Ngày 23-07-2015
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Nuôi đám đông
Lm Vũđình Tường
07:04 23/07/2015
Khi tổ chức tiệc chúng ta thường phải chuẩn bị nhiều thứ. Tiệc càng đông người việc chuẩn bị càng nhiều và nếu có người phụ giúp gánh nặng sẽ giảm bớt nhiều nhưng nhiệm vụ của người quản tiệc vẫn đòi hỏi nhiều tính toán, chuẩn bị, nhờ đúng người, đúng việc.

Đám đông lắng nghe Đức Kitô hầu như cả ngày, thích thú đến độ không cần ăn uống. Các môn đệ xin Ngài giải tán đám đông để họ đi tìm chỗ ăn uống, nghỉ ngơi vì ngày đã gần tàn. Đức Kitô đáp các anh hãy lo cho họ ăn. Các ông la hoảng, tìm đâu ra của ăn nuôi năm ngàn người ở nơi quạnh hưu này, hàng quán thì không có, mà nếu có thì đào đâu ra tiền mua thức ăn. Một trong số các vị mạnh dạn thưa. Em bé kia có dăm cái bánh và hai con cá nhưng bằng đó thì thấm vào đâu cho số người khổng lồ này? Các môn đệ theo Thầy đã lâu nhưng vẫn không thể tưởng tượng, chưa nói đến hiểu, quyền phép Thiên Chúa. Các ông không biết Chúa có thể hoá ít ra nhiều bằng một lời nguyện cùng Chúa Cha. Các ông không biết Chúa chọn kẻ bé nhỏ nhất, hèn mọn nhất là em bé với hộp đồ ăn trưa để nuôi năm ngàn người lớn ăn no, số bánh dư, vất vương vãi trên cỏ thu lại thành nhiều thúng đầy. Không phải các môn đệ làm sự lạ cả thể mà chính Đức Kitô. Cũng không phải vì lời cầu xin của các ông mà Đức Kitô làm phép lạ mà chính là do tình thương mến Đức Kitô dành cho đám đông. Khi nghe Đức Kitô bảo các ông hãy nuôi đám đông, các ông sửng sốt đến ngạc nhiên tự hỏi không biết mình có nghe sai không? Nhưng khi nghe Đức Kitô bảo hãy nói với dân chúng ngồi xuống từng đám năm mươi lúc đó thì không còn nghi ngờ gì nữa. Các môn đệ vâng lời Đức Kitô nhưng không hiểu việc Thầy làm. Dù không hiểu nhưng vẫn vâng lời đó là điều Kitô cần suy gẫm khi cuộc sống gặp gian nan, khi đức tin gặp hoàn cảnh khó xử bởi việc Chúa làm không thể hiểu, ngoài mức hiểu của con người nhưng ai vâng lời sẽ kinh ngạc trước những việc Chúa làm. Họ sẽ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, từ trầm trồ này đến trầm trồ nọ vì sức mạnh tình thương cao cả Chúa.

Giảng cho năm ngàn người nơi bãi biển mà không cần khí cụ khuyếch đại âm thanh, khi tiếng sóng vỗ ầm ầm, tiếng gió hú vù vù bên tai, Đức Kitô có thể làm cho mọi người nghe và hiểu điều Ngài muốn nói, yêu mến lời Ngài giảng dậy là một phép lạ. Họ nghe đến quên thời gian, quên ngay cả đói khát, quên đau lưng, chồn chân, mỏi gối. Tất cả những điều đó là những phép lạ phụ, tuy nhỏ nhưng rất thực tế dẫn đến phép lạ vĩ đại cuối ngày. Phép lạ cả thể là dùng bữa ăn trưa của em nhỏ nuôi năm ngàn người lớn. Phép lạ cuối ngày dẫn chúng ta liên tưởng đến bữa Tiệc Li Đức Kitô dùng với các môn đệ và trong bữa tiệc này Chúa lập Bí Tích ngày nay chúng ta hiểu là Bí TíchThánh Thể. Với quyền năng cao vời Chúa hoá ít bánh ra nhiều bằng một lời cảm tạ Chúa Cha. Kitô hữu không nên và cũng không cần thắc mắc sự việc Chúa làm, làm sao sau khi truyền phép bánh thường trở thành Thịt Máu Đức Kitô. Nếu có thắc mắc thì nên đặt câu hỏi làm thế nào để cám ơn tình thương Chúa cho được. Có lẽ cách hữu hiệu nhất, thích hợp nhất và làm đẹp lòng Chúa nhất để đáp lại tình thương Chúa là với lòng chân thành, yêu mến chúng ta hãy chia sớt trong khả năng mỗi người để Chúa biến những vật chất giới hạn của ta thành tình yêu vô biên của Chúa cho tha nhân. Đó là cách thực hành tinh thần bác ái Kitô, thực hành tinh thần người quản lí tốt lành trong Giáo Hội Chúa.

Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
07:52 23/07/2015
NGƯỜI CHẾT KHÓ THẤY NGƯỜI
N2T

Nước Tề có người nọ kêu tên đầy tớ làm một công việc rất là khó khăn, không phù hợp với giá trị mạng sống, công việc này rất khó mà hoàn thành, người đầy tớ ham sống sợ chết nên không dám đi làm.
Bạn bè của hắn ta nói:
- “Anh không đi để chết sao?”
Nó trả lời:
- “Đúng, làm việc thì phải có lợi cho mình, chết thì không có lợi cho mình, cho nên tôi không đi làm.”
Người bạn nói:
- “Như vậy thì anh còn mặt mũi nào nữa mà nhìn người ta chứ?”
Nó nói:
- “Anh cho rằng chết rồi là có thể nhìn thấy người ta sao?”
( Lữ thị xuân thu )

Suy tư:
Khi đã yêu thì không còn sợ khó nhọc, không còn sợ gian khổ, và ngay cả mạng sống của mình cũng không màng tới. Người làm thuê không thể yêu thương ông chủ như yêu thương cha mẹ của mình, và người dưng nước lã không thể yêu thương nhau như anh em một nhà, nếu họ không thấm nhuần lời dạy của Đức Chúa Giê-su là yêu thương người thân cận như chính mình.
Có một vài người Công Giáo thường hay khoe khoang đạo mình tin theo là đạo thật, điều này rất đúng, nhưng họ chưa dám thực hành những điều mà đạo Công Giáo dạy họ phải làm, hay nói cách khác, họ chưa thực hành lời Đức Chúa Giê-su dạy họ làm: yêu thương người thân cận như chính mình.
Mạng sống có kể là gì đối với những kẻ đã yêu, gian khổ có là gì đối với những người đang yêu, họ bất chấp tất cả để được yêu. Các thánh tử đạo đã làm được chuyện đó; các thánh ẩn tu, các thánh khổ tu cũng đã thực hành được điều đó vì các ngài yêu Thiên Chúa một cách đặc biệt, yêu Thiên Chúa trên hết mọi sự.
Tôi đã dám vì yêu Thiên Chúa mà hy sinh cái tôi của tôi để anh em chị em tôi được lớn lên trong đức ái? Tôi có dám vì yêu thương người thân cận mà hy sinh giờ giấc thông lệ của tôi đã quy định để trò chuyện, lắng nghe và giúp đỡ họ không ?

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư

--------------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
07:57 23/07/2015
N1T

37. Phàm ai muốn được thánh sủng của Chúa Thánh Thần, muốn tìm đóa hoa trên cây khô, thì phải đến với Đức Mẹ Ma-ri-a để tìm gặp Chúa Giê-su.

(Thánh Bonaventura)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa trong “Cách ngôn thần học tu đức”

---------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Phanxicô nói với các thị trưởng về khí hậu và nạn buôn người
Vũ Van An
01:13 23/07/2015
Ngày 21 tháng 7, 2015, tại Phòng Thượng Hội Đồng tại Vatican, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói chuyện với Cuộc Gặp Gỡ về “Nạn Nô Lệ Hiện Đại và Việc Thay Đổi Khí Hậu: Cam Kết của Các Đô Thị” do Giáo Hoàng Hàn Lâm Viện Các Khoa Học Xã Hội tổ chức trong đó, các thị trưởng của các đô thị lớn trên thế giới đã tham dự để đề cập tới hai việc khẩn trương có liên hệ với nhau: khủng hoảng khí hậu và các hình thức nô lệ mới.

Bài nói chuyện của Đức Phanxicô là một bài ứng khẩu bằng tiếng Tây Ban Nha và được Hãng Tin Zenit dịch sang tiếng Anh.


Xin chào qúi vị buổi chiều, xin chào mừng qúy vị.

Tôi thành tâm cám ơn quí vị về những gì quí vị đã thực hiện. Qủa tình tất cả đều xoay quanh chủ đề chăm sóc môi trường, chủ đề văn hóa chăm sóc môi trường. Tuy nhiên, nền văn hóa chăm sóc môi trường này không phải chỉ là một thái độ “xanh”, tôi nói theo nghĩa tốt, nó không phải là một thái độ “xanh”; nó còn hơn thế nữa. Nói cách khác, chăm sóc môi trường nghĩa là một thái độ sinh thái nhân bản, tức là, ta không thể nói: con người ở đây, còn tạo thế, hay môi trường, thì ở kia; sinh thái là chuyện toàn diện, nó có tính nhân bản. Đó là điều tôi muốn phát biểu trong Thông Điệp “Laudato Si’”: rằng con người không tách biệt khỏi mọi điều khác; có một mối tương quan gây ảnh hưởng hỗ tương, bất luận là của môi trường đối với con người, hay của con người trong cách đối xử với môi trường, và cả hiệu quả phản hồi (boomerang effect) chống lại con người khi môi trường bị đối xử tệ hại. Do đó, trước một câu hỏi đặt ra cho tôi, tôi đã nói: “không, không, nó không phải là một thông điệp “xanh”, nó là một thông điệp xã hội” vì trong khung cảnh xã hội của cuộc sống xã hội con người, ta không thể tách biệt được việc chăm sóc môi trường. Hơn thế nữa, chăm sóc môi trường là một thái độ xã hội nhằm xã hội hóa chúng ta cách này hay cách khác, mỗi người dành cho nó một giá trị họ muốn, nhưng nó làm chúng ta tiếp nhận. Tôi thích kiểu nói của người Ý khi họ nói về môi trường, về “Creato”, về điều được ban cho ta như một hồng phúc, tức môi trường.

Hơn nữa, tại sao lại có lời mời này, một lời mời, đối với tôi, xem ra là một ý tưởng rất phong phú của Hàn Lâm Viện do Đức Ông Sanchez Sorondo làm chủ tịch, mời các thị trưởng, các thị trưởng của các đô thị lớn và không lớn lắm, mời họ đến đây để nói về chủ đề này? Vì một trong những điều được ghi nhận hơn cả khi môi trường, tức tạo thế, không được chăm sóc, là việc phát triển các đô thị một cách bừa bãi. Đây là một hiện tượng hoàn cầu, như thể các đầu, các đô thị lớn, càng ngày càng lớn trong khi các vành đai càng ngày càng nghèo khổ, cùng cực hơn, nơi đó, người ta phải hứng chịu các hậu quả của việc quên khuấy môi trường. Liên hệ tới hiện tượng này là hiện tượng di dân. Tại sao người ta lại kéo nhau tới các đô thị lớn? Kéo nhau tới các vành đai của các đô thị lớn, tới các khu lụp xụp tồi tàn, những khu bùn lầy nước đọng, những favelas? Tại sao họ làm vậy? Họ làm thế đơn giản chỉ vì thế giới nông thôn không còn cho họ cơ hội nữa. Và một điểm trong thông điệp, một điểm cần được phê phán một cách tôn trọng, là việc thờ ngẫu tượng kỹ trị (technocracy). Kỹ trị làm hư việc làm, nó tạo ra thất nghiệp, các hiện tượng của người thất nghiệp rất lớn; họ phải di cư để tìm những chân trời mới. Con số lớn những người thất nghiệp thật đáng lo ngại. Tôi không có con số thống kê, nhưng ở một số nước Âu Châu, nhất là nơi giới trẻ, nạn thanh niên thất nghiệp, tức những người từ 25 tuổi trở xuống, lên tới hơn 40%, thậm chí 50% ở một số nước. Giữa 40, 47 -- tôi nghĩ tới một nước khác -- 50 – tôi nghĩ tới các con số thống kê trầm trọng trực tiếp do các vị đứng đầu chính phủ, do các vị đứng đầu quốc gia cung cấp. Và nếu dự phóng cho tương lai, nó khiến ta thấy một bóng ma, tức, tuổi trẻ thất nghiệp ngày nay, [ta có thể hỏi] họ có được thứ chân trời nào, thứ tương lai nào? Ta để lại cho những người trẻ này điều gì? Một là nghiện ngập, hai là chán chường, hoặc, vì không biết phải làm gì với cuộc đời họ, một cuộc đời vô nghĩa, quá khắc nghiệt, -- nên tự tử -- con số thống kê các vụ thanh hiếu niên tự tử ngày nay không được công bố đầy đủ -- hay đi tìm những chân trời khác, thậm chí các dự án du kích chiến, coi như 1 lý tưởng sống.

Đàng khác, sức khỏe cũng đang gặp nguy cơ. Số lượng lớn những bệnh “lạ”, như người ta thường gọi, phát sinh từ nhiều yếu tố của việc bón phân đồng lúa – hay ai mà biết được, các nguyên nhân vẫn chưa được hiểu rõ --, nhưng phát xuất từ việc sử dụng kỹ thuật quá trớn. Trong số những vấn đề lớn nhất hiện nay có oxy và nước, tức việc hoang hóa (desertification) nhiều khu vực rộng lớn do việc phá rừng gây ra. Cạnh tôi đây là Đức Hồng Y Tổng Giám Mục đặc trách Khu Amazon thuộc Ba Tây. Ngài có thể nói cho chúng ta hay việc phá rừng hiện nay có ý nghĩa gì tại vùng Amazon, vốn là lá phổi của thế giới – Congo, vùng Amazon, đều là hai lá phổi vĩ đại của thế giới. Tôi nhớ: vì nạn phá rừng mấy năm trước đây tại quê hương tôi, 8 hay 9 năm trước đây, Chính Phủ Liên Bang đã ban hành một phán quyết chống lại một tỉnh, bắt họ phải ngưng việc phá rừng, một việc gây tác hại cho dân chúng. Mọi hiện tượng tự nhiên này gây tác động gì lên việc di dân? Thiếu việc làm và rồi nạn buôn người. Việc làm của thị trường chợ đen càng ngày càng trở nên thông thường, những công việc không có khế ước, những công việc được ký kết dưới gầm bàn. Chúng phát triển nhanh xiết bao! Việc làm của khu vực chợ đen rất tệ, theo nghĩa người làm không kiếm đủ tiền để sống. Điều này tạo ra các tác phong tội ác và mọi điều (tệ hại) đang diễn ra tại các đô thị lớn vì di dân do kỹ thuật gây ra. Tôi xin đặc biệt nhắc tới việc buôn bán người trong ngành khai thác mỏ; cảnh nô lệ tại hầm mỏ vẫn còn rất lớn và rất mạnh, và việc sử dụng một số yếu tố để rửa chất quặng như arsenic, cyanide có nghĩa gì nếu không là gây bệnh hoạn nơi dân chúng. Có một trách nhiệm lớn trong vấn đề này, tôi muốn nói, mọi sự đều có cái phản hồi (boomerang) của nó; mọi sự đều sẽ trở ngược lại. Đây là hậu quả phản hồi chống lại chính con người. Bất kể là buôn bán người để làm công nô hay để làm đĩ điếm, tất cả đều là nguồn cung cấp việc làm để sống còn ngày nay.

Bởi thế, tôi rất vui khi quí vị suy nghĩ tới các hiện tượng này. Tôi chỉ nhắc tới một số ít, gây tác hại nơi các đô thị lớn.

Cuối cùng, tôi muốn nói điều này: Liên Hiệp Quốc phải lưu ý vấn đề này. Tôi vốn hy vọng nhiều, tuy nhiên, Liên Hiệp Quốc phải lưu ý mạnh mẽ tới hiện tượng này, nhất là việc buôn bán người do hiện tượng môi trường này gây ra, việc khai thác con người. Cách nay mấy tháng, tôi có tiếp một phái đoàn phụ nữ của Liên Hiệp Quốc đặc trách việc khai thác tính dục trẻ em tại các nước đang có chiến tranh -- tức việc biến trẻ em thành đối tượng để khai thác. Đây là một hiện tượng khác. Và chiến tranh cũng là một yếu tố làm môi trường mất quân bình.

Tôi muốn kết thúc với một suy tư không phải của tôi. Mà là của nhà thần học và triết học Romano Guardini. Ngài nói tới hai hình thức thiếu văn hóa: thiếu văn hóa đầu tiên do Thiên Chúa trao cho chúng ta để chúng ta biến nó thành văn hóa và lệnh truyền Người truyền cho ta phải chăm sóc, trồng tỉa và kiểm soát trái đất; và thiếu văn hóa thứ hai là khi con người không tôn trọng mối tương quan của họ với trái đất, không trông nom trái đất -- điều này rất rõ ràng trong trình thuật Thánh Kinh, vốn là trình thuật thuộc loại huyền nhiệm. Khi con người không chăm sóc trái đất, họ túm lấy nền văn hóa này và bắt đầu lái nó sang một dòng chẩy khác. Nghĩa là, việc thiếu văn hóa đã lái văn hóa ra khỏi dòng chẩy của nó, để lại bàn tay của họ và tạo ra thứ thiếu văn hóa thứ hai: nguyên tử năng là điều tốt, nó có thể giúp chúng ta, nhưng tới một điểm nào đó thôi; đơn cử trường hợp đã qua, ta nên nghĩ tới Hiroshima và Nagasaki, tức là, nghĩ tới việc tạo ra thảm họa và hủy diệt. Ngày nay, trong mọi hình thức thiếu văn hóa, như các hình thức qúi vị đã bàn tới, chính hình thức thiếu văn hóa thứ hai là hình thức hủy diệt con người. Một giáo sĩ Do Thái thời Trung Cổ, ít nhiều cùng thời với Thánh Tôma Aquinô -- và có lẽ một số quí vị đã nghe tôi nói rồi -- trong một “midrash”, đã giải thích cho các tín hữu của hội đường ông về vấn đề Tháp Baben. Ông nói rằng người ta cần rất nhiều thì giờ để xây ngọn tháp này, và nó đòi hỏi nhiều công việc, nhất là việc làm gạch -- việc này đòi phải làm việc với đất sét, tìm kiếm rơm rạ, nhồi chúng với nhau, cắt xén chúng, nhuộm chúng, rồi đặt chúng vào lò, nung chúng, để gạch trở thành đá qúy; nó có giá trị lớn, rồi gạch được kéo lên và đặt vào Tháp. Một viên gạch rơi là cả một vấn đề lớn, và người phạm tội hay người sao lãng công việc và để nó rơi, bị trừng phạt. Nhưng nếu một công nhân ngã, hay những người đang xây cất bị ngã, thì chẳng có gì xẩy ra cả. Đây là thảm kịch của hình thức thiếu văn hóa thứ hai: con người là kẻ tạo ra cảnh thiếu văn hóa chứ không phải kẻ tạo ra văn hóa. Con người tạo ra cảnh thiếu văn hóa vì họ không chăm sóc môi trường.

Và tại sao Giáo Hoàng Hàn Lâm Viện Các Khoa Học Xã Hội mời các thị trưởng các đô thị tới dự cuộc gặp gỡ này? Vì dù ý thức này phát xuất từ trung tâm đi ra các khu ngoại vi, nhưng việc làm nghiêm chỉnh hơn và sâu sắc hơn lại được thực hiện từ các khu ngoại vi đi vào trung tâm, nghĩa là, từ qúi vị đi vào lương tâm nhân loại. Tòa Thánh và nước này hay nước nọ có thể đọc những bài diễn văn hay tại Liên Hiệp Quốc nhưng nếu công việc không phát xuất từ các khu ngoại vi đi vào trung tâm thì nó chẳng có hiệu quả chi -- từ đó, có trách nhiệm của các thị trưởng đô thị. Bởi thế, tôi rất biết ơn vì quí vị đã cùng nhau tới đây với tư cách những khu ngoại vi cực kỳ nghiêm trọng của vấn đề. Mỗi quí vị, tại đô thị của mình, đều có những điều tôi vừa nhắc đến, những điều qúi vị phải quản trị, giải quyết v.v… Tôi cám ơn qúi vị vì sự hợp tác của qúi vị. Đức Ông Sanchez Sorondo có cho tôi hay nhiều qúi vị đã góp ý và tất cả các góp ý này rất phong phú. Tôi xin cám ơn qúi vị và cầu xin Chúa ban cho tất cả chúng ta ơn thánh để ý thức được vấn đề hủy diệt này, một việc hủy diệt mà chính chúng ta sẽ dấn thân vào nếu không chịu chăm sóc nền sinh thái nhân bản, nếu không có ý thức gì về sinh thái như chúng ta từng có lúc ban đầu để biến đổi cái thiếu văn hóa thứ nhất thành văn hóa, và dừng lại tại đó, chứ đừng biến nền văn hóa này thành cảnh thiếu văn hóa.

Xin cám ơn qúi vị rất nhiều.
 
Các giới chức chính quyền phải biết thương dân như cha mẹ
Linh Tiến Khải
08:58 23/07/2015
YANGON: Chúng tôi chờ mong các giới chức chính quyền biết yêu thương dân như cha mẹ yêu thưong con cái. Theo truyền thống và nền văn hóa của chúng ta các người cai trị có quyền và có bổn phận thăng tiến hạnh phúc của toàn dân.

ĐHY Charles Bo, TGM thủ đô Yangon của Myanmar, đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong các ngày vừa qua. Sứ điệp ĐHY gửi hàng lãnh đạo chính trị dân sự Myanmar được công bố nhân Ngày Phụ Mẫu trong nước. Sứ điệp của ĐHY có đoạn viết: “Trong vòng 50 năm, trong những ngày đen tối của chế độ độc tài, nhân dân đã không có gia đình. Khi nền dân chủ đến, chúng tôi đã hy vọng nó đem lại tinh thần gia đình cho mọi người. Nhiều ngưỡng vọng lớn lao đã được đặt nơi hàng lãnh đạo: toàn nước hướng nhìn họ dể làm cho đất nước này trở thành một gia đình đích thật. Nhưng đã xảy ra quá nhiều khó khăn cản ngăn thực tại đó. Hệ thống kinh tế của chúng ta đang đập nát gia đình. Hàng triệu người trẻ bị tách rời khỏi cha mẹ. Các khó khăn đã khiến cho chúng ta nghèo đi và sự toàn vẹn của gia đình bị soi mòn bởi nạn nghèo túng của quốc gia. Tinh thần gia đình yếu ớt. Đa số con cái Myanmar là người nghèo. Cuộc kiểm kê dân số mới đây cho thấy thảm cảnh này. 40% tổng số dân sống dưới mức nghèo túng, và trong các vùng đất của người Chin và người Rakine dân nghèo chiếm 70%. Nạn nghèo túng làm nảy sinh ra hiện tượng di cư, khiến cho trong nhiều làng chỉ còn có người già và trẻ em nhỏ tuổi. Gia đình lại còn bị tàn phá thêm vì nạn buôn người trong các thành phố gần biên giới. Các gia đình tan nát vì thiếu giáo dục, bị đe doạ bởi nạn xì ke ma túy, hay các xung đột vũ trang. Theo ĐHY các vị lãnh đạo không ở mức cao các chờ mong của người dân. Họ đã trở thành những người che chở một chế độ tư bản khách hàng, và coi lợi nhuận như động lực duy nhất của nền kinh tế, như ĐTC đã tố cáo trong chuyến công du ba nước Mỹ Latinh hồi thượng tuần tháng 7 vừa qua.

Tiếp tục sứ điệp ĐHY Bo đưa ra câu hỏi: Giới lãnh đạo là thủ lãnh cho tất cả mọi người hay chỉ cho một ít người? Trong bao thế kỷ chúng ta đã sống như anh chị em với nhau, tuy khác niềm tin, nhưng chúng ta sống trong hòa hợp. Trong 5 thập niên Myanmar đã là mô thức của một xã hội cảm thương, cả khi nhân dân có bị đàn áp bởi những kẻ hung dữ. Nhưng từ năm 2010 đến nay hàng lãnh đạo là cha mẹ dân đã tỏ ra bất lực không kiểm soát được các biểu lộ thù hận do các tầng lớp tôn giáo quá khích phổ biến. Chiến tranh tiếp diễn tại nhiều nơi trong nước. Các anh chị em thuộc mọi tôn giáo và chủng tộc của chúng ta bị tấn công bởi sự thù ghét đó. Trong nước có 200.000 người phải di tản vì bạo lực. Liệu giới lãnh đạo của chúng ta có biết tránh mọi kỳ thị chủng tộc hay tôn giáo không? Có biết chấp nhận bình đẳng và xây dựng một quốc gia hiệp nhất như môt gia đình duy nhất không. Ngoài ý chí của họ, họ cần lời cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta hãy cầu nguyện cho hàng lãnh đạo cha mẹ của chúng ta (FIDES 20-7-2015)
 
Tuyên ngôn của các thị trưởng thành phố lớn dấn thân bảo vệ môi sinh
Linh Tiến Khải
08:59 23/07/2015
VATICAN: Chiều 21 tháng 7 vùa qua hàng trăm thị trưởng các thành phố lớn toàn thế giới đã cùng ĐTC ký vào tuyên ngôn chung, cam kết dấn thân bảo vệ môi sinh, loại trừ các lạm dụng, khai thác, buôn bán người và mọi hình thức nô lệ mới.

ĐTC viết trong bản tuyên ngôn tiếng Tây Ban Nha: “Tôi đánh giá cao tuyên ngôn này. Tôi ước mong nó đem lại nhiều tốt đẹp”.

Các thị trưởng và giới chức dân sự thuộc nhiều nền văn hóa và điều kiện xã hội khác nhau đã tham dự đại hội do Hàn lâm viện các khoa học và Khoa học xã hội của Tòa Thánh tổ chức để thảo luận về hai đề tài cấp thiết: đó là các thay đổi khí hậu do con người gây ra, và việc bị gạt bỏ bên lề xã hội qua nạn nghèo đói cùng cực, nô lệ mới và buôn người. Tuyên ngôn khẳng định rằng các thay đổi khí hậu do con người gây ra là một thực tại khoa học, và việc giới hạn chúng là một bổn phận luân lý đối với nhân loại. Các nền văn hóa đều khẳng định phẩm giá nội tại của mỗi bản vị con nguời gắn liền với công ích của toàn thể nhân loại. Chúng nêu bật vẻ đẹp, sự kỳ diệu và bản chất tốt lành nội tại của thế giới, là món quà quý báu được giao phó cho loài người săn sóc. Tôn trọng chứ không tàn phá nó là bổn phận luân lý của con người.

Các người nghèo, tuy không gây ra nạn khí hậu thay đổi, nhưng lại là những thành phần chịu các đe dọa kinh khủng nhất của tệ nạn này do con người gây ra như: hạn hán ngày càng thường xuyên hơn, các trận bão ngày càng tàn phá hơn, các đợt nóng và mực nước biển dâng cao. Ngày nay nhân loại có các hiểu biết kỹ thuật và phương tiện tài chánh để xoay chiều các thay đổi khí hậu đó, đồng thời chấm dứt nạn nghèo túng cùng cực, qua các giải pháp phát triển có thể chịu đựng được, trong đó có các hệ thống năng lượng ít thải thán khí vào không trung hơn, và sư yểm trợ kỹ thuật của việc thông tin và truyền thông. Các tiến bộ kỹ thuật có thể giúp sản xuất các nguồn năng lượng có thể canh tân, thải ít thán khí hơn. Việc liên lỉ kiếm tìm hoà bình cho phép sử dụng các ngân khoản quân sự cho các đầu tư cấp thiết cho việc phát triển. Hội nghị thượng đỉnh về khí hậu tại Paris vào cuối năm nay có thể là dịp may cuối cùng cho các thỏa hiệp ấn định việc sức nóng gia tăng dưới 2 độ C. Nếu không thì lộ trình đi theo cho tới nay có thể khiến cho sức nóng trên thế giới lên tới quá 4 độ C với các hậu quả tàn phá nghiêm trọng.

Các vị lãnh đạo chính trị và mọi nước thành viên Liên Hiệp Quốc dặc biệt có trách nhiệm đối với thoả hiệp này về khí hậu, để bảo đảm mức an ninh cho toàn nhân loại và che chở các dân tộc nghèo và dễ bị tổn thương nhất trước nạn thay đổi khí hậu. Các quốc gia giầu phải tài trợ cho các nước nghèo như đã hứa để giảm bớt các hậu qủa tai hại này. Các thay đổi cần thiết phải được thực thi trong bối cảnh các mục đích phát triển có thể chịu đựng được và đi song song với việc chống lại nạn nghèo túng cùng cực, thăng tiến việc săn sóc y tế cho mọi người, gia tăng phẩm chất giáo dục, cung cấp nước trong lành và năng lượng có thể chịu đựng được, cũng như chấm dứt nạn buôn người và mọi hình thức nô lệ mới.

Như là các thị trưởng, chúng tôi dấn thân trong các thành phố của mình, để giải thoát dân nghèo và những người có điều kiện sống dễ bị tổn thương, giảm thiểu các nguy cơ phát xuất từ các tồi tệ môi sinh, kinh tế hay xã hội tạo ra vùng đất mầu mỡ cho nạn buôn người và cưỡng bách di cư. Đồng thời chúng tôi cũng dấn thân chấm dứt các lạm dụng, khai thác, buôn người, và mọi hình thức nô lệ mới. Các tội phạm chống lại nhân loại này bao gồm cả việc cưỡng bách lao động, mại dâm, buôn cơ phận người, và làm việc như nô lệ trong các gia đình. Chúng tôi cũng dấn thân phát triển các chương trình tái hội nhập và hội nhập xã hội trên bình diện quốc gia để tránh việc cưỡng bách hồi hương các nạn nhân của việc buôn người (SD 22-7-2015)
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Nghi thức nhậm chức chánh xứ tại Phủ Cam Huế
Trương Trí
08:56 23/07/2015
Sáng ngày 23/7, Giáo xứ Chính tòa Phủ Cam hân hoan chào đón long trọng Đức Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế, Cha Phêrô Phan Xuân Thanh Hạt trưởng hạt Thành phố Huế đưa Cha Antôn Nguyễn Văn Tuyến đến nhận nhiệm vụ Tân Quản xứ Chính tòa Phủ Cam.

Hình ảnh

Dẫn vào Nghi thức nhậm chức Quản xứ, Cha Phó Giuse Maria Hồ Sĩ Hiếu Trung nhắn nhủ đến Cộng đoàn: “Trong gia đình, Cha mẹ là người luôn đứng mũi chịu sào trong mọi sinh hoạt, là người khéo léo nối kết mọi thành viên trong gia đình xích lại gần nhau hơn. Trong một giáo xứ, Cha Quản xứ là người đứng đầu, chịu trách nhiệm về đời sống Đức Tin của Cộng đoàn trước mặt Thiên Chúa và trước Đức Tổng Giám mục Giáo phận… Cha Quản xứ vui mừng khi thấy con chiên không chỉ được sống mà còn sống dồi dào trong ơn nghĩa Chúa, trong mối dây thân tình với mọi người.

Trách nhiệm của Cha Quản xứ thật nặng nề, cộng đoàn giáo xứ luôn là một thách đố mời gọi Mục tử hy sinh, sống hết mình vì đàn chiên. Vì vậy trong ngày nhậm chức Tân Quản xứ hôm nay, chúng ta chung lòng cầu nguyện cho Ngài luôn khôn ngoan, sáng suốt để lãnh đạo và hướng dẫn Giáo xứ Chính tòa mỗi ngày một thăng tiến hơn trong Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.”

Trước cổng chính Nhà thờ, Hội đồng Giáo xứ và các Ban Nghành Đoàn thể và Giáo dân cùng đại diện các Hội Dòng ai nấy đều biểu lộ niềm vui trong ngày đón Cha Tân Quản xứ Chính tòa.

Các em thiếu nữ thay mặt Giáo xứ tặng hoa Đức Tổng Giám mục, Cha Hạt trưởng và Cha Tân Quản xứ trong tiếng trồng kèn chào mừng của dội Kèn Đồng Phủ Cam.

Tiến vào trước Tiền đường, Đức Tổng Giám mục giới thiệu với cộng đoàn Cha Tân Quản xứ, Ngài trao chìa khóa Nhà thờ để Cha Tân Quản xứ mở cửa mời Đức Tổng Giám mục, quí Cha và cộng đoàn tiến vào Nhà thờ.

Đức Tổng Giám mục, Cha Hạt trưởng và Cha Tân Quản xứ đến niệm hương trước bàn thờ các Thánh Tử đạo Việt Nam và Thánh Phao lô Tống Viết Bường, một người con của Giáo xứ được Giáo Hội tôn vinh lên hàng Thánh Tử đạo.

Tiếp đó, Đức Tổng Giám mục, Cha Hạt trưởng và Cha Tân Quản xứ đến niệm hương trước phần mộ Đức Cố Tổng Giám mục Philipphê và bài vị 24 Cha Quản xứ tiền nhiệm đã qua đời.

Đến quỳ trước Cung Thánh, Đức Tổng Giám mục xướng bài ca “Cầu xin Chúa Thánh Thần”, xin Người xuống muôn ơn trên Cha Tân Quản xứ.

Cha Tân Quản xứ trình Văn thư bổ nhiệm của Đức Tổng Giám mục lên Cha Hạt trưởng và Cha Hạt trưởng công bố cho toàn thể cộng đoàn được biết. Tiếp đó, Cha Tân Quản xứ đến trước Đức Tổng Giám mục nhận sách Tin mừng và công bố Lời Chúa.

Chia sẻ Lời Chúa, Đức Tổng Giám mục nhắc nhỡ cộng đoàn: Trong Bí tích Rửa tội, chúng ta được mời gọi nên Thánh như Chúa là Cha chúng ta trên Trời. Trong Giáo Hội có những người sống đời tận hiến gọi là tu sĩ, họ sống theo 3 lời khuyên Phúc âm. Còn các linh mục Triều, các linh mục sống theo Đức Ái của người mục tử như lòng Chúa mong ước. Đức Ái là tình yêu thôi thúc linh mục trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, Đức Ái của Mục tử rất quan trọng đối với một linh mục.

Linh mục Quản xứ chịu trách nhiệm về mọi sinh hoạt của Giáo xứ. Hội đồng Giáo xứ và các Hội đoàn khác được chọn lựa để cộng tác với Linh mục Quản xứ chứ không thể thay Linh mục Quản xứ điều hành Giáo xứ. Linh mục Quản xứ có trách nhiệm đi tìm những con chiên lạc về với đàn chiên, thậm chí có thể hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành: “Tôi biết chiên tôi và chiên tôi biết tôi”. Chúc Cha Tân Quản xứ trở nên một mục tử nhân lành như lòng Chúa mong ước và chúc Giáo xứ cộng tác tích cực với Ngài để đưa Giáo xứ ngày càng phát triễn và thăng tiến hơn.

Tiếp đến, Cha Hạt trưởng dẫn Cha Tan Quản xứ đến quỳ trước bàn thờ để tuyên xưng Đức Tin. Đức Tổng Giám mục thẩm vấn Cha Tân Quản xứ về quyết tâm tuân giữ lời hứa Linh mục. Đức Tổng Giám mục trao chìa khóa Nhà Tạm và Cha Tân Quản xứ mở cửa Nhà Tạm, Cộng đoàn quỳ gối thờ kính Thánh thể Chúa Kitô.

Thể hiện vai trò một linh mục luôn nhắc nhỡ và mời gọi cộng đoàn đến với Chúa, Cha Hạt trưởng dẫn Cha Tân Quản xứ đến tháp chuông để rút chuông Nhà thờ. Ngài cũng ngồi tòa Giải tội là nhiệm vụ quan trọng để đưa con chiên tội lỗi đến với Chúa.

Đức Tổng Giám mục trao hôn bình an với Cha Tân Quản xứ, và Ngài trao lại bình an với các Cha và Hội đồng Giáo xứ, đại diện cho toàn thể giáo xứ.

Ông Matthêô Nguyễn Đình Lục, Chủ tịch HĐGX thay mặt Giáo xứ đọc diễn tè cảm ơn Đức Tổng Giám mục, Cha Hạt trưởng và chào mừng Cha Tân Quản xứ. Ông nói: HĐGX và các Ban Nghành mục vụ nguyện đoàn kết một lòng chung quanh Cha Quản xứ, luôn trung thành và vâng phục.

Tại Giáo xứ Chính tòa Phủ Cam, không chỉ có 1 ông Simong mà có rất nhiều ông Simong luôn sẵn sàng chia sẻ gánh nặng với Cha.

Cha Tân Quản xứ chia sẻ tâm tình trong ngày đầu nhậm chức Quản xứ, Ngài bày tỏ lòng tri ân Đức Tổng Giám mục, Cha Hạt trưởng và quý Cha đã đưa Ngài đến nhậm chức Quản xứ sáng hôm nay. Cảm ơn Giáo xứ Phú Hậu đã đưa tiễn Ngài đến một Giáo xứ mới. Đặc biệt cảm ơn Giáo xứ Chính tòa Phủ Cam đã dành cho Ngài một cuộc đón tiếp hết sức nồng nhiệt và long trọng. Cảm ơn Đức Tổng Giám mục đã dẫn Ngài đến trước bàn thờ Các Thánh Tử đạo và Thánh Phao Lô Tống Viết Bường, cũng như đã đưa Ngài đến niệm hương trước phần mộ Đức Cố Tổng Giám mục Philipphê, người đã đặt tay đưa con lên hàng tư tế, cũng như niệm hương trước bài vị các linh mục tiền nhiệm đã qua đời.

Ngài cảm ơn quý Cha tiền nhiệm còn sống, cách riêng Cha Tổng Đại diện đã gầy dựng nên một Giáo xứ Chính tòa hết sức vững mạnh như hôm nay. Giáo dân là thành phần đại đa số của Dân Chúa, thiểu số còn lại là các thừa tác viên để phục vụ Dân Chúa. Cha Tổng Đại diện đã để lại cho chúng ta một công trình to lớn đó là ngôi Nhà Mục vụ, Giáo xứ chúng ta phải phát huy vai trò rao giảng Tin mừng, nhất là trong năm Tân Phúc âm Đời sống Giáo xứ này.
 
Lễ trao ban tác vụ cho 28 thầy dòng Thánh Tâm Huế
Trương Trí
20:47 23/07/2015
ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC GIÁO PHẬN HUẾ CỬ HÀNH THÁNH LỄ

TRAO BAN TÁC VỤ ĐỌC SÁCH VÀ GIÚP LỄ CHO 28 THẦY DÒNG THÁNH TÂM HUẾ


Sáng hôm nay 24/7, Dòng Thánh Tâm Huế và Cộng đoàn vui mừng và hân hoan hiệp dâng Thánh lễ tạ ơn do Đức Tổng Giám mục Giáo phận chủ tế. Trong Thánh lễ này, Đức Tổng Giám mục chủ sự nghi thức trao ban Tác vụ Đọc sách cho 15 thầy và Tác vụ Giúp lễ cho 13 thầy thuộc Dòng Thánh Tâm Huế.

< a href='http://www.flickr.com/photos/vietcatholic/sets/72157653940219554/'>Xem Hình

Tác vụ Đọc sách và Giúp lễ được xem như là chức Phụ Phó tế mà mỗi tiến chức phải lãnh nhận trước khi truyền chức Phó tế và Linh mục. Tuy nhiên, sau Cồng đồng Vaticanô II, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã ban hành Tông thư cho phép các tín hữu được lãnh nhận các chức vụ này gọi là Thừa Tác viên.

Mở đầu nghi thức, Cha Hirônimô Đỗ Minh Liên, Phó Bề trên Tổng quyền Dòng Thánh Tâm thay mặt Hội Dòng xướng tên 15 ứng sinh lãnh nhận Tác vụ Đọc sách lên quỳ trước mặt Đức Tổng Giám mục để vị Chủ chăn dâng Lời Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành cho các thầy được xứng đáng là người công bố Lời Chúa cho Cộng đoàn. Lần lượt từng Thầy đến quỳ trước Đức Tổng Giám mục, Ngài trao ban sách Tin mừng với lời nhắn nhũ: “Con hãy lãnh nhận Sách Thánh và trung thành truyền lại Lời Chúa cho người khác, để Lời Chúa được thêm vững mạnh trong lòng mọi người.

Tiếp đó, Cha Phó Bề trên Tổng quyền xướng tên 13 ứng sinh lãnh nhận Tác vụ Giúp lễ lên quỳ trước mặt Đức Tổng Giám mục. Ngài dâng lời cầu nguyện xin Thiên Chúa ban cho các thầy luôn chuyên cần phụng sự Bàn Thánh, trung thành ban phát Bánh Hằng sống cho mọi người, đồng thời cũng cầu xin Chúa cho các thầy được gia tăng Đức Tin và Đức Mến để xây dựng Hội Thánh Chúa.

Sau Thánh lễ, Cha Antôn Huỳnh Đầy, Bề trên Tổng quyền Dòng Thánh Tâm thay mặt Hội Dòng ngõ lời tri ân Đức Tổng Giám mục Giáo phận bận rộn biết bao công việc của Giáo phận, cũng như của HĐGM Việt Nam mà Ngài với cương vị Phó Chủ tịch HĐGM. Đức Tổng Giám mục vẫn sắp xếp thời gian để dâng Thánh lễ và chủ sự nghi thức trao ban Tác vụ Đọc sách và Giúp lễ cho các thầy sáng hôm nay. Xin Thiên Chúa và Mẹ Maria ban muôn ơn lánh xuống trên Đức Tổng Giám mục để Ngài phục vụ Hội Thánh Chúa.

Kết thúc Thánh lễ, Đức Tổng Giám mục và quý Cha đồng tế chụp hình lưu niệm với quý thầy vừa được lãnh nhận Tác vụ.

Trương Trí
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Ngày đã gần mà đích còn xa
Phạm Trần
16:35 23/07/2015
NGÀY ĐÃ GẦN MÀ ĐÍCH CÒN XA

Chỉ còn 5 tháng nữa đến ngày Đại hội tòan quốc XII của đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng mục tiêu của 5 năm tới ghi trong Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương XI trình Đại hội XII vẫn còn mơ hồ,mù mịt và viển vông như Nghị quyết khóa XI.

Năm năm trước,Nghị quyết Đại hội đảng XI (họp từ ngày 12-1-2011 đến ngày 19-1-2011), viết : “Mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới là: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.”

Bây giờ 5 năm sau, Dự thảo báo cáo chính trị của BCH Trung ương khoá XI sẽ trình Đại hội XII cũng lập lại ý tưởng tương tự với mục tiêu trong 5 năm tới là:”Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ XHCN; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại...”

(Trích phát biểu của Ủy viên BCH TW Đảng, Bí thư Ban cán sự đảng, Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh tại Đại hội Đảng bộ Thanh tra Chính phủ lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2015-2020, 10/07/2015)

Dự thảo này đã được Trung ương gửi cho địa phương và các Ban đảng thảo luận để góp ý, nhưng chưa được phổ biến cho dân hay đăng báo như đã hứa.

Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên một đọan quan trọng của văn kiện đã được tiết lộ bởi một cấp lãnh đạo. Câu chữ có khác nhau chút ít, nhưng tinh thần thì vẫn vậy. Khác biệt quan trọng là đảng đã từ bỏ cái đích “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” và thay vào đó bằng lời hứa “để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại...”

Từ khẳng định đến năm 2020, Việt Nam sẽ cơ bản là nước Công nghiệp tiên tiến như nhiều quốc gia khác, nay đảng chỉ dám hy vọng “sớm”, nhưng “sớm” là mấy năm nữa, hay đến hết nhiệm kỳ 5 năm của Khoá đảng XII vào năm 2021 Việt Nam vẫn còn đứng xa cái đích cả ngàn cây số ?

Có thể còn bị lùi xa đến tận chân trời không biết ở đâu, giống như Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng đã nói vào ngày 23/10/2013 tại phiên họp tổ của đoàn Đại biểu Hà Nội:”Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng Chủ nghĩa Xã hội (CNXH) còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa.?

Lý do bây giờ đảng không dám nhắc đến năm 2020 vì chỉ còn 5 năm nữa thôi mà Việt Nam vẫn chưa làm nổi con ốc vít và cơ bản chỉ là lắp ráp thuê, hay làm thuê (gia công) cho nước ngoài.

AI ĐỂ VN LỆ THUỘC VÀO TRUNG QUỐC ?

Nhưng tại sao chỉ biết làm thuê ? Vì chính sách kinh tế đầu voi đuôi chuột theo “định hướng xã hội chủ nghĩa” tự khoe là “chưa có tiền lệ”, nhưng thực chất không xây dựng từ gốc bằng trí tuệ của con người Việt Nam, bằng giáo dục thực dụng, hay biết thức thời đưa dân tộc vươn lên theo gót chân hai dân tộc Nhật Bản và Nam Hàn sau chiến tranh.

Ngược lại, lãnh đạo Cộng sản Việt Nam từ sau chiến tranh năm 1975 chỉ biết tự mãn hão huyền, bảo thủ, giáo điều, chia rẽ, ăn xổi ở thì và mất tự chủ nên đã để đất nước lọt dưới cánh dù của Trung Quốc, anh hàng xóm, tuy miệng nói “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, nhưng lòng dạ thì nham hiểm vô cùng.

Những lãnh đạo này, từ thời Tổng Bí thư “đổi mới” Nguyễn Văn Linh (1986-1991), qua Đỗ Mười (1991-1997) đến Lê Khả Phiêu (1997-2001), Nông Đức Mạnh (2001-2011) rồi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (từ 2011) đã biến Việt Nam là nơi dừng chân cho các Doanh nghiệp và công nhân thất nghiệp của Trung Quốc.

Sau 30 năm mệnh danh “đổi mới”, dân tộc Việt Nam vẫn còn bị đứng thứ 53 trong tổng số 151 nước nghèo nhất trên thế giới, căn cứ theo nghiên cứu năm 2013 của Vatentina Pasquali và Denise Bedell thuộc Global Finance. Dân Việt Nam cũng bị biến thành kẻ tiêu thụ cho hàng hóa, kể cả hàng độc hại, của Trung Quốc.

Bằng chứng Việt Nam lệ thuộc Trung Quốc đã được phơi ra tại cuộc Hội thảo về “tăng cường hợp tác kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc”, có sự tham dự của Tòa Tổng Lãnh sự Trung Quốc, tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 26/06/2015.

Theo báo cáo của Chi nhánh Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam tại TP HCM (VCCI –HCM) thì :” Trong 5 tháng đầu năm 2015, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 6,1 tỷ USD (giảm 1,2% so với cùng kỳ 2014) và nhập khẩu 15,9 tỷ USD (tăng 19,1%). Như vậy, 5 tháng đầu năm 2015 Việt Nam nhập siêu từ Trung quốc đạt 9,8 tỷ USD.”

Báo cáo cũng cho biết: “ Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2014 đạt 58,7 tỷ USD. Trong đó, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 14,9 tỷ USD và nhập khẩu 43,8 tỷ USD. Như vậy, Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc 28,9 tỷ USD. Các mặt hàng Việt Nam xuấu khẩu sang thị trường Trung Quốc gồm: dầu thô, than đá, máy tính, điện thoại, linh kiện, cao su, gạo, rau quả, thủy hải sản, v.v…, và nhập khẩu từ thị trường này các mặt hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, điện thoại, linh kiện, may mặc, sắt thép, phân bón, v.v…” (Zing.VN,26/06/2015)

Đó là những con số được tổng kết theo báo cáo giao dịch thương mại theo ngạch chính thức Việt-Trung. Mức chênh lệch thương mại thật sự giữa Việt Nam và Trung Quốc còn phải tính tới hàng hoá trao đồi qua biên giới, hay còn được gọi là “ biên mậu ” và hàng nhập lậu từ Trung Quốc vào Việt Nam.

“Một lượng hàng tiêu dùng khổng lồ từ Trung Quốc ồ ạt vào Việt Nam theo đường biên mậu, buôn lậu. Theo một nghiên cứu mới đây của Trung tâm WTO cũng như Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), xuất nhập khẩu qua biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc luôn có sự chênh lệch.

Số liệu phía Trung Quốc thường cao hơn, nguyên nhân xuất phát từ hàng nhập tiểu ngạch đường biên mậu, hàng lậu, trốn thuế. Chẳng hạn, năm 2012, Việt Nam công bố con số nhập khẩu từ Trung Quốc là 28,8 tỉ USD nhưng theo cơ quan chức năng Trung Quốc thì đến 34 tỉ USD.” (báo Người Lao Động, 14/02/2015)

Trong khi ấy, lên tiếng tại hội thảo về “Cơ cấu kinh tế VN - những rủi ro phát triển” do Viện Kinh tế Việt Nam tổ chức ngày 08/01/2015, Tiến Sỹ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam đã tố cáo rằng : “Chính sách biên mậu là chính sách cực kỳ nguy hiểm, kéo cấu trúc kinh tế VN xuống rất thấp”. Theo ông Thiên, số tiền thanh toán qua biên giới của Việt Nam với Trung Quốc vào năm 2014 khoảng 15 tỉ USD. Nếu cộng với gần 30 tỉ USD nhập siêu chính thức từ nước này, VN nhập siêu tổng cộng 45 tỉ USD chỉ riêng thị trường này.” (theo báo Thanh Niên online ngày 09/01/2015)

HƯỚNG THEO TRUNG QUỐC ?

Nhưng tại sao đảng Cộng sản Việt Nam từng được người sáng lập Hồ Chí Minh khoe “đảng ta là đạo đức, là văn minh” hay “đảng ta thật vĩ đại” (tuyên bố Tại lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng,3-2-1930 - 3-2-1960) mà lại để cho Kinh tế Trung Quốc nắm đầu Việt Nam lôi đi như thế ?

Báo Người Lao Động giải thích ngày 14/02/2015: “Chuyên gia kinh tế - Tiến Sỹ Bùi Trinh cho rằng cái gốc vấn đề là do năng lực sản xuất của Việt Nam quá kém, nếu không nhập từ Trung Quốc cũng phải nhập từ các thị trường khác. Các doanh nghiệp (DN) của ta chủ yếu làm gia công, nhất là xuất khẩu, lại không có ngành công nghiệp phụ trợ nên muốn sản xuất phải nhập nguyên phụ liệu đầu vào. Nếu giảm phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc thì bằng cách nào? Nếu nhập khẩu nguyên liệu, máy móc thiết bị từ các nước khác thì hàng hóa sản xuất ra có tính cạnh tranh không, bán cho ai?”

Vì vậy, bài báo viết tiếp : “Theo TS Bùi Trinh, muốn “thoát Trung” về kinh tế, cần phải làm cho nền kinh tế Việt Nam mạnh lên, cộng đồng DN phải tăng sức cạnh tranh. Còn nhập siêu từ Trung Quốc thời điểm này không hẳn là xấu. Nhờ máy móc, thiết bị, hàng hóa nhập từ thị trường này giá rẻ mới góp phần giúp lạm phát Việt Nam giữ ở mức như những năm qua. Với tỉ trọng 60% nguyên phụ liệu đầu vào nhập từ Trung Quốc, nếu từ bỏ thì DN Việt Nam sẽ xoay trở không kịp.”

Ngoài ra, theo báo điện tử Đất Việt ngày 20/04/2015 thì : “ Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Văn Nam, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại (Bộ Công thương) cho rằng, trong quan hệ kinh tế với Trung Quốc, Việt Nam luôn ở thế yếu. Chính sách, thủ đoạn ngoại thương của Trung Quốc cao tay hơn Việt Nam nhiều. Trung Quốc cố biến Việt Nam thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa chất lượng trung bình, thậm chí chất lượng kém của họ.

Ở chiều ngược lại, "bản thân doanh nghiệp Việt Nam ăn xổi ở thì, chỉ biết lợi ích trước mắt, không có chiến lược phát triển lâu dài, cho nên cứ thấy mua hàng Trung Quốc vừa rẻ vừa lợi, lại có nhiều khuyến mại, được ưu ái nên cứ rước về.

Đằng sau đó, các nhà quản lý Việt Nam gần như vô trách nhiệm, bất lực, các bộ, ngành dù biết nhưng không hề có chủ trương, chính sách gì cụ thể để ngăn chặn, thậm chí còn tiếp tay".

Đất Việt viết tiếp : “Còn báo Tuổi trẻ tháng 12 năm ngoái dẫn lời ThS. Phạm Bích Ngọc, Viện Kinh tế Việt Nam tại buổi tọa đàm về nhập siêu từ Trung Quốc do Viện Nghiên cứu kinh tế chính sách, Đại học Kinh tế Hà Nội tổ chức cho rằng, nhập siêu Trung Quốc cho thấy sự yếu kém của nền kinh tế Việt Nam. Có ba nguyên nhân Việt Nam nhập siêu Trung Quốc là do mô hình tăng trưởng, thể chế pháp lý, và phương pháp quản lý.

Theo bà Ngọc, việc nhập hàng không phải khu vực có trình độ công nghệ nguồn nên không thể làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế Việt Nam theo hướng hiện đại. Vì thế có ý kiến "Việt Nam đang bán hàng Trung Quốc sang Mỹ" vì Việt Nam chủ yếu nhập nguyên vật liệu Trung Quốc, chỉ gia công rồi xuất khẩu sang EU, Mỹ.

Ông Bùi Văn Dũng, Trưởng ban Cải cách và phát triển doanh nghiệp, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương nói thẳng với Đất Việt, trong xu thế toàn cầu hóa, các nền kinh tế có quan hệ với nhau là tất yếu, đặc biệt sức mạnh của kinh tế Trung Quốc, với ưu thế giá cả và khối lượng lớn, hấp dẫn tất cả chứ không riêng nước nào.

"Việc quan hệ và quan hệ sâu với Trung Quốc là bất khả kháng nhưng để phụ thuộc lại rất rủi ro, nguy hiểm. Bởi thế, Việt Nam chỉ có thể cố gắng thoát khỏi sự phụ thuộc, còn vẫn phải quan hệ sâu rộng chứ không có cách nào khác". (báo Đất Việt online, 20/04/2015)

ĐÍCH Ở ĐÂU BÂY GIỜ ?

Giáo sư, Nhà toán học nổi tiếng Hòang Tụy cũng đã từng cảnh báo : “Khi mô tả sự phát triển kém cỏi của đất nước, chúng ta hay dùng từ lạc hậu hay tụt hậu, nhưng theo tôi để phản ánh đúng hơn thực chất phải nói ta đang trì trệ trong tụt hậu. Nếu tụt hậu mà đang đi lên thì cũng không quá lo lắng nhưng trì trệ trong tụt hậu thì đáng lo thật, mà biểu hiện rõ nhất sự trì trệ này là ngay về chỉ số đổi mới sáng tạo, theo đánh giá của quốc tế, Viêt Nam còn thua cả Lào và Campuchia. Nếu chỉ kể về mức độ lạc hậu, Lào và Campuchia hiện xếp sau Việt Nam nhưng nếu họ cứ tiếp tục đứng trên ta về chỉ số đổi mới sáng tạo thì với đà này, chẳng mấy chốc thứ tự đó sẽ đảo ngược, chắc chắn họ sẽ bỏ lại ta ở phía sau.” (Trích Tạp chí Tia Sáng, ngày 10/02/2015)

Báo động của Giáo sư Hòang Tụy đã chứng minh chủ trương làm kinh tế “nửa người, nửa ngợm” được gọi là “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.”, theo Điều 51 Hiến pháp 2013, đã phá sản.

Vì vậy, vào ngày 28/02/2015 , tại Thủ đô Hà Nội, Hội đồng Lý luận Trung Ương-nơi quy tụ những “nhà tư tưởng” cực kỳ giáo điều và bảo thủ của đảng CSVN đã quây quần bên nhau để toạ đàm về “Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng XHCN”.

Nhóm Trí thức này là tác gỉa của các Báo cáo chính trị tại mỗi kỳ Đại hội đảng, vì vậy kỳ này họ cũng đã sáng tác ra cách định nghĩa mới cho đường lối kinh tế để trình ra Đại hội Đảng XII, dự trù diễn ra đầu năm 2016.

Họ viết:“Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.”

Tòan là sáo ngữ nghe bùi tai nhưng tựu trung cũng vẫn “kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo” , “Nhà nước qủan lý” và “do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”, nhưng đặc biệt kỳ này Hội đồng Lý luận Trung ương lại làm ra vẻ khác hơn lối định nghĩa tréo cẳng ngỗng vẫn thường nghe bằng cách thêm tên nước Việt Nam vào vế sau: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ra cái vẻ đây là cách làm kinh tế riêng của Việt Nam, không bắt chước ai vì chưa có tiền lệ.

Nhưng nếu bình tĩnh mà suy cho kỹ thì thấy nó giống hệt định nghĩa của đảng Cộng sản Trung Quốc đã chấp thuận tại Đại hội đảng XV tháng 09 năm 1997. Ý thức hệ mới của Trung Quốc được gọi là “Chủ nghĩa Xã hội đặc sắc Trung Quốc”.

Từ quan điểm này, tài liệu của Bách khoa Tòan thư mở viết: “ Ý thức hệ này hỗ trợ việc tạo ra một nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa chi phối bởi các khu vực công vì Trung Quốc đang trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội. Chính phủ Trung Quốc cho rằng Trung Quốc không từ bỏ chủ nghĩa Mác nhưng đã phát triển nhiều thuật ngữ và khái niệm của lý thuyết Mác-xít để hàm chứa hệ thống kinh tế mới. Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng chủ nghĩa xã hội là tương thích với các chính sách kinh tế. Trong tư tưởng của Cộng sản Trung Quốc hiện nay, Trung Quốc đang trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội-một quan điểm giải thích các chính sách kinh tế linh hoạt của chính phủ Trung Quốc để phát triển thành một quốc gia công nghiệp hóa.”

Trong khi đó, vẫn theo Bách khoa toàn thư mở thì : “Cho đến nay, chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận rằng chưa có nhận thức rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chỉ có giải thích nguyên lý chung rằng, đó là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.”

Chính sách kinh tế mập mờ, phiêu lưu hay “không biết đâu mà mò” này của Việt Nam là nguyên nhân khiến Mỹ chưa nhìn nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã lập lại yêu cầu của Việt Nam với Tổng thống Barrack Obama trong cuộc hội kiến ngày 07/07/2015 tại phòng Bầu dục, Tòa Nhà trắng. Nhưng sau đó, Hoa Kỳ chỉ “ghi nhận sự quan tâm của Việt Nam đạt được quy chế kinh tế thị trường”, như viết trong Tuyên bố Tầm nhìn chung công bố sau cuộc gặp dài 95 phút.

Nhưng liệu Mỹ có chịu “linh hoạt ”, theo yêu cầu của ông Trọng để Việt Nam được gia nhập Hiệp ước Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership, TPP), dự trù vào cuối năm nay (2015) ?

Theo các viên chức Mỹ thì Việt Nam rất muốn được gia nhập khối kinh tế TPP để hy vọng dãn ra từ lệ thuộc Trung Quốc, nhưng liệu lãnh đạo Việt Nam có bản lĩnh và tư duy chính trị để chuyển hướng đem phúc lợi cho dân, hay cứ u mê, ù lì để tiếp tục làm con tốt chạy cờ cho Trung Quốc ?

Bởi vì, những gì đảng khoá XI hứa thực hiện trong Nghị quyết năm 2011 vẫn chưa làm được, trong đó có : “Đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân”.

Đổi mới thì còn phải quyết tâm đổi mới hơn 30 năm qua; tham nhũng, lợi ích nhóm đang đe dọa sự sống còn của đảng và chế độ; nhân dân vẫn chưa có dân chủ và tự do; đoàn kết toàn dân vẫn còn là chuyện xa vời; kinh tế thì trì trệ trong ao tù chậm tiến cho nên đời sống của đại đa số người dân vẫn còn hẩm hiu. Trong khi đó thì giặc phương Bắc đã ở Biển Đông và đang chờ cơ hội để xâm lăng ở dọc biên giới phiá bắc, đồng thời khích động đồng minh con ruột Kampuchia khuấy động biến giới Tây nam với Việt Nam.

Như vậy thì thì ước mơ “hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” của đảng Cộng sản Việt Nam đến bao giờ mới thực hiện được ? -/-

Phạm Trần

(07/015)
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Tài Liệu Làm Việc Của Thượng Hội Đồng về Gia Đình năm 2015 (phần III, chương III, tiếp theo)
Vũ Van An
23:43 23/07/2015
Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi bất cứ ai

113. Nhiều người nhấn mạnh rằng thái độ thương xót đối với những người thất bại trong hôn nhân đòi phải lưu ý tới các khía cạnh khách quan và chủ quan khác nhau từng dẫn tới việc tan vỡ. Nhiều người chứng minh sụ kiện này: thảm kịch ly thân thường xẩy tới sau nhiều thời kỳ tranh chấp lâu dài; những thời kỳ tranh chấp này, trong trường hợp có con, đã sản sinh ra nhiều đau khổ còn lớn lao hơn nữa. Sau một tình huống như thế, thường xẩy ra một thứ thử thách phụ, đó là thử thách của cô đơn, đối với người phối ngẫu bị bỏ rơi hay người có sức phá vỡ cuộc sống chung vì bị đối xử tàn tệ nặng nề và liên tục. Các trạng huống này cần sự chăm sóc và quan tâm đặc biệt của cộng đồng Kitô hữu, nhất là đối với các gia đình chỉ có cha hoặc mẹ đơn lẻ, nơi các vấn đề kinh tế có thể phát sinh do việc làm bất ổn, do khó khăn nuôi dưỡng đứa con hay do thiếu nơi để ở.

Những người không bước vào mối liên hệ mới và vẫn trung thành với các lời thề hứa hôn nhân của mình, đáng được Giáo Hội quí mến và nâng đỡ; Giáo Hội cần tỏ lộ cho họ gương mặt của một Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi bất cứ ai và luôn sẵn sàng hồi phục sức mạnh và lòng hy vọng.

Hợp lý hóa thủ tục vô hiệu và sự quan trọng của Đức Tin trong các vụ tuyên bố vô hiệu

114. (48) Một số lớn nghị phụ thượng hội đồng nhấn mạnh tới việc phải làm cho thủ tục tuyên bố vô hiệu dễ dàng đến với tín hữu nhiều hơn, đỡ mất thì giờ nhiều hơn, và, nếu có thể, thì miễn phí. Trong số nhiều điều khác, các ngài đề nghị: miễn việc đòi phải có tòa thứ hai (second instance) mới có thể xác nhận phán quyết; có thể thiết lập ra các phương tiện hành chánh dưới thẩm quyền tài phán của giám mục giáo phận; và nên sử dụng một diễn trình đơn giản hơn trong trường hợp việc tuyên bố vô hiệu đã rõ ràng hiển nhiên. Tuy nhiên, một số nghị phụ thượng hội đồng chống lại các đề nghị này vì các ngài cảm thấy: chúng không bảo đảm đem lại được một phán quyết đáng tin cậy. Trong tất cả các trường hợp này, cần phải tái khẳng định rằng đây là việc kiểm chứng sự thật về tính thành hiệu của dây hôn phối. Theo một số đề nghị khác, ta có thể xác định được tính thành hiệu của Bí Tích Hôn Phối nhờ khảo sát vai trò đức tin nơi những người kết hôn, vì nhớ rằng cuộc hôn nhân giữa hai Kitô hữu luôn luôn là một bí tích.

115. Khá nhiều người đồng ý nay là lúc thuận tiện để làm cho các thủ tục vô hiệu của hôn nhân dễ dàng hơn, đỡ mất thì giờ hơn và có thể miễn phí.

Về phí tổn, một số người đề nghị: các giáo phận sẽ liên tục cung cấp dịch vụ cố vấn hôn nhân miễn phí. Về vấn đề tòa đệ nhị cấp để xác định các bản án, số khá đông ủng hộ việc loại bỏ nó, tuy nhiên vẫn để khả thể kháng án cho người muốn bênh vực dây hôn phối hay một trong hai người liên hệ. Trái lại, không có nhất trí nào về việc liệu giám mục giáo phận có nên đảm nhiệm trách nhiệm đối với thủ tục hay không; một số người nêu ra các khía cạnh gây vấn nạn. Tuy thế, một số đông đồng ý việc có thể sử dụng diễn trình giản lược (summary process) của giáo luật trong những vụ vô hiệu rõ ràng.

Liên quan tới sự quan trọng của đức tin bản thân nơi các người phối ngẫu tương lai để xác định tính thành sự của việc thuận tình, có người nêu ra sự bất đồng về tầm quan trọng và sự đa dạng trong cách tiếp cận để đào sâu thêm.



Chuẩn bị các nhân viên và gia tăng con số tòa án

116. (49) Về chủ đề các vụ án hôn nhân, song song với việc chuẩn bị cho có đủ số nhân viên gồm cả giáo sĩ lẫn giáo dân, việc hợp lý hóa thủ tục do nhiều nghị phụ thượng hội đồng yêu cầu đòi vị giám mục giáo phận phải chịu nhiều trách nhiệm hơn. Việc hợp lý hóa này có thể được thực hiện qua các huấn đạo viên được huấn luyện đặc biệt với khả năng có thể cung cấp các lời cố vấn miễn phí cho các bên liên hệ về tính thành sự của cuộc hôn nhân của họ. Việc này có thể được thực hiện bởi một văn phòng hay bởi các cá nhân có khả năng (xem Dignitas Connubii, điều 113, 1).

117. Một đề nghị muốn mỗi giáo phận cung cấp miễn phí các tín liệu, việc huấn đạo và làm trung gian trong các vấn đề liên quan tới việc chăm sóc mục vụ các gia đình, nhất là cho những người đang gặp trục trặc trong hôn nhân và những người đã ly thân. Một dịch vụ hữu hiệu loại này có thể giúp người ta chấp nhận thủ tục giáo luật, một thủ tục, trong lịch sử Giáo Hội, xem ra là phương cách đáng tin cậy nhất để biện phân và xác định tính thành sự đích thực của hôn nhân. Ngoài ra, nhiều nơi trên thế giới yêu cầu phải có nhiều toà án Giáo Hội hơn và phải phân quyền nhiều hơn cho các tòa này và cung cấp cho chúng các nhân viên có trình độ và khả năng.

Các phương thức mục vụ chung

118. (50) Những người ly dị nào mà không tái hôn, nghĩa là những người sẵn sàng làm chứng tá cho các lời thề hứa trung thành trong hôn nhân của họ, cần được khuyến khích để tìm thấy nơi Phép Thánh Thể của nuôi dưỡng cần thiết để nâng đỡ họ trong bậc sống hiện nay của họ. Cộng đồng và các vị mục tử địa phương phải đồng hành với những người này một cách ân cần, nhất là khi có liên quan đến con cái hay khi họ gặp khó khăn nghiêm trọng về tài chánh.

119. Ngoài việc lưu ý tới các tình huống cụ thể, nhiều người cảm thấy sự cần thiết này nữa là phát huy các sáng kiến mục vụ chung, mà nếu thiếu sẽ dẫn tới sự mù mờ và chia rẽ lớn lao hơn cũng như gây đau khổ nặng nề nơi những người đang chịu đựng sự thất bại của hôn nhân; họ là những người đôi khi cảm thấy bị xử bất công. Thí dụ, một số người trong Giáo Hội, đã ly thân nhưng chưa bước vào mối liên hệ mới, nghĩ lầm rằng việc ly thân của họ là có tội khiến họ không được lãnh nhận các bí tích. Hơn nữa, những người đã ly dị và đã tái hôn dân sự nhưng đang sống tiết dục vì nhiều lý do khác nhau, không hề biết rằng họ có thể lãnh nhận các bí tích tại một nơi không ai biết hoàn cảnh của họ. Một số người trong trạng thái kết hợp bất hợp lệ nhưng bằng lương tâm, đã quyết định sống tiết dục, thì vẫn có thể lãnh nhận các bí tích, dù phải cẩn thận tránh gây gương mù gương xấu. Các thí dụ này cho thấy Giáo Hội cần phải đưa ra sự chỉ dẫn rõ ràng, để con cái mình, những người trong các hoàn cảnh đặc biệt, không cảm thấy một ý hướng kỳ thị.

Tháp nhập những người ly dị và tái hôn dân sự vào cộng đồng Kitô hữu

120. (51) Cũng thế, những người ly dị và tái hôn cần được biện phân thận trọng và được đồng hành một cách hết sức kính trọng. Ngôn từ hay tác phong nào có thể làm họ cảm thấy như đối tượng của kỳ thị thì cần phải tránh, trong khi khích lệ họ tham gia vào đời sống cộng đồng. Không được coi việc cộng đồng Kitô hữu chăm sóc những người như thế là làm suy yếu đức tin và chứng từ của cộng đồng này đối với tính bất khả tiêu của hôn nhân, mà đúng hơn, chính trong chiều hướng này, cộng đồng được coi như đã nói lên đức ái của mình.

121. Nhiều phía yêu cầu rằng việc chú ý tới và đồng hành với những người đã ly dị và tái hôn dân sự cần phải xem xét tính đa dạng của các tình huống và phải ăn khớp với việc tháp nhập họ nhiều hơn vào đời sống của cộng đồng Kitô hữu. Không cố ý làm tổn hại tới các khuyến cáo trong Familiaris Consortio số 84, một số người gợi ý rằng các hình thức loại trừ hiện đang được tuân giữ trong thực hành phụng vụ và mục vụ phải được xem xét lại cũng như các thực hành trong giáo dục và hoạt động bác ái. Vì những người này vẫn còn là thành phần của Giáo Hội, nên mục tiêu là phải suy nghĩ tới dịp loại bỏ các hình thức loại trừ ấy. Hơn nữa, để phát huy việc tháp nhập những người này vào cộng đống Kitô hữu nhiều hơn, phải lưu ý đặc biệt tới quyền lợi tốt nhất của con cái họ, xét vì cha mẹ có vai trò không thay thế được trong việc dạy dỗ con cái.

Trước khi tháp nhập những người đã ly dị và tái hôn dân sự vào sinh hoạt mục vụ, một số người khuyến cáo: các mục tử phải biện phân thích đáng đặc điểm không thể trở lui của hoàn cảnh họ cũng như đời sống đức tin của cặp kết ước trong mối liên hệ mới của họ; con đường tháp nhập này phải đi đôi với việc nhậy cảm hóa cộng đồng Kitô hữu dưới khía cạnh chào đón những người liên hệ, và phải được thể hiện theo luật tiệm tiến (xem FC, số 34), luôn tôn trọng diễn trình chín mùi của lương tâm.

Con đường thống hối

122. (52) Các nghị phụ thượng hội đồng cũng xem xét khả thể cho phép người ly dị và tái hôn được chịu các bí tích thống hối và Thánh Thể. Nhiều nghị phụ nhấn mạnh việc phải duy trì kỷ luật hiện nay, vì mối liên hệ cấu thành giữa việc tham dự Phép Thánh Thể và sự hiệp thông với Giáo Hội cũng như giáo huấn của Giáo Hội về đặc tính bất khả tiêu của hôn nhân. Các nghị phụ khác đưa ra một phương thức có tính cá nhân hóa nhiều hơn, cho phép chịu các bí tích này trong một số tình huống và với những điều kiện được xác định cẩn thận, chủ yếu là trong các tình huống không thể đảo ngược được và các tình huống có liên hệ tới nghĩa vụ tinh thần đối với con cái là những người sẽ phải chịu những đau khổ bất công. Chịu các bí tích có thể diễn ra nếu có việc thực hành thống hối trước đó, do vị giám mục giáo phận xác định. Đề tài này cần được xem xét thấu đáo, luôn nhớ tới việc phân biệt giữa một bên là tình thế tội lỗi khách quan và các hoàn cảnh giảm khinh, xét vì “việc có thể qui tội và trách nhiệm đối với một hành động nào đó có thể gia giảm, thậm chí còn bị triệt tiêu bởi ngu dốt, thiếu thận trọng, bị cưỡng ép, sợ sệt, bởi thói quen, các gắn bó vô trật tự, và nhiều nhân tố tâm lý hay xã hội” (CCC, 1735).

123. Liên quan tới chủ đề vừa nhắc, đa số đồng ý rằng hành trình hòa giải hay thống hối, dưới sự giám sát của giám mục địa phương, có thể được thực hành bởi những người ly dị và tái hôn dân sự thấy mình ở trong tình huống thê thiếp (concubinage) không thể nào trở lui được nữa. Tham chiếu Familiaris Consortio, số 84, có gợi ý cho rằng cần phải theo thủ tục sau đây: hiểu rõ lý do tại sao cuộc hôn nhân đã thất bại và các thương tổn nó gây ra; thống hối thỏa đáng; chứng thực tính vô hiệu có thể có của cuộc hôn nhân đầu; cam kết rước lễ thiêng liêng; và quyết định sống tiết dục.

Các người khác hiểu con đường thống hối như một diễn trình làm sáng tỏ các vấn đề sau khi đã sống sự thất bại, và tới việc tái định hướng, một việc phải được sự đồng hành của một linh mục được đề cử cho mục đích này. Diễn trình này phải dẫn những người liên hệ tới một phê phán trung thực đối với chính trạng huống của họ, nhờ đó cũng vị linh mục vừa kể có thể có được một lượng giá chín chắn để có thể sử dụng quyền buộc và quyền tha đối với trạng huống này.



Để có thể xem xét thấu đáo tình trạng khách quan của tội và phần lỗi luân lý của các bên, một số người gợi ý phải tham chiếu các văn kiện Thư Gửi Các Giám Mục của Giáo Hội Công Giáo về Việc Rước Lễ của Các Thành Phần Ly Dị và Tái Hôn của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin (4 tháng 9, 1994) và Tuyên Bố về Việc Cho Các Tín Hữu Ly Dị và Tái Hôn Rước Lễ của Hội Đồng Giáo Hoàng về Các Bản Văn Lập Pháp (24 tháng 6, 2000).

Tham dự thiêng liêng vào hiệp thông Giáo Hội

124. (53) Một số nghị phụ thượng hội đồng chủ trương rằng các người ly dị và tái hôn hay những người sống chung với nhau có thể rước lễ thiêng liêng một cách hữu ích. Các nghị phụ khác thì nêu vấn đề: như thế, tại sao họ lại không được chịu lễ thực sự. Thành thử, các nghị phụ yêu cầu rằng cần phải có những nghiên cứu thần học sâu xa hơn về vấn đề này nhằm minh giải các nét khác biệt của hai hình thức rước lễ và mối nối kết của chúng với nền thần học hôn nhân.

125. Việc Giáo Hội tháp nhập các chi thể của mình vào Chúa Kitô, khởi đầu trong Phép Rửa, cả trong trường hợp những người ly dị và tái hôn dân sự, diễn tiến theo từng giai đoạn nhờ một hành trình hoán cải liên tục. Trong diễn trình này, người ta được mời gọi nhiều cách khác nhau để làm cho đời mình nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, Đấng luôn dùng ơn thánh của Người nâng đỡ họ trong hiệp thông Giáo Hội. Dựa vào Familiaris Consortio, số 84, một lần nữa, các hình thức tham dự được khuyến cáo là: lắng nghe Lời Chúa, tham dự việc cử hành Thánh Thể, kiên tâm cầu nguyện, làm việc bác ái, các sáng kiến của cộng đồng nhằm phát huy công lý, đào luyện con cái trong đức tin và tinh thần thống hối, tất cả đều được hỗ trợ bởi lời cầu nguyện và chứng tá đầy từ tâm của Giáo Hội. Hoa trái của việc tham dự này là việc hiệp thông của các tín hữu với toàn thể cộng đồng, vốn nói lên việc được tháp nhập vào Giáo Hội như là Nhiệm Thể Chúa Kitô. Điều quan trọng phải nhớ là: việc rước lễ thiêng liêng, một việc rước lễ giả thiết phải có hồi tâm và ở trong trạng thái ơn thánh, có liên hệ với việc rước lễ bí tích.

Các cuộc hôn nhân hỗn hợp và các cuộc hôn nhân khác đạo

126. (54) Các vấn đề liên quan tới các cuộc hôn nhân hỗn hợp thường được các tham luận của các nghị phụ nêu ra. Các dị biệt trong luật lệ hôn nhân của các Giáo Hội Chính Thống tạo nên nhiều vấn đề trầm trọng trong một số bối cảnh; các vấn đề này đòi được xem xét theo quan điểm đại kết. Cũng thế, sự đóng góp của cuộc đối thoại với các tôn giáo rất quan trọng đối với các cuộc hôn nhân liên tôn giáo.

127. Các cuộc hôn nhân hỗn hợp và các cuộc hôn nhân khác đạo có nhiều khía cạnh quan yếu không dễ giải quyết, không hẳn ở bình diện pháp lý cho bằng ở bình diện mục vụ. Các cuộc hôn nhân này đặt ra một loạt các vấn đề cần đương đầu; thí dụ, việc dưỡng dục con cái về tôn giáo; việc tham dự vào sinh hoạt phụng vụ của người phối ngẫu, như trong trường hợp kết hôn hỗn hợp với những người rửa tội trong các tuyên tín khác của Kitô Giáo; và việc chia sẻ các kinh ngiệm tâm linh với một người phối ngẫu thuộc một tôn giáo khác hoặc thậm chí với người không tin đang còn đi tìm Thiên Chúa. Các hoàn cảnh như thế đòi phải đưa ra một chính sách về tác phong trong đó, không người phối ngẫu nào được ngăn cản hành trình đức tin của người kia. Về việc này, muốn xử lý với các dị biệt liên quan tới đức tin một cách xây dựng, nhất thiết phải lưu ý cách riêng tới những người hiện đang sống trong các cuộc hôn nhân này, không chỉ trong thời gian chuẩn bị trước ngày cưới mà thôi.

128. Một số người gợi ý rằng có thể coi các cuộc hôn nhân hỗn hợp như các trường hợp “thật cần thiết” trong đó có thể cho phép người đã chịu phép rửa nhưng chưa hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo, tuy có chia sẻ đức tin của Giáo Hội vào phép Thánh Thể, được rước lễ, khi các mục tử của họ không sẵn có đó và phải tính tới các tiêu chuẩn của cộng đồng Giáo Hội mà họ vốn thuộc về (xem EdE, 45-46; Hội Đồng Giáo Hoàng về Cổ Vũ Hợp Nhất Kitô Giao, Tập Hướng để Áp Dụng Các Nguyên Tắc và Qui Định về Đại Kết, ngày 25 tháng 3, 1993, 122-128).

Bản chất đặc biệt của truyền thống Chính Thống Giáo

129. Những người nhắc tới thực hành hôn phối của các Giáo Hội Chính Thống cần phải nhớ sự khác nhau trong cách hiểu thần học của các Giáo Hội này về hôn nhân. Các Giáo Hội Chính Thống liên kết tập tục chúc lành cho cuộc kết hợp thứ hai với quan niệm “nhiệm cục” (oikonomia), được hiểu là việc thích nghi mục vụ đối với cuộc hôn nhân thất bại mà không đặt nghi vấn gì đối với lý tưởng của một liên hệ tuyệt đối đơn hôn hay tính độc đáo của hôn nhân. Trong chính nó, việc chúc lành này là một cử hành thống hối để khẩn cầu ơn Chúa Thánh Thần, ngõ hầu sự yếu đuối của con người được chữa lành và hối nhân được hiệp thông trở lại với Giáo Hội.

Lưu tâm mục vụ đối với những người có khuynh hướng đồng tính

130. (55) Một số gia đình có các thành viên có khuynh hướng đồng tính luyến ái. Về phương diện này, các nghị phụ thượng hội đồng tự hỏi mục vụ phải chú ý một cách thích hợp ra sao đối với họ mà vẫn phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội vốn dạy rằng: “Tuyệt đối không có bất cứ cơ sở nào để coi các cuộc kết hợp đồng tính là tương đương hay có thể so sánh dù rất xa xôi với kế hoạch của Thiên Chúa dành cho hôn nhân và gia đình”. Tuy nhiên, các người nam nữ có khuynh hướng đồng tính phải được tiếp nhận với lòng kính trọng và nhậy cảm. “Mọi dấu hiệu kỳ thị bất công đối với họ phải được xa tránh” (Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Các Xem Xét Liên Quan Tới Các Đề Nghị Thừa Nhận Hợp Pháp Các Cuộc Kết Hợp Giữa Những Người Đồng Tính Luyến Ái, số 4).

131. Điểm sau đây cần được lặp lại: mọi người, bất kể xu hướng tính dục của họ, đều phải được tôn trọng trong nhân phẩm của họ và được tiếp nhận một cách nhậy cảm và hết sức quan tâm trong cả Giáo Hội lẫn xã hội. Điều đáng ước mong là: trong các chương trình mục vụ của họ, các giáo phận nên dành sự chú ý đặc biệt để đồng hành với các gia đình trong đó một thành viên có khuynh hướng đồng tính, và với chính những người đồng tính.

132. (56) Về phương diện trên, gây áp lực đối với các mục tử của Giáo Hội là điều hoàn toàn không thể chấp nhận được: cũng thế, không thể chấp nhận được việc các tổ chức quốc tế nối kết sự trợ giúp tài chánh của họ cho các nước nghèo với việc (các nước này) phải ban hành các luật lệ hợp pháp hóa “cuộc hôn nhân” giữa những người cùng phái tính.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Ánh Hào Quang
Nguyễn Đức Cung
21:27 23/07/2015
ÁNH HÀO QUANG
Ảnh của Nguyễn Đức Cung
Có ba thứ không thể ẩn giấu lâu được
đó là: mặt trời, mặt trăng, và sự thật.
(Lời của Phật)

Three things cannot be long hidden:
the sun, the moon, and the truth.
(Buddha)
 
VietCatholic TV
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 16/07 – 22/07/2015: Sinh Nhật Thánh Gioan Bosco, thánh tích Thánh Piô Năm Dấu Thánh
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
01:33 23/07/2015
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành cảm thương dân chúng

Trông thấy, cảm thương và dậy dỗ là ba động từ diễn tả thái độ của Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành. Lòng thương xót của Ngài không chỉ là tâm tình nhân loại, nhưng là sự cảm thương của Đấng Cứu Thế nhập thể sự dịu hiền của Thiên Chúa.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 19 tháng Bẩy. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha chào và khen mọi người: Tôi thấy anh chị em thật can đảm với cái nóng tại quảng trường. Xin khen ngợi anh chị em. Nắng hè Roma tại quảng trường nóng hơn 40 độ C.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Phúc Âm hôm nay nói với chúng ta rằng Các Tông Đồ đã trở về hài lòng, nhưng mệt mỏi sau kinh nghiệm truyền giáo. Và Chúa Giêsu tràn đầy thương xót muốn cho các ông một chút củng cố; vì thế Ngài đưa các ông đi riêng ra trong một nơi thanh vắng, để các ông có thể nghỉ ngơi một chút (x, Mc 6,31) “Nhưng nhiều người trông thấy các ngài ra đi, họ hiểu… và đi tới trước các ngài” (c. 32). Tới đây thánh sử cống hiến cho chúng ta một hình ảnh của Chúa Giêsu đặc biệt sâu đậm, như thể là chụp hình các con mắt của Chúa, và tiếp nhận các tâm tình của con tim Ngài; và thánh sử nói: Xuống thuyền Ngài trông thấy một đám đông lớn, Ngài cảm thương họ, bởi vì họ như chiên không có người chăn, và Ngài bắt đầu giảng dậy họ nhiều điều (c. 34). Đức Thánh Cha định tính thái độ của Chúa Giêsu như sau:

Chúng ta hãy lấy lại ba động từ của hình ảnh gọi hứng này: trông thấy, cảm thương và dậy dỗ. Chúng ta có thể gọi chúng là các động từ của vị Mục Tử. Trông thấy, cảm thương và dậy dỗ. Động từ thứ nhất và thứ hai, trông thấy và cảm thương luôn luôn được kết hiệp trong thái độ của Chúa Giêsu. Thật thế, cái nhìn của Ngài không chỉ là cái nhìn của một nhà xã hội học hay của một phóng viên chụp hình, bởi vì Ngài luôn “nhìn với đôi mắt của con tim”. Hai động từ trông thấy và cảm thương diễn tả gương mặt Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành. Sự cảm thương của Ngài không phải là một tâm tình nhân loại, nhưng là sự cảm xúc của Đấng Cứu Thế, nơi Người nhập thể sụ dịu hiền của Thiên Chúa.Và từ lòng cảm thương này nảy sinh ra ước muốn của Chúa Giêsu dưỡng nuôi đám đông với bánh Lời Ngài, nghĩa là giảng dậy Lời Chúa cho dân chúng. Chúa Giêsu trông thấy, Chúa Giêsu cảm thương, Chúa Giêsu giảng dậy. Điều này thật là đẹp!

2. Đức Thánh Cha chuẩn y nghị định công nhận nhân đức anh hùng của tám vị

Trong buổi tiếp kiến ngày 16 tháng 7 với Đức Hồng Y Angelo Amato, tổng trưởng Bộ Phong Thánh, và các thành viên Bộ này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã phê chuẩn nghị định về các nhân đức anh hùng của tám vị tôi tớ Chúa, là những vị giờ đây được các tín hữu kêu cầu với danh hiệu "bậc đáng kính".

Tám vị này là

• Đức Tổng Giám mục của thành Lviv Andrey Sheptytsky (1865-1944), người đã lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Ukraine Hy Lạp trong 43 năm cuối cùng của cuộc sống mình.

• Đức Giám Mục Giuseppe Carraro của Verona, Ý (1899-1980)

• Cha Agustín Ramirez Barba (1881-1967), một linh mục người Mexico thành lập dòng các Nữ Tử Lòng Thương Xót Chúa

• Cha Simpliciano của Chúa Giáng Sinh (1827-1898), một linh mục dòng Phanxicô người Ý, đấng sáng lập dòng Nữ Tử Thánh Tâm Phanxicô.

• Mẹ Maria del Refugio Aguilar y Torres (1866-1937), đấng sáng lập Dòng Nữ Thánh Thể

• Chị Maria Teresa Dupouy Bordes (1873-1953), một nữ tu người Pháp, đấng sáng lập Dòng Thừa Sai Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria và qua đời tại Tây Ban Nha.

• Chị Elisa Miceli (1904-1976), người Ý, đấng sáng lập phong trào chị em giáo lý viên nông thôn của Thánh Tâm Chúa Giêsu.

• Chị Isabel Méndez Herrero (1924-1953), một thành viên người Tây Ban Nha dòng Nữ Tử Thánh Giuse.

3. 595 chủng sinh Hoa Kỳ sẽ được thụ phong linh mục trong năm nay, tăng 25% so với năm 2014

Theo thống kê được Trung tâm nghiên cứu ứng dụng các hoạt động tông đồ công bố ngày 16 tháng Bẩy, ước tính 595 chủng sinh Mỹ sẽ được thụ phong linh mục trong năm nay. Con số này đại diện cho sự gia tăng 25 phần trăm ơn gọi ở Mỹ, so với năm 2014.

Thống kê cũng cho thấy những ảnh hưởng trên quyết định theo đuổi ơn thiên triệu. Một nghiên cứu gần đây ở Mỹ, cho thấy rằng ít nhất là tại Mỹ, một trong những yếu tố chính là ảnh hưởng của các linh mục giáo xứ địa phương. Tuy nhiên, thống kê cũng cho thấy một con số đáng buồn là ở Mỹ, một phần năm các giáo xứ không có linh mục chính xứ.

Cũng theo nghiên cứu này, sau ảnh hưởng của một linh mục giáo xứ địa phương là giáo dục ở tất cả các hình thức. .. dù trong gia đình, trường học hay các phong trào, đoàn thể.

Khi Đức Thánh Cha Phanxicô thăm Hoa Kỳ vào tháng Chín tới đây, Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ hy vọng chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng sẽ có tác dụng làm gia tăng hơn nữa ơn gọi linh mục tại quốc gia này.

4. Thánh tích của thánh Piô năm dấu thánh sẽ được trưng bày tại Đền Thờ Thánh Phêrô

Theo quyết định của Đức Thánh Cha Phanxicô, thánh tích của thánh Piô thành Pietrelcina, thường được gọi là thánh Piô Năm Dấu Thánh sẽ được trưng bày tại Đền Thờ Thánh Phêrô từ ngày 08 đến ngày 14 tháng 2 năm 2016 để đánh dấu Năm Thánh Từ Bi.

Đức Thánh Cha đã muốn rằng thánh tích được trưng bày tại Đền Thờ Thánh Phêrô vào ngày Thứ Tư Lễ Tro (10 tháng 2), là ngày các tín hữu toàn thế giới sẽ được yêu cầu để trở thành “nhà truyền giáo của lòng thương xót.”

Cha thánh Piô là một linh mục dòng Capucinô, sinh năm 1887 và qua đời năm 1968. Từ năm 1918, cha đã được bề trên cử về San Giovanni Rotondo (có lẽ tên gọi bắt nguồn từ ngôi nhà thờ hình tròn, dâng kính thánh Gioan Tẩy giả, được cất từ thế kỷ VII) để hoạt động mục vụ cho đến khi qua đời.

Trong suốt thời gian 50 năm, cha được biết đến như là vị giải tội ngoại thường: nhiều ngày cha ngồi toà hơn 10 tiếng đồng hồ; ngoài ra cũng từ năm 1918 cha được lãnh nhận trên thân mình 5 dấu thương tích của Chúa Giêsu. Tuy đã qua đời từ hơn 50 năm qua, nhưng hai công trình do cha khởi xướng vẫn tồn tại, thứ nhất là “Nhà xoa dịu đau khổ”, tức là bệnh viện dành cho các bệnh nhân (khánh thành vào năm 1956 với 250 giường, nhưng nay đã lên đến 1200 giường với 50 ngành chuyên khoa) và “hội cầu nguyện cha Piô” (chính thức thành lập từ năm 1950, và ngày nay bành trướng khắp thế giới). Cha Piô được phong chân phước năm 1999 và hiển thánh năm 2002, lễ kính vào ngày 23/9, trùng vào ngày tạ thế. Vào ngày 23/5/1987, đức Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm mộ của cha Piô, vị giải tội mà ngài đã từng gặp khi còn là một linh mục sinh viên ở Rôma 40 năm về trước. Đức Bênêđictô XVI là vị giáo hoàng thứ hai đến viếng thăm mồ của vị thánh linh mục hầu như suốt đời chỉ thi hành hai tác vụ là dâng Thánh lễ (đôi lúc kéo dài 3 giờ đồng hồ) và ban bí tích giải tội.

5. Án phong Chân Phước cho Enrique Shaw, thương gia Á Căn Đình, bắt đầu tại Rôma

Khi còn là tổng giám mục Buenos Aires, Đức Thánh Cha lúc bấy giờ là Đức Hồng Y Jorge Mario Bergoglio đã thúc đẩy quá trình phong chân phước cho Enrique Shaw.

Thương gia Enrique Shaw là một người giàu có và có địa vị cao trong xã hội nhưng rất gần gũi với người lao động bình dân. Ông biết tên của mọi nhân viên thuộc cấp và quan tâm sâu sắc đến họ. Ông nổi tiếng vì đã làm hết sức mình để tránh sa thải hơn 1,200 công nhân trong thời kỳ kinh tế khó khăn.

Linh mục Silvia Correale, Cáo Thỉnh Viên án phong chân phước cho ngài nói:

“Mọi người đều nhận ra những mối quan hệ thân mật, tình cảm ông đã có với các công nhân và làm thế nào ông luôn luôn giữ nhu cầu của họ trong tâm trí mình.”

Năm 1936, Shaw gia nhập Hải quân Á Căn Đình khi mới 14 tuổi. Ông đã từng dạy cho binh lính về tôn giáo. Ông học tại Harvard và sau đó trở thành một doanh nhân nổi bật. Nhưng Shaw vẫn quan tâm đến các vấn đề xã hội của Á Căn Đình.

Cha Silvia Correale cho biết: “Ở Á Căn Đình, ông đã tổ chức một chiến dịch để trợ cấp lương bổng gia đình và tổ chức các cửa hàng cung cấp giá rẻ cho người lao động.”

Shaw đã kết hôn và có chín người con. Ông qua đời vì bệnh ung thư vào năm 1962 khi ông mới 41 tuổi. Hơn 200 nhân viên của ông đã hiến máu cho ông. Ông cho biết vào thời điểm đó, “bây giờ tôi có thể nói đó là máu của công nhân chạy trong huyết quản của tôi.”

Quá trình phong chân phước cho ông Enrique Shaw đã hoàn tất giai đoạn địa phương và hiện đang được xem xét tại Rôma. Còn phải mất ít nhất hai năm cho đến khi có quyết định chính thức.

6. Đợt đối thoại thứ 6 giữa Công Giáo và Pentecostal

Hôm 17-7 đợt đối thoại thứ 6 giữa Công Giáo và Tin Lành Pentecostal đã kết thúc sau 7 ngày tiến hành tại Roma (10-17/7) về đề tài “Các đoàn sủng trong Giáo Hội: ý nghĩa thiêng liêng, sự phân định và những hệ luận về mục vụ”.

Tham dự khóa họp có các đại diện Công Giáo do Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô bổ nhiệm và một số vị lãnh đạo Giáo Hội Pentecostal. Trong các cuộc gặp gỡ trước đây, hai bên đã bàn đến những chủ đề như: các đoàn sủng, điểm chung của chúng ta (2011), sự chữa lành (2013), và lời ngôn sứ (2014). Hai bên cùng dành khóa họp năm nay để soạn phúc trình chung kết sẽ được công bố vào đầu năm 2016 tới đây.

Mục đích cuộc đối thoại giữa Công Giáo và Pentecostal, bắt đầu từ năm 1972, là để thăng tiến sự tôn trọng và cảm thông với nhau trong các vấn đề đức tin và thực hành. Sự trao đổi chân thành và thảo luận thẳng thắn về lập trường và thực hành của hai truyền thống là những nguyên tắc hướng dẫn các cuộc đối thoại này, trong đó có những buổi cầu nguyện hằng ngày.

Đồng chủ tịch của cuộc đối thoại về phía Công Giáo là Đức Cha Michael Burbidge, Giám Mục giáo phận Raleigh, bang Bắc Carolina Hoa Kỳ, và về phía Pentecostal là Giáo sư Cecil Robeck, thuộc Giáo Hội “Hội Thánh của Thiên Chúa” (Assemblies of God), giáo sư chủng viện thần học Fuller ở Pasadena, bang California, Hoa Kỳ.

Trong những khóa họp tại Roma, Đức Hồng Y Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, và vị Tổng thư ký là Đức Cha Brian Farrell, cũng đến gặp gỡ và trao đổi với các tham dự viên.

Pentecostal là một phong trào trong Kitô giáo bắt nguồn từ phong trào thánh thiện trong Giáo Hội Methodist. Các Giáo Hội này đặc biệt chú trọng đến phép rửa Thánh Linh. Hiện nay có khoảng 170 hệ phái coi mình là Pentecostal với khoảng 200 triệu người

7. Thư Đức Thánh Cha nhân dịp 200 năm Sinh Nhật Thánh Bosco

Đức Thánh Cha cảm tạ Thiên Chúa vì đã ban thánh Gioan Bosco như một hồng ân cho Giáo Hội và ngài khích lệ các con cái thánh nhân sống những đặc tính thiết yếu trong gia sản tinh thần của thánh Bosco.

Trên đây là nội dung thư Đức Thánh Cha gửi đại gia đình dòng Salesien, qua trung gian cha Ángel Fernandez Artime, Bề trên Tổng quyền dòng Salesien Don Bosco, nhân dịp kỷ niệm 200 năm sinh nhật của thánh Tổ Phụ.

Thư của Đức Thánh Cha đề ngày 24-6-2015 và được công bố hôm 16-7-2015 tại Roma, qua đó ngài viết: “Chúng ta có thể tóm tắt những khía cạnh nổi bật của thánh Bosco: Người sống sự tận hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa với niềm hăng say đối với phần rỗi các linh hồn và thực thi lòng trung thành với Thiên Chúa và giới trẻ trong cùng một cử chỉ yêu thương. Những thái độ này khiến thánh nhân “đi ra ngoài” và thực hiện những quyết định can đảm: chọn lựa tận tụy săn sóc giới trẻ nghèo, với ý hướng thực thi một phong trào rộng lớn của người nghèo cho người nghèo; và thánh nhân chọn lựa nới rộng việc phục vụ ấy vượt lên trên các ranh giới ngôn ngữ, chủng tộc, văn hóa và tôn giáo, nhờ lòng hăng say truyền giáo không biết mệt mỏi”.

Đức Thánh Cha cũng nhận xét rằng:

“Ngày nay gia đình dòng Salesien cũng đang cởi mở hướng về những biên cương mới trong lãnh vực giáo dục và truyền giáo, tiến bước trên những con đường các phương tiện truyền thông xã hội mới mẻ và con đường giáo dục liên văn hóa nơi các dân tộc thuộc các tôn giáo khác nhau, hoặc tại các nước đang trên đường phát triển, hoặc tại những nơi di dân. Những thách đố ở Torino hồi thế kỷ thứ 19 nay đang mặc chiều kích hoàn cầu, như sự tôn thờ tiền bạc, bất công sinh ra bạo lực, chế độ thực dân ý thức hệ và những thách đố văn hóa gắn liền với bối cảnh thành thị. Một số khía cạnh có liên hệ trực tiếp đối với thế hệ người trẻ, như sự phổ biến Internet, và qua đó đang gọi hỏi các con cái nam nữ của Thánh Bosco: anh chị em được kêu gọi làm việc, cứu xét những nguồn năng lực mà Chúa Thánh Linh khơi dậy trong hoàn cảnh khủng hoảng, cùng với những vết thương”.

Đức Thánh Cha nhắc nhở cho gia đình dòng Salesien hãy làm cho tinh thần sáng tạo theo đoàn sủng của mình được tái triển nở trong và ngoài các cơ sở giáo dục của dòng, với lòng tận tụy tông đồ, đặt mình trên những con đường của người trẻ, nhất là những người trẻ ở các khu vực ngoại ô.

Sau cùng, Đức Thánh Cha kết luận rằng “xin Thánh Bosco giúp anh chị em không làm cho những khát vọng sâu xa của người trẻ bị thất vọng: nhu cầu sống, cởi mở, vui tươi, tự do, tương lai, ước muốn cộng tác vào công trình xây dựng một thế giới công bằng và huynh đệ hơn, vào việc phát triển mọi dân tộc, bảo vệ thiên nhiên và các môi trường của đời sống”



8. Đức Thánh Cha phó thác các nước Nam Mỹ cho Đức Mẹ


Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 19 tháng Bẩy, Đức Thánh Cha đã phó thác các nước Nam Mỹ cho Đức Mẹ, ngài nói:

“Tôi đã xin Chúa rằng Thần Khí của Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành hướng dẫn tôi trong chuyến tông du, mà tôi đã hoàn thành tại các nước Ecuador, Bolivia và Paraguay. Tôi cảm tạ Chúa với tất cả tâm lòng vì món qùa này. Tôi xin cám ơn các dân tộc của ba nước vì sự tiếp đón trìu mến nồng hậu và hứng khởi của họ. Tôi tái bầy tỏ lòng biết ơn các chính quyền ba nước vì sự tiếp đón và cộng tác của họ. Với tất cả lòng trìu mến tôi xin cám on các anh em Giám Mục, các linh mục, các người sống đời thánh hiến và dân chúng vì đã tham gia một cách nồng nhiệt. Với các anh chị em này tôi đã chúc tụng Chúa vì các điều tuyệt diệu Ngài đã làm trong Dân Chúa trên con đường trần gian, vì đức tin đã và đang linh hoạt cuộc sống và nền văn hóa của nó. Và chúng tôi cũng đã chúc tụng Chúa vì các vẻ đẹp thiên nhiên, mà Ngài đã rộng ban cho các quốc gia này. Đức Thánh Cha nhận xét về đại lục Mỹ Latinh như sau:

Đại lục Mỹ latinh có các tiềm năng nhân bản và tinh thần lớn lao, nó giữ gìn các giá trị kitô đã đâm rễ sâu nơi đây, nhưng cũng sống các vấn đề xã hội và kinh tế nghiêm trọng. Để góp phần vào giải pháp cho nó, Giáo Hội đã dấn thân huy động các lực lượng tinh thần và luân lý của các cộng đoàn của mình bằng cách cộng tác với tất cả các thành phần xã hội. Trước các thách đố lớn mà việc loan báo Tin Mừng phải đương đầu, tôi đã mời gọi kín múc nơi Chúa Kitô ơn thánh cứu rỗi và trao ban sức mạnh cho dấn thân của chứng tá kitô, phát triển việc phổ biến Lời Chúa, để tôn giáo tính cao độ của các dân tộc này có thể luôn luôn là chứng tá trung thành của Tin Mừng.

Tôi phó thác cho sự bầu cử hiền mẫu của Đức Trinh Nữ Maria, mà toàn châu Mỹ Latinh tôn kính như Bổn Mạng với tước hiệu Đức Bà Guadalupe, các hoa trái của chuyến tông du không thể quên được này.”

9. Ngân Sách năm 2014 của Tòa Thánh bị hụt 25.6 triệu Euro

Trong năm 2014, ngân sách của Tòa Thánh bị thiếu hụt 25 triệu 600 ngàn Euro.

Theo thông cáo do Hội đồng Hồng Y về kinh tế công bố hôm 16-7-2015, con số thiếu hụt trên đây gần với số thiếu hụt trong năm 2013 trước đó, là 24 triệu 400 ngàn Euro.

Số tiền do các giáo phận và dòng tu đóng góp cho Tòa Thánh trong năm 2014 là 21 triệu Euro và Viện Giáo Vụ quen gọi là ngân hàng Vatican góp 50 triệu Euro.

Phần lớn số chi trong ngân sách Tòa Thánh là để trả lương cho 2.880 nhân viên thuộc 64 cơ quan khác nhau, với 126 triệu 600 ngàn Euro.

Trong năm 2015, ngân sách của Phủ Thống đốc quốc gia thành Vatican dư được 63 triệu 519 ngàn Euro, tức là nhiều hơn gần 30 triệu Euro so với số dư của phủ này trong năm 2013 là 33 triệu 42 ngàn Euro. Phủ Thống quốc quốc gia thành Vatican có 1.930 nhân viên, và phần lớn số thu đến từ bảo tàn viện Vatican và số tiền đầu tư thuận lợi.

Thông cáo của Hội đồng Hồng Y cho biết trong năm 2015, ngân sách của Tòa Thánh tiếp tục sẽ thiếu hụt.

Ngoài ra, Hội đồng cho biết gia sản của Tòa Thánh tăng lên 939 triệu Euro nhờ sự điều chỉnh bằng cách bao gồm rất cả các hoạt động và tiền thiếu hụt khi kết toán ngân sách 2014. Trước đây có những khoản tiền dự trữ của các cơ quan Tòa Thánh không được ghi trong ngân sách.

Kết toán của Tòa Thánh từ nay được thi hành theo các nguyên tắc quốc tế.

10. Lễ đài tuyệt hảo Nu Guazú được hạ xuống để làm thực phẩm

Phải làm gì với 60 ngàn trái bắp, 20 ngàn quả bí và 150 ngàn trái dừa?

Đó là những thực phẩm mà các nông dân Paraguay đã biếu tặng để tạo nên lễ đài chính trong công viên Nu Guazú, nơi mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã cử hành Thánh Lễ cuối cùng của chuyến tông du 3 quốc gia Nam Mỹ.

Ngoài con số trên 1 triệu người tham dự đã được tận mắt chiêm ngưỡng cái kỳ công cuả nghệ sĩ Koki Ruiz, nhiều triệu người khác trên thế giới cũng bị thôi miên qua màn ảnh truyền hình hoặc qua các hình ảnh trên mạng xã hội, vì vẻ đẹp cuả chiếc lễ đài, vừa đơn giản nhưng đồng thời lại lộng lẫy và trang nghiêm.

Cấu trúc cuả lể đài là một cái tháp, dài 131 feet (40m) và cao 56 feet (17m ), có một diện tích là 4305 feet vuông (400m2). Tất cả được bao phủ bởi những trái ngô, dừa và bí. Ở trung tâm cao nhất là một cây thánh giá.

Bên trái có hình Thánh Phanxicô, tên hiệu của Đức Giáo Hoàng, và bên phải là Thánh Inhaxiô Loyola, đấng sáng lập Dòng Tên là dòng đã reo rắc hạt giống đức tin sang Paraguay.

Ông Ruiz đã cùng với 20 người nghệ sĩ khác làm việc thiết kế và xây dựng, họ sử dụng 200 tình nguyện viên cho những việc trang trí bàn thờ. Nhiều người biết đến dự án nhờ các mạng xã hội và đã tìm đến để tham gia.

“Với dự án này, tôi muốn chứng tỏ là nghệ thuật không dành riêng cho một thiểu số có tài năng. Nghệ thuật ở trong tầm tay của tất cả mọi người và nó không cần bất cứ điều gì lạ, nhưng chỉ cần những điều bình thường hàng ngày, và những gì người ta sản xuất có thể trở thành một tác phẩm nghệ thuật “, ông Ruiz nói.

Ngoài những người nghệ sĩ trực tiếp nhúng tay vào tác phẩm, những nông dân đã hiến tặng phẩm vật cũng được thông báo về những “trân trọng và đánh giá cao cuả thế giới bên ngoài,” ông nói tiếp.

Các mạng xã hội tràn ngập hình ảnh bàn thờ không ngưng nghỉ trong suốt cả ngày. Thậm chí người ta còn tạo ra một hashtag trên Twitter để nói về nó, đó là: #altardemaiz (“Bàn thờ của ngô bắp”)

Mỗi mét vuông mặt bằng là có 1.200 trái dừa, dán vào nhau nhờ một loại keo đặc biệt. 60.000 trái bắp được xử dụng để bao quanh thềm gỗ.

Loại dừa Guarani là loại dừa nhỏ và có thể để lâu đến 14 tháng. “Nó có vỏ rất cứng có thể sơn lên dễ dàng, vì sau khi lột lớp vỏ bên ngoài, thì cái sọ dừa rất mịn, rất dễ vẽ”, ông Ruiz giải thích.

Lễ đài được cấu trúc bằng nhiều phần di động, dễ dàng di chuyển, nhờ đó mà nhiều phần đã được thiết lập và trang trí trong khuôn viên cuả đan viện Tañarandy ở gần đó.

Mục tiêu cuả dự án là để biểu trưng cho những nền văn hoá đa dạng cuả quốc gia, đồng thời đề cao nền văn hoá bản xứ là Guarani.

“Hai năm trước chúng tôi cũng đã thực hiện một dự án như thế này rồi, chỉ dùng những hoa trái hảo hạng mà người dân Guarani dùng, đó là bắp, bí và dừa” ông Ruiz nói.

Những thực phẩm đó sẽ không bị bỏ phí sau khi lễ đài được phá đi.

“Dừa sẽ được lấy xuống để làm xà phòng, ngô được chế biến làm thực phẩm cho động vật, còn bí thì sẽ được phát cho dân quanh vùng. Người dân ở đây dùng bí để chế biến ra một loại mứt rất được ưa chuộng có tên là 'andai'”

11. Đức Giáo Hoàng nói với người nghèo Paraguay

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Ngày cuối cùng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô tại Paraguay, chặng chót trong chuyến tông du 3 nước Mỹ Châu La Tinh của ngài, ngoài Thánh Lễ đại trào tại Campo Grande ở Công Viên Nu Guazú, Thủ Đô Asuncion, trong đó ngài nhấn mạnh: muốn phúc âm hóa hữu hiệu, phải có thái độ chào đón, ta thấy hai bài nói chuyện rất đáng chú ý nữa đó là bài nói chuyện với người nghèo và bài nói chuyện ứng khẩu với giới trẻ.

Người nghèo Banado Norte: đức tin không liên đới là đức tin không có Chúa Kitô

Tại nhà nguyện Thánh Gioan Tẩy Giả ở khu Banado Norte, Paraguay, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói với người nghèo tụ họp tại đây rằng ngài “rất mong được ở bên họ”; ngài “không thể đến Paraguay mà lại không dành thời gian hiện diện với họ, ngay tại lãnh thổ của” họ.

Ngài nói thêm: “nhìn thấy gương mặt anh chị em, con cái anh chị em, người cao niên của anh chị em và được nghe nói về các trải nghiệm của anh chị em và mọi điều anh chị em trải qua để sống ở đây, để có một cuộc sống xứng đáng và một mái nhà che đầu anh chị em, chịu đựng thời tiết xấu và lụt lội của mấy tuần lễ trước… Tất cả những điều ấy làm tôi nghĩ tới tiểu gia đình ở Bêlem. Các cuộc chiến đấu của anh chị em đã không lấy mất giọng cười, niềm vui và niềm hy vọng của anh chị em. Những cuộc chiến đấu không làm giảm ý hướng liên đới của anh chị em nhưng bất chấp mọi điều, đã làm nó lớn lên”.

Ngài thuật lại truyện của tiểu gia đình Bêlem trên: họ buộc phải rời bỏ mái ấm, gia đình và bạn bè, bỏ hết những gì họ có để đi tới một nơi “không biết ai, không nhà ở hay gia đình”. Trẻ Giêsu đã ra đời trong hoàn cảnh ấy.

Ngài bảo “đó là cách họ đem Chúa Giêsu đến cho ta. Họ cô đơn, trên đất lạ, chỉ có ba người. Rồi đột nhiên, các người chăn chiên xuất hiện. Những người giống như họ cũng phải bỏ nhà cửa để tìm các cơ hội tốt hơn cho gia đình họ. Cuộc sống họ bị ảnh hưởng bởi thời tiết và cả nhiều loại khổ cực khác nữa. Khi nghe biết Chúa Giêsu sinh ra, họ tới gặp Người. Họ trở thành hàng xóm. Ngay lập tức họ trở thành một gia đình đối với Đức Maria và Thánh Giuse. Gia đình Chúa Giêsu”.

Đức Phanxicô bảo họ: “đó là điều xẩy ra khi Chúa Giêsu bước vào đời sống ta. Đó là điều xẩy tới với đức tin. Đức tin làm chúng ta gần nhau hơn. Nó làm chúng ta thành hàng xóm. Nó lôi cuốn ta gần lại hơn với đời sống người khác. Đức tin đánh thức dấn thân của ta, tình liên đới của ta. Việc Chúa Giêsu sinh ra đã thay đổi cuộc sống ta. Đức tin nào không lôi kéo ta vào liên đới là đức tin chết. Nó là thứ đức tin không có Chúa Kitô, một đức tin không có Thiên Chúa, một đức tin không có anh chị em. Người đầu tiên chỉ ra tình liên đới là Chúa chúng ta, Đấng đã chọn sống giữa chúng ta”.

Rồi ngài bảo họ: “tôi đến với anh chị em như những người chăn chiên trên. Tôi muốn là hàng xóm của anh chị em… Tôi đến tham gia với anh chị em trong việc dâng lời cảm tạ, vì đức tin đã trở thành hy vọng, và hy vọng, đến lượt nó, đã đốt lên ngọn lửa yêu thương. Đức tin mà Chúa Giêsu khơi dậy trong ta là đức tin giúp ta có khả năng mơ về tương lai và làm việc cho tương lai ấy ngay ở đây và ngay lúc này…”

Ngài khuyên họ phải có một đức tin liên đới, đừng chia rẽ. “Ma qủi muốn anh chị em đánh nhau vì nó muốn chia rẽ anh chị em, đánh bại anh chị em, và cướp mất đức tin của anh chị em”.

Sau khi đọc kinh Lạy Cha với họ, ngài chúc lành cho họ và dặn dò lần cuối cùng: “Anh chị em hãy ra đi, và đừng để ma qủi chia rẽ anh chị em!”.

12. Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđictô XVI trở về Roma.

Sau hai tuần nghỉ ngơi tại biệt điện mùa hè của giáo hoàng ở Castel Gandolfo (từ ngày 30 tháng Sáu năm 2015) và với hai bằng tiến sĩ danh dự, Ðức giáo hoàng danh dự Bênêđictô XVI đã trở về Roma hôm thứ Ba, 14 tháng Bảy năm 2015.

Trong buổi lễ đưa tiễn, bà thị trưởng Milvia Monachesi nói với Ðức giáo hoàng danh dự: “Thưa Ðức Thánh Cha, chúng con cảm ơn Ðức Thánh Cha rất nhiều về những lời nói bất ngờ và rất thân thương của Ðức Thánh Cha, về phép lành mà Ðức Thánh Cha đã ban cho Castel Gandolfo và cư dân ở đây”. Bà Monachesi cũng cảm ơn Ðức Bênêđictô XVI đã tặng cho bà một quyển sách.

Bà nói thêm: “Chúng con vui sướng vì Ðức Thánh Cha đã đón nhận sự gần gũi âm thầm, đầy lòng yêu mến của chúng con và niềm phấn khởi của chúng con về sự hiện diện của Ðức Thánh Cha. Phép lành của Ðức Thánh Cha là một món quà tuyệt vời cho chúng con và củng cố mối dây liên hệ sâu đậm và lâu dài với Ðức Thánh Cha”.

Bà chúc Ðức Thánh Cha trở về Roma bình an, và hứa với ngài, “dù Ðức Thánh Cha ở đâu, chúng con không bao giờ quên cầu nguyện cho Ðức Thánh Cha và luôn yêu mến Ðức Thánh Cha”.

Tuy nhiên, mùa hè bận rộn của Ðức Bênêđictô XVI vẫn chưa kết thúc. Vào ngày 30 tháng Tám năm 2015, ngài sẽ tham dự lễ khánh thành “Thư viện Joseph Ratzinger-Bênêđictô XVI” của “Học viện Giáo hoàng Ðức quốc tại Roma”. Trong dịp này, Ðức Bênêđictô XVI cũng sẽ cử hành Thánh lễ tại Học viện để khai mạc cuộc gặp gỡ hằng năm của các cựu sinh viên thần học của ngài (Ratzinger Schulerkreis).

13. Những chủ đề chính trong bài nói chuyện của Đức Giáo Hoàng với giới trẻ Paraguay

Chiều tối ngày 12 tháng 7, gặp giới trẻ Paraguay, Đức Phanxicô nói với họ: ngài rất vui được nghe các chứng từ của họ và chia sẻ niềm hào hứng và tình yêu Chúa Giêsu của họ. Các chứng từ này là “kho báu vĩ đại nhất”.

Dịp này, ngài nói tới hai bạn trẻ: Manuel và Liz. Manuel muốn phục vụ người khác, dù anh kinh qua nhiều trải nghiệm khó khăn, đau đớn. Liz, “một người mẹ đối với cha mẹ” cô; cô chơi với mẹ, thay tã cho mẹ với tâm tình “Đó là tất cả những gì hôm nay con trao cho Thiên Chúa, nhưng con không đền bù được bao nhiêu những điều mẹ con đã làm cho con”.

Đức Giáo Hoàng ngỏ với người trẻ Paraguay, “chúng con, hỡi những người trẻ Paraguay, chắc chắn chúng con đã chứng tỏ một lòng nhân và một lòng can đảm lớn lao”.

Rồi ngài nói tới các chứng từ khác: tất cả cho thấy sức mạnh của tuổi trẻ phát sinh từ hai nguồn là bạn bè và tĩnh tâm. Ngài xóay quanh hai chủ đề này.

Bạn bè

“Tình bạn bè là một trong những hồng phúc vĩ đại nhất mà một con người, một người trẻ, có thể có và có thể hiến tặng. Nó thực sự là thế. Sống không bạn bè quả là khó xiết bao! Các con hãy nghĩ về nó: há nó không phải là một trong những điều đẹp đẽ nhất mà Chúa Giêsu đã dạy ta hay sao? Ngài nói: “Thầy đã gọi các con là bạn bè, vì mọi điều Thầy đã nghe được từ Cha Thầy, Thầy đã cho các con biết” (Ga 15:15). Một trong những điều qúi giá nhất của việc được làm Kitô hữu là chúng ta có bạn bè, bạn bè của Chúa Giêsu. Khi các con yêu ai, các con qua thì giờ với họ, các con trông nom họ và giúp đỡ họ, các con kể cho họ nghe các con nghĩ gì, nhưng các con cũng không bao giờ bỏ rơi họ. Đó là cách Chúa Giêsu ở với chúng ta; Người không bao giờ bỏ rơi chúng ta cả. Bạn bè luôn đứng bên cạnh nhau, giúp đỡ nhau, che chở nhau. Chúa cũng như thế đối với chúng ta. Người kiên nhẫn đối với chúng ta”.

14. Tĩnh Tâm

“Thánh Inhã có một bài suy niệm thời danh về hai lá cờ. Ngài mô tả lá cờ của ma qủi và sau đó, lá cờ của Chúa Kitô. Giống như áo thung túc cầu của hai đội khác nhau. Và ngài hỏi chúng ta muốn chơi cho đội nào”.

Theo Đức Phanxicô, Thánh Inhã bảo rằng “để tuyển cầu thủ, ma qủi hứa hẹn rằng ai chơi cho đội của nó sẽ nhận được giầu sang, danh dự, vinh quang và quyền lực. Họ sẽ nổi tiếng. Mọi người sẽ thờ phượng họ”.

Còn Chúa Giêsu? “Chúa Giêsu không bảo chúng ta rằng chúng ta sẽ thành những ngôi sao, những người danh tiếng, ở trên đời. Thay vào đó, Người nói với chúng ta rằng chơi cho Người thì phải khiêm nhường, yêu thương, phục vụ người khác”.

Đức Phanxicô nhấn mạnh một điều:

Chúa Giêsu không bao giờ gian dối, còn ma qủi thì là “cha sự gian dối”. Nó hứa hạnh phúc, thì kết cục ta sẽ bất hạnh. Vì nó hứa mà nào có thực thi được lời hứa. Nó nói nhiều mà làm chẳng được chi. Nó là “nhà nghệ sĩ của lừa đảo” (con artist)... chuyên chia rẽ, làm ta so đo với người khác, dẵm lên người khác mà tiến tới, bỏ rơi bạn bè, không đứng bên bất cứ ai, mọi điều chỉ chuộng bề ngoài, dựa vào của cải.

Chúa Giêsu thì không lừa đảo ai, không hứa hẹn hão, không hứa hạnh phúc trong giầu có, quyền lực hay thanh thế. Người dạy ta khiêm nhường trong lòng, khóc lóc, hiền lành, đói khát sự công chính, có lòng thương xót, trong sạch trong tâm hồn, xây dựng hòa bình… Và cuối cùng, Người bảo ta: “Hãy hân hoan vì tất cả những điều ấy!”.

Vì sao vậy? Đức Phanxicô trả lời: “Vì Người không nói dối ta. Người chỉ cho ta nẻo đường tới sự sống và sự thật. Người là minh chứng vĩ đại của điều đó. Phong thái, lối sống của Người, là tình bạn bè, mối liên hệ với Cha của Người. Và đó là điều Người hiến cho ta. Người làm cho ta hiểu ra rằng ta là con cái nam nữ. Những đứa con thân yêu”.

“Người không lừa dối các con. Vì Người biết rõ: hạnh phúc, hạnh phúc đích thực, một hạnh phúc có thể trám đầy lòng ta, không có trong quần áo hàng hiệu hay giầy dép nhãn hiệu đắt tiền. Ngưòi biết rõ: hạnh phúc chân thực tìm thấy trong việc xích lại gần người khác, học cách biết khóc với người khóc, gần gũi những người cảm thấy xuống thấp hay gặp phiền muộn, đưa cho họ đôi vai đề họ tựa vào mà khóc, một cái ôm hôn. Nếu ta không biết phải khóc ra sao, ta cũng sẽ không biết phải cười thế nào, phải sống như thế nào nữa”.

15. Hạnh phúc thật

Đào sâu hơn, Đức Phanxicô nói với người trẻ Paraguay: “Chúa Giêsu biết rõ trong thế giới đầy cạnh tranh, ghen tuông và gây hấn này, hạnh phúc thật phát sinh từ việc học cách kiên nhẫn, tôn trọng người khác, từ khước kết án hay phán xét người khác. Như người ta thường nói ‘cả giận mất khôn’. Các con đừng để trái tim các con nhường bước cho giận dữ và ghét bỏ. Hạnh phúc thay người hay thương xót. Hạnh phúc thay những ai biết đặt mình vào đôi giầy của người khác, những ai biết ôm ấp, tha thứ. Lúc này hay lúc khác, tất cả chúng ta đều đã cảm nghiệm được điều đó. Nó quả đẹp đẽ xiết bao! Giống như ta nhận lại được đời sống của mình, nhận được cơ may mới. Không gì đẹp đẽ bằng có được cơ may mới. Như thể đời ta lại khởi đầu trở lại.

“Cũng hạnh phúc thay những ai đem lại sự sống và cơ hội mới. Hạnh phúc thay những ai cố gắng và hy sinh để làm điều đó. Tất cả chúng ta đều mắc sai lầm và vướng vào hiểu lầm, cả ngàn sai lầm và hiểu lầm. Thành thử, hạnh phúc thay những ai biết giúp người khác khi họ mắc sai lầm, khi họ cảm nghiệm sự hiểu lầm. Những người này là bạn bè đích thực, họ không bỏ rơi ai. Họ trong sạch trong tâm hồn, những người biết nhìn quá bên kia các sự việc nhỏ nhoi và biết vượt qua khó khăn. Trên hết, hạnh phúc thay những ai biết nhận ra điều tốt nơi người khác”.

Để kết luận, Đức Phanxicô cho hay: “các vị thánh nhân là bạn bè và là mẫu mực của ta… Các ngài cho ta hay: Chúa Giêsu không phải là nhà nghệ sĩ lừa đảo; Người hiến tặng ta sự thành toàn đúng nghĩa. Nhưng trên hết, Người hiến tặng ta tình bè bạn, tình bè bạn đích thực, tình bè bạn ta cần.”

“Bởi thế ta phải trở nên bạn bè theo cách của Chúa Giêsu. Không khép kín, nhưng tham gia đội banh của Người và chơi môn chơi của Người, đi ra ngoài và tạo bạn bè mỗi ngày một nhiều thêm. Mang niềm hào hứng của tình bạn Chúa Giêsu đến cho thế giới, bất cứ các con ở đâu: ở nơi làm việc, ở trường, trên WhatsApp, Facebook hay Twitter.

Khi các con đi khiêu vũ, hay đi uống trà lạnh tereré, khi các con tụ họp ở công viên thành phố hay chơi trận banh nhỏ tại sân khu xóm. Nghĩa là tại những nơi bạn bè Chúa Giêsu vốn tụ tập. Không phải để lừa đảo người khác, mà là đứng bên cạnh họ và kiên nhẫn với họ. Bằng lòng kiên nhẫn phát sinh từ việc biết rằng ta hạnh phúc, vì ta có một Ngưòi Cha ở trên trời”.

16. Nhận định của tổng thống Paraguay về chuyến tông du Nam Mỹ của Đức Thánh Cha

Tổng thống Paraguay Horacio Cartes cho biết trong một cuộc phỏng vấn rằng, chuyến thăm gần đây của Đức Thánh Cha Phanxicô tại đất nước của ông “gây xúc động không chỉ linh hồn của dân tộc mà còn là của thế giới.”

Tổng thống Cartes cám ơn Đức Thánh Cha vì “sự đơn giản và lòng nhiệt thành, và những nỗ lực rất lớn để gặp gỡ mọi người, luôn luôn có một nụ cười, và giữ một lịch trình dày đặc các cuộc gặp gỡ như vậy.”

“Và đặc biệt là một lời cảm ơn về kho báu là những khuyên bảo của ngài, chiếu tỏa một ánh sáng trên tình hình của chúng tôi và ban cho chúng tôi một hướng dẫn để đối mặt với những thách đố trong tương lai. Hướng dẫn của Ngài là ngọn đèn và cũng đưa ra cho chúng ta một nhiệm vụ lớn là làm việc cùng nhau, với sự hy sinh và lòng kiên trì, để chúng ta có thể có một quốc gia công bằng hơn cho tất cả”

17. Nhận định của một Hồng Y về chuyến tông du Nam Mỹ của Đức Thánh Cha

Trong một bài xã luận đăng trên trang nhất của tờ Quan Sát Viên Rôma số ra ngày 16 tháng Bẩy, Đức Hồng Y Gualtiero Bassetti của tổng giáo phận Perugia đó nói rằng chuyến đi của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Mỹ Châu Latin đánh dấu "một mùa xuân mới, một mùa xuân đích thực" cho Giáo Hội.

Mùa xuân này, theo Đức Hồng Y Bassetti, đang diễn ra tại các quốc gia ở "ngoại biên".

Trong mùa xuân này, người ta có thể "tích hợp việc bảo vệ phẩm giá con người, bảo vệ sự sáng tạo, và củng cố gia đình, trong khi tố cáo những bất công kinh tế, vì những khía cạnh này đều hiệp nhất với mầu nhiệm Nhập Thể. "

Các chủ đề lớn mà các vị Giáo Hoàng đưa ra khi khai mạc và bế mạc Công Đồng Chung Vatican như sự cần thiết phải áp dụng "phương dược lòng thương xót" hơn là chú ý đến "tiên tri về thời thế mạt," và linh đạo Samaritanô nhân lành vẫn là những vấn đề thời sự liên quan ngày hôm nay, Đức Hồng Y Bassetti nói.

18. Cuộc Hội thảo quốc tế tại Vatican về khai thác quặng mỏ

Tham dự cuộc Hội thảo quốc tế tại Vatican từ 17 đến 19-7-2015 có khoảng 30 đại diện các cộng đoàn bị thương tổn vì quặng mỏ, từ Mỹ châu đến Á châu, qua Phi châu. Ngoài ra cũng có đại diện của một số HĐGM, các dòng tu và CIDSE là liên hiệp quốc tế các tổ chức phát triển và liên đới.

Đức Hồng Y Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, vị chủ tọa cuộc Hội thảo, cho biết sinh hoạt này nhắm phối hợp các sáng kiến khác nhau trên bình diện địa phương để tiến tới một sáng kiến mới trên bình diện quốc tế, nhân danh Tòa Thánh, để có thể đối thoại với các giới lãnh đạo các công ty khai thác quặng mỏ.

Trong cuộc họp báo giới thiệu cuộc hội thảo này với giới báo chí ban sáng cùng ngày 17-7, một số nạn nhân của các hoạt động khai thác quặng mỏ ở Ấn độ, Brazil, Chile và Cộng hòa dân chủ Congo, đã trình bày chứng từ. Chẳng hạn bà Patricia Generoso Thomas, người Brazil, đã giải thích về sự kiện một xí nghiệp quặng mỏ đã làm ô nhiễm nước uống tại thành phố nơi bà sinh sống ở bang Minas Gerais.

Một chứng từ khác của ông Héritier Wembo Nyamo, người Congo, thuật lại sự kiện ông bị quăng vào lửa, bị tra tấn và dọa giết vì đã biểu tình và đòi một môi trường để làm việc sau khi một công ty liên quốc đến khai thác quặng mỏ kim loại đã trục xuất nhiều dân cư trong vùng. Hiện nay ông Nyamo không thể hành nghề tìm vàng nữa. Ông nói “Tôi có vợ con và một em gái phải nuôi”.

Về phần Đức Hồng Y Turkson, ngài tố giác những áp lực, và dọa nạt mà một số tham dự viên đã phải chịu, sau khi xin hộ chiếu. Nhiều người khác bị bạo hành, bị giết hoặc bị trả thù. Tin về những sự kiện đó đã được gởi tới Hội đồng Tòa Thánh. Vì thế, - Đức Hồng Y nói - cần phải đón nhận tiếng kêu của những người bị xách nhiễu như thế do những kẻ làm việc mà không theo đuổi một mục tiêu thực sự là nhân bản. Trách nhiệm về những vụ ấy chính là những người đầu tư, các chủ xí nghiệp, ngân hàng chính trị gia và chính quyền của những nước có các quặng mỏ hoặc những nước có trụ sở trung ương của các công ty liên quốc về quặng mỏ.

19. Đức Thánh Cha kêu gọi thay đổi công nghệ khai thác quặng mỏ

Đức Thánh Cha kêu gọi các giới hữu trách công nghệ khai thác mỏ hãy cải tổ toàn diện, nhất là tại các nước nghèo nhất, để tôn trọng quyền lợi của các cộng đoàn địa phương và bảo vệ môi trường.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong sứ điệp chào mừng các tham dự viên cuộc hội thảo quốc tế đang tại Vatican từ ngày 17 đến 19-7-2015 về chủ đề “Giáo Hội và các quặng mỏ”: hiệp với Thiên Chúa chúng ta lắng nghe một tiếng kêu.

Sứ điệp của Đức Thánh Cha được Đức Hồng Y Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, là cơ quan tổ chức cuộc hội thảo, tuyên đọc trong buổi khai mạc sáng ngày 17-7 vừa qua. Đức Thánh Cha viết:

“Anh chị em đã muốn họp nhau ở Roma trong ngày suy tư này liên quan đến một đoạn trong Tông Huấn “Niềm vui Phúc Âm” (nn.187-190) để làm vang vọng tiếng kêu của nhiều cá nhân, gia đình và cộng đoàn, đang chịu đau khổ trực tiếp hoặc gián tiếp, vì những hậu quả tiêu cực của các hoạt động khai thác quặng mỏ. Một tiếng kêu cho những vùng đất bị mất; một tiếng kêu vì sự khai thác tài nguyên phong phú từ lòng đất, nhưng không mang lại sự sung túc cho dân chúng địa phương, khiến họ tiếp tục ở trong tình trạng nghèo khổ; một tiếng kêu đau thương phản ứng lại bạo lực, những đe dọa và tham nhũng; một tiếng kêu phẫn nộ và kêu cứu vì những vi phạm các quyền con người, bị chà đạp trắng trợn hoặc kín đáo, liên quan đến sức khỏe của dân chúng, các điều kiện làm việc, và nhiều khi làm nô lệ và nạn buôn người, nuôi dưỡng hiện tượng mại dâm thê thảm; một tiếng kêu đau buồn và bất lực vì sự ô nhiễm nước, không khí và đất; một tiếng kêu không được cảm thông vì không có những tiến trình bao gồm và nâng đỡ từ phía các chính quyền dân sự, địa phương và quốc gia, là những người có nghĩa vụ cơ bản phải thăng tiến công ích”.

Đức Thánh Cha cũng khẳng định rằng “Toàn bộ lãnh vực khai thác mỏ chắc chắn được kêu gọi thực hiện một sự thay đổi toàn bộ mô hình của mình để cải tiến tình trạng tại nhiều nước. Có thể cộng tác vào công trình này có các chính quyền của những nước nguyên quán của các công ty liên quốc và những nước nơi các công ty ấy hoạt động, các giới chủ xí nghiệp và những nhà đầu tư, các chính quyền địa phương canh chừng hoạt động khai thác mỏ quặng, các công nhân và các đại diện của họ, các chuỗi cung ứng quốc tế với những người trung gian khác nhau, những người tiêu thụ hàng hóa đối tượng của các hoạt động khai thác khoáng sản. Tất cả những người ấy được kêu gọi hãy có một thái độ được linh hoạt nhờ sự kiện chúng ta họp thành một gia đình nhân loại duy nhất, “tất cả có liên hệ với nhau, và sự chăm sóc đích thực cho chính cuộc sống chúng ta cũng như các quan hệ của chúng ta với thiên nhiên là điều không thể tách rời khỏi tình huynh đệ, công lý và lòng trung thành đối với người khác”
 
Thánh Ca
Thánh Ca: Trọn Đời Hiến Dâng - Sáng Tác: Đinh Công Huỳnh - Trình Bày: Ca Sĩ Như Ý
VietCatholic Network
12:54 23/07/2015
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây