái vòm tròn để che nắng mưa cho các cháu thiếu nhi sinh hoạt và mời gọi mọi người đóng góp. Nơi bàn thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp luôn có người ghi vào sổ cầu nguyện. Nhà dòng sẽ mừng Thánh tổ Anphongsô vào 01/8/2008 với Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt.

Nửa ngày Chúa nhật vừa qua tôi vui mừng được sống và cảm nghiệm lòng tin của giáo dân GX Thái Hà. Nơi thủ đô ngàn năm văn hiến tôi nhìn lại quê hương đã hơn 33 năm không còn chiến tranh, người dân nghèo vẫn chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất - đưa lưng cho trời. Giầu nghèo xa cách. Bất công trải dài từ Bắc vào Nam. Công an giao thông rình rập như những “anh hùng núp” để quấy nhiễu người dân. Quan lớn muốn cướp đất thì cứ ung dung đưa đất vào vùng quy hoạch. Cường hào ác bá lộng hành... hỏi đến các quan chức thì họ thường trả lời vô cảm: Tôi có biết đâu?

Thăm quê hương trong vài ngày ngắn ngủi với đoàn giới trẻ sau Đại Hội Giới Trẻ tại Sydney, chúng tôi đã đến chia sẻ với người bệnh nhân phong cùi, thăm các trẻ em nghèo vùng ven đô, giao lưu với các bạn trẻ trong vùng sâu, chúng tôi thấy rằng nhà nước và chính quyền đang bỏ rơi người dân nghèo lầm than. Trong một đất nước cứ tự hào sống trong thanh bình mà vẫn còn các em học sinh chưa học hết bậc tiểu học vì nghèo đói thì chúng ta phải đặt một câu hỏi to lớn cho đất nước đó! Trong một đất nước luôn đề cao độc lập - hạnh phúc mà những nơi vùng sâu đoàn chúng tôi ghé qua luôn bị cúp điện hằng ngày và chỉ đến 12 giờ đêm mới có điện trở lại, thì thử hỏi người dân có hạnh phúc không?

Tình cờ tôi đọc được bài báo “Dân Kêu Ngâm Khúc” đăng trong Tuổi Trẻ Cười, số 304, ngày 15/3/2006 của tác giả Trương Văn Thuận. Bài thơ châm biếm này tôi tìm thấy trong đống báo cũ vất xó nhà nơi tôi tá túc và nó bộc lộ lên hết tâm trạng của người dân đen:

Tôi đi qua một cây cầu “Xin lỗi”
Thấy người dân ngơ ngác đứng nhìn
Căn nhà kế bên “nghiêng mình kính cẩn”
Lún thì bù, bù lại lún... thế thôi.

Tôi đi qua một ngôi nhà lồng chợ
Rộng thênh thang lặng lẽ im lìm
Vài con bò đang thảnh thơi nhai cỏ
Cái “chuồng bò” bạc tỉ... thấy ớn chưa?

Tôi đi qua một công trình “Thế kỷ”
Ngày khởi công tổ chức thật linh đình
Lúc động thổ: Xúc chơi vài xẻng cát
Động thổ rồi... bỏ đó cả chục năm.

Tôi đi qua những “Con đường đau khổ”
Nắng: bụi mờ; mưa: lầy lội... phát kinh
Mấy năm dài làm xong... vài chục mét
Muốn bảo: Rùa sợ tội mấy chú Quy.

Tối đi qua một công trình thủy... hại
Hồ cạn khô và cỏ mọc um tùm
Người dân bảo: “Hồ cao hơn mực nước”
Thiết kế là... “Quái kiệt” chứ chẳng chơi.

Tôi đi qua những khu, vùng giải tỏa
Nhiều gia đình nheo nhóc sống lề đường
Nhà thì mất, tiền không, đất cũng chẳng
Gào thấu trời, trời bảo: “Tớ chịu thôi!”.

Tôi đi qua... mà thôi còn nhiều lắm
Có kể thêm ai cũng bảo: “Biết rồi!”
Các quan lớn thì chơi toàn bạc tỉ
Đám dân đen è cổ kiếm từng đồng
Tiền ngân sách là tiền dân đóng thuế
Dân còng lưng cày tối mặt tối mày
Chớ tưởng rằng tiền đó có mùi nhang
Vung xả láng, xót lòng dân đen lắm!


Và cuối cùng ngồi trong một quán cóc uống cà phê tôi được nghe tiếng kêu lầm than vang vang: “Ôi đảng ta! Ở trên thì đấu đá. Bên dưới thì trà lá. Công nhân thì bẻ khóa. Ôi đảng ta giỏi quá!”

(27/7/2008 - Những ngày dong duổi đất Hà Thành)
 
Bề trên Giáo xứ Thái Hà giải trình về các nội dung quyết định của UBND TP Hà Nội thu hồi đất khu nhà thờ
LM Matthêu Vũ Khởi Phụng DCCT
20:03 30/07/2008
TỔNG GIÁO PHẬN HÀ NỘI
Giáo xứ Thái Hà-DCCT

180/2 Nguyễn Lương Bằng,
P. Quang Trung, Đống Đa, Hà Nội


Hà Nội, ngày 27.07.2008

GIẢI TRÌNH CÁC NỘI DUNG KẾT ÁN
TRONG CÔNG VĂN 4213/UBND-NNĐC CỦA UBND TP HÀ NỘI
ĐỐI VỚI GIÁO DÂN VÀ/ HỌĂC GIÁO XỨ THÁI HÀ


Kính gửi: Đức Tổng Giám Mục Hà Nội
Đồng kính gửi: Cha Bề trên Giám Tỉnh DCCT Việt Nam

Kính thưa Đức Tổng Giám Mục và Cha Bề Trên Giám Tỉnh

Từ 15 năm nay, Giáo xứ Thái Hà đã khiếu nại xin chính quyền giải quyết vấn đề đất đai của mình, trong đó khu đất 178 Nguyễn Lương Bằng mà Công ty Điện lực Hà Nội, Công ty Vật tư Vận tải Xi măng và công ty Công ty May Chiến Thắng đã và đang chiếm dụng.

Ngày 02/07/2008, Giáo xứ nhận được công văn số 4213/UBND-NNĐC của UBND thành phố Hà Nội. Nội dung chỉ đạo xử lý vi phạm trong quản lý, sử dụng đất, xây dựng tại khu vực 178 Nguyễn Lương Bằng đồng thời đưa ra các biện pháp khắc phục và thực hiện.

Thực chất công văn 4213 này là bản kết án Giáo xứ và dọn đường cho việc chiếm dụng đất đai của Giáo xứ về mặt pháp luật. Trong thư giải trình này chúng con chỉ phản bác các nội dung kết án Giáo xứ Thái Hà. Còn những quyết định bất công liên quan trực tiếp đến khu nhà đất, chúng con xin đề cập trong một văn thư khác.

1. Nội dung quy kết thứ nhất: Giáo xứ thiếu hợp tác và không tuân thủ các quy định pháp luật trong quá trình giải quyết, xử lý vi phạm của chính quyền.

Giáo xứ Thái Hà chúng con phản đối quy kết bất công và bất hợp lý này. Hàng chục năm qua, trong tư cách là chủ thể liên quan quyền lợi, đang cậy dựa vào luật pháp yêu cầu các cơ quan chính quyền giải quyết, Giáo xứ đã luôn luôn tuân thủ các quy định pháp lý liên quan đến việc giải quyết khiếu nại để đòi công lý và công bằng cho Giáo xứ. Bằng chứng là hàng chục đơn thư yêu cầu giải quyết đã được gửi tới các cơ quan chính quyền và một số lần hàng trăm giáo dân đã lên UBND Thành phố đòi được gặp các vị lãnh đạo để trao đổi. Các vị có thẩm quyền lại không lắng nghe ý kiến và nhìn nhận bằng chứng của Giáo xứ. Ngay trong quá trình điều tra, xác minh Đoàn Thanh tra Liên ngành cũng không hề gặp gỡ, trao đổi với Giáo xứ mà chỉ đơn phương thông báo các kết luận tạm thời mà trong đó có nhiều điều không đúng sự thật.

2. Nội dung quy kết thứ hai: Giáo xứ Thái Hà tự ý phá tường rào, tự ý chiếm dụng đất của hai công ty Công ty Điện lực Hà Nội và Công ty Vật tư vận tải xi măng, tự ý dựng cổng sắt chiếm phần đường đi vào khu đất của hai công ty này và xây dựng công trình trái phép.

Phải nói ngược lại mới đúng! Sự thật là Công ty Điện lực Hà Nội và Công ty Vật tư vận tải xi măng này đã mua bán chuyển nhượng trái phép nhà đất thờ tự của Giáo xứ. Sau đó 2 công ty này còn sử dụng một phần mặt bằng nhà đất này để buôn bán, một phần bỏ hoang. Riêng ngôi nhà nguyện trong khu đất bị biến thành chỗ chứa vật liệu xây dựng và tập trung của các đối tượng nghiện ma tuý. Chính quyền phường Quang Trung và và nhân dân địa phương biết rõ điều này.

Từ hơn 15 năm nay Giáo xứ chúng con đã làm đơn yêu cầu 2 công ty trên đây trả lại phần đất này của Giáo xứ, nhưng các cơ quan liên hệ đã không giải quyết lại còn hợp pháp hoá giấy tờ quản lý và sử dụng đất cho hai công ty này, để đến hôm nay CV 4213 lại tiếp tục nói là “đất của Công ty Điện lực Hà Nội và Công ty Vật tư vận tải xi măng” mà không công nhận là đất của Giáo xứ.

Bức xúc trước các bất công và tệ nạn trên đây, trong khi hàng nghìn giáo dân không có mặt bằng sinh họat tôn giáo, Giáo xứ đã quyết tâm bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình và làm lành mạnh hoá khu vực nội tự. Giáo xứ đã sửa lại ngôi nhà nguyện rách nát trong khu vực đồng thời sử dụng phần đất còn lại làm bãi giữ xe và làm nơi sinh họat tôn giáo. Từ bức tường của Giáo xứ xây dựng hơn 10 năm trước, Giáo xứ cũng mở một cửa thoát hiểm để đề phòng bất trắc những khi tập trung nhiều nghìn người.

Tất cả những việc làm trên đây đều nằm trong khuôn khổ của pháp luật, có tính khẩn cấp, hợp lý, hợp tình. Khoảng gần 100 cán bộ các cơ quan ban ngành các cấp trong thành phố Hà Nội cũng đã đến chứng kiến những việc làm chính đáng, tốt đẹp, phù hợp luật pháp và đạo lý trên đây của Giáo xứ. Không một ai có ý kiến phản đối. Không một văn bản gọi là “vi phạm” nào được lập. Ngày 19.12.2007 Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, thay mặt Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt, đã đến làm lễ thánh hiến nguyện đường Giêrađô trong khu vực.

Giáo xứ chúng con phản đối việc CV 4213 quy kết Giáo xứ vi phạm luật đất đai và luật xây dựng. Vì không có điều khoản quy định phải xin phép khi sửa ngôi nhà cấp 4 đã hư hại nặng, khi dựng nhà mái tôn và làm cổng trên phần đất nội tự của nhà thờ để cho giáo dân có chỗ che mưa nắng.

3. Nội dung quy kết thứ ba: Các giáo dân lập bàn thờ, đặt tượng, treo ảnh Đức Mẹ, tập trung đông người cầu nguyện trên vỉa hè, đường, bên ngoài tường rào là vi phạm Pháp lệnh Tín ngưỡng tôn giáo, vi phạm luật về quản lý trật tự xây dựng và giao thông, vi phạm quy định về trật tự công cộng.

Về vấn đề này, Giáo xứ Thái Hà chúng con xin thưa như sau: Khu nhà đất mà Công ty May Chiến Thắng đang chiếm dụng là nhà đất hợp pháp của Giáo xứ. Giáo xứ chưa hề hiến tặng ai họăc cho ai mượn; chính quyền cũng chưa bao giờ có quyết định trưng thu, trưng mua phần nhà đất này theo diện cải tạo xã hội chủ nghĩa.

Giáo xứ đã làm đơn gửi đến các cơ quan chức năng yêu cầu can thiệp để Công ty May Chiến Thắng trả lại phần đất chiếm dụng cho Giáo xứ. Nhưng các đơn thư của Giáo xứ hầu như bị rơi vào im lặng, nếu có thì cũng là phủ nhận quyền quản lý, sử dụng của Giáo xứ. Trong khi đó, Công ty May Chiến Thắng lại có hành vi đập phá công trình tôn giáo sẵn có trong khu vực, làm đường nội vi, san lấp mặt bằng, bán đất cho người khác, xâm hại đến khu nhà đất của Giáo xứ.

Bức xúc trước bất công trên đây, giáo dân trong Giáo xứ chỉ còn biết đứng bên khu đất của mình mà cầu nguyện với Chúa và Đức Mẹ sau các thánh lễ.

Hành động quy kết Giáo xứ vi phạm này nọ của CV 4213 là không có cơ sở pháp lý và thực tiễn. Vì, một mặt, toàn bộ nội dung của Pháp lệnh Tôn giáo-Tín ngưỡng cũng như Nghị định 22 của Chính phủ không hề cấm cản việc treo ảnh thánh, đặt tượng đài trong khu vực nội tự. Mặt khác, nội dung điều 25 của Pháp lệnh Tôn giáo-Tín ngưỡng và điều 26 của Nghị định 22 chỉ quy định phải đăng ký khi thực hiện “các cuộc lễ của tổ chức tôn giáo diễn ra ngoài cơ sở tôn giáo”.

Trong khi đó, Giáo xứ chúng con chỉ cầu nguyện, chứ không thực hiện nghi lễ tôn giáo nào. Việc cầu nguyện này kéo dài khoảng 15 phút sau mỗi thánh lễ. Thực tế, ai đến thị sát cũng phải thấy rằng giáo dân không làm gì cản trở đến giao thông trong ngách này. Hơn nữa, phải thấy rằng từ khi giáo dân dựng lều bạt ở đây, thì khu vực ngách này được dọn dẹp rất sạch đẹp và nơi này không còn là điểm tập trung buôn bán và họat động của các đối tượng nghiệp ngập, trộm cắp.

Thực tế ai đến cũng thấy rằng ngay cạnh địa điểm giáo dân đứng cầu nguyện ít phút, có những cơ quan và tập thể lấn chiếm nhà đất của Giáo xứ và lấn chiếm đường đi cách công nhiên như xây nhà ra giữa đường, để xe máy, xe ô tô và hàng hoá ra giữa đường. Thế mà bất chấp sự khiếu nại của Giáo xứ chúng con và của các hộ dân xung quanh chính quyền vẫn không can thiệp gì để chấm dứt hiện tượng này.

Do đó, Giáo xứ Thái Hà chúng con phản đối việc CV 4213 quy kết giáo dân trong Giáo xứ vi phạm Pháp lệnh và Nghị định Tôn giáo-Tín ngưỡng, vi phạm Luật Giao thông và Luật đất đai.

Kính thưa Đức Tổng Giám Mục và Cha Bề Trên Giám Tỉnh

Giáo xứ Thái Hà không vi phạm các quy định của Pháp lệnh và Nghị định về Tôn giáo-Tín ngưỡng, các quy định của Lụât Giao thông đường bộ, Luật Xây dựng, Luật Đất đai. Giáo xứ phản đối các nội dung kết án Giáo xứ cách bất công và có ác ý của CV 4213.

Giáo xứ chúng con xin trình bày như thế để Đức Tổng Giám Mục và Cha Bề Trên Giám Tỉnh yên tâm và xin các ngài cầu nguyện cho Giáo xứ chúng con luôn kiên trì trên con đường mưu tìm công lý.

Kính chúc Đức Tổng Giám Mục và Cha Bề Trên Giám Tỉnh được tràn đầy ơn Chúa.

Matthêu Vũ Khởi Phụng DCCT
Linh mục Bề trên-Chính xứ Thái Hà
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Hôn Nhân, Đức Tin Và Tình Yêu (16)
Vũ Văn An
06:41 30/07/2008
Hôn nhân, Đức tin và Tình yêu

Chương mười bốn: Các hậu quả của tan vỡ hôn nhân

Cho đến những năm rất gần đây, quan tâm chính của xã hội cũng như của các quốc hội đối với các cuộc tan vỡ hôn nhân là triển khai các đạo luật để giải thoát những người đàn ông đàn bà bất hạnh đang bị kẹt cứng trong các cuộc hôn nhân vô vọng, không được tái kết hôn vì luật lệ không cho phép điều ấy. Sau Thế chiến hai, vấn đề ấy càng được quan tâm hơn, và trong thập niên 1960, luật cho phép ly dị đã được thông qua tại nhiều nước Tây Phương. Các Luật này không còn xây dựng trên ý niệm có lỗi nữa, mà trên ý niệm bế tắc không thể giải quyết được. Chủ yếu, người ta được phép ly dị nếu cuộc hôn nhân, nay được quan niệm như một liên hệ, xem ra hết đường cứu vãn. Tại Anh và Wales, đạo luật mới, dựa trên nguyên tắc trên, đã được thông qua năm 1969 và có hiệu lực kể từ năm 1971. Tỷ lệ ly dị đã tăng cao trước các niên biểu ấy, tuy nhiên, sau các niên biểu trên nó đã gia tốc một cách đáng kể, mặc dù có giảm đôi chút vào năm 1979. Trong thập niên 1970, việc gia tăng ly dị cho ta có dịp khảo sát các hậu quả của nó một cách chi tiết hơn. Người ta có phải trả một cái giá gì đó cho việc ly dị không? Câu hỏi này sẽ được trả lời dựa trên những hậu quả đối với hai vợ chồng, đối với con cái và đối với quốc gia.

HẬU QUẢ ÐỐI VỚI HAI VỢ CHỒNG

Nếu ta nhớ rằng hôn nhân hiện đại chủ yếu là một gắn bó xúc cảm tạo nên sợi dây tình cảm liên kết hai vợ chồng, thì việc tan vỡ của sợi dây này sẽ đem lại một loạt những triệu chứng như lo âu, giận dữ và trầm cảm. Ðiều này do một cuộc nghiên cứu quy mô về những người đàn bà ly dị tìm ra (1). Ở đây chỉ có ý nói đến những cuộc hôn nhân đã kéo dài đủ để hai vợ chồng có được những tương hành về xúc cảm, đo đó mới cảm thấy mất mát nhau.

Về lo âu, người phối ngẫu bị bỏ rơi có thể hoảng hốt chạy khắp nơi để tìm kiếm xem người bạn đời của mình đang ở đâu. Nếu tìm được, có thể có những cảnh tố cáo và phản cáo lẫn nhau, trong đó đủ mùi khóc lóc, van lơn, đe dọa, thuyết phục. Sự ra đi có thể không bất ngờ nhưng đã được cảnh cáo từ lâu khiến nỗi lo âu đã từng tăng dần đến chỗ căng thẳng. Và sự căng thẳng này có thể biểu lộ qua những chứng như nhức đầu, mất ngủ, mất ăn, hoặc ngược lại ăn nhiều quá khiến lên cân. Hai vợ chồng có thể trở nên dễ cáu giận. Sự cáu giận này càng gia tăng với những người hút xách hoặc say sưa. Sự cáu giận này thường đi đôi với tác phong chửi bới, trút nỗi giận lên đầu các con, giận cá chém thớt, dù chúng chẳng có tội gì. Nguyên nhân nhỏ đã được khuếch đại để la mắng và hễ các con làm ồn một chút là đã không chịu nổi. Lo âu cũng có thể biểu lộ qua việc xuất mồ hôi, tim đập mạnh, đau bụng dưới và thay đổi bài tiết. Khả năng chú ý cũng như tập trung giảm đi. Người chồng có thể nhìn công việc nhưng không tài nào chú mục được, không thể đưa ra bất cứ sáng kiến nào để điều hành công việc được nữa. Ông ta hay đãng trí, nhất là trong gia đình, nơi tương lai ngày một đen tối hơn. Người vợ cũng thế, hay đãng trí và gây ra tai nạn ngay trong nhà, là nơi từ nay trí khôn bà chẳng còn quan tâm chi đến chuyện nấu nướng giặt giũ, mà chỉ quanh quẩn nghĩ đến cái tương lai mù mịt của mình mà thôi. Nhiều khi bà đi lang thang ngớ ngẩn ở các cửa tiệm, rất dễ quên, có khi quên cả mục đích việc đến cửa tiệm của mình. Nhiều khi quên cả trả tiền, cứ thế bước ra khỏi tiệm, và do đó bị bắt về tội ăn cắp, điều này càng làm cho cuộc đời đã phức tạp càng phức tạp hơn.

Sự buồn bực lan tràn ấy thường đi đôi với giận dữ, và trong những ngày, những tuần, những tháng trước khi chia tay, vợ chồng có thể có những trận cãi nhau nẩy lửa. Tất cả những cay đắng chồng chất xưa nay được dịp nổ tung ra qua những cuộc cãi lộn thường xuyên, mà nào có giải quyết được gì, chỉ tổ làm dịp cho hai bên nhục mạ lẫn nhau. Cũng một chuyện ấy được nhắc đi nhắc lại hoài và các tranh luận trở thành dịp để kết tội nhau một cách cay đắng, bùng lên thành bạo hành. Những cuộc bạo hành này đôi khi không phải chỉ giới hạn ở chỗ thóa mạ nhau bằng lời mà còn bằng đấm đá hẳn hoi. Nếu một trong hai hoặc cả hai chuếnh choáng hơi men, thì nhiều tai họa khủng khiếp có thể xẩy ra. Các bác sĩ, các phòng cấp cứu, các thân nhân và bằng hữu vốn đã được thấy kết quả những trận thư hùng như thế. Ðôi khi vợ chồng giấu không cho ai thấy những vết thương của mình, nên nhiều tai hại thể lý đã không được trình báo.

Trên thực tế, lo âu cũng như giận dữ có thể làm phát khởi hoặc làm gia trọng đủ các chứng bệnh. Ngoài các chứng nhức đầu đã được nhắc đến, còn có thể có chứng đau phía sau đầu, đau lưng, đau bụng dưới, ngứa ngáy ngoài da, tăng cơn xuyễn, tiểu đường, động kinh, lở loét bộ phận tiêu hóa, đau ruột, tăng áp huyết, đau ngực và đau cánh tay (đôi khi lầm với viêm yết hầu), nóng lạnh, xáo trộn tiêu hóa, xáo trộn kinh nguyệt và các vấn đề tính dục.

Thêm vào lo âu giận dữ, nhiều người trong hoàn cảnh này còn bị chứng trầm cảm. Họ thấy họ khốn khổ tội nghiệp, đời họ trống rỗng, mất hết nghị lực, hay khóc, biếng nhác ăn mặc, và có thể bắt đầu thấy cuộc đời chả có nghĩa lý gì cả.

Tất cả các triệu chứng trên thấy được là do những thu lượm của phân tâm học và một cuộc nghiên cứu cho thấy những vấn đề hôn nhân là yếu tố thường thấy nhất có liên quan đến các chứng phân tâm học nơi phụ nữ, và thông thường thứ nhì nơi đàn ông, chỉ sau công việc làm ăn (2). Những công trình nghiên cứu gần đây cho thấy các vấn đề xẩy ra giữa vợ chồng và ly dị là nguyên nhân thông thường gây ra các chứng trầm cảm (3,4).

Chứng trầm cảm, cùng với cảm thức thấy mình vô vọng và vô dụng kèm theo nó, thường là bước đầu dẫn tới những toan tính tự sát hoặc tự sát thật. Hiện có rất nhiều bằng chứng cho thấy việc tan vỡ hôn nhân có liên hệ đến cả hai thảm họa đó. Một cuộc nghiên cứu về việc tự chuốc độc cho mình nơi 68 người đàn ông có vợ và 147 người đàn bà có chồng cho thấy bất hòa vợ chồng là yếu tố thúc đẩy chính đối với 68% đàn ông và 60% đàn bà (5). Trong số 130 người được chọn trong số 577 trường hợp toan tự tử tại Oxford, 83% đàn ông có vợ và 68% đàn bà có chồng cho biết họ có những trục trặc trong đời sống hôn nhân (6). Những người toan tính tự tử nhiều lần kết cục có nguy cơ tự tử cao hơn. Trong hai cuộc nghiên cứu về những vụ toan tự tử đi toan tự tử lại, người ta thấy việc ly thân hoặc ly dị là một trong những yếu tố có mặt (7,8). Khi ta nghĩ đến việc hàng ngày trên thế giới có ít nhất cả ngàn người tự tử (9), thì ta thấy việc tan vỡ của hôn nhân đã góp phần đáng kể như thế nào vào cái tử xuất ấy, và nếu giảm con số tan vỡ ấy đi thì sẽ ngăn ngừa được biết bao nhiêu vụ tự sát.

Những triệu chứng lo âu, giận dữ và trầm cảm này có thể kéo dài vài tuần, vài tháng và có khi cả vài năm. Một số người không bao giờ lấy lại được quân bình sau khi mất người phối ngẫu và hàng mấy năm sau tim vẫn nhói đau vì sự mất mát ấy. Ðó là những người đàn ông đàn bà vốn lệ thuộc nặng nề nơi người phối ngẫu về xúc cảm, nên việc người đó ra đi biến họ thành đơn độc, trống rỗng, mất hết ý nghĩa. Ðối với họ, ly dị tương đương với mất mát toàn diện, không sao lấy lại được. Tuy thế, phần lớn đàn ông và đàn bà lấy lại được quân bình sau một thời gian. Thời gian này thay đổi tùy theo người. Chắc chắn một điều việc hôn nhân tan vỡ, cũng như các cuộc ly thân và ly dị, đóng góp rất nhiều vào việc gây ra bệnh hoạn.

HẬU QUẢ ÐỐI VỚI CON CÁI

Hậu quả đối với hai vợ chồng đã nặng nề đủ để họ không chia tay vì những lý do nhỏ nhặt. Còn nếu việc tan rã hôn nhân không gây hiệu quả nào về xúc cảm, ta có quyền hoài nghi rằng hai vợ chồng ấy chưa bao giờ gắn bó với nhau về phương diện ấy. Ðối với con cái, vấn đề có khác. Lúc nào con cái cũng gắn bó với cha mẹ về xúc cảm, nên chúng sẽ cảm thấy khó đương đầu nổi tình huống phải mất một trong hai cha mẹ mà không do lỗi của chúng. Không ai hỏi ý kiến chúng xem chúng có muốn ra đời hay không, nhưng chắc chắn lúc chúng sinh ra, cả hai cha mẹ đều cùng cam kết sống với chúng. Vậy mà nay một người lại bỏ ra đi để chúng phải đương đầu với tình huống một cha hoặc một mẹ trái với ý muốn của chúng.

Con cái phản ánh các căng thẳng của cha mẹ bằng cách biểu lộ các khó khăn riêng của chúng (10,11,12). Những khó khăn này có thể xẩy ra trong gia đình, tại trường hay ngoài xã hội. Trong gia đình, trẻ có thể biểu lộ những hành vi cáu kỉnh, níu lấy cha mẹ và khóc lóc. Những trục trặc trong giấc ngủ cũng có thể xẩy ra, như các trẻ nhỏ khó ở yên trong giường, đòi cha hoặc mẹ phải ở bên mình. Có thể có những giấc mơ hãi hùng, những cơn ác mộng và đái dầm. Tại trường, trẻ giảm hẳn chú ý và tập trung. Nó có thể gây ra đủ thứ rắc rối, đòi được chú ý và níu kéo. Ở nhà cũng như ở trường, trẻ có thể có những triệu chứng như đau bụng dưới, ăn uống không được, nhức đầu, gia tăng các xáo trộn vốn đã có, và cách chung không chịu ở yên. Ngoài xã hội, trẻ có thể biểu lộ những hành vi như trốn học, ăn cắp, nói dối, phá phách và gây hấn vô lý (13). Sự bất hòa trầm trọng của cha mẹ tác động mạnh mẽ đến độ mặc dù gia đình chưa bị chia tan nó cũng đã góp phần gây nên những xáo trộn về hạnh kiểm như thế nơi đứa trẻ (14).

Phải bao lâu những xáo trộn trên mới chấm dứt? Chứng cớ cho thấy cần phải hai năm con cái những cha mẹ ly dị mới bắt kịp con cái của những gia đình còn nguyên vẹn (15). Tuy thế, mặc dù những biểu hiệu đáng lo ngại một cách trầm trọng của trẻ có thể giảm đi trong thời gian hai năm, những vấn đề rộng lớn vẫn tiếp tục tồn tại. Con cái thường được trao phó cho người mẹ chăm sóc, người cha chỉ thăm nom một thời gian ngắn rồi ngưng. Còn nếu người cha tiếp tục thăm con, rất có thể có những cảnh mủi lòng xẩy ra, nhất là khi con còn nhỏ. Chúng có thể khó trở về với mẹ khi ngày cuối tuần đã qua. Vì được vui chơi với cha nên muốn cứ được như thế mãi. Bởi thế khi phải về với mẹ, một số em cảm thấy khổ sở, mất tinh thần. Người mẹ nhiều khi lại cho đó là dấu trẻ không thích cha và tìm cách gây khó khăn cho những lần thăm viếng sau. Một khó khăn khác đối với người vợ là sự hiện diện của người đàn bà khác, tức người đã thay thế bà. Bà có thể không thích cho các con đến nhà chồng cũ khi người đàn bà kia có mặt. Ðôi lúc bà thấy sự chăm sóc của 'con mụ ấy' đe doạ bà, vì rất có thể 'mụ' ta âm mưu lấy mất cả tình âu yếm của các con bà chăng.

Nhưng bên trên tất cả những chi tiết trên, ta thấy sự thật phũ phàng này là con cái cần đến cả hai cha mẹ một lúc. Việc một người thường xuyên vắng mặt gây cho chúng biết bao phiền não khổ đau và dù chúng có thích ứng tốt bao nhiêu đi nữa, sự mất mát ấy khó lòng bù đắp được.

Ðã có rất nhiều tài liệu đề cập đến những điểm gây phiền não tức thời trên đây. Những tác động lâu dài của ly dị đối với con cái thì không rõ rệt bằng. Những chứng bệnh như thần kinh, nghiện ngập, trầm cảm, rối loạn nhân cách, khó khăn tính dục và tác phong phản xã hội đôi lúc đã được coi như có liên hệ trực tiếp với các cuộc hôn nhân tan vỡ. Chứng cớ thì không hẳn hoàn toàn rõ ràng và không thể nói là đã được kiểm chứng. Tuy có sự hiển nhiên là những điều kiện này có liên hệ tới những xáo trộn của thời thơ ấu, nhưng chúng đóng vai trò nào thì không rõ và, trong diễn trình thu lượm các bằng chứng tác hại của ly dị, ta cần phải hết sức thận trọng để đánh giá những điều tìm thấy một cách đúng đắn. Trên bình diện điều trị, người ta thấy tất cả các điều kiện trên đôi khi được liên kết với ly dị lúc các con còn nhỏ, nhưng mối liên hệ giữa hai điều đó cần được khảo sát cẩn thận hơn. Có thể sự tai hại là do những bất ổn trong liên hệ vợ chồng chứ không hẳn do chính việc ly dị, nhưng chắc chắn ly dị có góp phần vào các tai hại ấy.

Còn về ảnh hưởng của ly dị đối với khả năng xây dựng các cuộc hôn nhân bền vững sau này của con cái, thì một lần nữa các chứng cớ cũng có nhiều mâu thuẫn. Cuộc nghiên cứu trước đó tại Mỹ cho thấy quả có cái vòng tác hại, nghĩa là việc cha mẹ ly dị theo thống kê có góp phần vào bất ổn trong mối nhân duyên của con cái (16). Tuy nhiên, cuộc nghiên cứu mới đây tại Anh lại không củng cố điều đó (17).

HẬU QUẢ ÐỐI VỚI THÂN NHÂN

Ðiều tự nhiên là khi gặp đau khổ trong hôn nhân, hai vợ chồng sẽ chạy tới thân nhân để được trợ giúp và nâng đỡ trong thời gian khủng hoảng trước khi tan vỡ chính thức. Cha mẹ sẽ bị xâu xé giữa hạnh phúc của con mình và phúc lợi của cuộc hôn nhân cũng như phúc lợi của các cháu. Nếu họ thuộc thế hệ những người tin vào bản chất vĩnh viễn bất khả phân ly của hôn nhân, thì nguy cơ ly dị của con cái sẽ làm họ sững sờ. Vì đối với họ, hôn nhân mới đáng kể. Một số khác coi việc phải đánh giá các quan điểm của con mình cũng như của dâu của rể như một giấc mơ hãi hùng. Họ sẽ phải hoặc hoàn toàn đứng về phía con mình và bênh vực quan điểm của con hoặc phải bắt cá hai tay cho rằng cả hai đều có lỗi. Họ có thể đưa ra được một vài lời khuyên mà cũng có thể chẳng biết phải nói gì. Nếu cái nan giải ấy kéo dài, thì sự căng thẳng sẽ rất lớn. Họ có thể phải chứa chấp con tại nhà mình, săn sóc các cháu giùm con và nói chung phải trở thành người đi nâng đỡ người khác vào chính thời điểm họ muốn thoát khỏi các nhiệm vụ làm cha làm mẹ.

GIA ÐÌNH CÓ CHA / MẸ MỘT MÌNH

Việc gia tăng ly dị đương nhiên có nghĩa là con số những gia đình chỉ có cha hoặc mẹ cũng gia tăng. Tại Anh và Wales, những con số này đã đều đặn tăng lên. Theo bản tường trình của Finer (18) thì trong tháng Tư 1971, đã có chừng 620,000 gia đình chỉ có một cha hoặc một mẹ, bao gồm khoảng 1 triệu trẻ em. Năm 1976, con số này tăng tới 750,000, chiếm 11% tổng số các gia đình có con lệ thuộc bao gồm 1 triệu 1/4 trẻ em (19). Số liệu mới nhất (1980) cho thấy con số các gia đình chỉ có cha hoặc mẹ còn lên cao hơn nữa, khoảng 900,000. Con số ấy bao gồm luôn cả các bà mẹ độc thân hoặc đã góa chồng, nhưng phần lớn là kết quả của các cuộc hôn nhân tan vỡ.

Các gia đình loại này phần lớn gồm các bà mẹ đơn lẻ có con, phần rất nhỏ bao gồm những ông bố đã ly dị hoặc ly thân có con. Cuộc sống quả là khó khăn đối với những người đàn bà và đàn ông này. Họ chưa hoàn hồn khỏi cái ngỡ ngàng do cuộc ly thân hoặc ly dị đem lại, thì đã phải hoặc vừa đi làm kiếm cơm vừa trông nom săn sóc con cái hoặc ở nhà và hoàn toàn lệ thuộc vào trợ cấp an sinh xã hội. Họ rất thường thấy mình cô đơn, ít khi tìm được chỗ đứng trong cộng đồng lối xóm. Với tư cách Kitô hữu, họ không biết mình có được giáo xứ chấp nhận hay không. Với tư cách một người độc thân, họ có thể trở thành sự bối rối cho xã hội. Các cặp có đôi có thể coi họ như mối đe doạ vì sợ họ có ý đồ đối với người phối ngẫu của mình. Cứ thế, những người đàn ông và đàn bà này thấy mình bị tha hóa về phương diện xã hội và càng ngày niềm tự hào của mình càng xuống dốc thê thảm.

Về phương diện kinh tế, những cha mẹ độc thân này, nhất là người đàn bà, có thể gặp khó khăn lớn, có khi không có cả nơi trú ẩn chắc chắn. Các khó khăn về kinh tế cộng lại nào là vừa ít tiền, vừa bị cô lập về xã hội, vừa không có nơi trú ẩn sẽ loại các cha mẹ loại này ra bên lề cộng đoàn. May thay, có những nhóm cha mẹ độc thân như nhóm Bánh Mì Gừng (Ginger Bread) đang ra sức trợ giúp họ, tạo cho họ cơ hội lấy lại được niềm tin và phẩm giá mình.

Như sẽ ghi nhận dưới đây, số người kết hôn lần thứ hai khá đáng kể, nên các khó khăn của tình trạng độc thân sẽ giảm đi khi có gia đình mới. Dĩ nhiên, nhiều vấn đề sẽ diễn tiến qua giai đoạn hai của hôn nhân.

Chứng cớ cho thấy trước khi thiết lập được mối liên hệ hôn nhân mới, những người độc thân kiểu này thường có khuynh hướng hay tự tử. Thực thế, trong khi tỷ lệ tự tử giữa các cặp vợ chồng chỉ là 9.9 phần ngàn, thì giữa những người đã ly dị, tỷ lệ ấy tăng đến 47.90 phần ngàn. Còn đối với những người đã lấy nhau rồi nhưng hiện phải sống xa nhau (gồm phần lớn các gia đình có cha/mẹ độc thân), thì tỷ lệ ấy lên cao khủng khiếp: 204.4 phần ngàn (2).

Như thế, về mọi phương diện, kinh tế, xã hội và sinh tồn, cha/mẹ độc thân quả gặp nhiều trở ngại và đe dọa.

THIỆT HẠI CÔNG CỘNG

Những trình bầy trên đây có thể gọi được là những thiệt hại tư riêng do hôn nhân tan vỡ tạo nên xét về sức khỏe, tự tử, tác hại đối với con cái, cũng như những bất ổn về kinh tế và xã hội. Ðiều này chỉ rõ ràng đối với các nạn nhân và những người cận kề chung quanh mà thôi. Ta gọi đó là những thiệt hại dấu ẩn. Ngoài ra, còn có thứ thiệt hại công cộng nữa, được đo theo mức trợ cấp phụ trội cho những người ly thân, ly dị và các bà mẹ độc thân, phí tổn gửi con và các án phí. Năm 1977, các chi phí này lên đến gần 600 triệu bảng Anh. Nếu cộng thêm phí tổn do các yếu tố như vắng mặt khỏi sở làm, thời giờ của bác sĩ, đơn mua thuốc và phí tổn nằm bệnh viện gây nên, thì chắc là ngân khoản phải lên đến cả tỉ bạc, phí tổn này càng ngày càng gia tăng do lạm phát cũng có mà do con số những cha/mẹ đơn lẻ cũng có nữa. Vào thời buổi ở các xã hội Tây phương, ai ai cũng gặp các khó khăn về kinh tế, thì đó là số tiền khá lớn. Muốn giảm thiểu số tiền khổng lồ ấy, đương nhiên ta phải đưa ra những biện pháp ngăn ngừa.

CÁC CUỘC HÔN NHÂN LẦN THỨ HAI

Tỷ lệ tái kết hôn rất cao, vào khoảng từ 60 đến 70 phần trăm. Năm 1968, con số tái kết hôn trong đó hai vợ chồng đều đã ly dị chiếm đến 6.5% tổng số các vụ kết hôn, còn nếu chỉ tính một bên không thôi thì tỷ lệ đó là 10.4%. Như thế có đến 17% các vụ kết hôn trong năm đó bao gồm một người cử hành hôn lễ lần thứ hai. Năm 1978, con số này tăng đến 35% (21). Ðây là một hiện tượng xã hội mới và quan trọng. Vào khoảng một nửa số người ly dị trong một năm đã tái kết hôn trong vòng năm năm, phần còn lại tái kết hôn ngay sau khi ly dị (22).

Hai vợ chồng đem vào những cuộc hôn nhân này các kinh nghiệm có trước của mình và, quan trọng hơn nữa, khi người vợ đem các con vào theo. Nếu cả hai cùng đem con riêng vào, thì đơn vị gia đình mới phải đương đầu với việc thích nghi giữa vợ chồng với nhau, giữa các con với nhau, và giữa các con và cha mẹ kế. Họ có thể thành công về mặt đó và, nhờ kiên nhẫn cũng như thiện chí, gia đình sẽ sống còn và phát đạt.

Nhưng nếu cuộc hôn nhân thứ hai không thành công thì cũng chả có chi đáng ngạc nhiên. Hai vợ chồng phải khắc phục cái thói quen hay so sánh người bạn đời mới với người bạn đời cũ. Họ phải thích ứng các chờ mong của mình với thực tế. Sự khởi đầu mới tự nó không phải là giải pháp tức thời có thể đem lại hạnh phúc và hài lòng ngay. Nếu họ phải cố gắng mới đem lại thành công cho cuộc hôn nhân thứ nhất, thì họ càng cần phải cố gắng hơn nữa đối với cuộc hôn nhân lần thứ hai này.

Sự hiện diện của con cái có thể là nguồn gây ra nhiều tranh chấp. Nếu một bên, thường là người vợ, có con riêng, thì người chồng mới phải nhận những đứa con ấy làm con mình. Ðối với nhiều người đàn ông, điều ấy không khó; tuy nhiên, cũng có người không thuận hảo được với các con của vợ. Nếu cả hai bên đều có con riêng, họ phải tránh không được tỏ ra thiên vị con mình mà thiệt con người. Một vấn đề hiếm hơn nhưng đặc biệt hơn đó là trường hợp con tàn tật, trong trường hợp này, cha mẹ kế phải thích nghi ghê gớm lắm. Càng hiếm hơn nữa là trường hợp một bên có con đã lớn còn bên kia không có con. Người không có con có thể cảm thấy mình ở ngoài rìa cái vòng thân mật gần gũi của mẹ cha con cái, điều họ không thích tí nào. Nếu trên thực tế họ lại phải thi hành kỷ luật đối với những đứa con kế đã lớn kia, họ có thể bị coi là độc ác cay nghiệt. Sau cùng cũng có vấn đề coi con chung của hai người hơn con của cuộc hôn nhân trước. Những phức tạp này càng ngày càng thấy rõ khi con số những cuộc kết hôn lần thứ hai càng ngày càng gia tăng.

Liệu những cuộc hôn nhân lần thứ hai có thành công hơn những cuộc hôn nhân lần thứ nhất không? Những lượng giá trước đây cho rằng những cuộc hôn nhân lần thứ hai thường ổn định và thành công. Nhưng khi con số những cuộc tái kết hôn tăng lên, thì tỷ lệ đổ vỡ cũng tăng theo. Và cái xác tín trước đây cho rằng những cuộc kết hôn lần thứ hai không bị tan vỡ đã không còn đứng vững nữa. Trái lại những cuộc hôn nhân đó dễ gặp nguy cơ. Tuy thế nhiều việc còn cần phải làm mới xác định được là những cuộc kết hôn lần thứ hai nào dễ bị tan vỡ. Các phân tích thống kê chưa cho biết điều đó; chúng mới chỉ cho biết tổng số các cuộc tan vỡ mà thôi.

Thành thử người ta phỏng đoán rằng những cuộc kết hôn lần thứ hai của những người ly dị trẻ thường bền vững hơn lần thứ nhất vì nay họ đã chín chắn hơn. Cũng vậy, những người thay đổi từ lệ thuộc qua tự lập, từ một bản sắc mơ hồ qua một bản sắc rõ rệt, từ chỗ thiếu tự tin qua tự tin thường chọn được người bạn đời mới phù hợp với mức độ tăng trưởng và chín chắn của mình. Trái lại, những người vẫn duy trì những điểm thiếu chín chắn, không có khả năng yêu thương và cảm nghiệm được yêu thương, bị hành hạ dằn vặt vì những lời chỉ trích dù rất nhẹ hoặc có khuynh hướng hay thích công kích, nghiện ngập và bài bạc, thường ít thành công ở lần kết hôn thứ hai, trừ khi họ lấy được người có khả năng chịu đựng các thiếu sót đó của họ. Như thế, cuộc kết hôn lần thứ hai thường thành công khi hai vợ chồng có mức độ chín chắn tương tự như nhau hoặc khi một trong hai người biết khoan nhượng và chấp nhận các thiếu sót của bạn mình. Khi không có những điều kiện như thế, các cuộc hôn nhân lần thứ hai thường kết thúc bằng những cuộc hôn nhân lần thứ ba và kế tiếp. Người ta gọi đó là đa hôn hàng loạt (serial polygamy), rất trái nghịch với liên hệ giao ước của một cam kết bền vững giữa một con người với một con người. Trong các cuộc kết hôn lần thứ ba và kế tiếp, có nhiều chắc chắn là ta sẽ gặp những người đàn ông đàn bà dễ bị tổn thương vì họ không biết cách cho và nhận yêu thương.

HỆ LỤY THẦN HỌC CỦA VIỆC LY DỊ

Các hệ lụy thần học của việc ly dị thì khá phức tạp. Các giáo hội Kitô giáo thẩy đều đồng ý rằng giáo huấn của Chúa Kitô về vấn đề này rất rõ ràng. Bất khả tiêu hủy là qui thức thần linh và bất cứ phương thức thay thế nào cũng được coi là một bóp méo đối với tiêu chuẩn đó, ấy vậy mà các cuộc hôn nhân vẫn cứ tiếp tục tan vỡ trong lòng mọi giáo hội Kitô giáo. Một thăm dò mới đây tại Anh và Wales cho thấy tỷ lệ ly dị của người Công giáo La-mã cũng tương tự như tỷ lệ của xã hội nói chung (23).

Các Kitô hữu đã đương đầu với việc tan vỡ của hôn nhân như thế nào? Hạn từ 'Kitô hữu' được dùng ở đây vì kỷ luật có khác nhau giữa các giáo hội. Ðối với Giáo hội Công giáo La-mã, thì các toà án của giáo hội, được thiết lập lần đầu tiên vào thời Trung Cổ, cho đến nay vẫn đang hoạt động. Truyền thống Thệ phản không có các tòa án này.

Các tòa này lắng nghe các trường hợp và dựa vào các lý do như các trở ngại làm hôn nhân vô hiệu, những sai phạm về hình thức cử hành, hoặc thiếu sót trong việc ưng thuận, để tuyên bố một hôn nhân vô hiệu (24). Theo luật lệ hiện hành, những ngăn trở sau đây làm hôn nhân không có hiệu lực: tuổi, bắt cóc, tội ác, họ thiêng liêng, bất lực, chức thánh, hôn nhân trước còn hiệu lực, lời khấn khiết tịnh, huyết tộc, thân thuộc, liêm sỉ và khác tín ngưỡng. Những sai phạm về thể thức cử hành theo luật là những vi phạm vào các qui luật đã được Giáo hội đặt ra để điều hành việc cử hành hôn phối. Thiếu sót trong việc ưng thuận có ý nói đến sự kiện hai người phải có ý muốn kết hôn với nhau, và kết hôn với một người nhất định; điều đó có nghĩa là họ phải nói lên lời ưng thuận một cách tự do, chấp nhận các đặc tính chủ yếu của hôn nhân Kitô giáo và sự chấp nhận này phải được tỏ cùng một cá nhân nhất định. Vấn đề thực sự có ưng thuận hay không là điều hết sức quan trọng, vì đó là một trong những cơ sở được dùng nhiều nhất ngày nay để tuyên bố một hôn nhân vô hiệu. Về phương diện kỹ thuật, ta có thể gọi đó là sự thiếu suy xét chín chắn (due discretion).

Trong một khảo luận trước đây của tác giả (25), điểm sau đây đã được đưa ra: "Mỗi bên, khi hiến thân cho nhau, đã tự hiến chính con người mình để yêu thương, nâng đỡ, thỏa mãn tính dục và sinh sản con cái. Những cam kết này đã được đưa ra lúc làm hôn ước, nhưng, khác với các khế ước khác, khả năng chu toàn các đòi hỏi này lại tùy thuộc các đặc điểm của nhân cách vốn là cái vượt quá tầm với của ý thức con người. Nói cách khác, hai người phối ngẫu có thể hiến cho nhau, một cách hoàn toàn chân thành, những khía cạnh của nhau mà trong thực tế, trên bình diện hiện sinh, rất thiếu sót, làm cho các lời thề hứa trở thành không có, vô hiệu. Người ta không thể kết ước điều mà người ta không chiếm hữu, và sự thiếu sót chỉ được nhìn ra ngay trong chính mối liên hệ, chứ không thể trước đó". Khảo luận này có ý đưa ra luận điểm: có những cuộc hôn nhân chỉ có trên danh nghĩa vì chúng không có các tài nguyên tâm lý để yêu thương nhau.

Khoảng tám năm sau, Hội Giáo Luật của Anh và Ái Nhĩ Lan công bố một ấn phẩm về phán quyền hôn phối của Giáo hội (26). Tài liệu này tiếp nhận giáo huấn của Công Ðồng Vatican II và bình phẩm giáo huấn này như sau: "Giáo huấn này rõ ràng nhìn nhận hôn nhân như một tự hiến cho nhau của hai con người nhằm tiến tới một liên hệ bền vững, độc chiếm và truyền sinh. Nó được tạo nên bằng sự ưng thuận bất phản hồn của bản thân, điều này và chỉ điều này thôi mới là 'tình yêu phu phụ' mà phán quyền giáo luật nhìn nhận. Những ai tự bản thân có những thiếu sót hiến định (constitutional deficiency) làm họ không thể kết ước được như thế, thì không thể kết hôn được... phán quyền hiện đại đã nhận ra rằng một trong những trường hợp đó chính là khi một người, lúc kết hôn, có thể vì những rối loạn tinh thần hoặc nhân cách nào đó, nên đã không có khả năng hoặc lượng giá được một cách đầy đủ hôn nhân bao gồm những gì hoặc chu toàn các nghĩa vụ vốn có và chủ yếu của bậc sống hôn nhân".

Mặc dù các phát triển trên mới chỉ có gần đây, nhưng các ý niệm đứng đàng sau nguyên tắc suy xét chín chắn này thì đã có trong Giáo hội từ 30 năm nay rồi. Tuy nhiên, cả toà án Giáo hội lẫn nguyên tắc chín chắn này đều bị nhiều phe công kích.

Giáo hội Anh giáo không ủng hộ các tòa hôn phối và nguyên tắc vô hiệu hóa (nullity). Năm 1978, Giáo hội này cho công bố tài liệu thứ hai về vấn đề hôn nhân, ly dị và tái kết hôn (27). Khi đề cập đến tập tục vô hiệu hóa, phúc trình viết như sau: "Chúng tôi không nghĩ rằng tập tục này của Giáo hội Công giáo La-mã đưa ra được đường lối nào tân tiến khiến Giáo hội Anh có thể hoặc nên bước theo" (28). 'Không có thể' ở đây có lý do hợp lý vì, trong Giáo hội Anh, không có truyền thống về một tòa án như thế, nên các vấn đề liên quan đến việc tổ chức và các thủ tục của tòa sẽ chỉ làm vấn đề trở nên phức tạp hơn mà thôi. Còn 'không nên' là vì hiệp thông với các khuynh hướng tư tưởng khác trong lòng Giáo hội Anh, phúc trình này không chấp nhận nguyên tắc vô hiệu hóa, đặc biệt khi nguyên tắc này dựa vào sự suy xét chín chắn. Vì đây là một trong số ít các phạm vi gây ra khác biệt trong phong trào đại kết, nên cần khảo sát các cơ sở đã chống đối nó.

Tài liệu trên viết như sau: "Chúng tôi không thấy có sự nhất trí tổng quát nào từ phía các nhà thần học, các nhà tâm lý hoặc của công chúng nói chung về cơ cấu tạo ra sự chín chắn hoặc không chín chắn về tâm lý ở bất cứ tuổi nào". Nhận xét này chỉ đúng ở chỗ ấy. Sự thực là khi cẩn thận khảo sát các cuộc tan vỡ của hôn nhân, ta thấy xuất hiện nhiều mẫu mực hiển nhiên và được lặp đi lặp lại nhiều lần (29). Sở dĩ không có sự nhất trí, là vì phạm vi nghiên cứu này xưa nay vốn bị lãng quên một cách trầm trọng, mặt khác là vì ít có sự cộng tác giữa thần học và các khoa tác phong học. Một trong những thành quả lớn của các tòa án Công giáo là đã thiết lập được sự thông đạt gần gũi giữa thần học và tác phong học và các đổ vỡ hôn nhân không còn là một bí nhiệm như xưa nay nữa. Thành ra, điều quan yếu là các Giáo hội cần phải hiểu rõ bản chất của các vấn đề vợ chồng và phân biệt được đâu là các cuộc hôn nhân có thể sống còn tuy gặp khó khăn và đâu là những cuộc hôn nhân không thể sống còn được nữa. Bằng cách đó, cộng đồng Kitô giáo mới có thể tích lũy được kiến thức cũng như khả năng chuyên môn để phân định ra những cuộc hôn nhân có thể cứu vớt được và những cuộc hôn nhân chưa bao giờ thực sự là hôn nhân ngay từ buổi đầu. Các kiến thức này sẽ mang lại những âm hưởng lớn đối với việc huấn luyện, giáo dục, nâng đỡ mục vụ và duy trì tính cách bất khả tiêu của hôn nhân Kitô giáo. Nếu cộng đồng Kitô giáo nhìn nhận bất cứ cuộc tan vỡ hôn nhân nào, thì chẳng còn cách nào có thể phân biệt được các cuộc hôn nhân vẫn còn có thể cứu vãn với các cuộc hôn nhân không còn cứu vãn được nữa chỉ vì những yếu tố tạo thành ra chúng không hề có, cũng như vô phương khuyến khích và nâng đỡ những cuộc hôn nhân còn có sức sống.

Các toà án hôn phối có cơ may đạt được các mục tiêu trên và, theo quan điểm của chúng tôi, đã đóng góp mạnh mẽ vào việc nâng cao sự hiểu biết cũng như tiêu chuẩn của hôn nhân một cách tổng quát. Tất nhiên điều này có nghĩa là các tòa án của Giáo hội Công giáo nên thay đổi cơ cấu tổ chức của mình để có thể bao gồm các thành viên giáo dân và các nhà chuyên môn về tâm lý, đồng thời cho công bố những phúc trình thường xuyên làm căn bản cho sự hiểu biết về vô hiệu hóa. Các cố gắng tổng hợp của tài phán học (jurisprudence) và thần học sẽ nâng cao trình độ hiểu biết về bản chất của hôn nhân, gây vang dội đáng kể đối với các công tác mục vụ và góp phần vào việc bảo tồn hôn nhân.

Phúc trình của Giáo hội Anh cũng cho rằng thủ tục đặt nghi vấn trên tính cách thành hiệu của các liên hệ vốn đã hiện diện trong nhiều năm qua là điều không thích đáng. Nhưng chắc chắn một điều là trên thực tế đó lại là điều đang xẩy ra. Bề ngoài xem ra là hôn nhân, nhưng bên trong, sự tha hóa về xúc cảm (chỉ trồi lên sau nhiều năm) làm cho nó thực chất chưa hề là hôn nhân bao giờ.

Sau cùng, cũng có chỉ trích cho rằng tính cách vô hiệu được chấp nhận trên căn bản thiếu suy nghĩ chín chắn vào lúc kết hôn, nhưng lại không được chấp nhận lúc kết ước các hôn nhân kế tiếp. Thực ra không đúng như thế, vì chỉ trừ một số ít trường hợp, còn phần đông sự thiếu chín chắn như trên hiện diện lúc khởi sự bất cứ cuộc hôn nhân nào vì nó biểu lộ ra ngoài lúc nào không ai biết được. Thực thế, cần có sự căng thẳng đủ nó mới trồi lên được.

Bản phúc trình này cũng như bản phúc trình đầu tiên (30) khuyến cáo nên cho phép những người ly dị được tái kết hôn trong giáo hội. Khuyến cáo này, cho đến nay, vẫn chưa được chấp thuận. Rõ ràng là nếu khuyến cáo trên không được chấp thuận, thì kỷ luật của Giáo hội Anh giáo được coi là khắc nghiệt nhất trong toàn thể các Giáo hội Kitô giáo. Thiếu các tòa án để phán quyết về vô hiệu hóa và thiếu tái kết hôn trong giáo hội, các thành viên của Giáo hội Anh, từng ly dị nhưng lại muốn tái hôn trong giáo hội, chỉ còn biết trông nhờ vào sự phá rào giáo luật của các giáo sĩ. May thay, lúc sách này đang được in, thì Tổng Thượng Hội Ðồng (General Synod) đã công bố sự thay đổi quan điểm và cho phép giáo dân được tái kết hôn trong giáo hội.

Những giáo hội không hoàn toàn lệ thuộc Giáo Hội Anh (non-conformists) vốn có những qui định mềm dẻo hơn nên đã cho phép những người ly dị được tái kết hôn trong giáo hội. Thực thế, các cộng đồng Anh giáo ở các nơi khác trên thế giới đã và đang sửa đổi quan điểm của họ để tiến tới sự mềm dẻo hơn nữa.

Còn về phần các giáo hội Ðông phương, họ cũng chủ trương lý tưởng bất khả tiêu hôn, nhưng trên thực tế, đáng tiếc thay, lại cho phép việc kết hôn lần thứ hai và cả lần thứ ba nữa trong giáo hội. Thần học về hôn nhân trong các giáo hội Ðông phương xưa nay vẫn đặt tình yêu phu phụ làm trung tâm các mục đích của hôn nhân, dù thuật ngữ mục đích không được sử dụng. Trong bối cảnh của thần học này và nhiệm cục ơn thánh, việc kết hôn lần thứ hai và lần thứ ba có thể được phép. Ðương nhiên phải nhớ rằng các truyền thống Ðông và Tây, một cách tổng quát, vẫn đi theo các hướng khác nhau, và đặc biệt, các hậu quả lớn lao của nền thần học Trung cổ đối với hôn nhân đã không ảnh hưởng gì đến Kitô giáo Phương Ðông.

Sự căng thẳng giữa lý tưởng bất khả tiêu và thực tại tan vỡ hôn nhân có ảnh hưởng đối với toàn bộ Kitô giáo, nhưng các giáo hội đã có những phương thức giải quyết khác với các toà án của Giáo hội Công giáo và phương thức vô hiệu hóa của các tòa này. Ở tâm điểm của vấn đề ta thấy có vấn đề thần học phức tạp, tức giáo huấn của Chúa Kitô trong Phúc âm Mátthêu: "Cũng đã có lời chép rằng: ai ly dị vợ mình thì phải trao cho nàng ly thư. Nhưng tôi bảo các ông: hễ ai ly dị vợ mình, chỉ trừ trường hợp dâm bôn, là đã phạm tội ngoại tình; và bất cứ ai lấy người đàn bà đã ly dị cũng phạm tội ngoại tình" (Mt 5:31-32). Các lời này đã là đầu đề của biết bao nhiêu giải thích khác nhau, đi từ quan điểm cho rằng đó quả là trường hợp ngoại lệ cho phép ly dị, đến quan điểm bác khước cho rằng không có ngoại lệ nào hết. Xét tổng quát, thì Giáo hội Công giáo La-mã chủ trương không có trường hợp ngoại lệ nào hết, còn các truyền thống khác đều cho là có ngoại lệ. Một nghiên cứu rất chi tiết mới đây về vấn đề trên, có kèm theo một thư mục rộng rãi, là cuốn To Have and To Hold (31). Chúng tôi không dám lạm bàn vấn đề ở đây, vì muốn thế, cần phải có cả một pho sách mới làm được.

MỤC VỤ

Ðối với Giáo hội Công giáo La-mã cũng như các giáo hội Kitô giáo khác, thách đố hiện nay là làm sao chăm sóc mục vụ cho những người ly dị. Một đàng là lòng trắc ẩn sót thương muốn cho họ tham dự vào đời sống giáo hội, một đàng lại phải loại trừ gương mù gương xấu, tránh cho người ta khỏi nghĩ rằng giáo huấn căn bản của Kitô giáo đã bị loại bỏ.

Một trong những đường lối rõ ràng nhất khiến ly dị không xẩy ra là làm sao để thẩm quyền dân sự đừng ban hành những đạo luật cho phép ly dị. Giáo hội Công giáo đã dựa vào nguyên tắc ấy trong một thời gian dài, đặc biệt tại các xứ theo Công giáo La-mã. Nhưng rồi lần lượt trước sau, các xứ này đã chấp nhận ly dị, khiến đường lối trên không còn giá trị nữa. Nhưng ngay cả khi chưa có các đạo luật cho phép ly dị, tan vỡ hôn nhân cũng đã xẩy ra rồi. Việc các đạo luật dân sự cho phép ly dị có làm cho các cặp vợ chồng dễ chia tay nhau hơn hay không còn là vấn đề đang được bàn cãi. Rõ ràng các đạo luật ấy có tạo ra cái khung qui chiếu, một bầu khí xã hội thuận lợi cho việc ly dị. Tuy nhiên, những sức mạnh dẫn đến tan vỡ thì nhiều mặt đến độ chúng không thèm chú ý đến việc có hay không có các đạo luật kia. Dù sao thì sự thực vẫn là hầu hết các xứ Tây phương có luật lệ cho phép ly dị và Giáo hội Công giáo có hàng triệu tín đồ ly dị nhau.

Cũng như vấn đề ngừa thai, điều quan trọng là không được để việc ly dị và tái kết hôn làm người ta ra xa lạ đối với Giáo hội. Ðây là những người đàn ông và đàn bà cần sự nâng đỡ đặc biệt của cộng đồng Kitô hữu. Họ cần các Bí tích, gặp gỡ Chúa và cầu nguyện. Giáo hội Công giáo chủ yếu cần phải đảm bảo rằng những người không được tháo gỡ hôn phối và do đó không được phép tái kết hôn không bị lãng quên và loại ra ngoài đời sống Giáo hội. Ðiều này chủ yếu có nghĩa là một mặt họ phải được phép ra công khai và tham dự các bí tích kể cả rước lễ, nhưng mặt khác phải làm cho cộng đoàn nắm chắc được giáo huấn hiện hành của Giáo hội ra sao và sẽ tiếp tục ra sao. Nhờ thế, cả người lớn lẫn trẻ em vẫn nằm trong qũy đạo đời sống Giáo hội và nhận được những an ủi và nâng đỡ cần thiết. Mục vụ cho người ly dị phải là việc làm của yêu thương và Giáo hội, theo chân Thầy chí thánh, phải chỉ đường đi cho họ.

SỰ XẤU XA CỦA LY DỊ

Giáo huấn truyền thống của Kitô giáo vốn dạy rằng ly dị là một điều xấu xa. Song cũng như trong nhiều vấn đề tính dục khác, điều bất hạnh là từ ngữ xấu xa này đã trở thành cái nhãn hiệu gán cho những con người liên hệ. Trong chương này và trong toàn thể cuốn sách này, ta đã thấy quả có nhiều cái xấu phát sinh từ việc hôn nhân tan vỡ như những đau đớn, những méo mó lệch lạc, những thiệt hại nhân bản. Nhưng người ly dị đôi khi bị vướng vào những hoàn cảnh vượt quá quyền kiểm soát của họ, và họ là nạn nhân của những lực lượng xã hội và tâm lý mà chính họ không hiểu hoặc không chi phối gì được. Họ bị tràn ngập bởi những hoàn cảnh đôi khi vượt quá khả năng kiềm chế của họ. Ðiều này dĩ nhiên không có nghĩa là họ không có tự do, bị định mệnh hoàn toàn chi phối. Nó chỉ có nghĩa là khi những hoài mong mới nổi lên trong hôn nhân, chúng đã đến với họ một cách bất ngờ quá đến độ họ chưa được chuẩn bị cũng như giáo dục đủ để đương đầu với chúng. Một trong những vấn đề hiện đang đương đầu với Kitô giáo đó là việc xưa nay ta thường có khuynh hướng kết án người ly dị, nhưng trên thực tế lại làm rất ít để ngăn ngừa các hôn nhân khỏi tan vỡ. Một kỷ nguyên mới đang ló dạng trong đó Giáo hội nhận thức ra rằng bí tích hôn phối đã bị lãng quên ra sao và cần phải cố gắng như thế nào để chăm sóc bí tích ấy một cách âu yếm và có tính cách xây dựng.

Như thế, liên hệ giữa sự xấu và ly dị vẫn còn đó. Thế gian có thể nói về một ly dị 'sáng tạo'. Quả thực, đối với một số cặp vợ chồng, ly dị chính là tấm giấy thông hành để người ta vượt thoát từ đau khổ và tan tác qua tự do. Nhưng thực ra, cuộc ly dị nào cũng chứa chấp thật nhiều khốn khổ và đau đớn, và đó chính là điều xấu, một điều xấu càng rõ rệt hơn trong thời đại ta khi con số các vụ ly dị gia tăng khủng khiếp.

Sự gia tăng này đưa lại cho Giáo hội một cơ hội để đặc biệt chú tâm đến vấn đề hôn nhân và đối thoại với thế gian chủ yếu không trên căn bản kết án, đổ tội lên vai người ly dị, mà đúng hơn chia sẻ nỗi thống khổ của họ và cho họ thấy rằng tính bất khả tiêu là một thực tại nhằm tôn trọng không những thiên luật mà cả toàn diện tính nhân bản nữa.

TÓM LƯỢC

Khoảng 20 năm trước đây, khi việc giải thoát do các đạo luật ly dị đem lại được coi là mục tiêu chính, có những tư tưởng gia coi việc ly dị như một phương thuốc sáng tạo. Nhưng dần dần một bức tranh khác đang xuất hiện, trong đó, người ta nhận ra các hậu quả nhiều mặt và nghiêm trọng đối với mọi người liên hệ.

Tài Liệu Tham khảo

1. Chester, R., in British Journal of Preventive Social Medicine (1971) 25, 231.

2. Sheppard, M. et al., Psychiatric Illness in General Practice. Oxford University Press, 1966.

3. Briscoe, C.W., in Archives of General Psychiatry (1973) 29, 119.

4. Paykel, E.S., et al. in Archives of General Psychiatry (1969) 21, 753.

5. Kessel, N., in British Journal of Medicine (1965) 2, 1265.

6. Bancroft, J. et al in Psychological Medicine (1977) 7, 289.

7. Bagly, C. and Greer, S., in British Journal of Psychiatry (1971) 119, 515.

8. Morgan, H.G., in British Journal of Psychiatry (1976) 128, 361.

9. World Health Organisation, Prevention of Suicide. W.H.O., Geneva, 1968.

10. Rickman, N. in British Journal of Psychiatry (1977) 131, 1221.

11. Rutter, M. in Proceedings pf the Royal Society of Medicine (1973) 66, 1221.

12.Graham, P. and Rutter, M. in Proceedings pf the Royal Society of Medicine (1974) 66, 1226.

13. McCord, W. And McCord, J., Origines of Crime - a New Evaluation of the Cambridge-Somerville Study. Columbia University Press, New York, 1959.

14. Rutter, M. in Journal of Child Psychology and Psychiatry (1971) 12, 223.

15. Hetherington, E.M., Cox, M. and Cox, R., Family Interaction and Social, Emotional and Cognitive Development of Children following Divorce in The Family: Setting Priorities, ed. V. Vaugh and T. Brazelton. Science and Medicine, New York, 1975.

16. Landis, J.T., Social Forces 34 (3), 213.

17. Thornes, B. and Collard, J., Who Divorces? Routledge and Kegan Paul, 1979.

18. Finer Report on One Parent Families, HMSO, 1974.

19. Population Trends, No. 13. Office of Population Censuses and Surveys HMSO, 1978.

20. Dominian, J., Marital Pathology. British Medical Association and Darton Longman and Todd. 1980.

21. Population Trends, No. 20. Office of Population Censuses and Surveys HMSO, 1980.

22. Population Trends, No. 16. Office of Population Censuses and Surveys HMSO, 1979.

23. Horsby Smith, M. and Lee, R.M., Roman Catholic Opinion. University of Surrey, 1979.

24. Brown, R., Marriage Annulment. Geoffrey Chapman, 1970.

25. Dominian, J., in Ampleforth Journal (Spring 1968) LXXIII, Part.1.

26. Canon Law Society Trust, The Church's Matrimonial Jurisprudence, 1975.

27. Marriage and the Church's Task. Church Information Office, London, 1978.

28. Ibid., p.80.

29. Dominian, J., Marital Pathology.

30. Marriage, Divorce and the Church. SPCK, 1972.

31. Atkinson, D. To Have and to Hold. Collins, 1979.
 
Quan Hệ Xã Hội... để làm người và thành người
Nguyễn Văn Thành
12:36 30/07/2008
Quan Hệ Xã Hội... để làm người và thành người

Trong bài chia sẻ nầy, chúng ta đề cập 2 vấn đề cụ thể:
  • 1.- Trong mỗi quan hệ tiếp xúc hài hòa, chúng ta cần thực hiện những bước đi lên như thế nào?
  • 2.- Chúng ta cần sử dụng ngôn ngữ như thế nào, khi trao đổi?
Trên tiến trình làm người và thành người của chúng ta, nỗ lực chính yếu là kết dệt những quan hệ ĐỒNG CẢM và ĐỒNG HÀNH, với anh chị em đồng bào và đồng loại, bất phân chủng tộc. màu da hay là tôn giáo...

Theo lối nhìn của tác giả Stephen COVEY, đây là loại quan hệ "Người Thắng – Tôi Thắng – Chúng ta cùng Thắng". Không có kẻ hơn, người thua. Không có người tự tấn phong là hạng "siêu nhân", và những thành viên còn lại được cư xử và đối đãi như là "công cụ", "đồ vật", "bệ gác chân", hay là "một loại người phó sản".

Trong hiện tình thoái hoá của đời sống làm người, vì những lý do thực tiễn, quan hệ XIN CHO – nhất là trong môi trường Việt Nam - đã bị đầu độc và ô nhiễm một cách trầm trọng. Xin có nghĩa là quị lụy, sụp lạy trước một "phú ông ". Cho có nghĩa là ban phát một cách nhỏ giọt, từ trên và từ ngoài, một cách tùy nghi và tùy tiện.

Trong khi đó, quan hệ bình thường và lành mạnh giữa người và người, nhất là trong địa hạt Tình Yêu trao ban và dâng hiến, bao gồm bốn động tác cơ bản: XIN và CHO, NHẬN và TỪ CHỐI.

Hẳn thực, chính lúc tôi CHO, tôi đang NHẬN lại bao nhiêu hồng ân, bằng cách này hoặc cách khác. Khi xin ai một điều gì, tôi đang nhìn nhận tính chủ thể của người ấy. Cho nên, tôi không có thái độ cướp giật, ép buộc, đòi hỏi, đấu tranh, giống như hùm beo muông sói.

Cũng trong tinh thần và lăng kính ấy, khi ai xin tôi một điều gì, tôi cần khảo sát điều kiện thực tế của mình, để có thể chọn lựa một trong hai con đường: Một là CHO một cách bình tâm và thanh thản. Hai là từ chối, trả lời "KHÔNG", một cách nhã nhặn và khiêm tốn. Xin như vậy không phải là nài nỉ, ép buộc người kia phải cho. Và khi cho trong tinh thần ấy, tôi không phải là người ở trên, ban phát xuống một cái gì dư thừa, vô ích và vô dụng. Trong cách cho như vậy, tôi không cưu mang một hậu ý là "thả tép câu tôm". Hẳn thực, khi cho bất kỳ một điều gì, một cách thực sự và trọn vẹn, tôi CHO chính CON NGƯỜI của tôi. Tôi CHO cả MỘT TẤM LÒNG làm người, khả dĩ kêu mời người khác cũng làm người với tôi và giống như tôi.

Chính vì bao nhiêu lý do vừa được đề xuất như vậy, trong mọi quan hệ - bao gồm tình yêu, tình bạn, tình anh chị em đồng bào, tình đồng loại…- tôi dùng sứ điệp "NGÔI THỨ NHẤT, TÔI" (I-message), để diễn tả và khẳng định con người của mình, thay vì lạm dụng ngôi thứ hai, để nói thay, nói thế cho kẻ khác, theo kiểu "cả vú lấp miệng em", hay là áp đặt từ trên và từ ngoài những "qui luật" như: Phải, Cần, Nên, Không được...

Trong tinh thần và lăng kính ấy, khi biết lắng nghe và tôn trong con người đang có mặt và chung sống, chúng ta sẽ có khả năng sáng tạo và thiết lập với người ấy, những quan hệ xây dựng và hài hòa, còn mang tên là "tương sinh, tương thành".Từ thường đực dùng trong tiếng Anh la SYNergizing. Hẳn thực, khi chúng ta cố quyết "làm người", chúng ta sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ khác "thành người”, với chúng ta, nhờ chúng ta và như chúng ta.


1.- Bốn bước đi tới trong mỗi quan hệ tiếp xúc và trao đổi

Nhằm cụ thể hoá những ý kiến vừa được quảng khai, sau đây là bốn bước cần thực hiện, mỗi lần chúng ta thiết lập những quan hệ xây dựng và hài hòa với người khác, nhất là khi phải đối diện những phản ứng xúc động đang leo thang, tràn ngập và sắp bùng nổ:

Bước thứ nhất:
Tôi Nghe, tôi Thấy… Tôi ghi nhận sự kiện khách quan, cụ thể đang xảy ra trước mắt mình.
Khi làm như vậy, tôi tìm cách phản ánh và kiểm chứng: có phải, có đúng như vậy không ?

Bước thứ hai:
Kêu ra ngoài, gọi tên xúc động đang ẩn núp ở dưới sự kiện.
Ví dụ: Em/chị nói như vậy có nghĩa là em/chị đang BUỒN, GIẬN, hay là SỢ phải không ? Khi tiếp xúc với trẻ em, chúng ta chỉ cần xoay lui xoay tới với 3 xúc động chính yếu này mà thôi.

Bước thứ ba:
Sau khi lắng nghe và ghi nhận xúc động, chúng ta tìm hiểu thêm: Chị/em đang CẦN gì? Trong hiện tình, NHU CẦU quan trọng bậc nhất của chị/em có phải là --- ?

Bước thứ tư:
Vậy theo em/chị, trong hoàn cảnh và vị trí của tôi, tôi có thể làm gì cụ thể, để đáp ứng nhu cầu của em/chị ? Chị/em yêu cầu tôi LÀM gì?
Và sau khi lắng nghe, ghi nhận, tôi xin trả lời:

- Về yêu cầu thứ nhất mà chị vừa trình bày, tôi có thể làm được.
- Về yêu cầu thứ hai... tôi không có khả năng và điều kiện để làm.

Mỗi khi từng bước đi lên như vậy, tôi lưu tâm đến những cách làm quan trọng sau đây:

- 1) Dùng sứ điệp TÔI, để nói về mình, cũng như khẳng định mình một cách trung thực. Điều cần đề phòng là nói thay nói thế kẻ khác, thuyên giải, bói đoán, áp đặt cho kẻ khác những lối nhìn hoàn toàn chủ quan.
- 2) PHẢN ẢNH, nghĩa là nói lại với ngôn ngữ của mình, những gì chúng ta đã ghi nhận và đón nhận, khi lắng nghe và đặt trọng tâm vào con người của kẻ khác.
- 3) KIỂM CHỨNG bằng cách yêu cầu kẻ khác nói rõ: những điều tôi hiểu về họ, có hoàn toàn ăn khớp với quan điểm của họ hay không ?
- 4) KHÔNG KHUYÊN BẢO, nghĩa là từ trên và từ ngoài đề nghị cho kẻ khác những lối nhìn và cách làm của chính chúng ta.
- 5) Thay vì bói đoán hay là tưởng tượng, tôi GHI NHẬN một cách khách quan, những gì mắt thấy, tai nghe, phát xuất từ người đang trao đổi với tôi.
- 6) Thay vì ÁP ĐẶT một cách vu vơ, nghĩa là đề xuất một lối nhìn hoàn toàn chủ quan, do chính tôi khám phá, xây dựng và tưởng tượng, tôi chỉ cố gắng TRUNG THỰC NÓI VỀ MÌNH và LẮNG NGHE cũng như TÌM HIỂU ý kiến của người khác, khi họ phát biểu.
- 7) Khi thiết lập những quan hệ ĐỒNG CẢM như vậy, chúng ta tạm thời “đóng vào trong ngoặc”, không đề cập vấn đề đồng ý hay bất đồng, về mặt tư tưởng và quan điểm. Chúng ta chỉ làm công việc nhìn nhận con người và tôn trọng giá trị và bản sắc làm người của họ mà thôi.

Thể theo lối nhìn và kinh nghiệm của tác giả M.B. ROSENBERG, khi “đóng vai trò hòa giải – giữa những phe phái tranh chấp và thù nghịch - chúng ta chỉ cần tôn trọng một cách nghiêm chỉnh và chính xác, bốn bước từ từ đi lên, như được đề nghị. Lúc bấy giờ chúng ta sẽ có khả năng đề phòng và ngăn chận hiện tượng xúc động biến thành bạo động, trong hành vi của chính chúng ta, cũng như trong hành vi của kẻ khác.

Chính vì lý do này, mỗi lần có hiện tượng xúc động "bùng nổ", nhất là nơi trẻ em, tôi xin đề nghị những cách hành xử sau đây:

- Thứ nhất, người lớn hãy có mặt với trẻ em, đừng bỏ đi nơi khác,
- Thứ hai, thay vì ngăn chận, ức chế, bằng ngôn ngữ hoặc hành vi, chúng ta chỉ bình tĩnh phản ánh.
Ví dụ: Mẹ thấy con bùng nổ. Con có thể nói lên cơn tức giận của con. Mẹ cho phép con diễn tả, nói ra, bộc lộ ra ngoài. Nếu tức quá, con hãy tức với cái gối này đây.
Trường hợp trẻ em đánh đập kẻ khác, chúng ta chỉ cầm tay, giữ chặt trẻ em lại và nói: Con tôi tức quá, giận quá. Con có thể giận cái ghế, cái gối. Nhưng không bao giờ con được phép đánh em, đánh mẹ…
Điều cốt yếu trong lúc này là chúng ta giữ nét mặt và thái độ bình tĩnh, không thao tác những hành vi ức chế, đánh đập hay là trừng phạt.

- Thứ ba, sau khi trẻ em đã trở về tình trạng ổn định, chúng ta tìm hiểu nhu cầu của trẻ em.
Ví dụ: Con cần gì, hãy nói ra cho mẹ biết. Trường hợp trẻ em không nói, chúng ta có thể thuyên giải, đưa ra một lý do hay là đặt câu hỏi. Động cơ chính trong cách làm và cách nói của chúng ta, vào lúc này, là có mặt và trao đổi, phản ánh, hơn là khám phá sự thật hay là nguyên nhân đích thực của hành vi bùng nổ.

- Thứ bốn, để kết thúc, chúng ta đề nghị một trò chơi. Hai mẹ con có thể cầm tay nhau, đi quanh một vòng… Nếu người lớn đã có thói quen tiếp xúc, trao đổi như vậy… dần dần họ sẽ tìm ra những cách làm và lời nói thích hợp. Tuy nhiên, tôi muốn nhấn mạnh lại, điều quan trọng ở đây là có mặt và trao đổi. Nội dung không thiết yếu bao nhiêu.

Và khi người mẹ biết tạo quan hệ Đồng Cảm như vậy, chính con người của bà là cái KHUNG bao bọc, che chở, tạo an toàn tình cảm cho đứa con, trong mọi tình huống thuận lợi cũng như bất lợi.

Trong tinh thần và lăng kính này, Lắng Nghe, Có Mặt và Đồng Cảm, là những quà tặng lớn lao, cho những người đang tiếp xúc với chúng ta, bất kể người ấy đang còn là một trẻ em, hay đã trưởng thành và có những trách nhiệm, trong lòng xã hội.

2.- Ngôn Ngữ trong quan hệ tiếp xúc và trao đổi

Nội Tâm bao gồm năm thành tố khác nhau, nhưng bổ túc và kiện toàn cho nhau:

- Cửa Vào làm bằng năm giác quan (Input),
- Tư Duy và Xúc Động là hai Thành Tố thuộc Tiến Trình Biến Chế và Chuyển Hoá (Processing),
- Hai Thành Tố thứ tư và thứ năm là Cửa Ra bao gồm Ngôn Ngữ và những Quan Hệ xã hội giữa người với người (Output).

Vì lý do sư phạm, tôi đã chọn lựa thứ tự trước-sau, trong-ngoài. Trong thực tế, năm thành tố ấy giao thoa chằng chịt, tác động qua lại, kết dệt với nhau những quan hệ nhân quả hai chiều. Hẳn thực, một trong năm thành tố có thể là nhân, có khả năng phát sinh, điều hướng hoặc điều động bốn yếu tố còn lại. Khi khác, chính yếu tố ấy lại là thành quả chịu ảnh hưởng lớn lao của một thành tố khác.

Tư duy chẳng hạn, mang lại cho đời sống của con người một hướng đi, một ý nghĩa, một mục đích. Tuy nhiên, không có xúc động làm động cơ thúc đẩy, làm sao con người có thể có khả năng chuyển biến một chương trình, một kế hoạch thành hoa quả cụ thể trong lòng cuộc đời. Nhưng khi không có ánh sáng của tư duy soi sáng và hướng dẫn, xúc động sẽ tức khắc bị tràn ngập và gây ra nhiều đổ vỡ trong đời sống xã hội…

Nói khác đi, xúc động cần được gọi ra ngoài, đem ra vùng ánh sáng của ý thức và ngôn ngữ. Lúc bấy giờ, xúc động không còn là một "Xung Năng" có nghĩa là một sinh hoạt hoàn toàn vô thức, một sức thúc đẩy, dồn ép, tạo căng thẳng. Trong tiếng Anh, sức mạnh ấy mang những tên gọi chuyên môn như Drive, Urge hay là Pulsion.

Trong lăng kính ấy, ngôn ngữ là một phương tiện được dùng, để GỌI RA NGOÀI, hay là MANG RA VÙNG ÁNH SÁNG, những gì được cưu mang trong đáy sâu của nội tâm. Đối với bốn thành tố khác – là giác quan, tư duy, xúc động và quan hệ xã hội – ngôn ngữ đóng vai trò tổ chức, xếp đặt, diễn tả, phản ánh hay là giải toả. Nhờ ngôn ngữ, chúng ta đặt tên hay là gọi tên, cho những gì chúng ta thấy, nghe, cảm.

Tuy nhiên, ngôn ngữ không phải là sở hữu riêng tư của một cá nhân. Đó là phương tiện của cả một tập thể, một cộng đồng, một nền văn hoá, có khả năng mở ra cho chúng ta những cánh cửa bao la, diệu vợi, một bầu trời tự do và sáng tạo. Đồng thời, ngôn ngữ cũng là một cạm bẫy đầy hiểm nguy và tai hoạ. Chẳng hạn, chúng ta dùng ngôn ngữ, để tìm hiểu, khám phá lối nhìn và quan điểm của kẻ khác. Nhưng chúng ta cũng có thể dựa vào ngôn ngữ, để áp đặt cho kẻ khác những cách làm, những lối suy tư, mà chúng ta lầm tưởng đó là chân lý ngàn đời, là qui luật bất di bất dịch, phổ cập bất kỳ ở đâu.

Bao nhiêu nhận xét ấy cho phép chúng ta ý thức đến ít nhất ba phần vụ khác nhau của ngôn ngữ:

- Thứ nhất, đó là một phương tiện cần được đặt dưới quyền sử dụng của tư duy, nhằm tổ chức và định hướng cuộc đời.
- Thứ hai, đó cũng là một dụng cụ hữu ích và hữu hiệu, để chúng ta thiết lập quan hệ tiếp xúc và trao đổi, chia sẻ và đồng cảm với những người cùng chung sống trong môi trường xã hội.
- Thứ ba, xuyên qua con đường ngôn ngữ, chúng ta thực thi công việc phản ánh, có nghĩa là từ từ gọi ra vùng ánh sáng của ý thức, bao nhiêu động lực đen tối, mập mờ, bao nhiêu xung năng vô tổ chức, cũng như bao nhiêu tiếng nói còn đang bị ức chế, trấn áp, chưa được coi trọng và lắng nghe.

Không nhìn nhận và coi trọng đúng tầm ba vai trò và ba giá trị ấy của ngôn ngữ, trong các phương pháp tiếp cận và giáo dục, chúng ta sẽ lập tức biến ngôn ngữ thành một dụng cụ nhồi nhét, nhồi sọ. Một cách vô tình và vô thức, chúng ta biến trẻ em thành một con sáo, con cưởng học nói, hay là một chiếc máy vô hồn ghi âm và phát âm.

Nói cách khác, bao lâu trẻ em – nhất là trẻ em khuyết tật, tự kỷ… - còn có những vấn đề "xúc động tràn ngập hay là bùng nổ", điều quan trọng bậc nhất là người lớn có trách vụ giáo dục, hãy tạo ra những điều kiện, những bầu khí, những khung cảnh an toàn thể lý và tâm linh. Tôi gọi đó là "cái KHUNG bền vững", bao bọc và che chở trẻ em, đối với mọi va chạm trong cuộc đời.

Bao lâu trẻ em còn sống bít kín, đóng khung trong những hành vi lặp đi lặp lại, ưu tiên số một hay là nhu cầu cơ bản nhất, cần khám phá, để chuyển hoá tình trạng hiện tại của trẻ em, là thiết lập với trẻ em – một cách vô điều kiện và đơn phương về phía chúng ta – những quan hệ xã hội qua lại hai chiều.

Quan hệ xã hội này làm bằng những động tác cụ thể như: có mặt, lắng nghe, nhìn ngắm, sung sướng, hạnh phúc, sẵn sàng đồng cảm và đồng hành với trẻ em.

Đồng cảm và Đồng hành như vậy là một quà tặng lớn lao và quí hóa hơn tất cả mọi quà tặng khác, trong cuộc sống làm người.

(Xin mời thưởng thức bài nhạc "Gọi Lòng Người" )
 
Tự Sắc ''Summorum Pontificum'' Sau Một Năm được ĐTC Bênêđíctô XVI Ban Hành Ra (Phần 2)
Anthony Lê
17:07 30/07/2008
Tự Sắc "Summorum Pontificum" Sau Một Năm được ĐTC Bênêđíctô XVI Ban Hành Ra (Phần 2)

Trong Phần 2 này Linh Mục John Zuhlsdorf Phân Tích về những Ảnh Hưởng của Tự Sắc kể trên

MINNEAPOLIS, Minnesota (Zenit.org).- Mặc dầu Tự Sắc kể trên của Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI có liên quan đến dạng truyền thống của Thánh Lễ bằng tiếng La Tinh, đã được ban hành ra chưa đầy một năm, thế nhưng nó đã gây ra một tiếng vang, đó là lời nhận xét của một chuyên gia về những bản dịch phụng vụ.

Linh Mục John Zuhlsdorf, cựu nhân viên của Ủy Ban Giáo Hoàng về Ecclesia Dei, là một chuyên gia có quyền thế nổi tiếng về cả những bản dịch có liên quan đến Phụng Vụ và Sách Lễ Rôma 1962. Cha cũng phụ trách mục "Lời Cầu Nguyện Thật Sự Nói Lên Điều Gì?" (What Does the Prayer Really Say?) trên tờ báo Người Đi Lang Thang (The Wanderer), và Cha cũng là tác giả cho một trang blog khá nổi tiếng có cùng tên tại địa chỉ: www.wdtprs.com/blog.

Trong Phần 2 (cũng là Phần Cuối) của cuộc phỏng vấn với hãng tin Zenit, Cha Z nói về ảnh hưởng mà Tự Sắc "Summorum Pontificum" có trên đời sống của Giáo Hội một năm sau khi được ban hành ra.

Hỏi (H): Thưa Cha Z, Đức Thánh Cha Bênêđíctô 16 đã nêu rõ trong lá thư đính kèm với việc ban hành ra Tự Sắc kể trên rằng: Ngài hy vọng hai dạng hiện có của Thánh Lễ - tức Thánh Lễ theo hình thức như hiện nay và Thánh Lễ theo hình thức truyền thống bằng tiếng La Tinh - sẽ làm phong phú lẫn nhau. Nói một cách cụ thể ra đó là: Ngài mong ước rằng dạng truyền thống của Thánh Lễ bằng tiếng La Tinh sẽ phục hồi ý nghĩa về tính thánh thiên vốn rất cần có trong Thánh Lễ theo hình thức như hiện nay. Một năm sau khi Tự Sắc kể trên được ban hành ra, liệu Cha có nhận thấy là Thánh Lễ truyền thống bằng tiếng La Tinh đã có sức đẩy lớn lên trên Thánh Lễ theo hình thức như hiện nay không?

Cha Zuhlsdorf (T): Có như vậy, và chúng ta có thể nhìn thấy được "sức đẩy" này đang có hiệu quả tại một số nơi, thế nhưng vẫn còn một chặng đường dài nữa để vượt qua. Sức đẩy này đưa đến một sự lôi cuốn ổn định, thế nhưng tính trì trệ hay việc không muốn thay đổi, đặc biệt là khi sức đẩy này nhắm vào chiều hướng sai trái, mới chính là điều cần phải được khắc phục.

Đã là một năm rồi kể từ khi lá thư đính kèm đó được ban hành ra, và nó mới chỉ bắt đầu có hiệu lực kể từ tháng 9/2007 vừa qua. Do đó, đã có một số phản ứng sơ khởi như: sự bối rối, sự hoảng hốt lo lắng, sự nhiệt thành cộng với cả sự chỉ trích nữa.

Đoạn văn bản cần phải được thấm nhuần và đọc qua. Tòa Thánh đã phải làm rõ ra cách đặt câu từ sao cho xác thực. Những vấn nạn cùng với những câu hỏi hiện đang được nhận dạng ra. Một văn kiện cùng với những lời giải thích rõ ràng hơn hiển nhiên vẫn còn nằm tại bàn soạn thảo.

Thế nhưng việc nhận thức về các điều khoản có trong Tự Sắc "Summorum Pontificum" đã tạo ra một tầm ảnh hưởng rồi.

"Những giáo xứ riêng" đang được hình thành nên để chuyên nhắm vào việc cử hành Thánh Lễ truyền thống bằng tiếng La Tinh, cùng với những nghi thức của các phép bí tích. Những cuốn sách và những tài liệu huấn luyện đã được tạo ra. Và bây giờ chúng đang được cho xuất bản ra. Cần phải có thời gian cho tất cả những điều này.

Cũng thế, chính Đức Thánh Cha cũng đã thay đổi việc đối đáp về Phụng Vụ và một số kiểu thực hành sau Công Đồng bằng việc cử hành Thánh Lễ theo hình thức như hiện nay, theo một cách truyền thống hơn, qua việc sử dụng đến những áo lễ có tính lịch sử, việc quay trở lại cách rước Lễ bằng lưỡi khi người lên rước lễ quỳ xuống, vân vân.

Thế nhưng, lực đẩy thật sự của Thánh Lễ truyền thống và những nổ lực của Đức Thánh Cha Bênêđíctô 16 khi Ngài nhấn mạnh đến tính nối tiếp hay tính truyền tiếp với Thánh Lễ theo hình thức như hiện nay, sẽ được tất cả mọi người cảm nhận đến trong tương lai.

Lấy ví dụ, có rất nhiều lần các vị Linh Mục trẻ tuổi hơn vẫn thường nói đi nói lại với tôi rằng sau khi các ngài học biết về Thánh Lễ La Tinh Truyền Thống, các ngài đã không còn cử hành Thánh Lễ theo hình thức như hiện nay giống như cách mà các ngài đã từng cử hành như trước kia nữa. Có những điều mà các vị ấy sẽ học hỏi được về chức vụ tư tế Linh Mục và về Thánh Lễ qua chính Thánh Lễ La Tinh Truyền Thống mà các vị chỉ đơn giản là không thể nào nhận ra hay nắm bắt được trong Thánh Lễ theo hình thức như hiện nay được, là bởi vì lẽ nó vẫn được cử hành thường xuyên tại rất nhiều giáo xứ và nhà nguyện.

Làm sao mà một vị Linh Mục có thể nói rằng Thánh Lễ có sự ảnh hưởng sâu rộng nơi giáo xứ, ở mức độ của sự tôn kính, các ơn gọi, và tất cả mọi thứ được!

Thậm chí ngay cả khi Rôma không bị hủy diệt đi trong một ngày, thì cũng không thể nào tái xây dựng lại nó một cách nhanh chóng được. Chúng ta đã phải gánh chịu một sự mất mát rất lớn về việc đào tạo Linh Mục một cách cơ bản về tiếng La Tinh, về Thần Học, và về nền văn hóa đi cùng với tiếng La Tinh. Do đó, sẽ mất thời gian để phục hồi lại điều đó.

Các chủng viện cần đến thời gian để đáp ứng được những đòi hỏi mới mà lá thư kêu gọi và đề cập đến. Các chủng sinh thì rất hăm hở để học hỏi. Ai sẽ thực hiện công việc giảng dạy này?

Tại các giáo xứ, những người trẻ thời nay càng ngày càng mong muốn có được một sự nối tiếp với quá khứ. Các em đang khám phá ra di sản Công Giáo của các em, vì lẽ di sản đó đã bị đánh cắp mất rồi. Rốt cuộc thì các em sẽ là những người tạo ra sự ảnh hưởng nơi các giáo xứ và các trường học Công Giáo.

Trên một mức độ cụ thể hơn, một số vị Giám Mục, Linh Mục, các chuyên gia về Phụng Vụ và các nhạc sĩ hiện đang phải suy nghĩ lại về giá trị của một số kiểu thực hành thông dụng sau Công Đồng Chung Vaticăn II.

Lấy ví dụ, một vài ngày sau khi Đức Thánh Cha Bênêđíctô 16 bắt đầu việc phân phát Mình Thánh Chúa ở trên lưỡi cho những ai đang quỳ xuống để rước lễ, thì một vị Giám Mục ở Hoa Kỳ cũng làm điều tương tự như vậy đối với Mình Thánh Chúa.

[Và dĩ nhiên tại Giáo Xứ Prince of Peace ở thành phố Taylors, SC - việc Rước Lễ theo cách truyền thống cũng đã được Đức Ông Steven L. Brovey cho áp dụng ngay - NV]

Tất cả các vị ấy đang đánh giá trở lại những ưu điểm lớn của Thánh Lễ được cử hành khi cả vị Linh Mục chủ tế lẫn giáo dân đều cùng quy hướng về phía của bàn thờ, Nhà Tạm và Cây Thánh Giá. Tiếng La Tinh đang được đánh giá trở lại. Các nhạc sĩ giờ đây cũng đang quay trở lại việc tìm kiếm về kho tàng âm nhạc Phụng Vụ Thánh cổ vốn đã bị dấu kín đi trong rất nhiều thập niên.

[Chứ không phải việc bây giờ lại lo tìm cách để hòa âm hưởng của dân tộc vào trong âm nhạc của Phụng Vụ như vẫn thường thấy nơi các nhạc sĩ được cho là nổi tiếng của Việt Nam hiện nay!? - NV]

Tự Sắc của Đức Thánh Cha đang có sức đẩy, mặc dầu vẫn còn có sự đối kháng và chây lười. Thời gian, sự kiên nhẫn và đầu óc biết rộng mở, hiện đang rất cần đến, để cho mọi việc được trôi chảy. Luật của quán tính trong vật lý học được hiểu như là cách để khiến cho các thân thể phải chuyển động hay cứ mãi nghĩ ngơi an tọa theo cách đó hoài cho đến khi một lực đẩy khác áp lực lên chúng. Thì Tự Sắc kể trên chính là kiểu lực đẩy như vậy.

(H): Thưa Cha Z, đâu chính là một số sự phát triển đáng chú ý, hay có lẽ là không ngờ đến, nơi Giáo Hội vốn có liên quan đến Tự Sắc kể trên kể từ khi nó được ban hành ra?

(T): Một kết quả đáng ghi nhận phải là cách hoán chuyển về thái độ củavề người mong muốn có được phụng vụ theo hình thức truyền thống.

Đã từ rất lâu, các tổ chức của Giáo Hội đã xem thường hay bỏ rơi hoàn toàn những người Công Giáo theo khuynh hướng truyền thống, tống họ vào phía sau cùng hết của chiếc xe bus vì sự dính liếu của họ vào truyền thống Công Giáo của chúng ta. Một số người có lòng nhân từ, đã bắt đầu nhìn thấy họ giống như thể là những người này chính là thành phần trong gia đình của chúng ta vậy, vốn đã vô tình bị đẩy lên các tầng gác cao nhất của trần nhà.

Mặc khác, rất nhiều những người theo khuynh hướng truyền thống, có lẽ với những tổn thương rất lớn và sự vỡ mộng mà họ đã cảm thấy sau rất nhiều sự thay đổi đang diễn ra trong Giáo Hội như: những kiểu sáng chế ra các mùa không đúng và chẳng có ý nghĩa gì cả, bình đầy tro bao phủ khắp các ngôi giáo đường đẹp đẽ, rồi lại thức âm nhạc, các áo lễ, các ảnh tượng, những sự sùng kính, vân vân... mà bạn có thể liệt kê ra, đã làm tổn thương một cách mạnh mẽ nơi mãnh vở mà các đôi vai họ phải cùng chung gánh vác và chịu đựng.

Khi thời gian qua đi, rất nhiều người trong số họ chẳng còn cách nào khác là phải "thương lượng" với các vị Giám Mục và Linh Mục, nhưng chỉ đơn giản muốn xuất đầu lộ diện mà thôi, để đưa ra những đòi hỏi quá đáng, và ngạo mạn nói với các vị ấy là cách phải làm như thế nào. Nó đạt đến độ mà thậm chí đối với những vị giáo sĩ có tính cởi mở và thông cảm nhất, cũng đã bắt đầu nổi cáu và từ từ bỏ đi cứ mỗi lần những người theo khuynh hướng truyền thống này tiếp cận. Và chính vì thế các dòng nước của những mối liên hệ tốt đẹp cứ thế mà bị đóng băng đi.

Giờ đây, bởi vì một số nổi đau và việc cảm thấy bị từ bỏ đang dần dần bắt đầu bị tan chảy ra trong trái tim của những người theo khuynh hướng truyền thống, thì giờ đây họ chỉ đơn giản có được những gì mà họ đã từng có trong thời gian rất lâu, thì giờ đây một chút nắng ấm áp đang được chiếu sáng theo phương hướng của họ bởi chính Đức Thánh Cha và những người khác vốn cùng chia sẽ một viễn ảnh, và việc chăm sóc các linh hồn cùng với Ngài cũng vì thế mà bắt đầu, mở ra.

Đập băng đá đang được phá vỡ đi và nước đang bắt đầu tuôn chảy trở lại. Đây không phải là một sự phát triển không được ngờ tới. Tôi hoàn toàn tin rằng điều này xảy ra là bởi vì những người theo khuynh hướng truyền thống phần lớn lại là những người rất tốt và thánh thiện - họ chính là những người yêu mến Giáo Hội Thánh Thiện và muốn điều tốt nhất đến với các gia đình, các vị Linh Mục và các vị Giám Mục của họ mà thôi.

Các vị Giám Mục và các vị Linh Mục, thậm chí ngay cả khi cá nhân họ không có chống đối gì cả trước những gì có tính truyền thống, hầu hết đều là những người tốt, biết yêu mến đàn chiên của họ và thành thật mong ước mọi điều tốt đẹp đến cho họ. Tất cả các vị này cùng chia sẽ về những điều chung vốn thật sự có ý nghĩa. Điều mà tôi ngạc nhiên chính là việc nhanh chóng phá vỡ ra đập băng đá đó mặc dầu vẫn còn một chặng đường dài phải vượt qua.

Tôi đã đánh giá không đúng mức về tính ấm áp của ánh sáng mặt trời và về việc rộng mở của các con tim, đặc biệt là về phía của một số vị Giám Mục - những vị vốn trong quá khứ đã tỏ ra không mấy thân thiện gì cho lắm với phụng vụ theo kiểu truyền thống trong tư cách là một thân thể của Giáo Hội, nay lại sẳn sàng thay đổi. Điều này đã khiến cho tôi phải suy nghĩ lại về chính những thái độ của riêng tôi.

T.B. Bài viết vào tuần tới sẽ có nhan đề "Cùng Tìm Hiểu Sâu Hơn về Những Lạm Dụng Hiện Có Trong Phụng Vụ" - kính mời Quý Vị hãy dõi theo!
 
Đôi Dòng Lịch Sử về GX Nam Lỗ, GP Thái Bình, dịp Kỷ Niệm 100 năm
Lm. Dom Nguyễn Văn Quát & Jos. Vĩnh SA
21:38 30/07/2008
KỶ NIỆM BÁCH CHU NIÊN THÀNH LẬP GIÁO XỨ 1908 – 2008


GIÁO XỨ NAM LỖ


Nhờ Thờ GX Nam Lỗ
Giáo xứ Nam Lỗ gồm 13 ngôi nhà thờ lớn nhỏ, nằm trên phần đất của 6 xã thuộc huyện Đông Hưng và 1 xã thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

Nhà thờ chính của giáo xứ tọa lạc giữa một làng dân cư nhỏ bé, yên tĩnh trên một cánh đồng lúa mênh mông. Khúc sông Tiên Hưng uốn mình bao bọc lấy ngôi làng thân thương này. Đây là ngôi nhà thờ mẹ, nơi quy tụ của cộng đoàn giáo xứ và được gọi với cái tên thật dễ thương: Nam Lỗ.

Nhà thờ Nam Lỗ cách TP Thái Bình khoảng 20 Km về phía Bắc; trên quốc lộ 39A đường Thái Bình đi Hưng Yên, từ cột mốc Km70 đi vào chừng 5 cây số.

I - MẤY DÒNG LƯỢC SỬ

Nhà thờ Nam Lỗ tọa lạc trên phần đất của trại Đồng My hay còn gọi là Đồng Mư, thuộc làng Sổ, tổng Cao Mỗ, huyện Thần Khê, tỉnh Thái Bình. Vì thế, người ta thường gọi xứ Nam Lỗ là xứ Sổ và Nhà thờ xứ Nam Lỗ là Nhà thờ Đồng My hay Đồng Mư.

Năm 1722, họ giáo trại Đồng Mư, Làng Sổ được thành lập, với tên gọi Họ giáo Sổ, thuộc về xứ Sa Cát. Sau 186 năm thăng trầm, họ giáo Sổ đã được nâng lên hàng Giáo xứ và cùng với các họ lân cận thành một giáo xứ mới. Các Đấng Bản quyền đã đặt tên xứ mới này là xứ Nam Lỗ.

Theo tài liệu nghiên cứu của Cha Giuse Nguyễn Thanh Liêm thì: Nam Lỗ là tên rất đặc biệt mà Đức Cha Pierre Munagorri Y Obenita, tên Việt Nam của Ngài là Trung (Đức Cha Pierre Munagorri Y Obenita Trung, gốc Người Tây Ban Nha), cai quản Giáo Phận Bùi Chu từ Nam 1907 đến 1936 đã chọn. (Chú thích: Nam 1908, lúc bấy giờ Giáo Xứ Nam Lỗ còn đang trực thuộc vào Giáo Phận Bùi Chu. Ngày 09 Tháng 3 Năm 1936, Giáo Phận Thái Bình mới được thành lập và tách rời khỏi Giáo Phận Bùi Chu. Đức Cha Casado Thuận là Giám Mục tiên khởi của Thái Bình).

Cha Pierre Munagorri Y Obenita, khi còn là Linh Mục và trước khi được nhà Dòng gửi sang Á Châu truyền giáo, trên đường từ Tây Ban Nha đi đến Việt Nam, Cha Pierre Munagorri Y Obenita đã có dịp đến Nước Tàu (tức Trung Quốc ngày nay) vài tháng. Sau đó đến Việt Nam để thực thi sứ mạng truyền giáo và làm việc mục vụ, Ngài đã lấy tên Việt Nam là Trung.

Năm 1907, Cha Pierre Munagorri Y Obenita Trung được Toà Thánh đề cử lên làm Gám Mục và đặt Ngài cai quản Giáo Phận Bùi Chu (kế vị Đức Cha Maxime Fernandez Định, 1987-1907). Đức Cha Trung duyệt xét lại phần địa dư và phạm vi mục vụ của toàn Giáo Phận thì thấy Sa Cát là một giáo xứ lớn, và có quá nhiều giáo họ lẻ, trong đó có giáo họ lẻ tại Làng Sổ nằm trên mảnh đất Đồng My có đông giáo dân hơn cả và nhiều họ lẻ nhỏ khác chung quanh - Ngài đã quyết định tách biệt Giáo Họ Sổ và những họ lẻ ấy ra thành một Giáo Xứ mới lấy tên là Nam Lỗ.

Đức Cha Trung đích thân đến viếng thăm và nghiên cứu về giáo họ lẻ Làng Sổ và các họ lẻ lân cận này trong 3 ngày. Thời bấy giờ, không có xe ô tô, Đức Cha và Phái Đoàn Phòng Bộ phải đi xa cả ngày đường từ Bi Chu về đến Làng Sổ thì trời vừa tối. Ngài lưu lại đó 1 ngày và 2 đêm. (Chuyến đi trong 3 ngày, gồm 1 ngày đi, rồi ở lại Làng Sổ 2 đêm và 1 ngày, và 1 ngày đi bộ trở về Bùi chu). Qua 2 đêm, sau các bữa cơm tối, Ngài đi dạo vòng quanh bên ngoài để cầu nguyện. Đức Cha Trung chiêm ngắm bầu trời đẹp với muôn ngàn tinh tú, trăng sao, nhất là nhìn lên Chùm Sao Bắc Đẩu, rồi Ngài nhớ lại lịch sử truyền giáo của Nước Tàu, trong đó có phần đất của Nước Lỗ (cũ) mà Cha Mettéo Ricci, Dòng Tên, xưa kia đã đặt chân đến truyền giáo rất thành công.

Đứng bên bờ Sông Tiên Hưng, nơi mảnh đất của Làng Kinh Môn (Cửa Đền Vua Nước Trời), hướng lên Chùm Sao Bắc Đẩu -Ngài nhìn về phía Bắc là Nước Lỗ, Ngài cũng nhìn về Làng Sổ có phần đất Đồng My đang nằm ở phía Nam, nên trong ý định của Ngài - Ngài đã quyết định đặt tên Giáo Xứ mới này là GIÁO XỨ NAM LỖ (tức là phía Nam của Nước Lỗ). Như vậy, chúng ta đã có tên lịch sử của Giáo Xứ Nam Lỗ là phần đất truyền giáo mới, phía Nam của Nước Lỗ. (Theo Lm. Joseph Nguyễn Thanh Liêm, chuyển ngữ sang Tiếng Việt từ Sách “Histoire du Vietnam” của Delliviers, Un mandarin catholique de 32ans, Trang 263, Quyển IV, reputé pour sa parfaile intégrité, sa compétence et son intelligence, Số kiểm duyệt: 0.00.599708.9. Giấy phép xuất bản số: 0.225.66350.3, Tái xuất bản tại Rome, 25-3-1945, Sách đang được lưu giữ trong Thư Viện Madrid Libreria –Spain).

Năm 1955, do sự phân chia lại địa lý hành chính, trại Đồng My và trại Đồng Cừ tách khỏi Làng Sổ (Xã Chương Dương) và sát nhập vào Xã Hợp Tiến (Làng Ngói). Đồng My ngày nay là Thôn Ai Quốc, Xã Hợp Tiến, Huyện Đông Hưng, Tỉnh Thái Bình.
Đại Lễ Kỷ Niệm 100 năm


II - HẠT GIỐNG TIN MỪNG

Hạt giống Tin Mừng đã được gieo vào mảnh đất này khá sớm. Theo sử liệu, năm 1722 nơi đây đã thành một họ đạo, Họ Sổ thuộc xứ Sa Cát. Rồi Tin Mừng lan tỏa theo thời gian, các họ đạo xung quanh dần dần được hình thành.

Năm 1908, cùng với sự trưởng thành của các giáo họ chung quanh thì Giáo Họ Sổ là lớn nhất và đã đủ để bước lên hàng giáo xứ. Đức Cha Trung đã tách 17 họ lẻ khỏi Giáo Xứ Sa Cát và thành lập nên Giáo Xứ Nam Lỗ, đồng thời đặt Cha Phêrô Trứ làm Cha Xứ tiên khởi.

Theo sử ký Địa phận Trung xuất bản năm 1916 (gồm Bùi Chu và Thái Bình ngày nay) thì giáo xứ Nam Lỗ có 17 họ lẻ: 10 họ bổn đạo gốc và 7 họ bổn đạo mới, với tổng số 1197 giáo dân.

Sau đây là đoạn trích nguyên văn về giáo xứ Nam Lỗ năm 1916:

XỨ NAM LỖ

Xứ này trước thuộc về xứ Sa Cát, Đức Cha Trung mới biệt ra từ năm 1908.

Thầy cả coi sóc xứ thì trước có cụ Trứ, rồi đến cụ Thiêm đang coi sóc bây giờ.

Xứ này gồm lại 10 họ Bổn đạo gốc và 7 họ Bổn đạo mới, các họ ấy về 13 xã.

Các họ về xứ này:

Tên họ Quan thầy Nhân danh

Nam Lỗ Đức bà Rosa 521

Duyên Tục Ông thánh Augustin 186

Kinh Môn Ông thánh Phêrô 135

An Lạc Làng Đức Bà lên 3 tuổi 235

Lũ Đăng Đức Bà chuộc kẻ làm tôi 81

Cổ Khúc Đức Bà Bảy sự 115

Duyên Trang Ông thánh Phanxicô 120

An Lạc Trại Ông thánh Vincentê 154

Cổ Cốc Ông thánh Tômasô 61

Họ Phạm Ông thánh Gioachim 38

Sổ Làng Bổn đạo mới 54

Thổ Khối Bổn đạo mới 30

An Thái Bổn đạo mới 33

Phú Điền Bổn đạo mới 10

Lộ Xá Bổn đạo mới 08

Hoàng Nông Bổn đạo mới 08

Kim Ngọc Bổn đạo mới 11

Cộng 1197

Các ông dòng bà dòng về xứ này được 84 người.

Năm 1929, Đức cha Trung đã nâng họ Duyên Tục lên hàng Giáo xứ, và cắt họ Duyên Trang về xứ mới này.

Năm 1930, họ giáo Y Đún được thành lập, và nhân thánh Têrêsa Hài Đồng Jêsu làm bổn mạng.

Năm 1948, Đền Đức Mẹ Fatima được xây dựng tại Khu Sốc thuộc họ Nhà xứ.

Biến cố năm 1954, một phần lớn giáo dân của xứ di cư vào miền Nam. Số giáo dân còn lại thưa thớt, lại gặp những năm tháng chiến tranh và khó khăn, một vài họ bị xóa sổ.

Sau năm 1975, một số giáo dân vì kế sinh nhai, lại tiếp tục vào các tỉnh phía Nam để sinh sống, giáo xứ lại bớt đi một số người.

Năm 1978, ngôi nhà thờ họ Kinh Môn bị tháo dỡ. Nay chỉ còn một khu đất nền nhà thờ trước đây làm vết tích. Số diện tích xung quanh nhà thờ của họ giáo này đã bị san ủi thành ruộng cấy.

III - CÁC LINH MỤC COI SÓC GIÁO XỨ

Từ ngày thành lập giáo xứ, Nam lỗ luôn được các cha trông coi phục vụ. Khi thì trực tiếp, lúc thì gián tiếp. Bao ân tình sâu nặng, bao kỷ niệm êm đềm, bao thành quả vật chất và tinh thần mà các Ngài để lại.

Hôm nay nhìn lại, từ ngày ấy,100 năm qua đã có 12 linh mục coi sóc xứ này:

1. Từ năm 1908 đến 1914: cha Phêrô Trứ, cha xứ tiên khởi. Người xây dựng ngôi thánh đường giáo xứ.

2. Từ năm 1915 đến 1928: cha Phêrô Thiêm coi sóc.

3. Từ năm 1929 đến 1935: cha Thôma Vũ Nguyên Sùng.

4. Từ năm 1936 đến 1945: cha già Giuse Khuông coi sóc.

5. Từ 10-1945 đến 8-1954: cha Giuse Phạm Hữu Đoàn coi sóc.

Sau khi cha Đoàn vào Nam, giáo xứ trống vắng. Đức cố giám mục Đaminh Đinh Đức Trụ bấy giờ là Giám quản giáo phận, gián tiếp trông coi giáo xứ, với sự cộng tác của cha già Sùng. Từ đây giáo xứ không còn cha xứ trực tiếp trông nom.

6. Từ 11-1955 đến 10-1960: cha Vinhsơn Nguyễn Khắc Hiếu, cha xứ An Lập, phụ trách.

7. Từ 11-1960 đến 5-1973: cha Gioachim Trần Trọng Uyên từ chủng viện Mỹ Đức, phụ trách.

8. Từ 5-1973 đến 5-1978: cha Gioan B. Phạm Ngọc Châu cũng từ Mỹ Đức, phụ trách.

9. Từ 5-1978 đến 4-1996: cha chính Giuse Bùi Văn Cẩm từ Mỹ Đức, phụ trách.

10. Từ 4-1996 đến 6-2001: cha Giuse Trần Đức Hạnh chánh xứ Thuần túy, phụ trách.

11. Từ 6-2001 đến 7-2002: cha Phêrô Nguyễn Kiêm Toàn, chánh xứ An Lập, phụ trách.

12. Ngày 12-7-2002, cha Đaminh Nguyễn Văn Quát, cha xứ đương nhiệm đã về phục vụ giáo xứ. Chấm dứt khoảng thời gian 48 năm trống vắng, không có cha xứ trực tiếp ở với giáo xứ.

Như vậy, 100 năm từ ngày lập xứ, thì một nửa thời gian không có cha xứ trực tiếp ở giáo xứ. Đó lại là một thời kỳ có nhiều khó khăn phức tạp. Nên giáo xứ chịu nhiều thiệt thòi mất mát.

IV - NHỮNG TRANG SỬ HÀO HÙNG

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, những người con của Nam Lỗ vẫn giữ được hào khí của cha ông.

Quả vậy, ngay sau khi đón nhận hạt giống Tin mừng, các bậc tiền nhân của cộng đoàn này đã làm trổ sinh hoa trái. Các cộng đoàn phát triển. Các nhà giáo, nhà nguyện, nhà thờ lần lượt mọc lên. Đời sống Đức Tin vững mạnh. Nơi đây cũng là quê hương của biết bao anh hùng tử đạo, những người đã đổ máu đào, hiến dâng mạng sống vì Đức Tin. Bẩy phần mộ của các ngài ở họ Khuốc, 13 bộ hài cốt có kèm thẻ ở họ Tăng là những bằng chứng. Riêng tại phần đất khu vực thánh đường Nam Lỗ còn có hài cốt của một số vị tử đạo có danh tánh mà hồ sơ của các Ngài hiện đang được lưu giữ tại Bộ Phong Thánh ở Rôma chờ ngày cứu xét để phong Chân Phước.

Theo tra cứu của Cha cố Sơn thì:

Trong số 1264 hồ sơ các vị Tử đạo Việt nam tại Bộ Phong Thánh Rôma sẽ được cứu xét, có 5 vị sinh quán tại giáo xứ Nam Lỗ, giáo phận Thái Bình, miền Bắc Việt Nam:

1. Ông Vincentê Quỳnh 70 tuổi, người cha có 2 con tử đạo. (hồ sơ số 834)

2. Ông Phêrô Quân, con cả ông Quỳnh (hồ sơ số 800)

3. Ông Đaminh Đệ, con thứ. (hồ sơ số 252)

4. Thầy Đaminh Chiêu, Thầy giảng. (hồ sơ số 176)

5. Ông Phêrô Đán 50 tuổi, có gia đình (hồ sơ số 219)

Tất cả các vị đã có đầy đủ hồ sơ cần thiết, xin sốt sắng cầu cho các Ngài chóng được phong lên chân phước (Á thánh). (Trích thư của Cha quý hương, cố Lm. Polycarpo Trần Thái Sơn, CMC)

Đó mới chỉ là 5 vị trong số 14 Hiền phúc Tử Đạo của Nam Lỗ đã được công nhận là chết vì Đạo và đang thỉnh cầu phong Chân phước. Theo cuốn VƯỜN VẠN TUẾ THÁI BÌNH ( tủ sách Họ Hoàng Bồ Ngọc xuất bản năm 2006), Nam Lỗ có các vị Tử đạo sau đây:

1 - Hiền phúc Linh Mục Vinh Sơn TRÍ, họ Nhà Xứ.

2 - Hiền phúc Thầy giảng Đaminh CHIÊU, họ Nhà Xứ

3 - Hiền phúc Vinh Sơn QUỲNH, họ Nhà Xứ,

4 - Hiền phúc Đaminh ĐỆ, họ Nhà Xứ,

5 - Hiền phúc Phêrô QUÂN, họ Nhà Xứ,

6 - Hiền phúc Phêrô ĐÁN, họ Nhà Xứ,

7 - Hiền phúc Phêrô THỊNH, họ Tăng.

8 - Hiền phúc Phêrô MÂY, họ Tăng.

9 - Hiền phúc Đaminh DI, họ Tăng.

10 - Hiền phúc Đa minh NGHIÊM, họ Tăng.

11 - Hiền phúc Đaminh HUỆ, họ Tăng.

12.- Hiền phúc Đaminh PHƯƠNG, họ Tăng.

13 - Hiền phúc Đaminh KHANG, họ Khuốc

14 - Hiền phúc Đaminh HIẾN, họ Cốc

Rước GX Nam Lỗ
Thừa hưởng gia tài Đức tin của tiền nhân, những người con Nam Lỗ các thế hệ luôn phát huy truyền thống hào hùng của cha ông. Quả vậy, ngay sau khi đạo được bình an, với số giáo dân không nhiều, phương tiện thô sơ, mọi sự tự lực, thế mà các nhà thờ lớn nhỏ được mọc lên. Trước nhỏ rồi sau to. Trước đơn sơ rạ lá, rồi sau cột gỗ tường xây, cứ thế tiến lên.

Kể từ ngày lập xứ (1908) với số giáo dân toàn xứ có hơn một nghìn người, thế mà các nhà thờ mới trong xứ liên tiếp được xây dựng:

Năm 1911, họ nhà xứ với số giáo dân chưa được 500 người đã hoàn thành ngôi thánh đường to đẹp và vững chắc mà chúng ta đang thừa hưởng đây.

Cùng năm ấy, họ Cốc với số dân khoảng 50 người cũng đã khánh thành ngôi nhà thờ mà nay vẫn còn giữ được một phần di sản quý giá đó.

Năm 1912, họ Khuốc với khoảng 100 nhân danh cũng xây dựng ngôi nhà thờ và năm 1932 được tái thiết. Nhà thờ này đã bị hoả hoạn thiêu rụi năm 1960, duy ngọn tháp đến hôm nay vẫn còn đang vươn thẳng.

Năm 1914, họ Phạm với hơn 30 nhân danh cũng đã xây dựng ngôi thánh đường mà ngày nay vẫn còn chắc chắn.

Cùng năm đó, họ Sổ Làng với khoảng 50 nhân danh cũng xây dựng nhà thờ, và nay còn giữ lại một phần các vì kèo gỗ khi xây dựng lại ngôi thánh đường mới năm 1998.

Năm 1916, với 232 nhân danh, họ đàn anh Lác Làng xây dựng ngôi nhà thờ gỗ kiên cố chẳng thua kém gì nhà xứ, nay vẫn còn vững chắc.

Họ Kinh Môn với 135 nhân danh khi lập xứ cũng xây dựng được ngôi nhà thờ gỗ to đẹp và bị tháo dỡ năm 1978, nay ai cũng hối tiếc.

Năm 1944 họ bổn đạo mới An Thái xây dựng ngôi thánh đường khang trang, còn tới ngày nay.

Năm 1948 họ nhà xứ lập Đền Đức Mẹ tại khu Sốc.

Các họ khác cũng gắng công xây dựng nhà thờ tùy sức của mình. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh thời cuộc và thời tiết các nhà thờ này đã phải tái thiết nhiều lần, một vài nhà thờ bị xóa sổ. Đó là 3 họ Lộ Xá, Phú Điền và Kim Ngọc.

V - TRANG SỬ MỚI

Sau biến cố năm 1954, số giáo dân còn lại quá ít ỏi, thời thế không thuận lợi, thời tiết nhiều khi khắc nghiệt, gây nhiều khó khăn cho những người con dân trong xứ.

Tuy khó khăn nhưng những người con Nam Lỗ tại quê hương vẫn giữ được truyền thống cha ông, sống đạo, bảo toàn đức tin, bảo tồn những di sản tinh thần, vật chất của tổ tiên để lại. Cho dù có một vài họ bị mất mát đất đai trong nơi thờ tự nhưng nhìn chung vẫn giữ được tương đối vẹn toàn. Được như vậy là nhờ sự hy sinh quên mình và lòng nhiệt thành của con dân trong xứ.

Một điều rất đáng tự hào là suốt 48 năm (1954 – 2002) Giáo xứ không có Cha xứ ở trực tiếp, nhưng đời sống đức tin vẫn tốt, mọi sinh hoạt vẫn diễn tiến đều đặn. Các nhà thờ vẫn được bảo dưỡng, tu sửa. Một vài nhà thờ nhỏ của các họ cũng như các công trình nhỏ khác vẫn được xây dựng. Những thành quả đó nhờ sự hỗ trợ của các đấng bậc coi sóc giáo xứ, nhưng cũng là sự hy sinh không mệt mỏi của dân xứ, nhất là trong những thời điểm khó khăn.
Rước trong Khuôn Viên Nhà Thờ


VI - NAM LỖ HÔM NAY

Nhìn lại 100 năm từ khi lập xứ thì 46 năm Nam Lỗ có Cha xứ ở trực tiếp (1908 - 1954). Tiếp đó là 48 năm nhà xứ trống vắng (1954 – 2002), và sáu năm trở lại đây, nhờ ơn Chúa lại có cha xứ.

Sáu năm qua, giáo xứ được phục sức nhanh chóng. Mọi người cố gắng, bà con đồng hương, anh em xa gần giúp đỡ nên bộ mặt giáo xứ đã có được như ngày hôm nay. Tuy vậy, kết quả vẫn còn quá khiêm tốn và công việc phải làm còn rất nhiều, từ nhà xứ đến các họ.

Hiện tại Nam Lỗ có 1377 nhân danh, 13 nóc nhà thờ, gồm họ nhà xứ, 11 họ lẻ và Đền Đức Mẹ thuộc nhà xứ. Con số thực tế của các họ như sau:

TT Tên họ Quan thầy Nhân danh

1 Nhà Xứ Đức Bà Rosa 590

2 Lác Làng Đức Mẹ dâng mình trong Đền thờ 155

3 Lác Trại Thánh Vincentê 154

4 An Thái Thánh Giuse công nhân 165

5 Khuốc Đức Mẹ Bảy sự 94

6 Sổ Làng Thánh Gioan Baotixita 84

7 Tăng Đức Mẹ Vô nhiễm 36

8 Cốc Thánh Thômasô tiến sỹ 21

9 Phạm Thánh Gioachim 08

10 Ngói Th. Phêrô Nguyễn Bá Tuần Tử đạo 33

11 Hoàng Nông Thánh Giuse bầu cử (19-3) 07

12 Y Đún Thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu 30

Tổng Cộng 1377

Giáo xứ luôn có:

- Hội Đồng Mục Vụ giáo xứ và Ban trùm các họ: đây là những người nòng cốt, hy sinh phục vụ trong các cộng đoàn. Một số phải gánh vác trách nhiệm lâu dài (vì không có người thay thế) và đã trải qua nhiều khó khăn phức tạp.

- Hội gia trưởng với trên 100 thành viên

- Hội con Đức Mẹ cũng xấp xỉ 100 thành viên.

- Huynh đoàn giáo dân Đa Minh với gần 200 đoàn viên mà tiền thân là “các ông dòng bà dòng”. Đây là nhóm người nòng cốt của việc cầu nguyện trong các cộng đoàn.

- Thêm vào đó còn có hội Tân tòng, quy tụ hơn 70 anh chị em tân tòng trong cả xứ.

- Giáo xứ vẫn duy trì được đội kèn, đội trống, tuy có nhiều khó khăn về tài chánh và nhân sự.

- Giới trẻ của giáo xứ cũng phát triển về nhiều mặt:

Việc học giáo lý vẫn duy trì thường xuyên, đều đặn. Mỗi Chúa nhật trước thánh lễ ban chiều, 7 lớp học với trên 200 học sinh trong toàn xứ. Nhiều cháu ở các họ xa phải đạp xe 7- 8 km, lại còn phải qua đò qua sông. Rất vất vả.

Học văn hóa mỗi ngày một nâng cao, số học sinh theo học cấp III ngày một tăng. Toàn giáo xứ có trên 20 em vào Đại học, Cao đẳng và Trung cấp chuyên nghiệp, trong đó một số đã thành đạt và có công ăn việc làm tốt.
Rước qua các làng và Đồng Quê


VII - DẤN THÂN PHỤC VỤ

Phát huy truyền thống của tiền nhân trong đời sống đức tin, những người con Nam Lỗ dấn bước theo Chúa lên đường phục vụ tha nhân trong đời sống tu trì, và luôn có mặt trong các giai đoạn.

Chúng ta còn ghi lại được nhờ sử liệu, thì ngay buổi đầu Nam Lỗ đã có một Linh mục và một Thầy giảng tử đạo: cha Vinh-Sơn Trí, thầy Đaminh Chiêu.

Những thế hệ kế tiếp, rất tiếc chúng ta không có sử liệu để xác định. Nhưng gần đây Nam Lỗ đã có một số đóng góp đáng kể cho Giáo Hội:

A. Có 10 Linh mục và 1 Phó tế, đó là:

1. Cha Đaminh Bùi Duy Hưng, họ Khuốc, qua đời tại trại Thanh Hoá.

2. Cha Cố Polycarpo Maria Trần Thái Sơn (họ Nhà xứ), dòng Đồng Công, qua đời tại hoa Kỳ ngày 20-6-2003.

3. Cha Tôma Trần Thiên Định (Lác Làng), đang phục vụ tại Hoa Kỳ.

4. Cha Giuse Nguyễn Thanh Liêm (An Thái), đang phục vụ tại Úc.

5. Cha Giuse Trần Duy Kim (Lác Làng), đang phục vụ tại Hoa Kỳ.

6. Cha Vincentê Phạm Ngọc Anh Tuấn (họ Phạm), đang phục vụ tại Giáo phận Xuân Lộc.

7. Cha Vincentê Nguyễn Xuân Tuấn, (Nhà xứ), giáo phận Phú Cường, đang du học tại Roma.

8. Cha Giuse Nguyễn Văn Nhật, (Kinh Môn), đang phục vụ tại Giáo phận Mỹ Tho.

9. Cha Vincentê Trần Thanh Thoả, (quê ngoại Nam Lỗ) đang phục vụ tại giáo phận Long Xuyên.

10. Cha Đaminh Bùi Ngọc Hải, (quê ngoại Nam Lỗ), cha xứ Võng Phan, giáo phận Thái Bình.

11. Phó tế Đaminh Vũ Công Khương (Nam Lỗ), Tu viện Lời Chúa, Phú Cường.

B. Tu sĩ :

* Có các thầy:

1. Thầy FX Đặng Văn Hậu, (sổ Làng), Dòng Đồng Công. Qua đời năm 1974.

2. Thầy Gioan. Baotixita Bùi Quang Tâm, (Sổ Làng), đang phục vụ tại giáo phận Mỹ Tho.

3. Thầy Đaminh Trần Ngọc Nam, (Lác Làng), Dòng Bệnh Viện Thánh Gioan Thiên Chúa.

4. Thầy Vincentê Trần Trung Bảo (Lác Làng), Dòng Ngôi Lời, Hoa Kỳ.

5. Tu Sinh Đaminh Nguyễn Đức Trụ (Họ An Thái), đang tu học tại Úc trong Dòng Truyền Giáo Thánh Tâm (Missions of Sacred Heart’s Congregation).

Các nữ tu:

1. Dì Maria Đặng Thị Kính (Sổ Làng, em Thầy Hậu), qua đời 1953.

2. Dì Maria Trần Thị Nhường, (Sổ Làng), Dòng nữ Đaminh Thánh Tâm, qua đời năm 2005

3. Dì Têrêsa Trần Thị Tuyết Trinh, (Nhà xứ), Dòng nữ Đaminh Thánh Tâm, Hố nai

4. Dì M.Têrêsa Trần Thị Hiền, (Nhà xứ), Dòng nữ Đaminh Thánh Tâm, Hố nai.

5. Dì Têrêsa M.Trần Thị Hải, (Nhà xứ), Dòng nữ Đaminh Thánh Tâm, Hố nai.

6. Dì Cêcilia Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, (An Thái), Dòng Đức Mẹ Từ Bi, (Congregation of the Sisters of Mercy), đang phục vụ tại nước Cộng Hòa Malaika, Phi châu.

7. Dì Mary Vũ Thuỳ Linh, (An Thái), Dòng Trinh Vương Việt Nam tại Úc, đang phục vụ tại Sydney.

8. Dì Maria Phạm Thị Hiên, (Lác trại), MTG Tân Lập, đang phục vụ tại Thái Bình.

9. Dì Maria Đặng Thị Nụ, (Lác làng), MTG Tân Lập, đang phục vụ tại Thái Bình.

10. Dì Maria Phạm Thị Dung, (Nhà xứ), MTG Tân Lập.

11. Dì Maria Nguyễn Thị Thu Hảo, (Kinh Môn), Dòng Chúa Quan Phòng, Cần Thơ.

Ngoài ra còn một số ứng sinh chủng viện và đê tử các dòng tu nam nữ gốc Nam lỗ tại quê hương cũng như hải ngoại.

Chúng ta cầu nguyện cho ơn gọi tu trì của giáo xứ ngày thêm phát triển để có thêm nhiều người con Nam Lỗ đóng góp trong cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội.

VIII - HƯỚNG TỚI TƯƠNG LAI

Điều đáng quan tâm là ngày nay hoàn cảnh cuộc sống xã hội chi phối, các thế hệ trẻ của giáo xứ phải xa xứ nhiều. Những phức tạp đến với họ, và những khó khăn cho người ở nhà là không nhỏ. Đời sống đạo đức nói chung bị đe dọa, xuống cấp.

Một số nhà thờ trong giáo xứ đã cao niên, cần phải tu sửa hoặc tái thiết. Hạ tầng cơ sở cũng như trang thiết bị trong nhà thờ của các họ còn thô sơ và một số họ kể như chưa có gì. Trong khi số dân quá ít ỏi lại không có khả năng nhiều trong lãnh vực kinh tế cũng như xã hội.

Trước thực tế đó, định hướng của giáo xứ là tăng cường việc giáo dục Đức Tin cho giới trẻ qua việc học hỏi Giáo lý, tích cực tham gia các sinh hoạt tôn giáo. Đồng thời đẩy mạnh việc học văn hóa. Mặt khác, cổ vũ các việc đạo đức cho các giới. Kể cả những việc đạo đức bình dân. Đặc biệt hướng tới việc bác ái xã hội để góp phần loan báo Tin Mừng.

Công việc nhiều, ước mơ lớn. Nhưng khả năng rất giới hạn. Ước mong được lời cầu nguyện, sự chỉ bảo và giúp đỡ của các đấng bậc cũng như mọi người thân yêu để với truyền thống hào hùng của cha ông, những người con của Nam Lỗ hôm nay quyết vươn lên vượt qua trở ngại để luôn sống tốt đạo đẹp đời, góp phần xây dựng Hội thánh và Quê hương.

CÁC HIỀN PHÚC TỬ ĐẠO NAM LỖ

(Trích từ VƯỜN VẠN TUẾ THÁI BÌNH)


GIÁO XỨ NAM LỖ

Nam lỗ cũng gọi là Sổ, trước đây thuộc tổng Cao Mỗ, phủ Tiên Hưng, tỉnh Thái Bình. Ngày nay Nam Lỗ thuộc xã Hợp Tiến, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.

Nam Lỗ được các thừa sai Đaminh từ Sa Cát đến truyền giáo vào đầu thế kỷ thứ 18, rồi trở thành một họ lẻ thuộc xứ Sa Cát, nhận Đức Mẹ Mân Côi là Quan Thầy.

Năm 1908, Đức Cha Phêrô Trung (Pierre Munagorri y Obineta) chia xứ Sa Cát thành ba xứ, xứ Nam Lỗ được thành lập, gồm 10 họ lẻ bổn đạo gốc và 7 họ giáo tân tòng. Cha xứ đầu tiên là linh mục Phêrô Trứ, chịu chức năm 1891. khi cha Trứ đổi về Tiên Chu thì cha Phêrô Thiêm, chịu chức năm 1897, về coi sóc.

Thời kỳ bắt đạo, tín hữu Nam Lỗ vẫn trung kiên giữ đức tin. Vùng Nam Lỗ thời đó có hai nơi giam giữ các tù đạo là Thổ Khối và Trinh Nguyên, nhiều vị tử đạo bị xử tại hai nơi ấy. Nhờ gương sáng các tù đạo, người Thổ Khối đã xin tòng giáo, trở thành một họ lẻ ( họ Ngói) của giáo xứ bây giờ.

Nam Lỗ cũng có nhiều tín hữu hy sinh mạng sống để minh chứng đạo Chúa, trong số đó có 14 Hiền Phúc đã được Hội Thánh công nhận là chết vì đạo Chúa, đã có hồ sơ làm án xin phong Chân Phúc. Các ngài là những nghành lá thắm tươi trong vườn vạn tuế Thái Bình.

1.- Hiền phúc Linh Mục Vinh Sơn TRÍ (505)

Xứ Nam Lỗ (Sổ), Thái Bình.

Hiền phúc Linh Mục Vinh Sơn Trí, Dòng Đaminh, người Nam Lỗ(Sổ), tỉnh Thái Bình, 61 tuổi, con ông Cố Sen. Từ nhỏ đã vào Nhà Chúa, chịu chức Linh Mục và khấn dòng năm 1830. cha coi xứ Quần Cống, phải trốn ẩn nhiều thời gian. Sau khi thánh An Khảm và các vị tử đạo Quần Cống bị bắt, quân lính càng ráo riết tầm nã cha. Sau cùng, ngày 1-3-1859, Cha bị bắt giải nộp cho tổng đốc Nam Định, Cha liền bị bỏ tù. Trong tù Cha viết thư cho Đức Cha thánh Vinh vui mừng tỏ ý muốn phúc tử đạo. Quan đòi Cha ra toà, bắt khoá quá, cha hết sức sốt sắng hôn tượng Thánh Gía đặt dưới đất và trang trọng giảng thuyết về đạo Chúa. Vì thế tổng đốc Hưng tức giận nói với Cha: “tao có quyền xử tử mày, không cần đợi sắc chỉ của Vua”. Những quan khác thì cần sắc chỉ ấy, nhưng Thượng Hưng Nguyễn Đình Tân vì là nhạc phụ Vua Tự Đức ( ông có con gái được tuyển vào cung, phong đến bậc Châu phi), nên tự tiện lên án các vị tử đạo. Cha bị trảm quyết tại Nam Định ngày 24-3-1859.

2.- Hiền phúc Thầy giảng Đaminh CHIÊU (506)

Xứ Nam Lỗ (Sổ), Thái Bình.

Hiền phúc Thầy giảng Đaminh Chiêu, người Nam Lỗ, hơn 20 tuổi, con ông Diên hay Duyên, hiền lành đạo đức và rất nết na. Thầy giúp việc Cha Gioan An, cho tới ngày cả hai bị bắt ở Bái Bồ Trang cùng với hai Thầy giảng khác là Lãng và Tựu, bị giải lên Hưng Yên và chịu giam cầm. Thầy mạnh mẽ xưng đạo ra trước mặt các quan. Vì thế phải lên án xử tử. Ba Thầy bị trảm quyết đầu năm 1862.

3- Hiền phúc Vinh Sơn QUỲNH (518)

xứ Nam Lỗ, Thái Bình.

Hiền phúc Vinh Sơn Quỳnh, người Nam Lỗ, gần 70 tuổi, con ông Khiết. Hiền phúc Quỳnh là cha của hiền phúc Quân và Đệ sẽ nói sau. Hiền phúc là trùm họ đạo, là nông dân, rất sốt sắng giữ đạo. Năm 1859. ông bị bắt vì là chức dịch trong họ đạo, bị giải lên Hưng Yên, bị giam tù cùng với Hiền phúc Đán (số522). Ơ đấy hai năm hay hơn, ông phải chịu vô số hình khổ, nhất là vì già cả nên càng đau đớn. Nhưng ông luôn vui tươi, năng sốt săng đọc kinh Văn Côi với Hiền phúc Đán bạn tù, vững vàng xưng đức tin ra luôn luôn. Không bao giờ ông chịu khoá quá, mặc dầu bị quan quân xui giục ráo riết và lôi mạnh qua Thánh giá. Vì thế ông chịu trảm quyết ngày 31-5-1861.

4- Hiền phúc Đaminh ĐỆ (519)

Xứ Nam Lỗ, Thái Bình.

Hiền phúc Đaminh Đệ, người Nam Lỗ, Thái Bình, con của Hiền phúc Quỳnh. Ông hơn 20 tuổi, nhưng không muốn lập gia đình, để có thể cùng với các học trò Nhà Chúa học hành chữ nghĩa, cùng với họ, ông năng đi nhà thờ, ông cùng với anh là Phêrô Quân (số 520) bị bắt và bị giam ở ngục Hưng Yên.

Những người biết ông đều hết sức ca tụng ông, vì ông rất can đảm chịu đòn vọt và những khổ hình khác, do ông không chịu khoá quá. Ông chịu trảm quyết năm 1861.

5 - Hiền phúc Phêrô QUÂN (520)

Xứ Nam Lỗ, Thái Bình.

Hiền phúc Phêrô Quân, người Nam Lỗ, chừng 40 tuổi, là con của Hiền phúc Quỳnh ( số 518) và là anh của Hiền phúc Đệ ( số 519). Ông bị bắt cùng với em mình, nhưng khi bị giải lên phủ, vì quân lính phủ hành hạ ông quá lẽ nên ông ngất đi ở dọc đường, quan phủ bắt lính vác ông lên mà đưa qua Thánh giá, sau đó cười nhạo ông là thằng dại mà tha về. Sau ít lâu, ông phủ ấy chết, ông kế quyền thấy tên ông trong sổ, nên truyền bắt ông mà đầy lên các làng Phú La và Bông Cói, tỉnh Hưng Yên. Bấy giờ Hiền phúc đã lành mạnh, nên lại bị giục khoá quá. Ông không chịu, nên phải chịu nhiều hình khổ khác, mà vẫn luôn vững vàng. Vì thế ông phải trảm quyết ở Hưng Yên, có lẽ cùng với em Đệ của ông.

6 - Hiền phúc Phêrô ĐÁN (522)

xứ Nam Lỗ, Thái Bình.

Hiền phúc Phêrô Đán người Nam Lỗ, trên 50 tuổi, con ông Hiền, đã có vợ con. Ông bị bắt vì là một hương chức trong làng. Ông phải giải lên phủ Tiên Hưng, rồi sang Hưng Yên mà chịu giam cầm. Trong tù ông năng xưng tội với một Linh Mục cũng bị giam ở đó. Ít là hai lần ông bị đánh đòn rất dữ vì không chịu khoá quá. Và vì thế mà chịu trảm quyết ở Hưng Yên, không tìm thấy thi hài ông.

7- Hiền phúc Phêrô THỊNH (513)

Lũ Đăng, xứ Nam Lỗ.

Hiền phúc Phêrô Thịnh, người họ Lũ Đăng, xứ Nam Lỗ, con ông Trí và là anh của Hiền phúc Phêrô Mây (số 514), hai anh em cùng bị bắt với bốn người làng vì đi đạo, bị đầy lên làng Bông và Suôi tỉnh Hưng Yên chín tháng. Hai tháng đầu, lòng các vị hơi bối rối, nhưng về sau lấy lại được sự bình an, các vị càng ngày càng tỏ ra tinh tường, lớn tiếng đọc kinh với nhau, không còn sợ sệt gì ai nữa, nhưng sẵn sàng chịu chết vì đạo. Hiền phúc Thịnh là thanh niên tốt, bị bắt cùng với cha mẹ và anh chị em, nhưng phải đi đày với em và bốn người khác như đã nói trên. Ông hoàn toàn noi gương các bạn mình, nên vui vẻ chịu chém cùng với Hiền phúc Di (số 523) ở làng Suôi, vào chính ngày bốn bạn kia chịu chém ở làng Bông.

8 - Hiền phúc Phêrô MÂY (514)

Lũ Đăng, xứ Nam Lỗ.

Hiền phúc Phêrô Mây, người Lũ Đăng, xứ Nam Lỗ, con ông Trí và là em Hiền phúc Thịnh (số 513). Ong là thanh niên còn độc thân, làm ruộng, có những tư chất tốt. Ông bị bắt cùng với cả gia đình cũng như anh Thịnh, nhưng trốn thoát được. Sau bị bắt lại, người ta truyền ông khoá quá, ông hoàn toàn không chịu. Vì thế ông phải đeo gông rất lớn, đầy lên hàng Bông, nơi cha mẹ ông đang bị cầm giữ, vì ông nói với quan huyện là mình muốn đi theo cha mẹ. Bị giam ở đó chín tháng mà vẫn vững vàng, nên ông bị án trảm quyết vì cùng một duyên cớ như anh ông và các bạn tử đạo khác. (xem thêm số 513).

9.- Hiền phúc Đaminh DI (523)

Lũ Đăng, Xứ Nam Lỗ.

Hiền phúc Đaminh Di, người Lũ Đăng, xứ Nam Lỗ. Ông rất khiêm nhu, ăn ở hiền lành, không làm hại ai, là nông dân, đã có vợ và một con gái. Ông bị bắt vì đạo với ông Thịnh (số 513), cùng với nhiều người khác sẽ nói sau. Cùng với các vị ấy, ông đã luôn hăng hái vững vàng xưng đạo ra, nên ông phải chịu nhiều hình khổ. Nhưng các ông không cùng bị hành xử với nhau. Hiền phúc Di bị trảm quyết với Hiền phúc Thịnh tại làng Suôi (xem số 513).

10.- Hiền phúc Đaminh NGHIÊM (524)

Lũ Đăng, xứ Nam Lỗ.

Hiền phúc Đaminh Nghiêm, người họ Lũ Đăng, xứ Nam Lỗ, còn trẻ, mới 16 tuổi, con ông Uẩn. Tính cậu tốt lành, hiền hoà, cong đang đi học. Cậu cũng là bạn tử đạo với ông Thịnh nói trên, chịu nhiều khổ hình như nhau và vẫn vững bền xưng đạo. Nhưng cậu bị giết ở làng Bông ( các điều khác như ở số 513).

11.- Hiền phúc Đaminh HUỆ (528)

Lũ Đăng, xứ Nam Lỗ.

Hiền phúc Đaminh Huệ, người Lũ Đăng, xứ Nam Lỗ, con ông Thoan, là thanh niên còn độc thân. Ông là bạn tử đạo với ông Thịnh (số 513), nhưng bị trảm quyết tại làng Bông với ông Nghiêm (số 524) và ông Phương (số 529). Các điều khác nói ở số 513.

12.- Hiền phúc Đaminh PHƯƠNG(529)

Lũ Đăng, xứ Nam Lỗ.

Hiền phúc Đaminh Phương, người Lũ Đăng, không biết tên cha mẹ và niên tuế, nhưng biết rằng ông là thanh niên làm ruộng, còn độc thân, không mắc tiếng xấu gì, ông là bạn tù đạo với ông Thịnh, nhưng lại rất dũng cảm chịu trảm quyết vì đức tin với ông Huệ tại làng Bông ( các điều kiện khác như ở số 518).

13- Hiền phúc Đaminh KHANG (527)

Cổ Khúc, xứ Nam Lỗ.

Hiền phúc Đaminh Khang, người Cổ Khúc, xứ Nam Lỗ, con ông Thịnh. Cậu là học trò Nhà Chúa, vì bệnh phải về gia đình uống thuốc mà bị bắt vì đức tin tại nhà. Cha cậu là Thịnh, anh cậu là Sĩ và chính cậu bị đầy lên làng Bông Cói. Ơ đây cha con cậu luôn đọc kinh cầu nguyện và đan thúng đan rá. Vợ ông Sĩ đem thúng rá ấy ra chợ bán, lấy tiền nuôi ba cha con suốt mười tháng như vậy. Các nhân chứng không nói gì hơn nữa về các hiền phúc Thịnh và Sĩ. Nhưng về hiền phúc Khang thì họ quả quyết rằng: cậu học sinh Nhà Chúa đó luôn vững vàng trong đức tin, sốt sắng khuyến khích các kitô hữu bị giam ở đấy hãy vững lòng giữ đạo cho đến chết. Mặt khác còn được biết rằng: hiền phuíc Khang khi đứng trước mặt viên quan tên Riễn, nổi tiếng độc ác, nhận được tin phải chết vì đạo, hiền phúc đã rất vui mừng và sốt sắng dọn mình chịu chết. Vì không chịu khoá quá nên hiền phúc Khang phải trảm quyết năm 1862 tại Lang Lô, làng Thanh Cù.

14.- Hiền phúc Đaminh HIẾN (530)

Cổ Cốc, xứ Nam Lỗ.

Hiền phúc Đaminh Hiến, người Cổ Cốc, xứ Nam Lỗ, con ông Tri, 18 tuổi, còn độc thân, ngoan ngoãn, hiền lành. Theo lệnh viên quan tri phủ Riễn rất độc ác, tất cả giáo hữu ít oi ở Cổ Cốc đều bị bắt, trong đó có cậu Hiến. Các vị bị đưa đến làng Quán Dâu, sau sang làng Thanh Cầm, xứ Ngọc Đồng, Hưng Yên. Xem ra cư dân ở đây là kitô hữu kín đáo, vì họ đối xử với những kitô hữu bị giam ở đây rất nhân đạo. Mặt khác, các tín hữu bị lưu đày của làng Cổ Cốc không bị đưa ra toà nào, nhưng chỉ do lệnh vua mà phải giết nếu còn trong tù. Cậu Hiến và người cùng làng bị đem đi xử với rất nhiều người khác trong trường hợp như sau:

Thượng Hưng từ Nam Định và các viên quan khác đến nơi gọi là Rồng Chầu ( Long Triều chăng?), truyền đem tất cả các kitô hữu bị giam ở các nơi lân cận đến. Các kitô hữu biết mình bị đem đi xử, nên vui mừng hát kinh cầu các thánh và đọc nhiều kinh khác mà đi, người làng lấy làm lạ lắm. Thế rồi không một án quyết, những con chiên hiền lành ấy, con số tới hơn hai trăm người, theo lệnh Thượng Hưng, bị gươm chém tất cả ở Rồng Chầu, ngày 2-6-1862.

Hiền phúc Hiến vì tỏ ra sốt sắng hơn mọi người nên giơ cổ ra trước nhất. Chứng nhân Khoan kể lại rằng: chính hiền phúc đã quỳ xuống hai ba lần để chịu chém, nhưng lý hình bảo: “thằng này gầy nhom và còn nhỏ, chạy đi, chúng tao không muốn giết mày”.. Khi đã thảm sát hết hơn hai trăm người, lính tráng đào những huyệt lớn, xô lẫn lộn thi hài các vị xuống mà chôn tập thể. Ông Khoan là chứng nhân mục kích đã nói như vậy.
Đội Trắc GX Nam Lỗ


Kính thưa Quý vị,

Trên đây là mấy dòng phác thảo, mạo muội trình bày đôi nét về giáo xứ Nam Lỗ, nhân dịp BÁCH CHU NIÊN THÀNH LẬP GIÁO XỨ. Vì khả năng giới hạn, tư liệu thiếu và nói chung mọi mặt hạn chế, nên chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết. Kính xin Quý đấng bậc, quý vị cao minh, cao niên đồng hương hiểu biết nhiều về Nam lỗ, vui lòng chỉ giáo, bổ sung và góp thêm bài vở để cuốn KỶ YẾU của Giáo xứ được thêm hoàn thiện và phong phú.

Rất mong có những bài Hồi Ký về các cộng đoàn giáo họ trong toàn xứ, để các thế hệ trẻ biết thêm về các bậc tiền nhân của mình.

Nhà thờ Nam Lỗ, Hợp tiến, Đông Hưng, Thái Bình, Việt nam


Xin chân thành cám ơn và xin Thiên Chúa trả công bội hâu cho lòng quảng đại và những hy sinh của qúy vị.

Nam lỗ, Xuân Mậu Tý - 2008

NHÓM BIÊN SOẠN

=================================================

Lịch Sử Giáo Họ An Thái

Giáo Xứ Nam Lỗ


Sông Tiên Hưng
Nằm trên triền sông Tiên Hưng, và bờ bên kia là Nhà xứ Nam Lỗ, làng An Thái trải dài như cùng con sông uốn mình bao quanh nhà thờ xứ. Trong ngôi làng an bình và thư thái này có một họ đạo và một ngôi nhà thờ rất nên thơ. Nhà thờ họ An Thái.

Làng An Thái thuộc tổng An Lạc, huyện Tiên Hưng, tỉnh Thái Bình. Nay là thôn An Thái, xã Mê Linh, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.

Hạt giống Tin Mừng mới được gieo vào nơi đây và trổ sinh rất tốt đẹp. Cuối Thế kỷ 19, mới có một gia đình công giáọ, gia đình cụ Đaminh Trần Văn Thứ (cụ Hậu Thứ), cụ bà là Maria Nguyễn Thị Đang, với hai người con trai là cụ Lang Khiêm và cụ Chánh Lễ. Các cụ làm nghề lang thuốc, cứu chữa được nhiều ngườị. Vả lại các cụ là người phúc đức, nên được dân làng mến chuộng. Cụ bà lại rửa tội được nhiều trẻ em và người lớn hấp hốị. Một số sau này bình phục đã theo Đạọ, ít lâu sau lại có gia đình cụ Đaminh Bội và Đaminh Nghĩa từ Tịnh Xuyên đến định cư. Tiếp đó lại có một số gia đình các cụ khác nữa tới đâỵ. Đó là các cụ phó Tằng, cụ trùm Trinh, cụ trùm Chi, cụ Dựa, cụ Nhị, cụ cán Viêng, cụ cai Tề, cụ Hảo, cụ Thử và cụ Chuyên v.v…

Theo sử ký địa phận Trung xuất bản năm 1916, thì năm 1908 nơi đây đã hình thành một họ giáo tân tòng, họ An Thái thuộc về xứ Nam Lỗ. Cụ Hậu Thứ làm trùm và ngôi nhà thờ nhỏ bằng gỗ được dựng lên, trên mảnh đất diện tích 5 sào, do gia đình cụ tiến cúng. Nhà thờ này kính thánh Đaminh.

Năm 1916, họ tân tòng An Thái có 33 nhân danh. Cộng đoàn phát triển tốt đẹp. Sau cụ Hậu Thứ, đến các cụ trùm Thử, cụ trùm Khiêm, cụ trùm Nhung, cụ trùm Lễ, cụ trùm Trinh, cụ trùm Chi, cụ trùm Linh, cụ trùm Khoát, cụ trùm Huyên, cụ trùm Nghị…

Năm 1944, dân họ đã lên tới 45 gia đình và gần 200 nhân danh. Ngôi nhà thờ đã trở nên chật hẹp.

Với sự giúp đỡ của gia đình và con cái của cụ Hậu Thứ, ngôi nhà thờ mới được xây dựng. Ngôi nhà thờ cũ được bán cho Ninh Cường, Bùi Chụ và mua nếp nhà thờ mới của Sâm Bồ ở Hải Phòng. Các cụ kể lại: Nhà thờ Sâm Bồ đang xây dựng thì người Nhật bắt phá, để xây dựng sân bay Cát Bi.

Khi xây dựng nhà thờ An Thái, thì gặp nạn đóị Họ giáo gặp khó khăn. Dân làng cũng như dân họ giáo chết đói và phiêu bạt đến 1/3. Thợ làm phải ăn cháọ, thật là gian truân. Lúc đó cụ trùm Linh làm trùm họ và ngôi nhà thờ mới này đã nhận Ông Thánh Giuse Công Nhân làm bổn mạng.

Nhà thờ vừa xây xong thì gặp nạn vỡ đê Hà Xá (1945), nước ngập hết móng, nhà thờ bị ngâm nhiều ngày nước mới rút. Tiếp đó, Nhật đảo chính Pháp. Người Nhật đã đưa muối đem vào để trong nhà thờ An Thái cũng như nhà thờ Khuốc. Thời điểm này cụ trùm Khoát đương nhiệm. Cụ Huyên làm chánh kiểm hàng xứ. Cụ Huyên đã mạnh dạn ra can thiệp với người Nhật, đề nghị họ để muối xa chân tường và chân cột. Họ chấp nhận. Tuy vậy muối vẫn làm hư hại lớn đến công trình nhà thờ. Ảnh hưởng của nó vẫn kéo dài cho đến ngày hôm naỵ, tường vẫn bị muối phá huỷ, áo bị rữa, mặc dù đã sửa chữa nhiều lần. Thêm vào đó, do sự rung chuyển của bom đạn thời chiến tranh, tường bị nứt, kèo bị giãn. Độ đứng của tường đã bị rã ra ngoài ở hai gian cuối tới vài chục phân mét.
Đò Ngang Sông Tiên Hưng


Năm 1954, biến cố di cư vào Nam. Cụ trùm Nghị đương nhiệm và giáo dân họ giáo ra đi quá đông. Chỉ còn lại 17 gia đình, với 85 nhân khẩụ Ông quản Lịch lên làm trùm chánh, ông Đức làm trùm phó.

Tuy chỉ còn ít người, nhưng trong họ vẫn duy trì sinh hoạt kinh sách hàng ngày và gìn giữ nguyên vẹn ngôi thánh đường cũng như 5 gian Nhà phòng, cho dù có gặp khắc nghiệt của thời tiết và nhiều khó khăn khác.

Năm 1958-1959, lát gạch nền nhà thờ và xây sân khấu cuối nhà thờ.

Năm 1963, các vì cuốn trong nhà thờ bị giãn, cha già Uyên và Đức cha Trụ cho họ giáo 6 cây sắt phi 30 để khoá giằng các đầu cột lạị, lúc đó cụ Tạo làm trùm họ.

Năm 1968, nhà thờ bị sập cột và đổ hai gian đầụ, lại gặp chiến tranh bắn phá miền Bắc, Ông trùm Nghiên đương chức bị bệnh nặng và qua đờị. Giáo dân phải chuyển tượng ảnh và đọc kinh dưới nhà phòng suốt 2 năm trờị. Cụ Lâm lên làm trùm và phải 2 năm sau mới sửa lại được 2 gian đầu nhà thờ.

Một điều cũng lấy làm lạ, là khi giáo dân đang đọc kinh cầu nguyện trong nhà thờ khá đông, thì những miếng chắp mê bằng gỗ nặng hàng tạ, từ trên đầu cột rớt xuống mà không trúng vào ai.

Năm 1978, ông trùm Trắc đương nhiệm, thì trong họ lại có 4 hộ với 17 khẩu bỏ làng đi kinh tế mới ở Đắc Lắc. Cụ Tạo lại tiếp tục làm trùm. Thời điểm này có chính sách quy hoặch dân cư. Một số gia đình xung quanh nhà thờ phải chuyển qua đê bên bờ sông. Các Miếu, Đình cũng phải chuyển hết đi nơi khác. Nhà nước đưa một đội máy ủi, máy gạt về san phẳng khu vực này thành ruộng cấỵ. Riêng ngôi nhà thờ thì khi máy ủi vào ủi sát chân móng tường và đưa đất xuống lấp ao nhà thờ, đến đường ủi thứ hai thì máy đi quá đà nên chúc đầu xuống ao, không thể nào lùi lên được và bị chết máỵ Nhân cơ hội đó, cụ Tạo đã đề nghị với lãnh đạo của đội máy về việc san ủi như vậy sẽ đổ mất nhà thờ. Họ trả lời là chỉ làm theo lệnh cấp trên, ông lên tỉnh mà hỏị. Cụ Tạo đã lên ngay huyện Đông Hưng gặp Công an và Mặt Trận huyện. Các vị trả lời, ông cứ về, đề nghị của ông chúng tôi sẽ điện về ngaỵ. Khi cụ Tạo về đến nhà thờ thì mọi sự đã được yên ổn. Vài ngày sau, đội máy cho chiếc máy khác đến kéo chiếc máy chết lên. Nhưng không phải kéo, chiếc máy ủi lại nổ máy và tự lùi lên được. Từ đấy đến nay khu vực thánh đường được ổn định. Riêng có ruộng ở ngoài đồng thì bị xung công mất 2 sào ở bờ La và 1 sào ở bờ sông gọi là Vườn Vải Ông Thánh.

Năm 1983, nhà thờ bị giột nát nhiều và hư hỏng nặng. Cha chính Cẩm và Đức cha Bỉnh đã giúp họ giáo, đảo lại toàn bộ mái ngói nhà thờ.

Năm 1984-1989 ông Cường làm trùm, đã cho đảo mái ngói Nhà phòng.

Đầu năm 1990, ông Hiện làm trùm. Họ giáo gặp khó khăn. Vốn quỹ không còn gì. Trong khi nhà thờ lại hư hỏng nặng: Mối xông toàn bộ hoành rui, không có khả năng đứng vững được nữạ. Dân họ ra công làm gạch, ngói để sửa nhà thờ. Với sự giúp đỡ của cha chính Cẩm và Đức cha Phanxicô, họ giáo đốt được 5 vạn gạch và 2 vạn ngói, mua được 5 khối rưỡi gỗ lim. Nhờ vậy đã thay sửa được hoành rui hư hỏng và đảo lại được mái ngói.

Năm 1991, xây hai bờ tường bao khuôn viên nhà thờ.

Năm 1992 làm thêm 7 vạn gạch và năm 1993 xây 800m2 sân xung quanh nhà thờ cùng với dậu xung quanh sân.

Năm 1994, mua được quả chuông Tây nặng 180 Kg. Thời điểm này họ giáo có 31 gia đình và 131 nhân danh. Lúc này họ giáo hàng tuần thường xuyên có Thánh lễ.

Năm 1996, ông Thấu lên làm trùm. Thời kỳ này cha Giuse M. Trần Đức Hạnh từ Thuần Tuý sang phụ trách giáo xứ. Họ giáo lại làm thêm 6 vạn gạch nữa để chuẩn bị xây Nhà giáo lý.

Năm 1997, đặt tượng Thánh Quan Thầy trên trước cuối nhà thờ, do ông bà Kỷ phúng.

Năm 1998, ông trùm Hiện lại tái nhiệm đến 15-8-2004.

Năm 2000 đúc lại chuông và mua thêm một quả chuông mới, xây Nhà Giáo lý.

Năm 2004 lát toàn bộ gạch men trong nền nhà thờ, sửa sân khấu cuối nhà thờ, với sự hỗ trợ của gia đình cụ cố Vượng bên Úc. Lúc này cha xứ Đaminh Nguyễn Văn Quát đã về xứ. Ông trùm Oanh đương nhiệm khoá này, từ 15-8-2004 đến 15-8-2008.

Vài dòng sơ lược về họ giáo, không thể nói hết được những nét đẹp của cộng đoàn nàỵ. Chúng ta có thể nói rằng: Họ giáo có được như ngày hôm nay, ngoài sự giúp đỡ của các đấng bậc, các ân nhân xa gần, còn có một yếu tố quan trọng là sự hy sinh cố gắng cao độ của các ban trùm cũng như bà con trong họ giáo qua mọi thời kỳ. Nhất là trong những giai đoạn khó khăn.

Nhờ lòng đạo đức nhiệt thành của tiền nhân và dân họ mà họ giáo tuy nhỏ và là tân tòng, mà nay cũng đã đóng góp cho Hội Thánh được một số những người con ưu tú. Đó là:

-Linh mục Giuse Nguyễn Thanh Liêm, đang phục vụ tại Tổng Giáo Phận Brisbane, Queensland, Úc Châu.

-Tu Sinh Đaminh Nguyễn Đức Trụ, đang tu học Dòng Thánh Tâm tại Sydney, Úc Châu

Các nữ tu:

-Dì Cecilia Nguyễn Thị Thanh Thủy RSM, Dòng Đức Mẹ Từ Bi, Brisbane, Úc Châu, đang phục cho Hội Hồng Thập Tự LHQ tại Cộng Hoà Malaika, Phi Châu.

-Dì Mary Vũ Thùy Linh, Dòng Trinh Vương Việt Nam tại Úc Châu đang phục vụ tại Sydney.

Ngoài ra còn một số mầm non ơn gọi đang phát triển.

Hy vọng với truyền thống tốt đẹp sẵn có, cộng đoàn An Thái sẽ lớn lên trong tình yêu Chúa mỗi ngàỵ.

Lm. Dom Nguyễn Văn Quát

Quản Nhiệm giáo xứ Nam Lỗ


&

Joseph Nguyễn Vĩnh Resource

********************

PHẦN HỒI KÝ

Ký ức về quê Ngọai:


Chiếc xe đang bon bon trên đường gần tới Nam Lỗ, thì một người trên xe hỏi tôi:

Ông cố Cha Thỏa ở Võng Phan, Hưng Yên. Võng Phan - Nam Lỗ đường xá xa xôi như vậy, sao Ông cố lại quen được Bà cố mà cưới nhau, chắc mối tình phải lâm ly lắm nhỉ ?

Tôi trả lời: Hồi đó tôi làm mai cho Ông cố tôi đó. Cả xe cười rộ lên. Một người hỏi:

Hồi đó Cha ở nơi mô mà làm mai rứa?

Cả xe lại được dịp cười thỏai mái. Trên xe hôm đó có một số Việt Kiều Úc, cha Liêm, bà cố Vượng và tôi về thăm quê ngọai lần thứ hai vào đầu tháng 12 năm 2000. Từ đó hình ảnh quê ngoại đã khơi dậy trong trí tôi biết bao kỷ niệm ấu th. Hồi còn bé tôi đã được theo Ba Má về thăm quê ngọai mấy lần. Vì còn nhỏ nên tôi thấy quê ngọai bao la, làng mạc nằm trên cánh đồng lúa, bên cạnh là con đê lớn song song với con sông rộng và sâu. Tôi nhớ nhà ông Kiểm Lâm là em ruột Bà ngoại, ở sát bên cạnh bờ sông và con đê. Nhà ông có một vườn cây, tôi rất thích thú được trèo lên cây để hái ổi hái táo. Rồi từ đó đi vào làng phải xuống một con dốc. Bờ tre quanh làng xen lẫn hàng hoa giấy và hoa Tầm xuân nở rộ quanh năm đỏ rực. Con đường làng quanh co qua nhiều cái ao rộng, trồng hoa sen hoa súng. Trong đầm gì đẹp bằng sen, lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng. Đi sâu vào giữa làng, một ngôi nhà thờ nguy nga, ngọn tháp cao vút, khu nhà xứ rất rộng. Bà ngoại tôi là bà Nguyễn Thị Sinh, ông ngoại đã chết lâu rồi, sau khi sanh được hai người con la Bác Tuệ ở Tuộc, và bà Nguyễn Thị Tòng là bà cố tôi. Hai con đi ở riêng nên bà ngoại về ở với ông cậu út là ông Kiểm Xuyên. Nhà ông Cậu cạnh nhà xứ và nhà thờ, trước cửa có trồng nhiều cây dâu tằm. Tôi thường leo lên cây dâu để hái quả và đẽo sâu dâu về nướng ăn.

Ôi quê ngoại sao đẹp và vĩ đại thế. Quê hương là chùm khế ngọt, cho con trèo hái mỗi ngày. Quê hương là con đò nhỏ, Mẹ về nón lá nghiêng che. Quê hương nếu ai không hiểu sẽ không lớn nổi thành người.

Ngoài mấy lần theo cha mẹ về thăm quê ngoại, sau tôi còn được diễm phúc về sống hai năm trên mảnh đất quê ngoại. Cha già Vinh Sơn Nguyễn Hữu Thụy là em ruột bà nội tôi, Ngài về hưu ở họ An Lạc (Lác Làng) thuộc xứ Nam Lỗ năm 1949 – 195, Ngài bắt tôi theo Ngài và nói:

Tao muốn gây dựng cho mày để sau này trở thành giống má. Tôi chẳng hiểu “ giống má” là gì.

Chỉ nhớ nhà và đòi về. Thỉnh thoảng Ngài lại cho tôi sang bên ngoại để chơi khuây khỏa. Rồi hôm ngoại qua đời, tôi được đại diện thay mặt Ba Má theo tiễn đưa ngoại đến nơi an nghỉ.

Lúc bấy giờ thời thế chia làm hai vùn, Tự do và làng Tề. Ba má tôi ở vùng Tề nên không thể về dự lễ an táng được.

Tôi được nghe người ta kể lại: Cha già Thụy là em ruột của bà nội tôi. Hồi Ngài đang coi xứ Tuộc, Ngài đã mai mối để Ba Má tôi cưới nhau. Trong gia đình bên nội, có nhiều anh em, nhưng ngài thương Ba tôi nhất. Mỗi khi về thăm quê, Ngài thường ở nhà Ba Má tôi. Có lẽ vì thế mà Ngài đã lưu tâm gây dựng cho tôi trở thành “giống má”.

Kính thưa Cha già kính yêu,

Con đang viết những giòng chữ này, con xin chắp tay lạy Cha ba lậy một qùy để tạ lỗi, vì hồi đó còn thơ dại, con chẳng hiểu biết gì. Sau lớn lên con mới biết Cha già thương con lắm.

Con nhớ một hôm con nằng nặc đòi về, vì nhớ nhà, con cứ khóc và vùng vằn. Đường xá xa xôi cách trở, làm sao mà đưa con về được. Cha già khuyên bảo con, con không chịu nghe cha già không dám đánh con, vì ngài thương đứa cháu nhỏ phải xa cha mẹ. Ngài quay mặt đi và cho Thày Thông con Ngài đánh con ba roi. Thế là con giận cha già mãi......

Tháng 7 năm 1950 ban đêm con ngủ ở ngoài hè với mấy đứa trẻ, người ta đánh thức con dậy và nói: “dậy đi, dậy đi mau lên, để đưa cha già xuống nhà ngang dưới”. Con chẳng biết gì tưởng người ta dắt cha già xuống nhà dưới, sau đó con mới biết cha già vừa mới qua đời. Thế mà con chẳng có một giọt nước mắt để khóc thương cha già. Ngày hôm sau Thày Thông may cho con một bộ quần áo vải sô và một cái khăn tang. Thày dặn con: “Ngày mai khi đưa đám tang cha già, phải mặc quần áo sô và đội khăn tang đi trứơc Quan Tài, thay mặt cho Ba Má và họ hàng”. Không ai đến dự đám tang được, đường xá xa xôi cách trở vì hai vùng tề và tự do khác nhau, không đi lại được.

Cha già ơi; thật là vinh hạnh cho con được đại diện cho cả dòng họ để đưa tiễn cha già. Nhưng lại thật tệ bạc vì con chẳng biết gì. Con đã không nghe lời Thày Thông, và con đã bỏ trốn không mặc áo sô, để tang vì sợ mắc cở với chúng bạn.

Sau mấy ngày an táng cha già xong Thày Thông mới tính tội con. Thày chỉ cho con thấy những lỗi lầm và sự tệ bạc. Thày đánh con 5 roi, rồi cho bà cụ Luận đưa con về quê để báo tin cha già đã qua đời. Dù phải đòn đau nhưng sắp được về quê con thấy sung sướng và quên hết đau.

Về tới quê Võng Phan, mấy ngày sau thì trong xứ làm lễ phát tang cha già tại sân nhà thờ thật long trọng. Cụ Trần Bát Đẩu thay họ hàng đọc bài điếu văn khóc cha gìa:

Than rằng: Thấy hình Tử đạo treo ra

Nhìn xem sự tích xót xa lòng vàng.

Ngán thay sinh tử đôi đàng

Ai ân cắt rẽ can tràng làm hai.

Kính nhớ cha già bản quán

Thánh hiệu Vinh thiêng

Vốn xưa tính nết khoan hoà

Kiệm cần bác ái thật là khôn ngoan.

Nhà thờ nhà xứ lo toan.

Tài cao khéo vá vận hàn nổi danh.

Trải bao nhiêu xứ chung quanh

Thuộc trong ba tỉnh rành rành đến nay.

Ý trên mầu nhiệm ai hay?

Tám mươi lăm tuổi vừa đầy can chi.

Cha già sao đã vội đi

Để cho đâu đấy sầu bi rầu rầu.

Mộ phần AN LẠC đới sầu

VÕNG PHAN cây cỏ trăm chiều ủ ê.

Họ hàng thương cảm tiếng ve

Cháu con cảm động canh kê ngập ngừng.

Cây muốn lặn, gió chẳng đừng,

Hiếu chung hai chữ nửa chừng đắng cay.

Cha ơi có thấu chăng hay?

Muốn đem hiếu nghĩa mà xây bên mồ

Chẳng may đang lúc nhậm mù

VÕNG PHAN NAM LỖ đừơng cù xa xôi.

Cha về chầu Chúa Ba Ngôi,

Để cho quê quán ngậm ngùi nhớ thương.

Cầu xin Rất Thánh Nữ Vương

Rước Cha về nước Thiên Đàng Amen.


Thời thế biến đổi, tháng Tư năm 1954 mọi người kéo nhau vào miền Nam, tưởng chẳng bao giờ được về thăm quê ngoại và viếng mộ cha già nữa.

Tháng năm 1975 đất nước giải phóng hai miền Nam Bắc sum họp một nhà, thế là lại có dịp về quê ngoại và thăm mộ cha già. Từ năm 1995 đến nay tôi đã trở về thăm quê hương 5 lần và ba lần về quê ngoại, và viếng mộ cha già, và đã sửa lại mộ phần Cha già.

Cây có cội, nước có nguồn, con người có tổ có tông Quê ngoại dù không phải nơi chôn rau cắt rốn, nhưng có phần mộ Tổ Tiên của Ngoại, hơn nữa lại có Mộ phần của Cha già bên Nội, nên đời con cháu làm sao có thể quên được. “Quê Hương nếu ai không hiểu, sẽ không lớn nổi thành người “.

Lm. Vinh Sơn Trần Thanh Thoả

========

NHỚ VỀ QUÊ HƯƠNG NAM LỖ

Vài cảm nghĩ lần đầu tiên về thăm quê ngoại GIÁO XỨ NAM LỖ

Quê nội tôi là giáo xứ Võng Phan: ba tôi vẫn nói VÕNG PHAN NAM LỖ ĐƯỜNG CÙ XA XÔI..

Ra đi từ khi tôi lên 5 tuổi, tôi đã về quê nội hai lần, nhưng lần đầu tiên được về thăm quê ngoại và cũng là quê hương của chồng tôi.

Ngồi trên ôtô từ xa xa nhìn vào đã thấy tháp chuông cao vút của những nhà thờ giáo họ thuộc giáo xứ Nam Lỗ.

Cha xứ Đa Minh Nguyễn Văn Quát đã ra đón chúng tôi từ ngã ba Dình Thuong, có Cha Anh và anh em chúng tôi.

Về tới nhà thờ Lác Làng một hồi chuông vang lên, tôi đã thấy từ các ngõ đường dẫn đến nhà thờ các cụ già, người lớn, em bé mấy phút sau đã chật ních phòng khách giáo họ. Tôi cảm động vô cùng về lòng hiếu khách của cha xứ và giáo dân.

Chúng tôi được cha xứ dẫn về thăm giáo họ An Thái, nơi có các phần mộ tổ nội gia đình chồng năm an nghỉ bên cạnh giáo đường.

Nhìn ngôi thánh đường giáo họ An Thái, tôi nhớ lại hồi mới về làm dâu bà Nội chồng kể cho nghe về những ngày xây dựng ngôi thánh đường năm 1945 là năm đói. Các cụ đang xây thì có những người thợ đến xin làm không công, họ chỉ cần được ăn no. Ở nhà có một cót thóc lớn ngày nào cũng xúc thóc xay gạo cho thợ ăn mà sao cót thóc vẫn cứ đầy. Rồi con sông trước mặt tiền nhà thờ, tự nhiên nổi lên một cồn cát, thợ và giáo dân cứ ra xúc cát về xây. Khi hoàn thàhn xong ngôi thánh đường thì cồn cát cũng biến mất.

Trải qua 60 năm nhà thờ vẫn hiên ngang xừng xững với thời gian vẫn đẹp về lối kiến trúc cổ kính.

Về đến giáo họ Lác làng, Cha xứ dẫn chúng tôi viếng mộ Cha già Thụy là ông Cậu Nội của chúng tôi, đã an nghỉ bên cạnh đầu nhà thờ, tôi đã rơi lệ khi bao năm qua mà giáo dân ở đây vẫn có lòng kính mến cha già, người đã có những năm tháng quản nhiệm giáo họ Lác làng và gắn bó quãng đời về hưu ở đây. Tôi không nhớ được hình dáng của cha già cố. Nhưng ba tôi vẫn kể khi còn nhỏ anh em chúng tôi hay chơi chốn tìm, tôi là người hay chạy vào ẩn nấp trong áo chùng thâm của cha già ( vì cha già hay về nhà ba mẹ của tôi chơi hoặc dưỡng bệnh.)

Giáo họ Lác Làng cũng là nơi có phần mộ cố ngoại của ông xã tôi nằm an nghỉ bên cạnh giáo đường. Vì các ngài là những vị ân nhân của giáo họ.

Chúng tôi về là vào dịp lễ mừng bổn mạng của giáo họ Lác làng (Lễ Đức mẹ Dâng Mình) Chúng tôi được tham dự thanh lễ trọng thể, co ken tây va trong.

Vì thời gian eo hẹp, chúng tôi lại được Cha xứ đưa về giáo xứ Nam Lỗ nơi quê ngoại cúa chúng tôi bao la cánh đồng lúa và những vườn chè, nơi mà mẹ tôi đã sinh ra và lớn lên từ giáo xứ này, nơi mà mẹ tôi đã được dạy dỗ và học bao điều ở đó, hiền hòa, chân thật và nhẫn nại để mẹ về làm dâu giáo xứ Võng Phan và đã dạy dỗ anh chị em chúng tôi nên người.

Từ biệt giáo xứ Nam Lỗ, giáo họ An Thái, giáo họ Lác Làng, chúng tôi cứ luyến tiếc ngẩn ngơ và mong sẽ có ngày về quê hương để thăm lại.

Xin cảm ơn tiền nhân những người đã hy sinh và dùng cuộc đời mình như những viên gạch để xây nên một giáo xứ Nam lỗ.

Cuối cùng để tất cả chúng ta những người hậu duệ còn ở nơi quê nhà hay làm ăn phương xa luôn luôn nhớ đến và tự hào về mảnh đất thân thương này./.

Maria Thanh Nguyên

***

Hồi Ký Một Giáo Dân An Thái, Gốc Xứ Nam Lỗ


Quê Hương

Tôi sinh trưởng trong một gia đình trung lưu, thuộc làng An Thái, huyện Tiên Hưng, tỉnh Thái Bình Bắc Việt. Nhà tôi nằm trong một thửa đất rộng cỡ khoảng 1 mẫu Tây, có 2 cổng ra vào, chung quanh nhà có hàng rào tre, trúc và dậu găng, bao bọc chung quanh. Nhà tôi đối diện với nhà thờ giáo họ An Thái, chỉ cách bên này bờ và bên kia con đường làng

Tổ tiên của tôi đã xây cất lên những dãy nhà ngói đồ sộ nguy nga hình chữ U vuông nằm ngược. Khu nhà tôi ở có 2 cổng ra vào. Một cổng chính còn gọi là cổng (1) đi vào sân nhà ông bà Nội của tôi là Cụ Lang Khiêm và một cổng (2) đi vào sân nhà Cụ Chánh Lễ em ruột Cụ Lang Khiêm. Phía bên trong các cổng đều có sân lát gạch rất rộng, nối liền từ cổng vào nhà. Bên trái sân gạch cổng (1) là một dãy nhà ngói dài 5 gian của Cụ Lang Khiêm có nền cao chừng 1 thước rưỡi, muốn vào nhà phải bước lên nhiều bậc. Bên phải sân gạch là nhà bếp, chuồng trâu và bể chứa nước mưa, hứng từ cây mít chảy xuống. Bể nước mưa và nhà bếp được xây cất dọc theo bên bờ, hồ cá, ao bèo lớn. Bờ hồ có 4 mặt, 2 mặt giáp 2 con đường làng, 2 mặt còn lại giáp với nhà tôi và nhà ông phó Chuyên. Hồ có hàng rào găng cao, mọc lên theo hai bên bờ hồ, song song với 2 con đường làng, để đề phòng kẻ gian vào bắt trộm cá.
Nhà Thờ An Thái


Cùng dùng chung hồ cá, ao bèo rộng lớn này với gia đình tôi là gia đình nhà ông bà phó Chuyên. Nhà ông bà Chuyên nằm ngay góc ngã ba từ đường cái đổ dốc xuống đường làng và từ bờ sông quẹo trái xuống nhà thờ An Thái. Gia đình nhà ông bà Chuyên có anh Cần, anh Lập và chị Huê. Nhà họ nằm phía bên phải bờ hồ đối diện với nhà tôi.

Cổng (2) vào khu nhà Cụ Chánh Lễ, phía bên trái cổng (2) có một dãy nhà ngói, sau nhà Cụ Chánh Lễ có hàng rào găng, được trồng để ngăn cách giữa nhà cụ Chánh Lễ với nhà ông bà Chuẩn bên cạnh. Cổng (2) đi thẳng vào sân gạch phía trước nhà chú thím Nghị. Hai dãy nhà này thì nền thấp, từ sân bước lên chỉ cao khoảng 1 hay 2 bậc. Dãy nhà Cụ Chánh Lễ và dãy nhà chú thím Nghị, nối liền góc vuông thước thợ với nhau theo hình chữ L ngược.
Mồ Mả Tổ Tiên tác giả


Nhà Thờ An Thái

Giáo Họ An Thái
Dọc theo bờ sông có con đường Cái nối liền các làng, từ Hoàng Nông sang Lác Trại. Làng An Thái của tôi nằm ở giữa khoảng đường này và có con đường rẽ xuống nhà tôi và nhà thờ An Thái. Vừa rẽ xuống đường làng thì gặp ngay cái hồ sen ông Thánh phía bên trái cuối nhà thờ giáo họ. An Thái nhận Thánh Giuse thợ làm quan thầy, lễ kính hàng năm vào tháng Năm. Do đó gia đình chúng tôi cũng nhận Thánh Giuse làm Thánh Bổn Mạng.

Quê tôi là một họ lẻ của giáo xứ Nam Lỗ, thuộc giáo phận Thái Bình và có cái tên rất hiền hòa là An Thái. Theo lời kể của Bố Mẹ tôi. Tổ tiên tôi là những người tân tòng Công Giáo, nhưng vì nhờ phước đức ông bà, cho nên giòng họ làm ăn khá giả. Vì thế cụ Hậu Thứ là ông Cố Nội của tôi và là thân sinh của các các Cụ Lang Khiêm và Cụ Chánh Lễ đã tự xuất tiền túi ra xây nhà thờ An Thái để cảm tạ Thiên Chúa vì đã cho các cụ tìm biết Chúa. Nhà thờ được 2 cụ Lang Khiêm, cụ Chánh Lễ và Bố tôi trông coi, bảo quản cho đến ngày di cư vào Nam 1954, thì bỏ nhà thờ và tất cả tài sản lại sau lưng.

Gia đình chúng tôi cũng có ruộng đất thâm canh và thuê mướn người canh tác. Thỉnh thoảng tôi theo Bố Mẹ và các chị ra ruộng đạp guồng, tát nước lên ruộng và đem cơm nước cho các cô, chú canh nông. Nhưng đồng ruộng chỉ là nghề phụ, còn gia đình chúng tôi sống bằng nghề chính là nghề thầy thuốc Đông Y, chuyên bào chế thuốc gia truyền, chữa trị cho các bệnh nhân để “Cứu nhân độ thế”.

Nội tôi, được song than là Cụ Hậu Thứ gửi sang Tàu theo học ngành Đông Y. Cụ Lang Khiêm có 3 người con là: Bác Trùm Dậu gái, nhà ở gần nhà thờ Nam Lỗ, bác Lý Việt gái nhà ở Phục Lễ và Bố tôi. Nội tôi là người đức độ nổi tiếng, mát tay đã cứu chữa cho nhiều bệnh nhân. Dân làng, xã, huyện nhiều người kính nể. Cụ là Thầy thuốc giỏi, chuyên bắt mạch, khám bệnh, phê toa. Còn Bố tôi thì trông coi phòng thuốc, chuyên bốc thuốc theo toa cho các bệnh nhân từ phòng mạch ông Nội chuyển qua. Bà Nội và Mẹ tôi thì lo luyện thuốc hoàn tán và thuốc tễ. Ông Nội và Bố tôi đều thông thạo nho học, đọc thông viết thạo Hán văn.

Ngày còn nhỏ, cha Liêm và tôi, hai anh em chúng tôi lén bốc trộm thuốc tễ đang phơi của bà Nội và Mẹ tôi ăn vụng, suýt chết. Cha Liêm bị trúng thuốc, lở hết cả người, còn tôi thì bị tiêu chảy đến nỗi lõm sâu cả 2 con mắt. May nhờ có ông Nội cho uống thuốc giải kịp thời, nên đã thoát khỏi lưỡi hái tử thần.

Ông Nội tôi là Cụ Lang Khiêm qua đời khi tuổi còn trẻ, vì bị Tây càn, bắt đi tải đạn nặng nề và bị đánh đập tàn nhẫn, khiến Cụ bị chấn thương, bệnh nặng rồi qua đời, trong lúc đó Bố tôi cũng bị Tây càn, bắt đi lao động biệt tăm tích gần 2 năm trên vùng cao. Khi ông Nội tôi chết, Bố tôi còn đang bị giam ở Yên Phụ, Yên Tử, Bắc Giang.. Sau này Bố tôi vượt tù, chạy bán sống, bán chết, trốn về được đến nhà.

Ngày an táng Ông Nội tôi là một ngày rất đau buồn, vì lối xóm không ai dám tụ tập đông người, sợ Tây về làng càn quét bắt đi. Mẹ tôi thắt cho tôi chiếc khăn tang, quấn tròn trên đầu, rồi tôi cũng ngẩn ngơ khóc như mọi người, đi theo sau quan tài của Ông lên nhà thờ, cùng với mọi người đọc kinh cầu nguyện, rồi đem Ông ra chôn cất phía bên hông trái nhà thờ An Thái, kế bên mộ song thân của Ông là 2 cụ Hậu Thứ.

Qua nhiều biến cố thời đại, sau 1975 nhà thờ An Thái bị xuống cấp trầm trọng. Ban Hành Giáo của giáo họ đã gửi thư sang Úc, đề nghị gia đình chúng tôi trợ giúp trùng tu lại Thánh Đường và bốc hài cốt các Cụ, cải táng lên khuôn viên phía bên phải nhà thờ An Thái chôn cất lại như ngày nay, để gìn giữ di tích lịch sử, ghi nhớ công ơn của các Cụ đã xây dựng lên nhà thờ giáo họ An Thái. Chúng tôi đã làm theo lời yêu cầu của Ban Hành Giáo An Thái.

Khi còn nhỏ, tôi vẫn theo ông chú của tôi là Cụ Chánh Lễ vào nhà thờ An Thái vây lưới bắt chim sẻ. Bày chim sẻ thường hay chui qua các lỗ cửa sổ, gần mái nhà thờ. Chúng bay vào trong nhà thờ làm tổ và đậu trên các bàn thờ, tượng ảnh, phóng uế bừa bãi, dơ dáy các nơi thờ phượng, nên Cụ Chánh Lễ thỉnh thoảng huy động con cháu, vây lưới bắt chim làm thịt đánh chén. Cụ sai chúng tôi đóng hết các cửa lại, vây lưới chung quanh các cửa sổ, rồi lùa cho chim bay, dính vào lưới. Chúng tôi bắt được cả 100 con, bỏ vào lồng đem dìm chúng xuống dưới nước cho chết, rồi nhúng vào nước sôi nhổ lông, mổ bụng làm sạch sẽ, thịt bằm nhuyễn với hành tiêu, mộc nhĩ, rồi vo lại thành viên, bỏ vào nồi nấu măng miến cùng với tim, gan, lòng ruột. Món chim sẻ nấu miến ăn rất ngon và khóai khẩu.

Ngày nay, mặc dù ở một phương trời xa, dưới tận cùng của trái đất, cách quê nhà cả hàng chục ngàn dặm, nhưng cứ mỗi lần nhắc nhớ đến quê hương, tổ tiên, là tôi lại thèm “món chim sẻ nấu măng miến và mút những trái vải, nhãn lồng, có vỏ bóng láng trong khu vườn của gia đình tôi, quê hương An Thái”

Hồi đó, mỗi sáng Chúa Nhật chúng tôi phải sang quê ngoại, nhà xứ Nam Lỗ để tham dự Thánh Lễ, đường sang quê ngoại phải qua sông bằng con đò ngang của nhà ông Thận, hay còn gọi là bến đò Sổ. Có khi chị em chúng tôi rủ nhau đi sang nhà Ngoại sớm vào chiều thứ Bảy chơi, rồi ngủ tối bên đó, để sáng Chúa Nhật đi Lễ cho tiện và gần. Vì Lễ sáng Chúa Nhật được cử hành rất sớm khoảng 4 hoặc 5 giờ sáng. Lễ xong, mà trời vẫn còn tối.

Tôi còn nhớ, sau khi tan Lễ, ra khỏi nhà thờ, thì nhìn thấy hai bên đường đi vào nhà thờ, người ta bày rất nhiều nia, thúng để bán hàng, trong các nia có để các thức ăn và rau, quả như: Thịt trâu, bò hay thịt lợn, bánh, rau qủa, cá múa, tôm tép mới bắt được. Trên những chiếc nia được lót một lớp lá chuối xanh, bày bán thịt, tiết canh lòng lợn, tôi nhìn thấy mà phát thèm, nhỏ rãi. Các tô tiết canh được mấy ông hàng xáo, đánh rất nghệ thuật, tiết đông đến nỗi họ úp ngược tô xuống nia mà tiết vẫn không rớt ra khỏi tô.

Mỗi lần sang nhà ông Ngoại, chúng tôi thường ra sân cuối nhà thờ Nam Lỗ vui chơi đuà giỡn. Phía cuối nhà thờ Nam Lỗ có một bức tường và tháp chuông cao, dưới bức tường có những cái cửa, phía trên hình tròn. Chúng tôi rủ nhau chui qua, chui lại và chơi trò năm mười, ẩn núp, tìm bắt.

Thỉnh thoảng chúng tôi được quan sát ông Cận giật chuông, ông Cận có tật ở chân, nên ông phải đi khập khễnh. Mỗi khi ông kéo dây chuông xuống, thì quả chuông lại văng lên, kéo theo sợi dây chuông và người ông cũng đu lên theo quả chuông, nhìn rất buồn cười.

Theo Bố Mẹ tôi kể lại, thì tôi chào đời tại quê hương An Thái và được bế sang nhà thờ xứ Nam Lỗ cho cha Giuse Phạm Hữu Đoàn rửa tội, lúc đó có thầy Điều con thiêng liêng của cha Đoàn còn đang giúp xứ, thầy Điều hiện nay là cha già cố Đa Minh Nguyễn Trinh Đức đã cao tuổi và bị lãng trí, đang nghỉ hưu dưỡng ở giáo xứ Thánh Tâm, kênh B2, Cái Sắn, giáo phận Long Xuyên.

Lúc chị em chúng tôi lớn khoảng 4 hay 5 tuổi, thì Bố Mẹ cho chúng tôi gia nhập vào đoàn nghĩa binh của giáo xứ, do ông Quản Bột làm quản giáo nghĩa binh, coi sóc chúng tôi. Ông Bột có liên hệ bà con với Mẹ tôi, tôi gọi bằng bác Bột, ông cũng là là em ruột của bà Chánh Lễ, bà thím của tôi. Tướng tá bác Bột cao ráo giống như Tây lai. Thời kỳ cải cách ruộng đất sau 1954, bác bị tòa án nhân dân địa phương kết tội gì đó.....rồi đem Bác đi xử bắn. Bác bị chết oan. Nghe đâu sau này, nhà nước xin lỗi và phục hồi nhân phẩm cho Bác. Cũng tội nghiệp cho bác Bột của tôi.

Những năm gần di cư vào Nam 1954, thì bác Trùm Viêm, bố của Cha Sơn làm trùm chánh trương xứ Nam Lỗ, bác trùm Viêm gái là con của bà Lý Ngàn. Bà Ngoại tôi và bà Lý Ngàn là chị em ruột, bác trùm Viêm gái với Mẹ tôi là chị em đôi con dì. Còn bác trùm Viêm trai là con cả của Cụ Chánh Chuẩn, nhà bác ở phía bên phải, đối diện nhà thờ Nam Lỗ, Đồng Mư. Nhà Ông Ngoại tôi thì ở phía bên trái, gần góc sân, cuối nhà thờ xứ. Đối diện nhà ông Ngoại tôi là nhà bác Báo. Bác Báo và Mẹ tôi cũng là con dì. Đàng sau nhà ông Ngoại tôi là nhà ông phó Đoán, rồi đến nhà bác Bột có các anh Quyền, Hy, Vọng …con bác.

Bà Ngoại tôi mất khi Mẹ tôi còn rất nhỏ, lúc đó cậu Huấn, cậu út của tôi chưa đầy một tuổi. Bà Ngoại tôi qua đời, ông Ngoại tôi hãy còn ở lứa tuổi thanh niên, mới có 27 tuổi. Cụ ở vậy, gà trống nuôi con, nuôi 3 chị em Mẹ tôi là: bác Hữu gái 5 tuổi, Mẹ tôi 3 tuổi và cậu Huấn chưa đầy 1 tuổi. Ông Ngoại tôi tần tảo, vất vả nuôi con, sau này ông phải nhờ cậy đến bà Sinh là bà chị ruột của Ông Ngoại, cũng là bà Ngoại của cha Thỏa và bà Cần vào phụ giúp trông coi 3 chị em Mẹ tôi. Tôi cảm phục Ông Ngoại tôi, một thanh niên có chí khí nam nhi với lòng chung thủy phu thê đáng khâm phục. Ông thủ tiết nuôi các con cho đến ngày lâm trọng bệnh, qua đời tại nhà tôi trên Sàigòn năm 1971, thọ 79 tuổi.

Đi học miền Bắc

Khi lớn lên khoảng 3 hay 4 tuổi, chị em chúng tôi được Bố chở lên tỉnh Thái Bình mua cho mỗi đứa một cái cặp gỗ, loại cặp như cái hộp nhỏ chừng 4 tấc vuông, có chân gấp xéo, giống cái bàn của mấy anh bán kẹo kéo.

Mỗi buổi sáng chị em chúng tôi, ăn cơm nước xong, đeo cặp, đi bộ sang làng Lác học, chúng tôi phải đi qua Mả Vừa (nghĩa địa) làng Lác. Vì còn nhỏ hay sợ ma, cho nên mỗi khi đi qua nghĩa địa, tôi cảm thấy người hơi rờn rợn tóc gáy.

Trường làng là một căn nhà ngói, thô sơ của thầy giáo Sánh, căn nhà này đã từng bị bom của Tây đánh sập. Tất cả các học sinh đều phải ngồi xếp bằng trên các manh chiếu rách để học, bò chổng mông lên viết bài, ngoại trừ mấy chị em tôi có bàn viết. Sau giờ học chúng tôi về nhà đóng cổng, chơi với nhau trong sân, không được ra ngoài lêu lổng.

Hồi đó, trong làng chỉ mình Bố tôi có chiếc xe đạp, nên Bố tôi giữ rất kỹ. Lúc bấy giờ, xe đạp là loại hiếm quí, nó được coi là vật xa xỉ, giống như nhà giầu có cái xe hơi hiệu Mercedes bây giờ và còn qúi hơn nữa.

Với những kỷ niệm lưu luyến, Bố tôi thường dùng xe đạp, đèo 2 anh em chúng tôi lên tỉnh Thái Bình dạo chơi và mua sắm các đồ dùng cần thiết cho gia đình. Xe đạp kiểu đàn ông, được Bố tôi buộc thêm một cái ghế mây nhỏ, cột chặt vào khung phía trước xe, gần sát ghi đông (tay lái). Ghế loại trẻ con này dành cho tôi ngồi. Còn chiếc bargar phía sau dành cho cha Liêm. Mấy Bố con chúng tôi cũng thường hay lên Thái Bình vào tiệm chụp hình, chụp những tấm hình kiểu với chiếc xe đạp, để kỷ niệm. Khi di cư vào Nam, gia đình chúng tôi mang theo được những tấm hình này, nhưng một thời gian sau, căn nhà ở dinh điền Cái Sắn, tỉnh Long Xuyên của chúng tôi bị bão lụt, nên những tấm hình quí giá này bị hủy hoại hoàn toàn. Năm 1954, lúc trốn khỏi làng, di cư, gia tài Bố con tôi chỉ đem theo độc nhất có chiếc xe đạp. Ra đến tỉnh Hải Dương, Bố tôi đã phải bán nó, để lấy tiền độ đường, mua vé tàu hỏa xuống Hải Phòng.

Di cư

Cũng 1954, sau vụ cải cách ruộng đất, có những kẻ ác cảm muốn chiếm đoạt tài sản của gia đình chúng tôi, chúng đã xếp gia đình chúng tôi vào loại địa chủ, chuẩn bị đưa gia đình chúng tôi ra đấu tố. Mặc dầu Cha, Ông chúng tôi chỉ là những thầy thuốc Đông Y chuyên lo “Cứu Nhân Độ Thế”. Hơn nữa Ông Nội và Bố tôi đã bị Tây càn, bắt đi lao động, giam giữ gần 2 năm tại vùng rừng sâu nước độc mãi tận Bắc Giang..

Trong thời điểm 1954. Dân chúng được thông tin, ai muốn đi vào Nam thì tập trung, rồi sẽ có cán bộ hướng dẫn ra đi, do đó dân làng kéo nhau xuống bến đò Gồ Láo, làng Lác, bên kia sông là làng Sốc để vượt sông di cư. Nhưng trên thực tế, các cán bộ thôn, xã đã được chỉ thị bằng mọi cách giữ dân lại. Khi dân chúng tập trung tại bến đò ngang để qua sông tìm đường ra Hải Dương, Hải Phòng, thì cán bộ cho dấu đò ngang và tuyên truyền để đồng bào giải tán trở về nhà làm ăn, xóa bỏ ý định dời quê hương.

Bố tôi trốn trại tù của Tây về nhà được vài tháng thì lại bị Ủy Ban thôn xã, bắt đi nhân công tải đạn tiếp tế vào Nam. Sau nhiều lần tập trung họp tại đình làng An Thái để xác định bổ xung công tác. Vào một đêm không trăng sao, khoảng 1 hay 2 giờ sáng, bố tôi đã xé rào, trốn khỏi làng, chỉ dẫn có một mình tôi đi theo. Lý do chúng tôi phải xé rào trốn đi, vì dân quân họ gác chặn các nơi đầu làng, xó chợ, để giữ dân lại.

Cha con tôi vượt thoát khỏi làng, đạp xe đến cầu đổ Quỳnh Côi, lúc đó trời mới tờ mờ sáng, thì ngã xe xuống ruộng, ướt hết cả người, tôi rét run cầm cập. Bố tôi cởi hết quần áo của tôi ra, vắt sạch nước cho khô, rồi mặc lại cho tôi. Ra tới Hải Dương thì đã trưa, Bố tôi vào đồn Tây xin cơm cho tôi ăn. Tôi nhìn thấy tên Tây đen thì khóc thét, ôm chặt lấy Bố tôi. Sau đó Bố tôi đi tìm người mua, gạ bán chiếc xe đạp để lấy tiền độ đường, mua vé tàu hỏa đi xuống Hải Phòng.

Tới Hải Phòng, hai cha con tôi vào tạm trú ở trại tỵ nạn, căng Thượng Lý để đợi Mẹ tôi. Chừng 1 tuần sau, thì Mẹ tôi dẫn được bà Nội, chị Lạc tôi, cha Liêm và em trai tôi 1 tuổi và người chị họ cùng trốn thoát được đến Hải Phòng. Hai cha con tôi gặp lại gia đình thì mừng rỡ. Thế là ngày hôm sau chúng tôi bồng bế nhau xuống tàu “Há Mồm” di cư vào Nam ngay, vì sợ ở lại Hải Phòng lâu, có thể sẽ bị đuổi về An Thái.

Lên Tàu Thủy dời bến Hải Phòng, sau 3 ngày, 3 đêm lênh đênh trên biển cả, tàu chúng tôi đã cặp bến cảng Sàigòn. Mọi người xuống tàu, được đoàn xe cam nhông chờ sẵn, chở chúng tôi lên trại định cư Lạc An, Tân Uyên, Biên Hòa. Nơi đây đã có sẵn nhà cửa, được làm bằng cỏ tranh do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa miền Nam xây dựng sẵn cho đồng bào di cư.

Xuống xe chúng tôi phải qua phà để sang trại Lạc An phía bờ bên kia thượng nguồn sông Đồng Nai. Nơi đây đã có hàng chục ngàn người di cư đến trước chúng tôi. Chúng tôi tìm kiếm những người gốc giáo xứ Nam Lỗ như: Sổ làng, Lác Làng, An Thái, Sốc v.vv.. tụ họp nhau lại, rồi đi vào xa và sâu hơn để nhận nhà. Vì chúng tôi đến sau các giáo xứ khác.

Đến trại Lạc An, Tân Uyên, Biên Hòa, chúng tôi như rắn không đầu, cố gắng qui tụ lại với nhau, lập thành nhóm đồng hương giáo dân gốc xứ Nam Lỗ, rồi cùng nhau xây dựng lên nhà thờ, lập thành giáo họ Nam Lỗ, Lạc An để tưởng nhớ quê hương. Tôi thấy chưa bao giờ chúng tôi có sự đoàn kết, thân tình đồng hương, như những lúc phải xa quê hương như thế này..Giáo họ Nam Lỗ, Lạc An chúng tôi được sát nhập vào giáo xứ Vạn Đồn, Lạc An do cha Phêrô Mai Trí Thuật làm quản xứ. Kế bên giáo họ Nam Lỗ là giáo xứ Cao Xá, Lạc An do Cha già Khuông quản xứ, Ngài ghiền ăn trầu. Tôi còn nhớ Cha già Khuông có 2 người con linh tông là thầy Khang và thầy Khải. Thầy Khang đỗ linh mục vào thập niên 60, hình như sau đó được về làm quản xứ giáo xứ Thái Bình, Xóm Mới, Gò Gấp, Sàigòn và thầy Khải sẹo, xuống Cái sắn Kinh B theo cha Tân giúp xứ Bình Cát (Thái Bình, Sa Cát) vài năm, thầy Khải đỗ linh mục thuộc giáo phận Cần Thơ rồi được cử đi làm quản xứ giáo xứ Hòa Tú, Cổ Cò, Sóc Trăng.

Ngoài ra Cha Đoàn còn dẫn theo một số đông giáo dân gốc nhà xứ Nam Lổ vào vùng rừng núi Bà Nhã, Bời Lời, Trảng Bảng, Tây Ninh định cư, thành lập lên giáo xứ mới Nam Lỗ, Bời Lời, Tây Ninh.

Xuống miền cực Nam lập nghiệp

Định cư ở 2 vùng Lạc An và Bà Nhã, Bời Lời được gần 2 năm. Tình hình kinh tế làm ăn khó khăn, chỉ trông cậy vào nghề thủ công nghệ. Thanh niên, đàn ông phải vào tận rừng sâu nguy hiểm: chặt tre, đốn giang, đóng bè lao xuống sông, thả trôi theo dòng nước về trại, vớt lên: chẻ tre, vót nan, đan, lát, thành thúng mủng, rổ rá, giao cho con buôn đem về Sàigòn bán. Hàng ngày dân chúng chỉ ngóng cổ, trông cậy vào viện trợ lương thực của giáo hội Công Giáo Hoa Kỳ, nên Đức Cha Phạm Ngọc Chi giám đốc đặc trách phong trào di cư, đã liên lạc với Phủ Tổng Ủy Di Cư của chính quyền miền Nam, xin cho di dân xuống các dinh điền thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền Tây như: Mộc Hóa, Sóc Trăng, hay Cái Sắn, Rạch Giá, Long Xuyên.

Thế là cuộc di cư vĩ đại lần thứ 2 lại được thực hiện vào năm 1956. Tât cả bà con đồng bào thuộc trại Lạc An ai muốn đi xuống vùng nông thôn lập nghiệp thì chuẩn bị xuống tàu, di cư xuống tận cùng của miền Nam nước Việt. Gia đình chúng tôi cũng nằm trong diện của hàng chục ngàn dân di cư này. Lại bảo nhau thu dọn, bồng bế xuống chành lúa do chính phủ thuê bao để xuôi Nam.

Miền Nam gọi là “Chành Lúa” là những chiếc thuyền khổng lồ chở thóc, lúa. Mỗi chiếc có trọng tải được hàng ngàn tấn thóc. Cứ mỗi chiếc chở được khoảng 100 gia đình. Mỗi một đoàn Chành Lúa gồm 10 chiếc, do một chiếc tàu thủy có máy lớn kéo đi. Vị chi cứ mỗi lần 10 chành luá như vậy, thì đã di chuyển được cả ngàn gia đình xuống Cái Sắn, Long Xuyên, Rạch Giá.

Xuống Cái Sắn vào đầu năm 1956, nhìn thấy sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, cánh đồng bát ngát, bao la, ai nấy được thở một không khí trong lành mát mẻ tự do. Chính phủ miền Nam đã đào kênh dẫn nước, chia cắt ruộng đất và làm nhà cửa sẵn sàng cho dân. Họ cấp phát tiền và viện trợ lương thực hàng ngày cho từng nhân khẩu và chia cho mỗi gia đình một thửa đất chiều ngang 30 mét tây, chiều dài 1 cây số 200 mét, (30m x 1,200m = 36,000m vuông) khoảng gần 4 mẫu tây ruộng, độ chừng 26 công tầm cắt, (kiểu đo ruộng của người dân miền Nam. Mỗi công tầm cắt rộng khoảng 3 sào 6 miền bắc) và cứ 3 gia đình thì được cấp phát cho một con trâu.

Ruộng đồng thẳng cánh cò bay, ai nhìn cũng ngán. So sánh với miền bắc, mọi người ai cũng thắc mắc, sao mà chính phủ cho ruộng nhiều thế, làm sao mà cày cấy cho hết, chắc phải bỏ hoang.

Người dân di cư còn đang hoang mang vì nhiều ruộng đất, thì chính phủ cho đội máy cày cả 100 chiếc xuống, cầy ruộng khai hoang cho đồng bào, phát thóc giống cho bà con gieo mạ cấy cày. Đội cán bộ canh nông đến hướng dẫn bà con xạ lúa theo kiểu miền Nam, chứ không cấy lúa theo kiểu miền bắc và cũng không phải tát nước be bờ. Chỉ cần cầy ruộng lên, rắc thóc xuống ruộng, cho máy bừa lại một lần, trời mưa xuống là lúa mọc lên. Lúa mùa mọc lên theo mực nước sông Cửu Long, nước dâng lên tới đâu, lúa mọc lên tới đó. Nước dâng lên tràn ngập cánh đồng trong 6 tháng. Khi nước rút xuống thì lúa chín, người dân chuẩn bị gặt lúa. Họ chỉ cần dùng cái liềm cắt bông lúa, còn rạ bỏ lại cánh đồng, đốt làm phân tro.

Dân di cư cảm thấy vui mừng phấn khởi, vì cách làm ruộng của nông dân miền Nam thật dễ dàng, không vất vả như làm ruộng ở miền bắc, mà lại gặt được nhiều thóc luá. Mỗi năm, trung bình mỗi gia đình có thể thu hoạch được 400 dạ lúa (Mỗi dạ 2 thùng, mỗi thùng 20 lít) khoảng 800 thùng thóc. Nếu đem so sánh với một gia đình miền bắc thì người di cư giầu có và sung sướng. Chẳng bao lâu người dân di cư vào Nam đã tái lập lại đời sống, trở nên phồn vinh. Các nhà xứ và giáo đường bắt đầu mọc lên nguy nga và tráng lệ. Song song với sự phát triển đó, giáo dân gốc giáo xứ Nam Lỗ đã qui tụ lại với nhau thành lập lên những giáo họ, hoặc giáo xứ gốc Nam Lỗ.

Riêng kênh B2 vùng Cái Sắn, các gia đình gốc Nam Lỗ đã qui tụ lại thành một khu, xây cất lên nhà thờ giáo họ Nam Lỗ, kênh B.

Sau khi Đức Cha Nguyễn Khắc Ngữ về thành lập giáo phận Long Xuyên, Ngài chia cắt, phân định lại ranh giới các giáo xứ cho rõ ràng, mạch lạc. Ngài phân chia mỗi kênh làm 2 giáo xứ (Mỗi kênh dài 12 cây số, Đức Cha phân chia mỗi giáo xứ 6 cây số chiều dài, cắt ngang kênh bằng Kênh Đòn Giông). Do đó giáo họ Nam Lỗ kênh B phải lệ thuộc theo giáo xứ có tên mới là Thánh Tâm. Kinh B có đông giáo dân từ nhiều giáo xứ gốc giáo phận Thái Bình. Nên Giáo họ Nam Lỗ theo qui định ranh giới mới, qui tụ giáo dân của nhiều xứ khác miền Bắc gom lại, nên giáo dân đã bầu lại Ban Hành Giáo và biểu quyết đổi tên mới là giáo họ Hợp Tiến, để thể hiện tinh thần đoàn kết, xóa bỏ tên cũ Nam Lỗ từ đấy. Giáo họ Hợp Tiến có một ½ số giáo dân là gốc Nam Lỗ di cư, bây giờ trực thuộc giáo xứ mới Thánh Tâm do cha Đa Minh Nguyễn Trinh Đức (thầy Điều) con cha già Đoàn Nam Lỗ làm chánh xứ.

Đối diện kênh B là kênh Rivera, giáo dân gốc Nam Lỗ cũng đông, do cha Đoàn dẫn dắt, đã thành lập nên giáo xứ Nam Lỗ, nhưng giáo xứ này lại có đông giáo dân thuộc các giáo xứ khác ngoài miền bắc di cư cũng thuộc giáo phận Thái Bình cùng chung một khu, nên Cha Đoàn phải họp Hội Đồng Giáo Xứ lại, đổi tên mới là Bình Nam (do cái tên Nam Lỗ và Thái Bình gom lại) cho có sự thống nhất và đoàn kết. Giáo dân kênh Rivera theo chân cha Đoàn, thì đa phần là gốc thuộc họ nhà xứ Nam Lỗ ngoài bắc..

Khi Đức Cha Ngữ phân chia lại giáo xứ. Gx Bình Nam không nằm trong địa bàn qui định, nên bị mất xứ, xóa sổ. Cha Đoàn phải ra đi xuống kinh 8, gần tỉnh Rạch Giá, Kiên Giang để thành lập giáo xứ mới. Một vài gia đình gốc Nam Lỗ cũng theo Cha Đoàn xuống kênh 8 và kênh 7 lập nghiệp.

Hàng năm các con chiên gốc giáo xứ Nam Lỗ như kinh B, kinh Rivera tổ chức thuê đò máy, rủ nhau xuống chúc Tết cha già Đoàn. Đặc biệt Cha già Đoàn, Ngài ghiền thuốc lào, nên lúc nào cũng có cái điếu để trên bàn nơi phòng khách. Ai vào thăm, Ngài chào một câu, rồi kéo ngay cái điếu lại, bắn một bi thuốc lào xong, khà một cái cho đã, rồi mới nói chuyện tiếp khách.

Lên Sàigòn

Sinh sống ở Cái Sắn, Long Xuyên được vài năm, đến năm 1962, một trận đại hồng thủy đã tràn ngập khắp nơi trên vùng đồng bằng miền Tây sông Cửu Long, tàn phá hoa màu, nhà cửa ruộng vườn của người dân nông thôn. Gia đình chúng tôi đành bỏ Cái Sắn bồng bế nhau lên Sài Gòn lập nghiệp và buôn bán, để lại ruộng đồng cho người thân trông coi, một chốn hai nơi. Tuy sinh sống ở Sàigòn nhưng hàng năm chúng tôi vẫn về Cái Sắn ăn Tết và thu hoạch lúa mùa.

Đến năm 1975, sau biến cố 30 tháng Tư. Thì gia đình tôi từ từ chuyển nhượng tất cả nhà cửa, ruộng đất Cái Sắn cho cậu Huấn em út của Mẹ tôi.

Vượt biển đến Úc

Sau biên cố 30 tháng 4 năm 1975. Gia đình chúng tôi có cửa hàng buôn bán tạp hóa tại Sàigòn, nhưng đã bị chính quyền giải phóng tịch thu, xếp vào loại tư sản, nên họ đã cho đội dân phòng đến niêm phong cửa hàng và tịch thu, lấy đi tất cả hàng hóa của gia đình tôi.

Thế là sau hơn 20 năm thắt lưng buộc bụng, làm ăn buôn bán ở miền Nam, gia đình chúng tôi bây giờ lại trở nên trắng tay, vô sản. Anh em chúng tôi không được tiếp tục đi học nữa, mà phải tham gia vào lực lượng lao động, đi kinh tế mới. Chúng tôi đã bôn ba lên các vùng kinh tế mới, để tìm nơi lập nghiệp dung thân, nhưng chúng tôi đã hoàn toàn thất vọng.

Người dân kinh tế mới sau 1975 phải dùng sức lao động, tự tay phá hoang rừng rẫy, bằng những dụng cụ thô sơ thời đồ đá, không máy móc, không được sự giúp đỡ của chính quyền hay bất cứ cơ quan nào. Chỉ ra sức lao động cật lực để phá hoang, kiếm sống, tìm cây dựng lều, che nắng, che mưa, nằm gai nếm mật, trong nỗi buồn tuyệt vọng.

Tôi quyết định trở về thành phố và tìm đường vượt biển đi tìm tự do. Sau những tháng năm, lặn lội, trốn tránh, lùng kiếm mua ghe, thuyền, đem vào ụ thuê người sửa chữa, lắp máy, rồi kín đáo cất dấu kỹ lưỡng một nơi, chờ thời cơ, chọn một đêm tối tăm, mù mịt không trăng sao, hẹn giờ tụ tập xuống thuyền vượt biển trốn thoát, cũng như lúc di cư năm 1954.

Vượt thoát khỏi Việt Nam cuối năm 1979. Chúng tôi cập vào bến bờ đất nước Mã Lai và được Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc đón tiếp, rồi cho chúng tôi xuống tàu, đưa sang trại tỵ nạn trên đảo Pulau Bidong, Mã Lai tạm trú và bao bọc trợ cấp. Ở trên đảo Pulau Bidong khoảng 3 tháng, thì chúng tôi được phái đoàn Cao Ủy Tỵ Nạn Úc nhận, cho sang Úc Châu định cư.

Đặt chân xuống phi trường thành phố Adelaide, Nam Úc, như từ đáy giếng được vớt lên. Chúng tôi được nhân viên Bộ Di Trú và các cơ quan Từ Thiện di cư ra đón tiếp rất nồng hậu. Họ đưa chúng tôi vào trại tạm cư Pennington Hostel, tạm trú. Cứ 2 người độc thân thì nhận 1 phòng ngủ riêng biệt, sau đó lên hội trường làm thủ tục tái khám sức khỏe và lãnh tiền trợ cấp xã hội. Họ nuôi nấng và phát tiền cho chúng tôi hàng tuần. Ăn uống hàng ngày đã có Canteen, giống như nhà hàng nấu nướng sẵn cho, cứ việc xắp hàng đến lấy thức ăn ra bàn ngồi ăn, chẳng khác gì một restaurant sang trọng. Họ giúp đỡ chúng tôi, cho đến khi đủ sức hội nhập vào xã hội Úc, có thể kiếm được công ăn việc làm.

Hàng ngày chúng tôi được gửi đến trường, học Anh Văn để giao tiếp với người dân bản xứ. Mỗi buổi sáng, chúng tôi dậy sớm kéo nhau xuống Canteen ăn sáng rồi đi học. Chúng tôi vào canteen lựa chọn các thức ăn và nước uống nào mà mình thích, sau đó nhận phần ăn trưa đem theo đi học. Chiều đi học về, chúng tôi nghỉ ngơi tắm rửa đi dạo phố, rồi lại kéo nhau xuống canteen ăn tối.

Thời gian ở Hostel là thời gian rảnh rỗi, phè phỡn nhất, chúng tôi cảm thấy thật sự sung sướng. So sánh với đất nước Việt Nam thì đây là một Thiên Đàng hạ giới, vừa có cơm ăn, áo mặc lại còn được phát tiền tiêu sài hàng tuần. Nhưng chỉ có một nỗi buồn là nhớ quê hương, thương Cha Mẹ, anh chị em còn bỏ lại VN, thật là đau đớn xót xa.

Anh em chúng tôi ở trong Hostel một thời gian ngắn, thì Cha Thụ dòng Tên Việt Nam, Ngài sang Úc du học trước kia, đã giúp đỡ, thuê nhà cho chúng tôi ra ngoài ở, nhường lại các phòng trong trại tạm cư Hostel cho những đồng bào đến sau. Chúng tôi mướn một căn nhà có 3 phòng ngủ, 1 phòng khách, một phòng giải trí với 2 toilets trong nhà, giá thuê $25 dollars/một tuần, được chính phủ trợ cấp chu đáo, tiền nhà, tiền ăn phát hàng tuần. Đối với người Việt, thì dư giả để sống và có thể tiếp tục đi học lại, hoặc đi tìm việc làm. Vốn liếng Anh Văn của chúng tôi bây giờ cũng tạm đủ để hội nhập với xã hội Úc. Tôi trở lại trường học, đi học nghề một thời gian ngắn, sau đó kiếm việc làm. Anh em chúng tôi đều kiếm được việc làm, trong các công xưởng, ngoại trừ cô em út Thủy còn nhỏ phải tiếp tục đi học.

Khi đã có việc làm, chúng tôi đủ điều kiện bảo lãnh thân nhân sang Úc đoàn tụ. Người đầu tiên chúng tôi bảo lãnh là Bố Mẹ tôi.

Chỉ 2 năm sau ngày tôi đến Úc, thì một niềm vui vô tận lại đến cho anh em chúng tôi là nhận được thư của Bộ Di Trú thông báo, Bố Mẹ của chúng tôi đã được chính phủ chấp nhận cho sang Úc đoàn tụ và sẽ được đến Úc một ngày rất gần.

Tháng Ba năm 1982. Cả 4 anh em chúng tôi cùng với một đoàn xe gồm những bạn bè thân quen và gia đình những người bạn Úc ân nhân, đã hồ hởi lũ lượt kéo nhau ra phi trường Adelaide chào đón Bố Mẹ tôi sang đoàn tụ, trong nỗi vui mừng, hân hoan xúc động. Không còn nỗi vui mừng nào khôn tả hơn lúc này.

Bố Mẹ tôi đặt chân đến Úc cũng được hưởng tiền trợ cấp xã hội như mọi người. Đến Úc được vài tuần, tôi ghi danh cho 2 cụ đi học Anh Văn để bập bẹ chào hỏi, hội nhập vào xã hội mới, có thể trò chuyện với những người bạn Úc láng giềng chung quanh. Ở bên Úc, thỉnh thoảng Bố tôi cũng giúp đỡ đồng hương, bắt mạch phê toa cắt thuốc theo đông y cho những ai cần thuốc Nam để chữa bệnh, tránh sử dụng nhiều thuốc Tây làm cho bệnh nhân nôn nóng khó chịu. Bố tôi bắt mạch phê toa, hốt thuốc cho họ, lưu truyền nghề tổ tiên xưa. Bên Úc thuốc bắc, nam rất nhiều, nhưng vì Tây y hiện đại, đã trấn át ngành Đông Y, nên Bố tôi từ từ lui dần vào bóng tối. Đến đời chúng tôi thì tịt luôn mất gốc.

Một bộ sách thuốc của Ông Nội tôi viết bằng Hán tự cách nay cả 100 năm, bỏ lại miền bắc sau ngày di cư vào Nam năm 1954, bác Phúc bên nhà xứ Nam Lỗ đã sang An Thái thu gom về nhà và lưu giữ cho đến khi Bố Mẹ tôi từ Úc về thăm lại quê hương An Thái lần đầu tiên sau hơn 40 năm xa cách. Bác Phúc đã trao lại toàn bộ sách qúi này cho Bố tôi đem về Úc làm gia phả. Hiện nay Bố tôi còn lưu giữ trong nhà. Có lẽ đến đời chúng tôi, thì chỉ còn nước đóng hòm, cất làm kỷ vật.

Nghĩ lại thời xa xưa, lúc chúng tôi đến Úc chỉ vỏn vẹn có một cái giỏ nhỏ và mỗi một bộ quần áo do Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ phát, trước ngày lên máy bay dời Mã Lai. Thế mà giờ đây chúng tôi đã an cư lạc nghiệp và làm lại cuộc đời, còn hơn cả lúc ở bên Việt Nam với tuổi trẻ thanh xuân đầy sức lực. Chắc có lẽ chúng tôi được may mắn là nhờ phúc ấm của Ông Bà Tổ Tiên, đã bỏ công sức xây dựng nhà thờ An Thái để cảm tạ hồng ân Chúa, một cái Zen trong máu lưu truyền lại cho chúng tôi được hưởng.

Giờ đây nhìn lại khoảng thời gian trôi qua, bước sang tuổi lục tuần, thời thanh xuân đã hết. Sư nghiệp đã ổn định trên xứ lạ, quê người. Nỗi niềm hoài hương vẫn ray rứt trong lòng chẳng khi nào nhạt phai.

Ôn lại ký ức, dĩ vãng: Chôn rau, cắt rốn từ An Thái. Rèn luyên đức tin và sống đạo thuở ấu thơ từ giáo xứ Nam Lỗ. Lớn lên từ Cái Sắn, Long Xuyên. Thành nhân từ phố thị Sàigòn. Bôn ba tạo lập sự nghiệp ở Úc Châu và còn gì nữa....

Cuộc đời của gia đình tôi là những chuỗi thời gian lưu vong biệt xứ. Với tôi chắc cũng sẽ nằm xuống nơi vùng trời đất Úc cách xa quê hương thăm thẳm. Cái Gen Cha bỏ xứ, Con bỏ nước ra đi vẫn còn tiềm ẩn trong tôi.

“Bố tôi bỏ quê An Thái, dìu dắt gia đình di cư, xuống mãi tận miền cực Nam của đất Việt định cư”.

“Còn tôi phải bỏ nước ra đi, xuống mãi tận miền cực Nam của Địa Cầu lập nghiệp”.


Nghĩ về quê hương xứ sở, thỉnh thoảng tôi mở DVD coi lại chương trình Paris By Night, rồi ngâm nga, hát bản nhạc:

1954 Cha Bỏ Quê

1975 Con Bỏ Nước


Bản nhạc này, ca sĩ Elvis Phương đã hát cách nay trên 10 năm, để tưởng nhớ lại những ngày dời xa quê hương.

Một ngày Năm Bốn (54) Cha bỏ quê xa

Chốn đất chôn nhau, cắt rốn bao nhiêu đời

…………

Một ngày 54 Cha bỏ Đất Bắc vô Nam,

Dắt díu theo nhau, vô sống nơi Biên Hòa

……

Một ngày Bảy Lăm (75) Con bỏ nước ra đi

Hai mươi năm là Hai lần ta biệt xứ

……

Và giờ này con lưu lạc nơi xứ lạ

…………….. Hồi ký của Jo. Vĩnh
 
Văn Hóa
Những dòng sông đều chảy (thơ)
Hoàng Quang
14:08 30/07/2008
NHỮNG DÒNG SÔNG ĐỀU CHẢY

Filadelfia, những dòng sông đều chảy,
Ta đã xem và đã thấy,
Một dòng sông ý chí con người,
Đó là EM, người phụ nữ tuyệt vời !

Filadelfia ơi, ta cạn dần rồi …khi hai rạch ngòi
Rỉ chảy !...
Một là dòng Máu về tim, hai là
Rượu đánh lừa Ta tìm hưng phấn !

Filadelfia, con tàu Ta lận đận …
Sóng thời cuộc Việt Nam, những
Cơn co giật loại thần kinh bất ổn bất an,
Những thủ đoạn tham tàn đế chế !!

Filadelfia, dòng sông Việt Nam đang
Cạn dần từng thủy triều thế hệ
Bến mơ không còn chỗ cập bờ. Dù
Rằng hỡi em,Ta rất muốn…LÀM THƠ

Filadelfia, SÔNG MƠ đang ngừng chảy
Khi thực tế bẩn đen thế đấy,
Đặc sệt bùn – đặc sệt LŨ GIÒI …
Lúc nhúc luồn chun

Đàn cá hiền lành không còn nước thở,
Bờ bên này nhìn bờ kia trăn trở ?!
Con tàu ai quày quả suốt canh thâu,
Văn hóa biến thành hang hóa, Vì đâu???!

Nhờ có nước giòi mặc tình ngọ nguậy,
Chúng hút bẩn chẳng cần che đậy,
Trời Xanh chợt trông thấy nghẹn ngào,
Nên gọi Nước về với THANH KHÍ TRỜI CAO !!

Filadelfia, dòng sông nào cũng thế !
Trải tấm lòng mình
Như lời ru của MẸ
ChẢY khe khẽ lời ru

Chân lý cho ta sức gió thiên thu
Rộng thoáng mãi
Dẫu dù bao vật cản. Những
Dòng sông Việt Nam rồi đều chảy,
Filadelfia ơi, niềm tin ấy
GỌI TA !!

(Kính tặng thầy NLH nhân ngày hội ngộ lớp Khai Phá tại Saigòn)
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Có Đôi
Sen K.
00:29 30/07/2008

CÓ ĐÔI



Ảnh của Sen K. – Philippines

Trăm năm một cõi đi về

Ngàn năm vẫn vẹn lời thề sắc son

Trăm năm nước chảy đá mòn

Ngàn năm tình điệu vẫn còn y nguyên.

(Trích thơ của Hương Việt)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền