Ngày 14-07-2009
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Năm Linh Mục 2009: Ngài và tôi
Micae Nguyễn Ngọc Sáng
05:20 14/07/2009
Trong bài “Cha Sở Tôi”, tôi đã có hỏi: “Ông cố hay ông cha, dẫu cho được gọi dưới tên gì, đó cũng là linh mục. Nhưng, linh mục, ngài là ai?” mà chưa có câu trả lời, vì khó lắm đó, bởi nếu nói ngài là … thì chưa trọn, nếu nói ngài là … thì đòi hỏi quá mức…, còn nếu nói ngài là … thì tôi sẽ hỏi ngược lại: tại sao vậy?

Cha sở họ tôi, giờ cha đã chết rồi, tôi mới dám nói. Cha có tật cà lăm, hơi cà lăm. Cha nói với tụi tôi, đám học trò giúp lễ: “Cha thấy chức linh mục … mục … mục … thiệt là cao quí. Tuy. . tuy. . tuy … nó không có quyền cao hay tiền bạc gì nhưng mà nó cao quí lắm …” Tôi biết cha có ý muốn dụ tụi tôi đi tu để làm linh mục. Nhưng trong câu nói, rõ ràng cha muốn nói tới một vấn đề: thiên chức linh mục thật là cao quí!

Tại sao thiên chức linh mục là cao quí? Bởi linh mục, qua công việc của ngài, ngài thay mặt Chúa Giêsu để ban các phép bí tích, để cứu rỗi linh hồn người ta, để mở mang nước Chúa, nhưng các công việc này của ngài, trong năm linh mục này, nhiều vị đã và sẽ bàn tới, còn tôi thì không … được. Tôi chỉ xin phép được nhìn vị linh mục dưới con mắt trần thế, qua những việc làm thường ngày.

Trong cuộc đời lưu lạc đó đây, tôi đã gặp khá nhiều linh mục. Đôi khi tôi đã tự hỏi: “Linh mục, ngài là ai? Ngài có biết ngài là ai không? Ngài có biết tại sao người ta kính trọng ngài như thế không? Điều này quá rõ ràng là do ở thiên chức ngài có, vì:

- Cha ơi, cha có biết tại sao người ta kính trọng, quí mến cha đó không? Bằng cặp mắt trần này, con đã thấy: Cha thật sự sống cuộc đời hiến dâng, “xa” gia đình, sống với đàn chiên, biết hy sinh, sống cho tha nhân, thực thi bác ái, giữ lẽ công bằng, phú quí vinh hoa không màng, trần tục lánh xa, …

Người ta kính trọng và thương ngài là vì như vậy đó! Bởi vậy có một lần, một vị linh mục đã nói với người thân: “Tại tao là linh mục nên người ta mới cho tao cái này, cái kia, để tao có phương tiện mà làm việc bổn phận mình.”

Một anh bạn tu ra, có anh chị là linh mục, là dì phước, có lần anh ta đã bực mình nói: “Thiệt tiếc quá, mình không tu làm linh mục được!...”

- Tại sao?

- Tại vì các ngài không chịu nhớ rằng mình là Linh mục!

Rõ ràng anh đã đòi hỏi. Nhưng anh đã đòi hỏi những gì?

- Chỉ mong các ngài biết sống và biết làm. Biết sống linh mục và biết làm linh mục. Chỉ mong các ngài nhớ: các ngài là ai?

Ngài Là Ai?



Dĩ nhiên tôi không đặt vấn đề như nguời Cọng sản, đặc biệt ở Việt Nam, sau 1975. Họ đã đòi hỏi ở ngài: “Anh đã làm được gì có ích lợi cho xã hội, cho nhân dân, cho đất nước?” Thậm chí họ hỏi: “Anh đã sản xuất được gì cho xã hội?” Không như họ, ở đây đặc biệt tôi muốn nói đến vai trò của Ngài.

Các đấng bậc cao “xa” thì không kể, ngài chính là vị đại diện của Giáo Hội tại địa phương. Ngài chính là đấng bậc cao trọng nhất tại họ đạo. Ngài rao giảng lời Chúa. Ngài hướng dẫn giáo dân sống theo Phúc âm. Ngài ban các phép bí tích. Ngài là gương mẫu của cuộc sống thực thi bác ái và công bằng. Ngài là người mà giáo dân tin tưởng để “thố lộ tâm tình”. Ngài là người mà giáo dân đến để tìm nguồn an ủi, khuyên răn. Ngài là, là … Chính vì thế, ngài là đích nhắm của không phải chỉ người “có đạo” mà còn là của những người ngoài Công giáo. Cứ mỗi lần thấy ngài đi ra khỏi khu vực nhà thờ là người ta bàn: ông cha đi đây, ông cha đi đó. Chiều lại, thấy ngài đi ra, người ta nói: ông cha đi ăn đám cưới, cái đám cưới làm lễ hồi trưa nay, chiều nay đãi tiệc, … Còn cái hôm đó, đang đêm khuya, ông cha đi “kẻ liệt”, có ai thấy đâu nên không nghe ai nói!?

Một điều đáng chú ý, sau 75 tại Việt Nam, các linh mục là mục tiêu theo dõi của Cọng sản, để nếu thuận lợi, sẽ biến linh mục thành “linh mục quốc doanh”. Điều thuận lợi đó đã cho phép họ dùng hai tiếng “nhiểm thế” để gán cho các linh mục nói riêng, và các tu sĩ nói chung, thay vì mục đích và ước vọng của giới tu sĩ là làm sao hội nhập với xã hội, để có cơ hội đem Chúa đến với mọi người ở mọi tầng lớp, là “nhập thế”.

Ngài phải nhập thế. Ngài cần phải nhập thế để ở giữa muôn người, ngài sẽ là chứng nhân của Chúa Kitô, của tình thương. Để giữa con chiên của Ngài, ngài thực hiện ba nhiệm vụ đòi hỏi ở thiên chức linh mục: thánh hóa (sanctificare), giáo huấn (docere), và quản trị (administrare). Ngài đã làm được những gì trong ba nhiệm vụ kể trên? Ngài sẽ phải không chỉ bằng lời giảng dạy suông, mà còn bằng gương sáng của mình để thánh hóa người khác. Người ta biết tới Chúa qua ngài đó!

Tại địa phương, hễ nói tới nhà thờ là người ta nói tới ngài. Ngài đã là ai trong cuộc sống chung đụng với xã hội? Ngài không thể cứ giam mình trong bốn bức tường của khu vực nhà thờ. Ngài còn có xóm giềng, không lẻ ngài sống “thoát lên cao” một mình. Cộng đồng, chùa chiền, thánh thất, tịnh xá quanh vùng là những “xóm giềng” ngài cần phải giao thiệp, để hôm sớm có nhau. Ngài còn cần phải biết tới “địa phương” để rồi nhiều phen ngài sẽ phải nhờ tới họ. Chẳng lẻ cứ mỗi lần “giao tiếp” với bên ngoài, ngài đều phải nhờ tới giáo dân.

Một vấn đề cũng đáng được nêu ra là với ý nghĩ sai lầm của một số giáo dân. Nhiều người đã đem tặng cho ngài những cái mà ngài không nên và không cần có! Nhiều người đã quá lời khen tặng ngài để rồi vô tình, người ta làm sai vị linh mục! Rồi từ đó, lắm lúc chính ngài đã quên ngài là ai và ngài phải làm gì. Chính những quan niệm không được thích hợp của họ đã làm cho linh mục quên mình đang là ai, quên rằng mình đã là ai? Kính trọng linh mục, nguời thay mặt Chúa, đồng ý, nhưng đừng làm cho linh mục thấy hay nghĩ mình có vị trí cao hơn vị trí mình có, ngoài thiên chức.

Kể từ tiếng chuông nhà thờ đổ buổi sáng, qua ngày, cho đến tối, cũng như từ sáng thứ hai đến chiều Chúa nhật, ngài đã làm gì trong cương vị của người chủ chăn, ngoài những công việc thường ngày như tế lễ, giảng dạy, ban các phép bí tích? Mà ngay cả trong những công việc thường xuyên đó, ngài đã thực hiện như thế nào? Tôi đòi hỏi ở ngài đó, chắc ngài thắc mắc và muốn biết

Tôi là ai?



Hằng ngày, ngài vẫn thường gặp tôi đó chứ. Tôi vẫn lui tới nhà thờ thường xuyên theo thông lệ đã có trong gia đình tôi từ không biết mấy đời rồi. Người ta nói tôi giữ đạo như một cái máy, vì tôi là người “đạo gốc”, đạo từ đời ông qua đời cha, qua tới đời con, rồi không biết sẽ còn truyền được qua mấy đời nữa.

Hồi đó ông bà tôi giữ đạo thiệt là “khó”: trên Chúa, dưới Cha, kế đến mấy bà phước, rồi tới mấy ông biện họ. Những điều các cha đã dạy thì y như rằng là ông bà tôi đều răm rắp tuân giữ. Không tuân giữ sao được vì có lần ông tôi đã nói: “Chúa đã dùng miệng cha để phán dạy cùng ta…!” Nhìn qua đó, ông bà tôi đã giữ “đạo cha”.

Cha là nhất, là trên hết, là “gương lành” để ta noi theo. Thôi thì còn gì phải nói, có món ngon vật lạ chi đều lo đem cho cha, lễ cuới lễ hỏi, đám giỗ đám quảy, thảy thảy cha đều luôn luôn là khách quý. Chuyện gì cũng đem hỏi cha, chuyện linh hồn thì đem hỏi trong “toà cáo giải”, còn thỉnh thoảng lên cha là để hỏi chuyện “phần đời”. Rồi có con trai, ông bà lại rất là ước ao “có con đi tu”. Qua tới đời cháu, ông bà cũng muốn có cháu “dâng mình cho Chúa”. Nhà nào có người đi tu, ông bà trầm trồ “thiệt là nhà có phước”.

Chúng tôi giữ đạo, từ thuở nào xưa hơn nữa thì không biết, từ ông nôi tôi truyền qua ba tôi, rồi tới tôi. Vừa mới lọt lòng mẹ, ngay ngày hôm sau là ba tôi đã ẳm tôi đi rửa tội, có ông nội tôi xách dù đi theo, mừng rỡ từ “nay có thêm cho dân Chúa một người”. Cả dòng họ tôi theo đạo, hay đúng hơn phải nói là tôi giữ đạo “cha truyền con nối”, nên người gọi tôi là “đạo dòng”.

Nhưng khổ nổi là tôi sinh ra rồi lớn lên trong thời chinh chiến: giặc Tây rồi giặc Mỹ, hay nói đúng hơn là thời Việt Minh rồi qua thời Việt Cộng. Lại thêm văn minh Tây phương và trào lưu tiến bộ nhập vào đất nước nên cuộc sống nó bôn ba chớ không còn an nhàn như thời ông nội tôi và ba tôi. Ông nội tôi còn bận bịu với ba vụ ruộng lúa, chớ còn ba tôi thì an nhàn lắm. Sáng sớm đi lễ, theo như cha dạy, rồi đi uống cà phê, ăn hủ tiếu, bánh bao, xíu mại, nói dóc với bạn bè rồi đạp xe đạp Alcion đi lên ruộng coi “trai cày” làm ruộng nên việc giữ đạo thiệt là dễ dàng. Rồi tới tôi, hồi nhỏ khác, khi lớn lên rồi, nhiều khi phải hành quân trong rừng cả tháng thì còn đâu mà lễ với lạc, mà về tới thành phố thì nhiều chuyện bận bịu, ngày Chúa nhật, tới nhà thờ đi lễ, đánh một vòng xung quanh nhà thờ, rồi lễ xong thì đi về, đi dẫn đầu người ta. Có khi siêng lắm, rán ở lại lâu hơn, thì tôi đứng ở gốc cây bên hông nhà thờ. Thấy vậy, thiên hạ nói tôi là “đạo lòng dòng” hay là “đạo gốc cây”. Vậy mà tôi cũng biết cha đó chớ. Tôi cũng thấy cha trên bàn thờ, cũng có nghe cha giảng. Tôi còn biết tên cha nữa đó chớ và biết cả cha “đã làm” gì nữa. Trong họ đạo mà không biết cha chớ biết ai, tuy rằng tôi là “đạo lòng dòng” hay “đạo gốc cây”. Chỉ có điều là cha không biết tới tôi!

Người ta cười tôi giữ “đạo dòng” hay “đạo gốc” theo nghĩa trên, vậy mà tôi cũng đem được người trở lại đạo mới hay chớ, cũng làm được việc “tông đồ”. Thằng bạn thường hay đến nhà chơi, nhè nó mê một cô ở trong xóm. Xóm này toàn là dân có đạo, muốn được vợ thì phải theo đạo, vì thời đó có ai mà chịu gã con cho người “khác đạo”. Thế rồi tôi nói má tôi đứng ra làm mai cho nó, còn tôi, tôi dẫn nó lên gặp cha, để xin cho nó thành “con chiên mới”. Nó theo đạo, theo đạo vợ. Người ta nói nó là dân “đạo theo”. Vậy mà nó giữ đạo ai cũng khen là ngoan đạo. Vợ kêu đi nhà thờ lúc nào, nó đi lúc đó, không dám cãi. Nó rành đạo, nhờ vợ nó, còn nói tới “ông cha”, nó hơi “mặc cảm”. Nhiều người thấy nó “ngoan đạo”, tới rủ nó tham gia các hội đoàn. Hội đoàn nào cũng muốn mời nó: Legio, Phạt Tạ, … Nó cũng tham gia. Bà con quí nó lắm. Cha cũng vậy, vì nó là bác sĩ, dân có học, có tiền mà. Việc đạo hạnh của nó một tay vợ nó lo hết, nó lên cha có một lần rồi cha cho rửa tội. Nó hơi “suy nghĩ”, nhưng vợ nó “dạy” nó, nó học lại với tôi: “Mình giữ đạo Chúa chớ không phải giữ đạo cha, gì gì anh không cần biết, chỉ cần biết giữ trọn lề luật Chúa…”. Cái thằng thiệt là ngoan.

Tuy là dân “đạo theo”, “theo đạo vợ” nhưng nhờ có học, đi công tác tông đồ, nó biết ăn nói, ăn nói đàng hoàng, lý luận vững vàng nên nó dễ thành công. Nó cũng đem người ta “trở lại” đạo được. Có cái “ông đó” coi vậy mà thiệt là khó. Ông có cảm tình với đạo Công Giáo từ lâu, vì hồi nhỏ ông có học ở Taberd. Đại Hội Thánh Thể hồi thời Đức Khâm sứ John Dooley, ông có tham dự, rước Đức Hồng Y Aghagianian, ông cũng có đi rước, đi rước tượng “Đức Mẹ khóc” cũng không vắng ông… Nhất nhất các sinh hoạt của Công Giáo ông đều biết hay tham dự, nhưng trong họ đạo này, ông nói thẳng: “Nhìn cha, ông chưa thấy được Chúa nên ông chưa theo đạo!” Vậy mà gặp thằng bạn tôi, nó truyền lại cho ông tư tưỡng vợ nó “dạy” cho nó: Giữ đạo Chúa chớ không phải giữ đạo cha, ông lấy làm đắc ý, thế là ông trở lại đạo. Hồi nhỏ không theo, giờ lớn rồi mới theo, người ta gọi ông là dân “đạo mới”. Ông lớn tuổi mà cũng có ăn học nên tinh đời lắm, vì ông “ngộ” được đạo mà. Ông học giáo lý rất mau, ông biết rành hết, cha hỏi mấy câu, ông trả lời là cha chịu liền. Nhưng có cái điều: ông không “chịu cha”.

* Biết bà L. từ bỏ nhà thờ nhà thánh từ lâu rồi chưa trở lại, hơn nữa thấy bà cũng già rồi, ngày “ra đi” biết đâu chẳng còn xa nên anh em trong hội đoàn bàn việc tới khuyên bà nên trở lại, lo phần linh hồn. Người ta cũng đã năm lần bảy lượt tới thăm bà mà lần nào cũng thất bại, lần này ai cũng yên trí, tin tưởng vào tài ăn nói nhỏ nhẹ của thằng bạn tôi, “tràn trề hi vọng”. Nhưng khi mấy ông công tác tới gỏ cửa, bà mời vào, bà mời ngồi, bà rót nước mời, rồi bà tấn công luôn một hơi, ai nấy “nín thở” nghe, không gở gạt gì được hết. Bà có lý quá đó chớ: nhà thờ không đối xử công bằng với bà. Bà lên cha. Cha nghe lời “biện việc”, nạt mắng bà mà không chịu nghe bà phân trần: vụ đất đai nhà thờ cho bà mướn… Bà giận, bà chửi, bà chửi hết. Bà nói: làm cha gì mà không giữ công bằng, bác ái… Rồi bà không tới nhà thờ nữa, bà “bỏ đạo”, bà thù cha sở, thù biện họ. Bà ghét các cha mà bà quên Chúa, “bỏ” Chúa luôn, tội nghiệp!

Còn như chú T. lò rèn, cũng thuộc loại “bỏ đạo”, nhưng đáng thương hơn. Hồi nhỏ nghe nói không tin, học thử chơi, rồi không dám bỏ: chú học bùa, sau làm thầy pháp. Chú “trừ tà, bắt quỉ”, và chú cúng thần, cúng quỷ, không còn thờ Chúa. Giờ thì chú già rồi, vã lại giữa thời buổi văn minh “súng đạn” này, ma quỉ không còn ám hại người ta nhiều, chú bỏ nghề nhưng chưa trở lại đạo. Mấy “ông công tác tông đồ” cũng có tới khuyên lơn nhưng chú buồn chú nói: Sao không bao giờ thấy cha đến thăm chú một lần để chú dạn trở lại nhà thờ hơn!

* Nói tới “bỏ đạo”, tôi mới nhớ tới đám con Sáu Q. Mấy em này không thuộc loại “bỏ đạo” nhưng thuộc loại “bỏ nhà thờ”, bỏ nhà thờ này đi nhà thờ khác. Trong khi cha mẹ vẫn đi lễ nhà thờ này thì mấy anh em đi lễ nhà thờ khác, tham gia sinh hoạt ở họ đạo khác. Nhiều người tiếc, Sáu Q. vốn là thầy dòng Taberd “xuất”, trước đây cũng có tham gia đàn hát ở nhà thờ, rồi đám nhỏ tiến lên, chúng nó cũng nối nghiệp cha, nhưng rồi lần hồi chúng nó “thưa thớt” dần rồi “xa lìa” họ đạo luôn. Mấy anh em đi đàn hát rất giỏi nhưng “tụi nó” trách “ông cha”: cha độc tài mà cổ hủ, thiếu sáng kiến, thiếu nhiệt tình, nhiều khi không thấy cha đâu hết, mà hễ gặp mặt thì chỉ thấy la trách…

* Đám “bỏ nhà thờ” này nói trắng ra là “bất hợp tác”. Mà nói tới bất hợp tác là người ta nghĩ ngay đến ông Hai T. Ông là kỷ sư bên Pháp về, thuộc loại có tài, có tiền, và cũng đạo đức. Mấy trào cha sở trước, ông đã đóng góp tiền tài công sức vào các sinh hoạt trong họ rất nhiều. Lễ lớn, lễ nhỏ, lễ Tây lễ Tàu, lễ nào cũng thấy ông có mặt trên nhà thờ phụ với các cha, với anh em cho cuộc lễ tươm tất, tốt tươi. Nhưng khi cha sở này đến, hội đoàn cha bỏ bớt, sinh hoạt cha giảm bớt. Riết rồi các sinh hoạt hội đoàn cha bỏ mặc cho “bà con tự lo lấy”. “Thua buồn” ông cũng từ từ tự rút lui, “cáo lão qui điền”, không còn chịu trở lại sinh hoạt nữa…

* Lần kia, đi công tác về, chắc là “thoải mái”, thằng bạn tôi nó ghé tôi chơi. Nó than: “Mấy ông công tác này thiệt là ẩu, nhè vô nhà người ta mà nói người ta là “bỏ vợ”. Mà ông đó cũng dễ chịu, ông không nói gì, chỉ cười thôi, còn rót rượu mời uống rồi nói chuyện đời nghe chơi, rồi bàn tới chuyện nhà thờ qua tới chuyện các cha, ông nói rành mạch chứng tỏ ông cũng rất quan tâm đến chuyện họ đạo duy có điều là ông không tham gia. Ông bị mặc cảm, ông thuộc loại “đạo rối”: một chồng hai vợ, làm sao bỏ. Nhứt phu mà nhị phụ thì lỗi luật đạo, mà lỡ làng rồi, bỏ thì vương, thương thì tội, sao các cha không đến giúp dùm tôi?

* Cái thằng bạn “đạo theo” đó mới thiệt là ngoan, còn hơn mấy người giữ đạo lâu năm. Nó luôn giữ điều răn Chúa, mà cũng dễ nghe lời cha dạy chớ không như một thằng bạn khác của tôi. Thằng này kỳ khôi, cũng “đạo gốc” nhưng nó nói nó biết “tẩy” mấy ông cha: nó tu ra. Người ta gọi nôm na là dân “ta ru”. Nó là dân “la tinh cựu”, là dân “tu xuất”. Nó nói nó đã từng ở chung “lò” với các cha nên nó “rành sáu câu” mấy cha, nên các cha hơi ghét nó.

Thật ra, tu cũng năm bảy đường tu, mà “tu ra” cũng năm bảy đường tu ra. Tu ra theo kiểu thằng H. đó thì người ta gọi là “la yêu”, “la quỉ” chớ không gọi là “la tinh”. “La tinh” ra trong họ này thiếu gì, như anh Chín N. đó, anh cũng tu ra, nhưng các cha làm sao thì làm, anh cứ đều đều tham gia vào họ đạo, để giúp đỡ các cha. Anh nói, anh phải làm để trả ơn nhà chung. Thấy các cha ù lì, trì trệ quá, anh nói anh muốn lui tới nhà thờ hoài để thúc đẩy các cha, để “làm con lừa cõng các cha đi”, vậy mà các Ngài còn không chịu!

* Tôi còn là những người không hề “đi” nhà thờ, nhưng có đi ngang nhà thờ, đi qua khuôn viên nhà thờ. Đôi lúc tôi có vào nhà thờ để dự lễ cưới người quen biết và có thấy ngài. Tôi có gặp ngài, chào hỏi, nói chuyện và “cụng ly” với ngài ở những tiệc cưới đó.

Đó! tôi đó. Tôi là ai, chắc ai cũng đã biết rồi. Thì tôi hẳn là tôi rồi, mà tôi ở đây còn là quí vị đó, là anh và cả chị nữa, người đang đọc bài viết này… Tôi không “luận tội”, vì phán xét không phải là quyền của chúng ta, nhưng những điều mắt thấy tai nghe và một chút suy nghĩ, xin ghi ra đây trong mục đích hay đúng ra là ước vọng linh mục, ngài hãy nhìn lại để thấy chính ngài là ai. Và chúng ta, người giáo dân, chúng ta sẽ hợp tác với các cha như thế nào. Năm nay là năm linh mục, ta phải làm gì cho các cha? Cầu nguyện cho các ngài? Thiết nghĩ không cần phải đợi đến năm thánh, ta phải luôn luôn cầu nguyện cho các ngài. Cầu nguyện gì cho các ngài? Cầu nguyện cho các ngài có được đầy đủ sức khỏe để chu toàn nhiệm vụ của mình, có được đầy đủ thánh thiện và khôn ngoan để là gương sáng cho giáo dân, bởi dù sao, các ngài cũng là con người…
 
Đức Chúa ở cùng
Thanh Thanh
05:52 14/07/2009
Đức Chúa ở cùng” tuy xuất hiện nhiều lần trong thánh kinh, nhưng thường vào những dịp đặc biệt, quan trọng và vượt quá sức con người. Đương sự khó có thể hoặc không thể hoàn thành tốt sứ vụ được trao. Nên cần phải có Thiên Chúa ra tay trợ giúp mới “đi đến nơi, về đến chốn”. Vì thế, câu trên đã trở thành công thức cho ai đó, mỗi khi sắp nhận nhiệm vụ lớn lao. Ta có thể tìm thấy qua những minh hoạ sau:

Đức Chúa ở cùng
Maisen. Đức Chúa nói với Maisen: Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Aicập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Aicập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật, xứ sở của người Canaan, Khết, Amôri, Pơrítdi, Khivi và Giơvút. Giờ đây, tiếng rên siết của con cái Ítraen đã thấu tới Ta; Ta cũng đã thấy cảnh áp bức chúng phải chịu vì người Aicập. Vậy ngươi hãy đến với Pharaô để đưa dân Ta là con cái Ítraen ra khỏi Aicập. Ông Maisen thưa với Thiên Chúa: Con là ai mà dám đến với Pharaô và đưa con cái Ítraen ra khỏi Aicập?

Người phán: “Ta sẽ ở cùng ngươi”. Ngươi hãy nói cho dân biết Ta là Đấng Hiện Hữu,… là Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp, sai tôi đến với anh em (Xh 3,7-15).

Đức Chúa ở cùng
Giosuê. Sau khi Maisen chết, Đức Chúa kêu Giosuê tiếp tục trỗi dậy, và cùng với dân vượt qua sông Giođan mà vào đất Ta ban cho chúng, phía mặt trời mọc, tức là con cái Itraen. Hãy mạnh bạo lên, can đảm lên! Chính ngươi sẽ cho dân này chiếm đất ấy làm gia nghiệp, đất mà Ta đã thề với cha ông chúng là Ta sẽ ban cho chúng. Ngươi phải mạnh bạo và rất can đảm, để lo thi hành tất cả Lề Luật mà Môsê tôi trung của Ta đã truyền dạy ngươi. Đừng đi trệch bên phải bên trái hay ngoài Lề Luật, để được thành công ở bất cứ nơi nào ngươi đi tới. Đừng để sách Luật này rời khỏi miệng ngươi; ngươi hãy suy gẫm sách Luật đó ngày đêm, để lo thi hành tất cả những gì viết trong đó; có như thế ngươi mới được thịnh đạt, được thành công trên đường đời. (x. Gs 1,1-8)

Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đừng run khiếp, đừng sợ hãi, vì “Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi tới" (Gs 1,9)

Đức Chúa ở cùng
Ghít-ôn. Khi dân Itraen làm điều dữ, Đức Chúa đã trao họ vào tay người Mađian trong bảy năm. Dân Itraen đã phải sống trong cảnh mất tự do. Cư trú trong các vùng núi và hang động. Dân Phương Đông, Mađian, Amalếch cũng chống đối họ. Chúng đóng trại bên cạnh và tàn phá hoa màu, đất đai cho đến sát Gada, không để sót lại vật gì trong Ítraen, dù là gia súc hay bò lừa cũng vậy. Vì chúng lên cùng với đàn vật và lều trại của chúng, tiến vào nhiều vô kể như châu chấu; chúng và lạc đà của chúng đông không đếm nổi. Chúng tràn vào tàn phá xứ sở. Người Ítraen hoàn toàn kiệt quệ vì người Mađian.

Tiếng kêu của con cái đã vang lên tới ta Đức Chúa. Và Đức Chúa đã sai một tiên tri, con ông Giôát đến với con cái Ítraen. Sứ thần ngồi dưới cây tùng ở Ópra, lúc này con của Giôát là Ghít-ôn đang đập lúa trong bồn đạp nho vì tránh mặt nguời Mađian.

Sứ thần nói: “Chào chiến sĩ can trường! Đức Chúa ở với ông". Hãy mạnh bạo lên đường cứu Ítraen khỏi tay quân Mađian. Ông đáp: Con là người nhỏ nhất trong nhà, dòng họ cũng thuộc loại thấp kém nhất trong chi tộc Mơnase, con biết làm sao đây. Đức Chúa phán: "Ta sẽ ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh quân Mađian như đánh có một người. (Tl 6,1-18).

Đức Chúa ở cùng
Maria. Một ngày kia, sứ thần Gáprien đến thành Nagiarét, miền Galilê, gặp trinh nữ Maria và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà".

Maria bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần nói: Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận. Maria thưa: Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng! Sứ thần đáp: Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. (Lc 1,26-35).

Đức Chúa ở cùng
Như Maisen, Ghít-ôn, Giôsuê, các tiên tri, Đức Maria, Giuse, các tông đồ, những người công chính và trung tín đều đã hoàn thành sứ vụ cách tốt đẹp, nhờ có “Đức Chúa ở cùng”. Ngài ở cùng và hoạt động thật rõ nét qua đời sống ơn gọi.

Khi đi vào đời sống hôn nhân gia đình. Dù có tìm hiểu nhau, trau dồi giáo lý, học hỏi luật đời, nghiên cứu luật đạo, thì cũng chẳng có gì chắc chắn con người sẽ chung thuỷ trong đời sống vợ chồng và trung thành chu toàn trách nhiệm với gia đình. Vì một mặt bản thân phải chiến đấu để hoàn thiện chính mình. Bởi “tinh thần thì nhẹ nhàng mà thân xác lại yếu đuối nặng nề”. Mặt khác, phải lo phát triển gia đình toàn diện về nhân cách, đạo đức, trí thức, tình yêu. Luôn phải lo cho cả nhà được no cơm, ấm áo, để mọi người luôn được an bình, an tâm, an vui và an toàn. Gánh nặng thêm nặng trĩu trên vai cha mẹ và tỉ lệ nghịch với thời gian. Con cái càng lớn thì lo lắng càng nhiều, mà sức khoẻ cha mẹ lại càng giảm. Gánh nặng chồng chất khiến ta khó có thể đi hết đoạn đường ơn gọi của mình.

Vì vậy, điều không thể thiếu giúp gia đình tồn tại, phát triển và thăng tiến là phải có “Đức Chúa ở cùng”.

Khi chọn đời sống dâng hiến cũng vậy. Dâng hiến cuộc đời cho Chúa, Giáo hội và các linh hồn thì còn gì phúc bằng, đúng thật “tu là cõi phúc” mà. Đời sống này thật cao thượng, hy sinh, quảng đại và thánh thiện, nhưng cũng không ít chuân chuyên, éo le, rắc rối và đau khổ.

Đi tu tuy không phải sinh con bằng xác thịt, nhưng luôn phải sinh con bằng ân sủng qua các bí tích. Như lời Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô là phải “sinh lại bởi nước và Thánh Thần” (Ga 3,5).

Đi tu tuy không phải tất bật lo cơm áo gạo tiền, nhưng luôn phải “làm cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

Đi tu tuy không phải lo cho gia đình riêng, nhưng phải lo cho mọi gia đình. Mọi gia đình nhưng lại riêng biệt từng người, để “ta biết chiên ta và chiên ta biết ta” (Ga 10,14).

Đi tu không giống như người giữ vườn, canh cổng, nhưng phải giống như người mục tử nhân lành, sẵn sàng bảo vệ đoàn chiên bất cứ lúc nào và “bằng bất cứ giá nào” (x.Ga 10,15).

Đi tu, người của mọi người nhưng lại không thuộc về riêng ai.

Đi tu, người phải “sống trong thế gian, sống cùng và sống giữa thế gian, nhưng lại không thuộc về thế gian” (x.Ga 17,14-16).

Đi tu, chẳng phải để một mình nên thánh, mà còn phải giúp con cái Chúa nên thánh. Để họ luôn được sống an bình giữa thế gian, luôn tin tưởng vào Đấng quan phòng, luôn được tái sinh bằng phép rửa Thánh Thần, được hoà giải bằng bí tích tình yêu, được nâng đỡ khi yếu đau, được đón nhận lời Hằng Sống và nuôi dưỡng bằng lương thực trường tồn là Thịt Máu Chúa Kitô.

Quả thật, đoàn chiên của Chúa trao phó cho để chăm sóc, trông nom cẩn thận luôn vượt quá sức con người, chẳng ai có thể chu toàn tốt được nếu không nhờ ơn Chúa giúp.

Chẳng ai dám hiến trọn thân xác, tình yêu và đời mình cho đoàn chiên của Chúa, nếu không có “Đức Chúa ở cùng”.

Đức Chúa ở cùng
Qua những mùa phụng vụ, Giáo hội chiêm ngắm và sống các mầu nhiệm Thiên Chúa.

Mùa vọng và giáng sinh, Giáo hội sống tinh thần đơn sơ, phó thác, ngoan hiền, hiếu thảo của Chúa Giêsu.

Mùa thường niên, Giáo hội sống tinh thần hiện diện, gắn bó và đồng hành với Chúa Giêsu trên hành trình rao giảng Tin Mừng cùng ban muôn phúc lành.

Mùa chay và phục sinh, Giáo hội sống tinh thần đồng cảm, thương xót, chia sẻ và vượt qua đau khổ cùng Chúa Giêsu.

Mùa phụng vụ gắn liền với các mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Giêsu thế nào thì cũng gắn chặt với đời ta như vậy.

Thánh Thần hoạt động cùng Chúa Giêsu ra sao, thì Ngài cũng hoạt động nơi ta như vậy.

Chúa Giêsu từ trời xuống rồi trở về trời. Con người được Chúa sinh ra rồi cũng sẽ trở về với Ngài.

Có về được hay không tuỳ thuộc vào thái độ của mỗi người có dám cho Đức Chúa hoạt động và ở cùng ta hay không?

Suốt đời ta, hãy nhớ là “Đức Chúa luôn ở cùng”.
 
Đức tin phải vượt trên mọi định kiến
LM Phêrô Hồng Phúc
13:57 14/07/2009
Có một câu chuyện kể về Khổng Tử đi với các học trò của mình. Người học trò xuất sắc nhất là Nhan Hồi được Khổng Tử rất tin yêu. Một lần khi các đệ tử còn chưa về, Nhan Hồi ở nhà làm cơm cho các anh em trở về ăn cơm, còn Khổng Tử thì ngồi trên nhà đọc sách. Bất ngờ, có một lúc Khổng Tử vô tình nhìn xuống dưới nhà thì bắt gặp thấy Nhan Hồi mở nồi cơm hớt phần trên và ăn ngon lành. Không Tử nghĩ rằng, một học trò xuất sắc của mình mà lại ăn vụng cơm một cách rất là tiểu nhân như vậy. Khổng Tử đăm đăm một nét buồn. Rồi đến khi tất cả các anh em trở về, thày trò quây quần quanh mâm cơm vốn đã đạm bạc lại còn ít ỏi nữa. Vì khẩu phần thức ăn cũng như phần cơm đã được tính rất chu đáo vì không có nhiều cho tất cả mọi người. Lúc bấy giờ, Nhan Hồi đứng lên xin kiếu không ăn cơm. Hỏi lý do “vì sao?” thì Nhan Hồi thuật lại: “Hôm nay, khi tôi làm bếp nấu cơm, vào đúng lúc mở kiểm tra xem cơm đã chín chưa thì có một luồng gió xoáy thổi vào bếp khiến tro bốc lên trên nồi cơm. Nghĩ rằng anh em vất vả, về đến nhà ăn bữa cơm, cơm lại có tro cho nên tôi hớt phần trên và ăn hết phần cơm trộn tro đó và nghĩ rằng tôi cũng đã ăn hết đủ phần cơm của tôi, phần còn lại là của anh em, cho nên xin anh em cứ tự nhiên.” Khổng Tử từ khuôn mặt đăm đăm buồn rầu đến sững sờ tự nhủ trong lòng rằng: “Trời! Một sự việc ta nhìn thấy nhãn tiền mà ta còn không hiểu thì làm sao ta hiểu những công việc lớn khác ta không nhìn thấy”.

Câu chuyện của Khổng Tử để dẫn nhập chúng ta vào Tin Mừng hôm nay dễ hiểu hơn. Rằng những người Do Thái vùng Galilea đã nhìn vào Chúa Giêsu, họ chỉ nhận ra con của bác thợ mộc: “Giuse, Maria ở giữa chúng ta. Và chính Đức Giêsu cũng chỉ là một bác thợ mộc, do đâu mà ông ấy giảng dạy hay như thế này?”(Mc 6, 3). Và họ lại vấp phạm vì Ngài. Đúng là họ đã nhìn mà không hiểu, lắng tai mà không nghe thấy những tiếng nói của mạc khải, của tình yêu Thiên Chúa đến với con người. Và Đức Giêsu cũng đau đớn nhận xét rằng: “Không ai được danh giá nơi quê hương, anh em, họ hàng, bạn bè mình”(Mc 6, 4). Lý do là bởi vì cái nhìn định kiến của con người đã định hình. Khi người ta đã định hình một người khác tức là người ta đã kết luận trước khi gặp gỡ và kiểm tra một cách khách quan. Cái định kiến ấy làm cho người ta nhìn lệch lạc về một con người. Cũng thế định kiến của anh em họ hàng, tông tích mà người ta biết nơi quê hương khiến cho những gì mà Đức Giêsu giảng dạy trong tư cách của Thiên Chúa vẫn bị những hình thức bên ngoài và những định kiến ấy bó chặt khiến cho người ta không thoát xa hơn được, nhất là khiến cho Đức Giêsu không làm được phép lạ nào ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân và Ngài lấy làm ngạc nhiên về sự cứng lòng tin của họ.

Đây quả là một cơ hội khiến cho những người làng quê Nazareth đã mất đi cái ơn phúc là được Thiên Chúa ở cùng mình. Bởi vì ngay cả cái nhìn Chúa Giêsu quê ở Nazareth cũng đã sai lầm vì nguyên quán của Giuse thuộc hoàng tộc David, Giuse đã từng phải về Jerusalem để khai kiểm tra dân số. Việc nhìn nhận Đức Giêsu quê Nazareth là một sự ngộ nhận ngay trong lý lịch nói gì đến thân phận cao siêu của Đức Kitô. Đến ngay cả tông đồ Philipphe giới thiêu cho Batôlômêô lúc đó có tên là Nathanael mà Nathanael còn nói là: “Ở Nazareth có cái gì hay đâu?” (Ga 1,46). Người ta không thể tưởng tượng Đức Giêsu Kitô – Đấng Cứu Thế lại xuất thân từ làng Nazareth, và người làng Nazareth tưởng Đức Giêsu quê ở Nazareth lại càng không nhận ra vai trò cũng như quyền năng ẩn sau cả một cuộc đời trần thế của Đức Giêsu. Tại sao như vậy? Chúng ta nhắc đến định kiến như lũy tre làng bó chặt, khiến cho người ta không thoát ra được. Và cái tình cảnh đó làm cho thế giới ngày hôm nay cũng bị đóng khung trong ốc đảo của mình. Mối đau xót nhất là người ta nhận xét rằng: “Theo sách Sáng Thế thì Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh mình” còn người thời đại ngày nay dựng nên Thiên Chúa giống hình ảnh của mình”. Vì họ dựng nên Thiên Chúa giống hình ảnh mình, cho nên Thiên Chúa có tên là “Duy kinh tế”, “Duy vật chất”, “Duy hưởng thụ”, là “Khoa học thực nghiệm”... Một Thiên Chúa như vậy thì làm sao còn tính thiêng liêng, quyền năng vô cùng; còn những mầu nhiệm mà con người không thể hiểu thấu được. Vì vậy, con người tự mình đi vào trong ngõ cụt.

Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn: “Người giầu có kia, đêm nằm vắt tay lên trán: 'Không biết ta phải làm thế nào? Vì lúa mùa của ta ngày càng chất cao mãi'. 'À! Ta sẽ làm thế này, ta sẽ phá kho cũ đi và xây kho mới rộng rãi hơn'. Rồi ta chất lúa của ta đầy kho và ta nói với linh hồn ta rằng: 'Mình cứ nghỉ ngơi, ăn uống say sưa hưởng thụ đi, bởi vì từ nay mình đã có đủ của cải dự sẵn'”(Lc 12,18). Đó là cách suy luận luẩn quẩn của con người trong những ý định rất trần thế của mình. Và để chúng ta thấy cái tác hại của vòng luẩn quẩn này, Đức Giêsu tiếp tục trong dụ ngôn đó, chỉ với một câu hỏi bỗng thốt lên rằng: “Thằng dại, nếu đêm nay người ta cất linh hồn mày thì sao?”(Lc 12,20). Đúng là người ta chỉ tính toán luẩn quẩn vòng vo với kinh tế, với vật chất, với những gì là hưởng thụ ở trần thế, không đi ra ngoài. Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Nếu đêm nay người ta cất linh hồn ngươi thì kết thúc sẽ ra sao?” Và đó chính là điều làm cho những định kiến không thoát ra khỏi mình được và rất nguy hiểm vì người ta không ra khỏi được thế giới này; không ra khỏi được vật chất xác thịt này; người ta không đạt được tới sự sống siêu nhiên.

Chính vì vậy mà người ta giải quyết các công việc cũng đi vào ngõ bế tắc. Khi những người luật sĩ Pharisiêu tìm cách để hạ bệ Đức Giêsu vì Ngài giảng dạy với đầy uy tín và toàn thể dân chúng tuốn theo Ngài đông đảo, càng ngày càng đông đảo hơn. Hãy thử tưởng tượng năm nghìn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ mà ba ngày liền trong hoang địa, lắng nghe lời giảng dạy thì chúng ta đã hình dung khung cảnh người ta thao thức đi tìm Chúa như thế nào? Vì vậy, những người luật sĩ Pharisiêu càng ngày càng bị mất ảnh hưởng, họ đến để hạ bệ Chúa bằng cách dùng quyền để hỏi Chúa rằng: “Ông lấy quyền nào mà làm như vậy?”(Lc 20,2). Đức Giêsu không trả lời vào câu hỏi, Ngài lại hỏi ngược lại một câu; “Ta cũng hỏi các ông một câu: Phép rửa của Gioan bởi Trời hay bởi con người?”(Lc 20,3-4). Những người này đi bàn tính với nhau: “Nếu mình nói: 'Do Trời' thì ông ấy sẽ vặn lại: “Thế sao các ông lại không tin ông ấy?’ Còn nếu mình nói: ‘Do người ta’ thì toàn dân sẽ ném đá mình, vì họ xác tín rằng ông Gioan là một Ngôn sứ’. Họ mới trả lời họ không biết do đâu”(Lc 20,5-7).

“Không biết” là tiền đề của ngày nay.

- Người ta không biết mầu nhiệm của Thiên Chúa;

- Người ta không biết những bí ẩn xa xôi của vũ trụ;

- Người ta không biết những tiếng nói vang lên từ lương tâm của con người và cái từ “không biết” của những luật sĩ Pharisiêu ngày xưa cũng lại tái diễn để chối quanh cho những ngõ cụt mà nhân loại đi vào.

Vì vậy Đức Giêsu liền bảo họ: “Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy”(Lc 20,8). Rõ ràng, nếu như con người không ra khỏi định kiến của mình thì kết thúc là như vậy. Vì thế, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta: với đức tin và lòng mến của mình, chúng ta đi ra khỏi bản thân, đi ra khỏi gia đình, đi ra khỏi những định kiến để tìm được một đức tin mạnh mẽ giống Abraham ra khỏi quê cha đất tổ để đi đến nơi vô định. Vì nơi đó có lời hứa của Chúa; không nhìn thấy đất trên bản đồ nhưng đã được định vị trong lời hứa của Chúa. Đức tin là như vậy, là mạo hiểm, là ra đi, là xác tín vào điều mà mình chưa có trong tay nhưng vào thế giá của Đấng đã hứa cho chúng ta.

Và như vậy, ngày hôm nay: Tin Mừng cho chúng ta, một gương không phải là gương sáng mà là “Ăn cơm đi trước, lội nước theo sau”. Chúng ta thấy gương của những người vùng Galilea và cách riêng là những người vùng Nazareth đã khước từ ân huệ bởi trời, khước từ một ân huệ nhận ra Đấng Mesia đang ở giữa mình vì họ đã có đầy những định kiến thì chúng ta đi sau, chúng ta tránh được điều đó để cùng với toàn thể Giáo Hội bước vào hành trình của Đức tin đi theo tiếng gọi, đi theo Lời Hằng Sống của Chúa. Chúng ta mở ra một chân trời mới, một con đường mới hay nói chính xác hơn là một giao ước mới mà nhờ giao ước ấy, đã được ký kết trong máu thật và máu đó đã được đổ ra cho nhiều người được tha tội.

Lạy Chúa,
Chúng con tin.
Và vì tin, chúng con bước đi theo Chúa
để chúng con đạt được tới sự sống đời đời
cho dẫu chúng con phải ra khỏi mạng sống mình;
cho dẫu chúng con phải hành trình vô định vì tin vào Lời của Chúa,
thì chúng con cũng tin rằng:
Chúng con sẽ đạt tới đích của bình an và đích của ơn cứu độ.
Xin giúp chúng con biết can đảm và dấn bước trên con đường mới,
dấn bước trên giao ước mới của Chúa. Amen.
 
10 Điều Răn của Linh mục
+ ĐHY FX. Nguyễn Văn Thuận
15:01 14/07/2009
10 ĐIỀU RĂN CỦA LINH MỤC

1. Những gì tôi sống trong tư cách là một Linh Mục,
thì quan trọng hơn những gì tôi làm.

2. Những gì Chúa Kitô làm qua trung gian của tôi,
thì quan trọng hơn những gì do chính tôi làm.

3. Những gì tôi với anh em Linh Mục cùng sống,
thì quan trọng hơn những gì tôi làm một mình, dù hăng say tới mức suýt bị mất mạng.

4. Những gì tôi sống cho Kinh nguyện và Lời Chúa,
thì quan trọng hơn những tổ chức sinh hoạt bên ngoài.

5. Những gì tôi sống vì lợi ích thiêng liêng của người cộng tác,
thì quan trọng hơn những công việc tôi làm cho lợi ích của mình.

6. Hiện diện ít nơi nhưng thiết yếu để đem lại sức sống,
thì quan trọng hơn có mặt khắp nơi nhưng vội vàng và nửa vời.

7. Hoạt động cùng với người cộng tác,
thì quan trọng hơn là làm một mình,
cho dù mình có nhiều khả năng hơn họ.
Nói cách khác, hợp tác thì quan trọng hơn hành động riêng rẽ.

8. Hy sinh thập giá âm thầm bên trong,
thì quan trọng hơn những thành quả đạt được bên ngoài.

9. Mở rộng tâm hồn đến những thao thức của cộng đoàn,
Giáo phận và Giáo hội toàn cầu, thì quan trọng hơn chăm chú vào những bận tâm riêng, cho dù thiết yếu đến đâu đi nữa.

10. Làm chứng về Đức Tin trước mặt mọi người,
thì quan trọng hơn tìm cách thoả mãn thị hiếu của họ.
 
Tấm lòng của vị mục tử
Lm Giuse Đinh lập Liễm
17:01 14/07/2009
CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN B

A. DẪN NHẬP

Đức Giêsu trong thân phận con người, vẫn là Thiên Chúa giầu lòng thương xót, nhạy cảm trước những nỗi đau khổ của con người. Ngài là vị Mục tử nhân lành hằng săn sóc đến mọi con chiên. Bài Tin mừng hôm nay minh họa cho chúng ta thấy lòng nhân ái của vị mục tử này.

Ngài quan tâm đến hết mọi người: các Tông đồ cũng như dân chúng. Ngài hằng quan tâm đến những nhu cầu của con người, dù chỉ là những người vô danh tiểu tốt hay nhỏ bé tầm thường nhất. Ngài đã không nỡ làm ngơ hay dửng dưng trước những nỗi khổ của con người, cho dầu họ là ai. Ta có thể tóm gọn đường hướng mục vụ của Vị Mục tử này là “Tất cả vì con người”. Vì thế, Ngài không sợ bị họ quấy rầy, sẵn sàng đón tiếp và thỏa mãn những nhu cầu của họ.

Ngoài ra, Đức Giêsu cũng khích lệ các Tông đồ hãy nghỉ ngơi tĩnh dưỡng sau cuộc truyền giáo đầy vất vả khó nhọc. Nhưng nghỉ ngơi tĩnh dưỡng không có nghĩa là không làm gì mà nghỉ ngơi là xem lại công việc mình đã làm để điều chỉnh cho đúng hướng; đồng thời cũng là để lấy sức cho những công việc tiếp theo. Như vậy, theo ý Đức Giêsu, thinh lặng nghỉ ngơi rất cần thiết cho đời sống tu trì, cho việc truyền giáo cũng như cho mọi hoạt động khác.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

Bài đọc 1: Gr 23,1-6: Chúng ta có thể chia trích đoạn này thành hai phần:

a) Phần đầu: Thiên Chúa dùng tiên tri Giêrêmia khiển trách sự chểnh mảng của vua và các tư tế trong nhiệm vụ của mình. Họ không lo lắng chăm sóc đoàn chiên của Ngài là dân Do thái. Thay vì kết hợp chiên lại, họ lại làm cho chúng phải phân tán, gặp nhiều tai họa. Cuộc lưu đầy ở Babylon là một cảnh cáo đối với họ.

b) Phần cuối: Nhưng Thiên Chúa nói là Ngài sẽ lấy lại đoàn chiên ấy và sẽ đích thân chăm sóc: qui tụ chiên tản lạc lại, bảo vệ chúng khỏi hiểm nguy. Ngài sẽ ký thác đàn chiên cho các vị lãnh đạo biết lo lắng săn sóc, nhất là cho vị mục tử tuyệt hảo là Đấng Messia, xuất thân từ nhà Đavít.

Bài đọc 2: Ep 2,13-18: Theo trích đoạn thư thánh Phaolô gửi cho tín hữu Êphêsô, chúng ta có thể tìm ra được hai ý chính:
a) Phá đổ bức tường ngăn cách: xưa nay có một bức tường ngăn cách giữa người Do thái và dân ngoại. Đức Giêsu đã đổ máu ra trên thập giá để phá đổ bức tường ấy. Nhờ đó, từ nay dân Do thái và dân ngoại hoà giải với nhau.

b) Qui tụ nên một: Cũng nhờ cái chết của Ngài mà Đức Giêsu qui tụ những con chiên tản mác khắp nơi. Trong bản thân Ngài, Ngài đã tạo nên một kiểu nhân loại mới, tất cả mọi người, nhờ mối giây yêu thương, họ kết hợp với nhau, dân Do thái và dân ngoại, để từ nay mọi người đều hiệp nhất trong Ngài, làm thành một thân thể duy nhất là nhiệm thể Ngài.

Bài Tin mừng: Mc 6,30-34: Bài Tin mừng hôm nay cũng có thể chia thành hai phần:

a) Lo lắng cho các môn đệ: Trong bài Tin mừng tuần trước, Đức Giêsu đã sai 12 Tông đồ đi rao giảng Tin mừng, trong bài hôm nay, các ông trở về báo cáo với Ngài về những công việc của mình, thành công cũng như thất bại, những khó khăn cũng như thuận lợi. Ngài thấy các ông thấm mệt, nên bảo các ông xuống thuyền tìm một nơi yên tĩnh nghỉ ngơi một chút.

b) Bị quấy rầy: Nhưng khi vừa ra khỏi thuyền lên bờ, Đức Giêsu thấy đông đảo dân chúng đã kéo đến đón chờ Ngài. Họ phá vỡ chương trình nghỉ ngơi của Ngài và các Tông đồ. Tuy thế, Ngài chạnh lòng thương họ, thấy họ bơ vơ như đàn chiên không có người chăn. Ngài đành hy sinh sở thích của mình cũng như của các Tông đồ để ban phát Lời Chúa cho đám dân tội nghiệp này.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA. Đức Giêsu động lòng thương.

I. MỐI QUAN TÂM CỦA ĐỨC GIÊSU.

Đây là lần đầu tiên và duy nhất, Marcô gọi các môn đệ là “Tông đồ” (apostoloi), có nghĩa là “những kẻ được sai đi”. Như vậy chắc hẳn Marcô muốn đánh dấu một quan hệ mới của họ với Đức Giêsu. Chúa nhật vừa qua, ta đã nghe Ngài dặn dò các Tông đồ khi sai các ông đi rao giảng Tin mừng. Hôm nay các ông trở về sau một cuộc truyền giáo. Các ông kể lại cho Chúa những việc đã làm, giảng dạy và làm phép lạ, thành công và thất bại, kể cả những sự chống đối, khước từ và lãnh đạm...

1. Đức Giêsu quan tâm đến các Tông đồ.

Marcô tóm lược tất cả sứ vụ của các Tông đồ trong hai bình diện “làm” và “nói”. Đó cũng là hoạt động của Đức Giêsu: những hành vi thương xót, giảng dạy. Ngài và các Tông đồ đều là những người thợ cùng làm một công việc. Đức Giêsu lắng nghe các ông với sự chú ý đầy tình âu yếm và khích lệ họ. Ngài chia sẻ niềm vui với các ông, nhưng nhận thấy các ông có vẻ thấm mệt sau một cuộc truyền giáo, nên Ngài bảo: ”Các con hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút”.

Chúng ta phải công nhận Đức Giêsu rất hiểu tâm lý con người. Bởi vì làm việc nhiều rồi thì dĩ nhiên mệt mỏi, cần phải nghỉ ngơi đôi chút để lấy lại nghị lực, rồi mới có thể làm việc được. Đức Giêsu đề nghị với các ông đang quá mệt mỏi vì công việc, hãy dành một thời gian để nghỉ ngơi thư giãn. Quá tải, căng thẳng thần kinh mà ngày nay người ta gọi là “Stress” có hại cho công việc tông đồ cũng như các công việc khác của con người.

Điều này nhấn mạnh rằng Đức Giêsu muốn bảo các Tông đồ sống riêng với Ngài, xa hẳn đám dân chúng để có bầu khí tương giao mật thiết hơn đối với Ngài và với nhau. Điều này cũng được biểu lộ khi Đức Giêsu chọn các Tông đồ “Để ở với Ngài” trước khi sai họ đi giảng (Mc 3,14) và ngay sau khi đi truyền giáo về, Ngài cũng muốn đem các ông đi nghỉ ngơi với Ngài.

Ngoài ra, ở đây ta cũng thấy Đức Giêsu không đề cập tới công việc của các ông, nhưng Ngài lại lưu ý riêng đến chính bản thân các ông: ”Các con hãy nghỉ ngơi một chút” chứng tỏ rằng Ngài săn sóc cách riêng đến chính bản thân cộng sự viên của mình.

2. Đức Giêsu quan tâm đến dân chúng.

Đức Giêsu muốn cùng các Tông đồ xa rời đám đông sang bên kia Biển hồ để Thầy trò sống thân mật và trao đổi tâm sự với nhau. Tuy vậy, dân chúng nhìn hướng đoán trước được thuyền của các Ngài định đi đến đâu. Từ Capharnaum đến miền lân cận Betsaiđa và Giulia xa chừng 10 cây số, dân chúng không quản ngại cuốc bộ, nên họ đến trước Đức Giêsu.

Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy dân chúng đã đợi sẵn ở đó thật đông, Ngài chạnh lòng thương họ, quên cả ý muốn nghỉ ngơi tĩnh dưỡng cho mình và cho các Tông đồ. Ngài chạnh lòng thương vì đám dân này sống bơ vơ như đàn chiên không có người chăn. Sở dĩ Đức Giêsu coi họ như đàn chiên không có người chăn vì trong Cựu ước, những người có bổn phận phải dạy dỗ dân chúng là những vị thuộc hàng tư tế, những vị tiến sĩ luật, song các ông đã biếng nhác sao lãng bổn phận, vì phần đông chỉ lo tìm tư lợi.

Thánh Marcô, giống như nhà quay phim tài ba, đã thu cảnh đượm khuôn mặt Đức Giêsu lúc Ngài rời khỏi thuyền bước lên bờ, một khuôn mặt dịu hiền khôn tả, khuôn mặt của người cha nhân hậu, khuôn mặt của vị mục tử nhân lành, khuôn mặt của một vì Thiên Chúa không ngăn nổi nhịp đập thổn thức của con tim giầu lòng thương xót và hay trắc ẩn. Để thay vì Thầy trò quay lưng lại tìm đường khác trốn chạy thì Ngài và các Tông đồ lại bước lên bờ tiếp xúc với họ và Ngài dạy dỗ họ nhiều điều.

Ở đây Marcô chỉ nói trống “Ngài dạy họ nhiều điều” mà không xác định Ngài đã dạy gì. Nhưng Luca có ghi rõ (Lc 9,10-11): Ngài đón tiếp họ, nói cho họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được cứu chữa. Chính việc giảng dạy” nhiều điều này”đã chứng thực lòng thương xót của Thiên Chúa.

II. MỐI QUAN TÂM CỦA CHÚNG TA.

1. Quan tâm đến hết mọi người.

Đức Giêsu là hiện thân của một Thiên Chúa mang “Trái tim đa cảm” trước đau khổ của con người. Chưa bao giờ Ngài nặng lời với hạng người mang tiếng là “tội lỗi” hoặc khước từ thi ân giáng phúc cho những người bé mọn. Ngài là một bậc thầy nhân ái biết lắng nghe các môn đệ phúc trình công việc, nhưng thương họ vì thấy họ cần được nghỉ ngơi. Ngài cũng tỏ lòng nhân ái khi thấy đám dân chúng bơ vơ như đàn chiên không người chăn và dạy dỗ họ nhiều điều. Để tỏ lòng biết thương người, chúng ta hãy làm một số việc sau đây:

a) Sẵn sàng bị quấy rầy.

Bài Tin mừng diễn tả: chung quanh Đức Giêsu lúc nào cũng có đám đông muốn nghe lời Chúa và muốn được Ngài thi ân. Ngài làm việc không biết mỏi mệt. Thậm chí các Tông đồ vừa đi truyền giáo về mệt nhoài, cần sự tĩnh dưỡng nghỉ ngơi bên Chúa, nhưng cũng không được. Chương trình nghỉ ngơi đã bị phá vỡ vì dân chúng lại đến quấy rầy, họ muốn nghe lời Chúa, họ muốn được chữa bệnh, việc đó làm cho Ngài và các Tông đồ bận rộn đến nỗi không có thời giờ ăn uống.. Nhưng trước hoàn cảnh ấy, Đức Giêsu đã phản ứng ra sao ? Không bực dọc, Ngài tiếp đón dân. Điều này nói với chúng ta nhiều về cung cách nhân từ của Ngài. Ngài xúc đdộng vì thương yêu họ. Những bậc thầy chính thức không có thời giờ dành cho dân thường, nhưng Đức Giêsu dành thời giờ cho họ. Đó là lý do họ lũ lượt đi theo Ngài.

Truyện: Sẵn sàng bị quấy rầy.

Một lần kia, có người đàn ông đến gặp bạn mình, là giáo sư của một trường đại học lớn. Tuy nhiên, vì họ ngồi nói chuyện phiếm trong phòng giáo sư, nên liên tục bị gián đoạn bởi các sinh viên đến gõ cửa, họ tìm giáo sư để xin hướng dẫn về điều này, điều nọ. Mỗi lần như thế, ông giáo sư từ ghế đứng lên, đi đến cửa, đáp ứng nhu cầu của sinh viên. Bất ngờ, người bạn đến thăm hỏi ông giáo sư:

- Bạn xoay sở thế nào để làm việc được với quá nhiều lần gián đoạn như thế ?

Ông giáo sư trả lời:

- Lúc đầu, tôi luôn bực bội vì công việc của mình bị gián đoạn. Nhưng một ngày kia, thình lình tôi thấy rõ rằng những lúc bị gián đoạn cũng là công việc của tôi.

Ông giáo sư có thể khóa kín cửa lại, và dành hết thời giờ cho công việc của ông. Theo cách này thì không chút nghi ngờ, ông đã có một đời sống yên tĩnh hơn. Nhưng là một người quảng đại và vị tha, ông không thể làm như vậy. Trái lại, ông sẵn sàng phục vụ các sinh viên mà ông yêu mến. Và không lạ gì ông là một giáo sư hạnh phúc nhất và mãn nguyện nhất trong trường (Flor McCarthy).

Bị người khác làm gián đoạn, ngắt quãng có thể là một điều tốt. Chúng ta nhờ thế mà tránh được sự quan tâm quá đáng về chính mình. Tính ích kỷ là một thứ nhà tù. Mặt khác, tình yêu thương đem lại tự do cho chúng ta.

Đức Tổng giám mục Kelder Camara nói:

“Bạn hãy chấp nhận những sự bất ngờ làm đảo lộn kế hoạch của bạn, làm tiêu tan những giấc mộng của bạn và làm cho dự định trong ngày hoàn toàn đổi hướng và – Nào ai biết được ? – Có khi cả đời sống bạn. Đó không phải là sự tình cờ. Bạn hãy để Thiên Chúa được tự do kết dệt những đường nét của bạn mỗi ngày”.

Premanand là một Kitô hữu có thế giá, thuộc giới thượng lưu Ấn độ, đã viết trong tập tự thuật của ông:”Từ xưa cho đến mãi bây giờ, sứ điệp chúng ta cho thế giới chưa tin Chúa vẫn là: Thiên Chúa quan tâm đến mọi người. Đúng thế, chúng ta không nên quá bận rộn đến nỗi không dành được thời giờ cho người khác, và đừng bao giờ tự ý coi họ là kẻ gây rối phiền hà cho mình”. Nếu chúng ta lấy lý do bận rộn không chịu tiếp người khác thì chúng ta mất ngay những người khách đó, họ không bao giờ trở lại nữa.

Truyện: Không chịu tiếp khách.

Ông Premanand tiếp tục kể lại một câu chuyện mà đáng lẽ ra có thể đã làm thay đổi toàn thể chiều hướng truyền đạo tại Bangal: Người ta ghi lại rằng Giám mục đầu tiên của thủ đô Ấn độ đã không chịu gặp Pandit Vidyasagar của Bangal cách chính thức. Ông Pandit được phái đi làm người phát ngôn cho cộng đồng Ấn độ giáo ở Calcutta để thiết lập quan hệ thân hữu với vị giám mục và với Giáo Hội Kitô.

Ông là người sáng lập trường cao đẳng Ấn độ giáo ở Calcutta, là nhà cải cách xã hội, một tác giả, và nhà giáo dục có tiếng, đã trở về bất mãn vì không gặp được vị giám mục. Ông thành lập một đảng mạnh gồm toàn những người giầu có và trí thức ở Calcutta để chống đối giám mục và Giáo hội, ngăn chặn sự bành trướng của Kitô giáo...

Sự chú trọng hình thức, nghi lễ của một viên chức Giáo hội đã làm cho một người bạn trở thành một kẻ thù. Một cơ hội cho Chúa đã bị đánh mất vì một người quá câu nệ hình thức lễ nghi, đã không chịu để cho đời sống riêng tư của mình bị quấy rầy. Một số người vì không muốn để cho người khác đụng đến cuộc sống riêng tư của mình mà đã làm mất cơ hội cho Chúa. Đức Giêsu không bao giờ xem ai là mối phiền hà cho mình, dù lúc Ngài cần nghỉ ngơi và yên tĩnh. Nhìn đám đông, Ngài cảm động và thương xót họ; họ quá ư nhiệt thành, họ quá mong muốn điều mà chỉ một mình Ngài mới ban cho họ được.

b) Sự săn sóc chu đáo.

Đức Giêsu luôn quan tâm săn sóc mọi người khi họ cần đến Ngài. Ngài sẵn sàng đến nhà ông trưởng hội đường Giairô cứu con gái ông sắp chết (Mc 5,21-24. 35-43). Ngài sẵn sàng đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của một viên sĩ quan đại đội trưởng đến chữa bệnh cho đứa đầy tớ của ông. Ngài đã dành biết bao thời giờ cho việc rao giảng Tin mừng và chữa bệnh. Ngài không mệt mỏi phải thi ân. Ngài luôn quan tâm săn sóc mọi người.

Quan tâm săn sóc không bao giờ là một việc dễ dàng. Một số người muốn săn sóc chút ít, với điều kiện theo cách của họ, không quá phiền hà và không đảo lộn những dự tính của họ. Nhưng hãy chăm sóc như Đức Giêsu đã làm, khi những kế hoạch của mình bị đảo lộn, đây là một trắc nghiệm tốt nhất. Lúc nào các bậc cha mẹ cũng làm việc đó. Bao nhiêu lần họ đã chỗi dậy trong đêm để ngắm nhìn đứa con của họ.

Tất cả chúng ta đều có khả năng chăm sóc. Nhu cầu săn sóc con người là rất lớn. Sự thờ ơ đang lan rộng phổ biến trong xã hội chúng ta. Khi chúng ta dành thời giờ để chăm sóc người khác, là chúng ta đang sống Tin mừng.

Truyện: Cần được viếng thăm.

Chân phước Têrêsa Calcutta kể lại một ngày nọ, Mẹ đến thăm nhà nuôi các cụ già ở Thụy điển. Mọi việc đều trôi chảy. Thức ăn ngon. Nhân viên đều được đào tạo và đối xử với các cụ rất tốt. Dường như đó là nơi lý tưởng cho những ngày còn lại của cuộc đời.
Trong nhà ấy, có khoảng 40 người già. Tuy nhiên khi Mẹ rảo quanh một vòng, Mẹ nhận thấy không có cụ nào mỉm cười. Mẹ cũng nhận ra một việc khác. Họ cứ nhìn ra cánh cổng. Mẹ hỏi một chị điều dưỡng tại sao lại thế ? Chị điều dưỡng đáp:”Họ mong ngóng có người đến thăm họ”. Lúc nào họ cũng nhìn ra và suy nghĩ. Có lẽ là con trai tôi, có lẽ là con gái tôi, có lẽ là một người nào đó sẽ đến thăm tôi hôm nay”. Nhưng không một ai đến, và ngày nào cũng thế”.

“Không một ai đến”! Câu nói này ám ảnh Mẹ Têrêsa. Những cụ già này đã bị gia đình đưa vào đây và bỏ rơi họ. Hơn thế nữa, cảm giác bị bỏ rơi là nỗi đau khổ nhất (Flor McCarthy).

c) Sự thông cảm hợp thời.

Tôi đã có dịp đọc cuốn “No man is an island” của Thomas Merton, cái nhan đề này đã nói lên rất nhiều về nội dung của cuốn sách cũng như tư tưởng chính yếu của tác giả. Nó chính là một câu trả lời gián tiếp cho những ai chủ trương rằng con người là một thế giới khép kín, là một con vật bị đọa đầy, bỏ rơi, một mình đương đầu với số mệnh mù quáng và phũ phàng trong một thế giới mà mọi người và mọi vật khác đều xa lạ nếu không là thù địch với mình.

Đọc trong Tin mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu luôn thông cảm với những đau khổ của con người, ví dụ Ngài khóc thương thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá (Lc 19,44), khóc thương người con trai của bà góa phụ thành Naim khi người ta đem chàng đi chôn (Lc 7,11-17) và khóc thương bên mồ Lazarô đã chết bốn ngày (Ga 11,1-14). Đó là ba trường hợp Đức Giêsu tỏ ra thông cảm bề ngoài với những giọt nước mắt nóng hổi như chúng ta. Đức Maria cũng tỏ ra lo lắng khi chủ nhà giữa tiệc hết rượu tại Cana, Ngài đã xin Đức Giêsu can thiệp và phép lạ nước thành rượu đã được thực hiện (x. Ga 2,1-11).

Thánh Phaolô tông đồ đã đưa ra một học thuyết mới về thân thể Đức Kitô: Giáo hội là một thân thể, Chúa Kitô là đầu và chúng ta là chi thể của thân thể ấy, tức là chi thể của nhau. Các chi thể liên lạc mật thiết với thân, với đầu và với nhau, nên anh em có giây liên lạc với nhau một cách đặc biệt. Vì thế, thánh Tông đồ dân ngoại đã khuyên chúng ta phải biết thông cảm với nhau: ”Hãy vui cùng kẻ vui, khóc cùng kẻ khóc”(Rm 12,14).

Người đời cũng nhận thấy rằng mình không thể sống đơn độc được, cả về vật chất lẫn tinh thần. Con người có nhu cầu vật chất cần trao đổi, có những tình cảm cần phải được chia sẻ trong đời sống thường ngày. Nhờ đó, đời sống con người mới được quân bình. Quan niệm này được diễn tả ra qua những câu ca dao tục ngữ:

- Một con ngựa đau, cả tàu chê cỏ.
- Chị ngã em nâng.
- Lá lành đùm lá rách.
- Máu chảy ruột mềm.
- Không ai khen đám cưới, ai nỡ cười đám ma.

Tuy nhiên, trong việc thông cảm với nhau phải biết lựa lời nói cho thích hợp với hoàn cảnh kẻo làm phật lòng người ta. Nói đúng ra, đấy là một lối thông cảm trái mùa.

Truyện: Thông cảm trái mùa.

Hai người đàn bà đi trong xe hỏa nói chuyện với nhau. Bà mặc áo đen kể lể với người bạn về những sự khổ cực trong gia đình mình: nào là làm ăn thua thiệt, con cái bướng bỉnh... nhất là mình mới mất người chồng thân yêu, làm cho đời trở nên buồn tẻ, cô đơn.

Bà mặc áo vàng ngồi bên tỏ vẻ thông cảm với người đàn bà đau khổ kia đã nói: Tôi cũng rất buồn vì tôi mới mất một con chó Vện, con chó này khôn lắm, nó biết canh nhà cẩn thận, tôi đi đâu nó cũng tìm đến được, thật là con chó đánh hơi rất tài tình. Nay nó chết, tôi buồn quá... Như vậy hai chị em mình cùng chia sẻ nỗi buồn với nhau !!!

2. Nghỉ ngơi tĩnh dưỡng.

Sau cuộc hành trình truyền giáo vất vả, các Tông đồ phấn khởi thuật lại cho Đức Giêsu nghe những thành quả vàng son của mình. Nhưng Ngài lại quan tâm đến con người hơn là công việc, nên Ngài khuyên các ông:”Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút” (Mc 6,31).

Đức Giêsu khích lệ các ông đi đến một nơi thanh vắng yên tĩnh, chắc chắn vượt xa hơn cảnh huống cụ thể của đời thường. Đời sống nội tâm đòi buộc phải suy niệm. Sự náo động bên ngoài chỉ đưa đến phiến diện bề ngoài. Không có một công trình vĩ đại nào của con người được thực hiện mà lại không có sự tập trung cao độ, cố gắng yên tĩnh và tự chủ. Bất cứ cuộc sống đứng đắn nào của con người cũng phải trải qua từ giai đoạn hoạt động “bên ngoài” đến giai đoạn suy tư “bên trong”.

Khi được hỏi bí quyết nào khiến George Washington Carver thành công trong thành tựu khoa học của mình với trên 300 sản phẩm hữu dụng, ông đã trả lời:”Tôi thức dậy lúc 4 giờ sáng, và trong sự yên tĩnh của buổi mai, tôi lắng nghe tiếng Chúa và chương trình Ngài xếp đặt cho tôi”.

P. Doncoeur đã quả quyết:”Không một vĩ nhân nào đã thành công mà khong đắm mình trong tĩnh lặng để hồi tâm và cầu nguyện”.

Ernest Hello cũng quả quyết:”Tâm hồn càng nhận được nhiều trong yên lặng thì càng ban phát nhiều trong khi hoạt động”.

Maurice Barrès đã viết trong cuốn sổ tay của ông:”Trong đời sống hấp tấp và đa đoan của chúng ta, có những giây phút người ta cũng cần cầm trí lại tận trong đáy lòng, khác nào trở về nguồn, và từ đó nhìn cho rõ hơn mình đi đâu, đâu là nơi mình phải đến và nắn lại đường đi của mình cho ngay thẳng”.

Không có cuộc sống Kitô hữu nào vững chắc và sâu xa mà lại không thể hiện hai nhịp sau: sống “nội tâm” và hoạt động “bên ngoài”. Đức Giêsu làm gương yêu thích sự thinh lặng và dạy môn đệ theo con đường đó. Và nó rất cần thiết cho đời sống tu trì cũng như đời sống hoạt động, đặc biệt cho các nhà truyền giáo.

Đức Giêsu không nghĩ đến mình, Ngài chỉ quan tâm đến người khác. Ngài rất nhạy cảm trước những đau khổ của con người. Ngài đáp ứng những nhu cầu của họ nhằm đưa họ đến hạnh phúc. Hạnh phúc của người khác là đối trọng tình thương của Ngài. Mỗi người chúng ta có đời sống riêng tư, được sắp xếp theo ngăn nắp, hợp lý, chúng ta có quyền bảo vệ sự quân bình ấy, nhưng nếu có đôi lúc phải hy sinh cái lợi ích riêng tư ấy vì hạnh phúc của người khác, chúng ta hãy coi đó là một nhiệm vụ.

Xin cho con một quả tim như Chúa,
Biết cảm rung trước những nỗi đớn hèn,
Những bất toàn, những bất hạnh của anh em.
Để con không nỡ quay lưng tìm đường trốn chạy.
Xin cho con một trái tim nhân ái,
Biết chạnh lòng thương cảm trước tha nhân.
Dầu khi con muốn tìm chút an nhàn,
Muốn được hưởng chút niềm vui chính đáng.
Xin cho con đừng bao giờ than vãn,
Khi bị quấy rầy, đeo đuổi với nỉ non.
Bởi bao lâu mà đau khổ vẫn còn,
Thì tình Chúa vẫn dạt dào trong Chúa,
Cùng rung lên nhịp điệu của Thánh Linh.
Cho con dám dấn thân vì Chúa quên mình,
Bởi Chúa đã vì yêu mà trao ban tất cả.
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:41 14/07/2009
NÔ LỆ CHO THÓI QUEN

N2T


Có một thời, hoa sen rất được mọi người tán thưởng, nhưng đến khi tiếng vỗ tay dần dần chấm dứt, thì nó lại như mất cái gì đó, bản thân không được thoải mái.

Đấng tạo hóa nói: “Người nát rượu chìm trong cồn, người đánh bạc lạc mất giữa những con số, con chữ. Lúc nào con đắm đuối trong thói quen, thì trở thành nô lệ cho thói quen”.

(Trích: Truyện đồng thoại dành cho người lớn)

Suy tư:

Cũng là chuyện thường tình của con người mà thôi, mấy cô gái khi nghe ai khen mình đẹp thì khoái tít lên chứ, ai khen mình tài giỏi thì cũng sung sướng hơn học sinh được điểm mười.

Nhưng nếu nhìn một cô gái mà nói: cô xấu như quỷ dạ xoa thì có nước mà chết sớm, cô ta sẽ la toáng lên, nào là có mắt như đui, nào là mắt không tròng, nào là…

Con người ta ai cũng thích được kẻ khác khen, dù là khen dối trá, khen để lấy lòng, khen để hưởng xái vài chút danh quyền, chút tình yêu còm cỏi, vì thế, khi người ta không còn khen nữa thì lại buồn rầu, lại trách móc và…hận đời.

Khen hay chê, không phải tự nhiên mà có, nhưng bởi tại mình mà ra.

Mình làm tốt: khen

Mình làm dở: chê,

đó là chuyện thường tình của người đời, chẳng có chi lạ cả. Nhưng cái lạ chính là: khi người ta khen hay chê mà mình vẫn vui tươi, cười sung sướng, coi họ là anh em, cái đó đúng là “ngược đời”, là môn đệ của Đức Ki-tô vậy.
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:44 14/07/2009
N2T


41. Ngăn cản chân lý chính là sự ngạo mạn của tâm hồn; tâm hồn ngạo mạn thì nhìn mọi việc đều không rõ ràng.

(Thánh Gregory)
 
Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:46 14/07/2009
N2T


173. Cách thức sống của chúng ta thì giống như bức tranh sơn dầu, nếu đứng gần thì nhìn không ra nguyên nhân, nhưng muốn thưởng thức cái đẹp của nó thì phải đứng xa một chút mới được.

 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Công bố Tin Mừng của Tình Yêu và Công lý
Pt Huỳnh Mai Trác
03:41 14/07/2009
Sau khi nhắc nhở về Hội Nghi G8, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI trở lại nói về thông điệp của ngài vừa được phổ biến: “Giáo Hội Công giáo không có những giải pháp kỷ thuật để trình bày, nhưng chuyên biệt về nhân bản, Giáo Hội công bố cho tất cả mọi người Tin Mừng của Tình Yêu.

“Trong những ngày vừa qua, moị người đều chú ý hướng về Hội nghị G8 được nhóm họp ở Aquila, một thành phố đã bị thử thách nhiều trong trận động đất. Những vấn đề được đặt ra hôm nay thật là khẩn cấp. Có quá nhiều cách biệt trong xã hội ngày nay, có những cơ cấu bất công không thể chấp nhận được, đòi hỏi những can thiệp tức thời như một bổn phận, một chiến lược hầu tìm kiếm những giải pháp chung lâu dài cho toàn thế giới”.

Trong cuộc họp thượng đỉnh, các quốc trưởng và những chính phủ của G8 đã nhiều lần lập lại sự cần thiết đi đến những thỏa hiệp chung hầu cho nhân loại có được một tương lai khá hơn.

“Giáo Hội không có những giải pháp kỷ thuật để trình bày, nhưng chuyên biệt về nhân bản, Giáo hội trao ban những giáo huấn của Kinh Thánh về sự thật của con người và Giáo Hội công bố Tin Mừng của Tình Yêu và của Công lý.

Ngày thứ tư vừa qua, trong buổi tiếp kiến chung khi nói về thông điệp “Caritas in Veritate”, thông điệp này được phổ biến đúng vào buổi chiều trước ngày Hội Nghị G8, Đức Giáo Hòang nói về một chương trình kinh tế, phác họa lại sự phát triển cho toàn cầu mà điều cần thiết là phải được dựa trên căn bản luân lý và trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa và con người, một tạo vật của Ngài.

Trong thông điệp ngài đã viết:”.. . trong một xã hội đang đi đến toàn cầu hóa, ích lợi chung phải nhắm đến chiều kích rộng lớn của toàn thể gia đình nhân loại.”

Đức Giáo Hoàng vĩ đại Phao lồ VI đã nhận biết và nêu rỏ trong thông điệp “Popularum Progressio” là vấn đề xã hội phải được nhìn trên bình diện toàn thế giới.

Bước theo cùng một chiều hương đó, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI cũng nêu lên trong “Caritas in Veritate” một câu hỏi thiết thực với thời đại chúng ta, “đó là vấn đề nhân chủng học” trong ý nghĩa gồm có việc tạo dựng nên con người được trao vào bàn tay của những khoa học gia với những phương pháp nhân tạo hiện đại.

Những giải pháp cho những vấn đề của nhân loại không thể chỉ dùng những giải pháp kỷ thuật nhưng cần phải nhìn đến những nhu cầu của con người gồm có linh hồn và thể xác. “Chủ nghĩa cực đoan về kỷ thuật trong những thực dụng tuyệt đồi trái với sự sống có thể mang lại đen tối vưc thẳm cho nhân loại.

Những hành động không tôn trông nhân phẩm thật sự của con người, dù là có vẻ thúc đẩy bởi một sự “lựa chọn vị tha”, nhưng trên thực tế là kết quả của một quan niệm vật chất và máy móc về sự sống của con người”, và tạo thành một thứ tình yêu thiếu sự thật giống như một cái vỏ bị bó buộc phải làm cho đầy” và có thể mang lại những hậu quả tai hại cho sự phát triển của con người toàn diện.

“Hoàn cảnh của thế giới ngày nay quá ư phức tạp, Giáo hội nhìn về tương lai với niềm hy vọng và nhắc nhở người Kitô hữu là phải “công bố Chúa Kitô là yếu tố đầu tiên và chính yếu của sự phát triển”. Và trong thánh lễ ngày hôm nay, lời cầu nguyện trong phụng vụ là: “Lạy Cha, Cha đã ban cho chúng con, Người Con của Cha chính là Đấng đã tỏ cho thế gian biết mầu nhiệm tình yêu của Cha và nhân phẩm thật sự của con người”.

“Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng con đi trên con đường phát triển với tất cả con tim và tất cả trí tuệ,”nghĩa là với sự nồng nhiệt của tình yêu và sự khôn ngoan của sự thật” (Nguồn tin: VIS)
 
Đức Thánh Cha Beneđictô XVI nhận lời mời đến thăm Hàn Quốc
Peter Nguyễn Minh Trung
13:40 14/07/2009
ROME - Phát biểu hôm thứ năm vừa qua, người phát ngôn của tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-Bak cho biết Đức Giáo Hoàng Benedict XVI sẽ đến thăm Hàn Quốc "vào một thời điểm thích hợp" để khích lệ người Công giáo Hàn Quốc và Giáo hội tại nước này, ca ngợi các nỗ lực của họ trong việc bảo vệ quyền lợi những người bị thiệt thòi.

Trong cuộc thăm viếng xã giao với Đức Giáo Hoàng tại Vatican, tổng thống Lee Myung-Bak đã mời ngài đến thăm Hàn Quốc. Đức Giáo Hoàng vui vẻ chấp nhận lời mời và nói ngài sẽ thăm Seoul vào một thời điểm thích hợp.

Nếu cuộc tông du diễn ra, Đức Benedict XVI sẽ trở thành vị Giáo hoàng thứ hai viếng thăm Hàn Quốc theo sau người tiền nhiệm là Đức John Paul II. Đức John Paul II đã thăm Seoul vào năm 1984 và 1989.

Tổng thống Lee đến Rome hôm thứ tư tuần trước để tham dự Hội nghị thượng đỉnh G-8 mở rộng diễn ra tại thành phố núi bị động đất L'Aquila. Ông là vị tổng thống thứ ba của Hàn Quốc gặp gỡ Đức Giáo Hoàng ở Vatican. Trước đó, hai vị tiền nhiệm của ông cũng từng đến Vatican chào thăm Đức Giáo Hoàng là tổng thống Kim Dae-Jung năm 2002 và cố tổng thống Roh Moo-Hyun năm 2007.

Phát ngôn viên của tổng thống cho biết, Đức Giáo Hoàng và tổng thống Lee Myung-Bak đã thảo luận một loạt các vấn đề, trong đó bao gồm vấn đề tình trạng nhân quyền ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và những đe dọa hạt nhân của nước này.

Tổng thống Lee đã cảm ơn Đức Thánh Cha vì những nỗ lực của ngài trong việc thăng tiến hòa bình và nhân quyền trên thế giới. Đáp lại, Đức Thánh Cha Benedict XVI nói cộng đồng quốc tế cần phải tăng cường hơn nữa những hoạt động nhân đạo trong việc chống lại nạn nghèo đói và khủng hoảng lương thực.

Tổng thống Lee cũng cảm ơn Đức Thánh Cha đã gửi một phái đoàn đến Seoul để cử hành tang lễ của Đức cố Hồng y Stephen Kim Sou-hwan, vị Hồng y đầu tiên của Hàn Quốc ra đi vào tháng 02-2009.

Phát ngôn viên tổng thống nói, tổng thống Lee Myung-Bak mong nhận được sự quan tâm đặc biệt từ Giáo hội Công giáo La Mã đến 125 vị chịu tử đạo vào đầu những năm 1800 tại Hàn Quốc chỉ vì họ là người Công giáo. Tổng thống xin Giáo hội phong thánh cho các vị này.

Tổng thống Lee trước đó cũng đã gặp Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, để thảo luận về tình hình chính trị tại bán đảo Triều Tiên và tình trạng nghèo đói của Bắc Hàn.

(Nguồn: http://www.koreatimes.co.kr/www/news/nation/2009/07/116_48204.html)
 
Đức Thánh Cha bắt đầu kỳ nghỉ hè ở miền núi ở Bắc Ý
Peter Nguyễn Minh Trung
13:55 14/07/2009
VATICAN (CNA) - Sau khi tiếp và hội kiến với một loạt những cuộc thăm viếng quốc tế của các nguyên thủ quốc gia tới Vatican và công bố thông điệp thứ ba "Caritas in Veritate" của mình, Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã rời khỏi Vatican vào sáng hôm qua (13-07-2009) theo giờ địa phương để bắt đầu kỳ nghỉ hè kéo dài 2 tuần nơi miền núi Valle d'Aosta, vùng Bắc Italia.

Đức Thánh Cha rời khỏi Rome bằng máy bay vào lúc 10:30 sáng hướng về thành phố Turin, Bắc Italia. Tiếp đó, Đức Thánh Cha đi trực thăng bay đến nơi nghỉ hè, một ngôi nhà của các anh em Dòng Salesian.

Ngôi biệt thự nhỏ bằng gỗ, còn được biết đến với cái tên Les Combes, là nơi Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã cư ngụ trong hai kỳ nghỉ hè 2005 và 2006. Căn nhà này được làm từ gỗ và đá, có hai tầng, được bao bọc bởi một ngôi vườn rộng lớn. Nơi đây có độ cao 3,900 feet so với mặt nước biển, và có thể nhìn toàn cảnh vùng Mont Blanc cũng như các ngọn núi chạy dọc biên giới giữa Pháp - Italia. Nhìn xa thêm từ Les Combes là dãy núi Alps nổi tiếng giữa biên giới hai nước Italia và Thụy Sĩ. Đức cố Giáo Hoàng John Paul II cũng rất hay lui tới Les Combes qua các kỳ nghỉ hè trước đây.

Trong suốt 16 ngày nghỉ ngơi của mình, Đức Benedict XVI sẽ chỉ chủ trì hai nghi lễ chung. Một là vào Chúa nhật 19-07, ngài sẽ cử hành buổi đọc Kinh Truyền Tin tại quãng trường Piazza Ruggia, ngay phía trước nhà thờ hai Thánh Peter và Solutor Romano Canavese, thuộc giáo phận Ivrea. Hai là vào Chúa nhật 26-07, ngài sẽ chủ tọa buổi đọc Kinh Truyền Tin ngay tại Les Combes.

Đức Thánh Cha Benedict XVI sẽ nghỉ ở Les Combes đến ngày 29-07.

Tiếp theo sau chuyến nghỉ hè này, Đức Giáo Hoàng sẽ trở về cung điện mùa hè Castel Gandolfo của mình, cách Rome 18,5 dặm về phía Nam. Ngài sẽ ngụ tại Castel Gandolfo cho đến cuối tháng 09.

Chuyến tông du quốc tế tiếp theo của Đức Thánh Cha sẽ diễn ra vào ngày 26-09 tới Cộng Hòa Séc trong ba ngày.

Tuần vừa qua là một tuần bận rộn của Đức Thánh Cha, ngài đã tiếp kiến nhiều đoàn nguyên thủ quốc tế đến Vatican sau Hội nghị thượng đỉnh G-8. Thủ tướng Canada Stephen Harper cùng vợ, các con, nội các và đoàn tùy tùng của ông là phái đoàn nguyên thủ sau cùng mà Đức Thánh Cha tiếp kiến trước khi đi nghỉ hè. Trước đó, thủ tướng Nhật Taro Aso, tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-Bak, thủ tướng Úc Kevin Rudd, tổng thống Mỹ Barack Obama cùng gia đình và đoàn tùy tùng các ông này đã lần lượt yết kiến Đức Thánh Cha.
 
Bạn có biết ai đứng đàng sau những tin tức ta đọc ta nghe?
Phụng Nghi
20:51 14/07/2009
COLORADO SPRINGS, Colorado, (Zenit.org) - Giới truyền thông có một tầm ảnh hưởng vô cùng lớn lao trong việc hình thành công luận, và điều khẩn thiết là người Công giáo phải tìm hiểu xem tin tức được tường trình ra sao, ai là những người đứng phía sau những tin tức đó.

Đó là lời phát biểu của Đức Tổng giám mục Charles Chaput, tổng giám mục Denver tuần qua trong một bài diễn từ đọc trước Legatus, một tổ chức mục vụ cho các nhà lãnh đạo doanh nghiệp Công giáo.

Bài nói chuyện của ngài nhan đề “Người Công giáo và “Đẳng cấp thứ Tư”. Từ ngữ này được thành hình vào thời cách mạng. Vào thời điểm đó, ở Pháp, ba cột trụ chính của xã hội – là hàng giáo sĩ, giai cấp quý tộc, và thường dân – được gọi là ba “đẳng cấp” của xã hội Pháp.

Chính trong bối cảnh đó mà báo chí được mệnh danh là “đẳng cấp thứ tư”, nhằm để công nhận quyền lực và ảnh hưởng của chữ viết.

Tổng giám mục Chaput khẳng định: “Giới truyền thông Mỹ có một sức mạnh rất lớn lao trong việc uốn nắn công luận. Vì thế, điều quan trọng là người Công giáo phải tìm hiểu xem truyền thông hoạt động ra sao, và đặc biệt là ảnh hưởng của họ đối với chúng ta như thế nào.”

“Hầu hết những tin tức thế giới chúng ta biết được là đến từ những người chúng ta chưa hề gặp gỡ và thực sự chưa hiểu biết họ. Ngay cả đến chuyện chúng ta không nghĩ họ là những cá thể nữa. Mà chúng ta thường nói về họ như một tập thể -- gọi họ là “giới truyền thông” hoặc “giới báo chí.”

“Thế mà phía sau mỗi bài xã luận đăng trên tờ Los Angeles Times hay một bản tin loan đi từ đài truyền hình Fox, lại là những con người, mang nơi họ những quan niệm riêng biệt, những thiên kiến cá nhân. Những con người đó chọn lựa và bố cục các tin tức. Và mỗi khi chúng ta đọc các bài báo của họ hay coi các show của họ trên đài truyền hình, đó là chúng ta gặp gỡ họ trong một thứ khung cảnh trí thức thân mật giống như quý vị đang nghe tôi nói lúc này đây.”

Tuy ngài thừa nhận “đó không nhất thiết là một nghề nghiệp xấu” nhưng ta phải nhận thức được ai là những người đứng đàng sau những tin tức đó.

“Thường thì chúng ta biết rất ít về người viết một bài bình luận trên báo mà không ký tên, hay là người làm những bản tin tức buổi tối trên đài truyền hình. Đó là điều đáng nói tới. Đây là lý do tại sao: Trong một xã hội cần biết đến tin tức, những người hình thành ra các bản tin là những người sẽ kiểm soát được công luận.”

Mệnh danh giới truyền thông và các kỹ thuật họ sử dụng là một “thứ đế quốc mềm dẻo”, Đức tổng giám mục cho biết rằng “dù muốn dù không, hầu hết mọi người chúng ta coi việc này việc kia là “tin tức” khi đó là những sự kiện được chú ý nhiều nhất bởi một nhúm người trong ngành truyền thông lớn.”

“Quyền lực của giới truyền thông trong việc uốn nắn tư tưởng của công chúng, là lý do tại sao điều quan trọng đối với chúng ta là hiểu được yêu tố con người của họ. Khi chúng ta không nhận ra cá tính của những người nam nữ loan báo tin tức cho chúng ta – tức là những quan điểm của họ về văn hóa về chính trị, những áp lực về kinh tế, những tham vọng xã hội của họ -- thì chúng ta thất bại trước báo giới vì đặt họ vào tiêu chuẩn quá thấp. Chúng ta cũng có thể -- điều này còn quan trọng hơn nữa – là làm thất bại chính chúng ta vì không suy nghĩ và hành động chín chắn như những người công dân thông tuệ.”

Ít suy tưởng

Đức tổng giám mục Chaput cũng nói về Internet và hệ thống tin tức truyền qua mạng cable 24 giờ mỗi ngày đã thay đổi đến tận gốc rễ không những chu kỳ tin tức (thường đánh dấu bằng những ấn bản buổi sáng và buổi chiều của một tờ nhật báo) mà còn về cách thức xã hội tiêu thụ tin tức nữa.

“Trong vòng 50 năm qua, nền văn hóa của chúng ta đã chuyển đổi từ những chữ được in ra sang những thông tin thị giác, nghiêng nhiều hơn vào sự tiêu thụ bằng cảm quan và thụ động. Điều này gây ra những hệ quả: Khi một nền văn hóa bằng chữ in chết đi, thì những tư tưởng, định chế và ngay cả những tập quán trong cách hành xử công cộng được xây dựng trên nền văn hóa đó cũng bắt đầu yếu đi.

Truyền thông bằng thị giác và điện tử, hiện nay đang giữ ưu thế nổi trội, lại cần đến một loại nội dung nào đó. Chúng phát triển mạnh về tính ngắn gọn, tốc độ, thay đổi, cấp thiết, đa dạng và cảm ứng. Còn suy tưởng thì lại cần những gì ngược lại. Suy tưởng cần đến thời giờ. Cần tĩnh lặng và những kỹ năng luận lý có phương pháp.”

Tuy công nhận rằng kỹ thuật mới có những điều lợi là truy cập được nhiều tin tức hơn, nhưng Tổng giám mục Chaput trách cứ nó đã “làm hại đến kỷ luật trí thức mà đã có thời chúng ta sở đắc, khi dụng cụ chính của chúng ta trong việc truyền thông là sách vở hoặc sản phẩm in ấn. Đây không phải là một bước phát triển tốt đẹp. Quả vậy, đó là điều rất nguy hiểm trong một thể chế dân chủ, một hình thức chính quyền đòi hỏi các công dân phải trưởng thành về luân lý và trí thức để sống còn.”

Tuy không thúc giục người ta bỏ đi các máy điện toán, điện thoại cầm tay và các dụng cụ gắn liền với kỹ thuật mới khác, nhưng Đức tổng giám mục kêu gọi ta nhớ rằng “sự tiến bộ vật chất không bao giờ là một điều may mà chẳng có pha trộn với điều không may.”

Ngài giải thích: “Nó cho đấy, nhưng rồi lại lấy đi. Và nó luôn luôn có những hậu quả ngoài ý muốn, có nghĩa là chúng ta cần phải cảnh giác hơn – chứ không kém – về cách thức giới truyền thông báo chí uốn nắn chúng ta ra sao, và ảnh hưởng của chúng trong việc hình thành nội dung cuộc sống công cộng của chúng ta như thế nào.”

Hiểu đúng

Mối quan tâm thứ hai mà Tổng giám mục Chaput đặt ra là truyền thông đã lạc lối khi không loan tin với một “tinh thần ngay thẳng”.

Ngài giải thích bằng cách nhắc nhở rằng báo chí đã có một vai trò quan trọng trong nền trật tự công cộng ở Mỹ: “Báo chí là lãnh vực duy nhất ngoài tôn giáo được minh nhiên che chở bởi Tu chính án Thứ nhất. Trong nhiệm kỳ tổng thống của ông, Thomas Jefferson đã đặt tầm quan trọng của một nền báo chí tự do khi ông viết như sau: “Không có thử nghiệm nào thích thú hơn điều chúng ta đang nỗ lực và tin tưởng sẽ kết thúc trong việc tạo ra sự kiện, là con người phải được quản trị bằng lý trí và sự thật. Do đó mục tiêu đầu tiên của chúng ta là mở rộng cho con người tất cả đường lối dẫn đưa đến sự thật. Điều hiệu quả nhất tìm ra được, đó là tự do báo chí.”

Tổng giám mục gọi những lời của Jefferson “gây ấn tượng sâu sắc, bởi vì việc bảo vệ một nền tự do báo chí nhấn mạnh rằng sự tự do là một phương tiện chứ không phải là một cứu cánh trong chính nó. Hãy chú ý đến điều ông ấy xác định là mục đích của tự do báo chí: lý trí và sự thật cần có để tự quản trị.

“Nhưng ở thời đại của chúng ta, sự hình thành tin tức -- ngay cả khi thảo luận về những vấn đề nghiêm chỉnh – thường ít quan tâm đến lý trí và sự thật hơn là quan tâm về điều mà Christopher Lasch gọi là “những điệu bộ lý tưởng”, nói cách khác, những âm thanh và khẩu hiệu vẽ ra để uốn nắn tư tưởng của chúng ta hơn là khuyến khích những tư tưởng đó.

Ngài nói: “Giới truyền thông tin tức, mặc dầu cho rằng mình vô tư không thiên vị, và mặc dầu thường thành đạt được những việc tốt, nhưng có khuynh huớng nghiêng về thiên kiến, vô minh, yếu kém nghề nghiệp và được tổ chức thành những bộ lạc như biết bao nhiêu ngành nghề khác. Nhưng không giống như những nghề nghiệp khác, báo chí lại được hiến pháp che chở. Nó lại còn có thực quyền trong việc uốn nắn cách thức chúng ta suy nghĩ, điều chúng ta suy tưởng, cái chúng ta ưa thích, không ưa hay không đếm xỉa tới.

Truyền thông Mỹ, gồm cả ngành truyền thông báo chí, là công đoàn lớn lao nhất trong lịch sử. Và thứ quyến lực đó, nếu không làm cho chúng ta cảm thấy lo lắng băn khoăn, ít nhất nó cũng làm cho chúng ta cảnh giác.”
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Ban mục vụ mùa thi Dòng Thánh Tâm cùng Thí sinh “Thắp sáng Tin Yêu Hy Vọng”
Phan Tấn Hồ
05:06 14/07/2009
Huế (12-7-2009) – Sau buổi thi vào đại học cuối cùng của các thí sinh, thầy Giuse Ngô văn Định, thầy Giuse Phan Tấn Hồ và thầy Giuse Tạ văn Nguyên cùng Quý Thầy trong Ban mục vụ mùa thi đã lên chương trình “Thắp sáng Tin Yêu Hy Vọng” cho các Thí sinh và Phụ huynh trong hai đợt thi đại học tại Huế.

Nhờ được Quý Cha Quý Thầy hướng dẫn trước, nên thành bại trong chuyện thi cử không hẳn là điều quan trọng nhất của đời người, vì vậy các thí sinh đã gác lại những âu lo để cùng hòa mình vào chương trình “Thắp sáng Tin Yêu Hy Vọng” đang vẫy gọi.

Đúng 13 giờ 30 phút, sau tiếng chuông báo thức của Tu Viện gióng lên cũng là lúc các thí sinh bắt đầu tất bật cho công việc tổng vệ sinh. Cả khuôn viên Nhà Dòng chiều nay được dàn cảnh với hơn 750 chăn chiếu mùng mền đủ sắc màu lạ mắt, xen lẫn tiếng đùa vui ơi ới gọi nhau của những cô cậu thí sinh.

Sau hàng giờ lao động bên nhau, cũng là lúc các thí sinh nam nhà ta luận bàn trận cầu bóng đá giao lưu với Quý Thầy Dòng Thánh Tâm tại sân bóng Trường phổ thông trung học Hai Bà Trưng, một địa danh Trường Nữ Sinh Đồng Khánh vang bóng một thời của Đô Thành Huế.

Lúc 16 giờ, sau màn chào ấn tượng của cầu thủ hai đội bóng thí sinh và Dòng Thánh Tâm, cả không gian sân bóng trường Hai Bà Trưng dậy lên tiếng reo hò cổ vũ của thí sinh nam nữ, các bậc phụ huynh và anh em Dòng Thánh Tâm.

Sau 80 phút thi tài, trận bóng khép lại với kết quả không như ý, phần vì sức khỏe giảm sút sau kỳ ứng thí, phần các cầu thủ thí sinh chưa một lần tập dượt với nhau; mặc dầu kỹ thuật của một số cá nhân khá vượt trội, nhưng đội bóng thí sinh vẫn bị thúc thủ 0 -2 trước đội bóng Thánh Tâm cũng chẳng còn khỏe khoắn gì.

Đã thấm mệt nhưng các thí sinh nhà ta không thể bỏ qua “Đêm lửa trại - Thắp sáng Tin Yêu Hy Vọng” tại sân sau của Nhà Dòng Thánh Tâm. Đáp lại tiếng hiệu triệu của MC Ngô văn Định và nhóm linh hoạt viên Dòng Thánh Tâm, các thí sinh đã nhanh chân quây quần bên ánh lửa hồng bùng sáng.

Vòng tròn càng nới rộng càng trổi vang tiếng hát “Nay ta về gặp nhau nơi đây”. Cùng nối kết trong vòng tròn nhân ái bên ánh lửa hồng, Cha Phó Tổng Phụ Trách Êmilianô Đỗ Minh Liên phát biểu: “Tất cả những công việc chúng ta làm cho nhau là để tình yêu thương lên tiếng, theo như thông điệp ‘Caritas in Veritate - Đức Ái Trong Sự Thật’ của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI vừa ban bố, các bạn hãy tìm đọc và sống theo lời chỉ dạy của ngài”.

Sau những bài hát kèm cử điều đầy hứng khởi của các linh hoạt viên: Bùi Duy Đặng, Nguyễn văn Đảng, Hoàng Diệm, Nguyễn văn Hanh thì cũng là lúc trao giải thưởng bóng đá do Cha Phêrô Nguyễn Thái Công, nhà tài trợ nước Mitawa miễn phí trong suốt mùa thi đại học của các thí sinh lưu trú tại Nhà Dòng, chính thức tiến hành. Các hiện vật của giải thưởng được bày ra với rất nhiều bánh kẹo, đủ để chia vui đến các phụ huynh, các thí sinh và rất nhiều bạn trẻ hiếu kỳ hiện diện.

Càng về khuya, niềm vui càng òa vở bởi những đơn ca, song ca và nhóm Hiphop tùy hứng của những tay thí sinh đa tài. MC Ngô văn Định liên tiếp đưa ra câu hỏi cho các thí sinh: “Chúng ta tiếp tục vui ca hay ngừng ?”. “Tiếp tục Thầy ạ”. Các thí sinh đồng loạt hô vang”.

Vui đến thế, dừng lại ư ? Tiếc lắm ! Nhưng đành thôi, vì phần đông thí sinh mai phải xa rồi; xa những cô cậu thí sinh đen nhẽm bởi bao năm vất vả chuyện nương đồng nơi những vùng quê nghèo trên Đất Việt, xa những bậc phụ huynh Lương Giáo tâm đầu ý hợp đã hết mình cộng tác với Quý Cha Quý Thầy trong công việc phục vụ “Thật chẳng giống ai, bỏ của bỏ công lo cho con của người nên lông nên cánh”.

Những náo nhiệt bởi hát ca cũng đến hồi kết thúc. Các bạn thí sinh yên lặng về lại khu vực lưu trú của mình trong cái tĩnh mịch linh thánh thường ngày của Tu Viện Thánh Tâm.
 
Tin thêm về cuộc đi bộ tuần hành để bảo vệ sự sống tại giáo phận Vinh
Phan Khôi
05:12 14/07/2009
VINH - Hơn 70 tình nguyện viên của trung tâm Bảo vệ sự sống Gioan Phaolo II – Giáo Phận Vinh xuống đường tuần hành để chuyển tải bức thông điệp của mọi thời đại “Hãy bảo vệ sự sống vì đó là món quà vô giá mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại".

Vào lúc 4h 00 ngày 13 tháng 6 năm 2009. Tại Giáo xứ Yên Đại, một thánh lễ long trọng do Cha Đominico Phạm Xuân Kế linh mục quản xứ Yên Đại cử hành để cầu chúc bình an cho 100 tình nguyện viên của Trung Tâm Bảo Vệ Sự Sống Gioan Phaolo II, do Anh JB. Nguyễn Hữu Chắc sáng lập, đã chính thức xuống đường khởi đầu cho hành trình đi bộ để chuyển tải bức thông điệp Tình Yêu “ Sự sống là món quà vô giá của Thiên Chúa”.

Đoàn tiến hành đi bộ từ Giáo Xứ Yên Đại thuộc thành phố Vinh đến giáo Hạt Thuận Nghĩa thuộc Thị trấn Quỳnh Lưu với khoảng cách là 60 km và thời gian dự kiến là 2 ngày. Theo dự kiến của Ban Tổ Chức thì tối nay Đoàn tuần hành sẽ gặp gỡ giao lưu với Giới Trẻ Giáo Xứ Xuân Phong - Hạt Đông Tháp Giáo Phận Vinh trước khi lên đường đi tiếp vào ngày mai.

Khởi đi từ ưu tư của một Tông đồ Giáo dân về những tệ nạn xã hội nhất là đại nạn nạo phá thai tràn lan, anh Chắc đã cùng mộtnhóm người thiện chí lặng lẽ đi lượm nhặt và đem mai táng các Thai nhi bị nạo thải. Sau nhiều năm vất vả vì quá nhiều người đã hiểu nhầm thiện chí của anh nên công việc gặp nhiều khó khăn. Mãi tới năm 2007, từ một cuộc gặp gỡ rất tình cờ, một gia đình công giáo người xứ Yên Đại cảm phục tình yêu của anh với sự sống và việc chôn cất thai nhi. Người đó đã cho mượn nguyên căn nhà nhỏ để Anh Chắc và nhóm người thiện chí làmtrung tâm sinh hoạt.

Và việc gì phải đến nó đã đến trong ý Chúa muốn.

Ngày 08 -12 – 2007 Trung Tâm bảo Vệ Sự Sống Gioan Phaolo II đã chính thức được thành lập và đi vào hoạt động một cách công khai, mạnh mẽ. Chỉ trong một thời gian ngắn với sụ nỗ lực, gắn kết đầy tin yêu của nhiều người nên Trung Tâm đã xây dựng được 1 nghĩa trang ở Giáo họ Yên Lĩnh xứ Gia Hòa (gần Cầu Bến Thuỷ), với tên gọi “ Nghĩa Trang các Thánh Anh hài” nơi mai táng cho những Thai nhi vô tội bị con người và xã hội trục xuất ra khỏi quy luật của tình yêu đồng loại.

Từ Phong trào này, nay nhiều người nhiều nơi đã mạnh dạn thành lập các nhóm đểchung tay góp sức bảo vệ Sự sống. Hiện ở Giáo Phận Vinh có 3 Nghĩa trang các Thánh Anh hài, Nghĩa Trang Yên Lĩnh, Nghĩa trang Hạt Văn Hạnh do Cha Phêro Nguyễn Vinh và một số người thiện chí thành lập, nghĩa trang Cồn Cao thuộc Giáo họ Cồn Cao, Xứ Yên Lý, Hạt Đồng Tháp. Do Cha Phêro Trần Đình Lai cùng Giáo dân Họ Cồn cao Thành Lập.

Tính tổng thể hôm nay 3 Nghĩa trang nói trên đã góp nhặt và mai táng được gần 5000 thai nhi vô tội. Và nhiều nhất là ở khu vực Thành Phố Vinh – Tỉnh Nghệ An, được mai táng ở nghĩa Trang Yên Lĩnh - Xứ Gia Hoà.

Từ những con người tâm huyết, không quản ngại khó khăn, đi tiên phong ban đầu nay phong trào đã phát triển rất mạnh và càng ngày càng được đông đảo nhân dân chung tay góp sức giúp đỡ gom nhặt và chôn cất các thai nhi.

Lần này họ xuống đường đi bộ 80 Km với mục đích đánh động tâm thức mỗi người hãy ý thức hơn nũa về sự sống của các Thai Nhi vì đó là máu thịt của người Cha, Người Mẹ, Là Hồng ân mà Thượng đế ban tặng cho nhân loại. Cuộc Tuần hành đã gây xúc động cho nhiều người nhất là những ai có dịp đi qua đoạn đường quốc lộ một A từ Thành Phố Vinh tới Huyện Quỳnh Lưu trong 2 ngày 13 – 14 tháng 7 năm 2009.

Theo Anh Xuân Diệu – một trong những sáng lập viên và là người luôn kề vai sát cánh với Anh Chắc và Trung Tâm BVSS Gioan Phaolo II cho biết: Ban đầu số tình nguyện viên đăng ký xin Xuống đường tuần hành là là hơn 500 người nhưng sau nhiều buổi bàn họp và cuối cùng BTC đã quyết định chỉ đi đại diện 100 người.

Khi tôi đang gõ những dòng chữ này là lúc đoàn đã kết thúc chặng thứ nhất từ Thành Phố Vinh đi qua địa phận Tòa Giám Mục Xã đoài dọc theo tuyến Quốc lộ 1 A hướng từ Vinh đi ra Hà Nội. Đoàn kiên nhẫn tuần hành bình an, dưới ánh nắng gay gắt cả mùa hè và chưa có gì bất trắc xãy ra và tin rằng với sự hi sinh cao cả của 100 tình nguyện viên này sẽ được quý ban nghành các cấp và nhân dân tỉnh Nghệ An – nhất là nhân dân các xã huyện dọc tuyến quốc lộ 1 A từ Vinh ra Quỳnh Lưu tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho Nhóm Bảo Vệ Sự SốngGioan phaolo II tuần hành.

Đích đến vào ngày mai của đoàn là Trung Tâm Giáo hạt Thuận Nghĩa nơi đang diễn ra năm Thánh kỹ niệm 800 năm sinh nhật Dòng Phanxico hiện diện và phục vụ tại Việt nam.
 
Niềm vui truyền giáo mùa hè của các nữ tu dòng Trinh Vương
Hai Tôm Cần Giờ
05:47 14/07/2009
CẦN GIỜ - Sau những ngày dài dùi mài kinh sử cũng như tất bật lo to toan cho các ngày đại lễ thì các nữ tử dòng Trinh Vương lại lên đường truyền giáo mùa hè. Như mọi năm, các soeurs toả ra tứ phương thiên hạ để góp “một chút gì gọi là” cho những vùng nghèo. Mảnh đất nghèo Cần Giờ như đã “bén duyên” với các nữ tu dòng Trinh Vương thì phải ? Các vị phụ trách của Hội Dòng luôn luôn dành tình cảm sâu sắc nhất cho vùng biển mặn Cần Giờ này.

Xem hình ảnh

Tất cả các nữ tu đến với vùng đất nghèo Cần Giờ này đều lạ lẫm và bỡ ngỡ vì đây là lần đầu tiên mình được đặt chân đến vùng đất biển mặn này. Những điều lạ lẫm và bỡ ngỡ hình như kéo dài từ ngày đặt chân cho đến ngày chia tay tạm biệt.

Có soeur bộc bạch: “Chúng con ở thành phố quen rồi, xuống vùng đất này quả thật là lạ ! Lạ từ cách sống của dân chúng cũng như những người có đạo …”. Không lạ sao được khi mà mảnh đất sát nách Sài Thành, chỉ cách Sài Thành có vài chục cây số mà văn hoá, tín ngưỡng ở đây hoàn toàn khác lạ. Phải nói là vùng đất dẫu trong bản đồ địa chính thuộc thành phố Saigòn đấy nhưng mà cuộc sống ở đây làm sao ấy. Đời sống kinh tế, văn hoá và về giáo dục ở đây như cách xa một trời một vực với thành phố. Cũng là vùng ven ấy nhưng hoàn toàn xa cách với các vùng như Củ Chi, Hóc Môn …

Các soers cũng chia sẻ cái nhìn ấn tượng nhất của các soeurs có lẽ là vùng đất ngập mặn An Thới Đông. An Thới Đông xem ra là gần thành phố hơn cả nhưng cuộc sống hay nói đúng hơn là mức sống ở đây quá thấp. Nguyên nhân đầu tiên có lẽ là vì học vấn và tính cần cù siêng năng …

Đời sống tôn giáo ở đây vẫn còn ở bề nổi vì lẽ đa phần là đạo theo. Phần đông họ biết Chúa nhờ sự giúp đỡ của các cha, các thầy và các soeurs. Các cha, các thầy và các soeurs ban đầu chia sẻ những người nghèo ấy bằng tình thương và lòng bác ái. Thế nhưng, tình thương và lòng bác ái ấy đôi khi lại gây lầm tưởng cho một số người rằng cứ theo đạo là có gạo. Chính vì lẽ ấy nên đời sống đức tin cần phải được chăm sóc một cách kỹ hơn …

Những ngày hè ở vùng truyền giáo qua đi thật mau. Mới đến đó rồi lại chia tay đó. Chỉ là thoáng qua như “cưỡi ngựa xem hoa” nhưng ít ra “ngựa thành phố” cũng biết “hoa An Thới Đông - Cần Giờ” là gì ? “Hoa An Thới Đông - Cần Giờ” còn mong manh, mỏng dòn và non yếu nên cũng rất cần sự hiện diện, sự chia sẻ của “ngựa thành phố”.

Dẫu ngắn ngủi, vắn vỏi ấy nhưng sự hiện diện của các soeurs thật ý nghĩa và trân trọng. Sự hiện diện ấy nói lên sự cộng tác, chia sẻ sứ mạng truyền giáo với Giáo Hội nói chung và nói riêng với Dòng Chúa Cứu Thế nơi mảnh đất nghèo này. Sự hiện diện của các soeurs cũng chính là sự chung chia thiết thực nhất với người nghèo theo như đặc sủng và sứ mạng của Hội Dòng.

Chia tay với vùng truyền giáo nghèo nhưng hình ảnh của những giáo dân, của những tân tòng đơn sơ và mộc mạc còn ghi sâu mãi trong lòng các soeurs. Hình ảnh của những căn nhà lá rách nát, những nền đất ẩm ướt quanh năm ắt hẳn còn ở mãi với các soeurs.

Cầu chúc Hội Dòng ngày càng phát triển và rộng mở tấm lòng, con tim, bàn tay ra với những người nghèo khó tất bạt, cách riêng những vùng truyền giáo nghèo.
 
Năm Thánh Đức Mẹ Tàpao: ngày hành hương dành cho giáo lý viên
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
06:07 14/07/2009
PHAN THIẾT - Tháng 7 mưa ngâu, trời cứ sụt sùi, mưa tầm tã. Mấy ngày liền mưa to, ai cũng lo. Liệu có nhiều khách hành hương không? Có tổ chức thánh lễ được không? Giáo lý viên đi TàPao có đông đủ không? Đức Mẹ Tàpao đón nhận nổi lắng lo ấy và đã chúc lành.

Xem hình ảnh

Sáng nay 13.7, trời thật đẹp. Mây che nắng, khí trời dịu mát trong lành. Hàng ngàn người hành hương về bên Mẹ Tàpao.

1.300 Giáo lý viên hân hoan tiến bước về lễ đài từ sáng sớm. Băng qua đồng lúa đang ngã màu chín vàng, ai cũng xắn quần xách dép, nghiêng ngã trên con đường ruộng nhỏ hẹp trươn trượt.

Mọi người cùng tham dự giờ cầu nguyện với tràng chuỗi Mân Côi dâng kính Mẹ. Chủ đề “ Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” xuyên suốt giờ cầu nguyện, thánh lễ và nội dung học tập về Đức Maria.

Tháng thứ bảy trong Năm Thánh Đức Mẹ Tàpao, cũng là tháng Giáo lý viên đang nao nức hướng về ngày lễ Kính Chân Phước Anrê Phú Yên, vị anh hùng tử đạo tiên khởi, người Giáo lý viên tiên phong của Giáo hội Việt Nam và là Quan Thầy của giảng viên giáo lý. Niềm vui rộn rã thêm lên trong ngày hành hương đặc biệt, cùng lên núi TàPao cầu nguyện bên Mẹ.

Đức cha Phaolô Nguyễn Thanh Hoan chủ tế. Ngài đã nhắc lại lời của Đức Thánh Cha Bênêđictô trao đổi với các Giám mục Việt Nam trong chuyến Ad Limina vừa qua: “Sứ mạng Giáo lý viên là một Ơn Gọi”. Sứ mệnh dạy Giáo lý là do chính Chúa gọi, huấn luyện và sai đi thi hành qua Giáo hội.

Cha Matthêu Nguyễn Khắc Hy, giáo sư thần học từ Hoa kỳ về thăm quê hương, giảng lễ. Ngài suy niệm Tin Mừng (Ga 2,5-11) câu chuyện tiệc cưới Cana.

“ Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Với cả tâm tình, Đức Maria rút ruột chia sẻ kinh nghiệm cá nhân mình cho mọi người, để mời gọi tất cả trang bị thái độ khiêm tốn đón nhận và thi hành.

“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Không nghi thức rườm rà, không nhiều lời giải thích, mà chỉ bằng một câu ngắn, Mẹ kín đáo tế nhị giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người một cách hiệu quả. Sự kín đáo được thể hiện qua việc không nêu danh Giêsu trong câu nói, để Chúa Giêsu tự do biểu lộ mình theo cách của Người và đúng lúc "hữu xạ tự nhiên hương", qua việc người làm, dân chúng sẽ nhận biết Người. Sự kín đáo ấy còn thể hiện qua việc Mẹ nhẹ nhàng rút lui khỏi hiện trường dành sáng kiến cho Chúa Giêsu dùng lời Người mà đến với mọi tâm hồn. Vài trò trung gian của Mẹ là dẫn người ta đến gặp Chúa Giêsu, mà một khi người ta đã đến được rồi, Mẹ trở lại phong thái muôn thuở là “ghi nhớ và suy niệm trong lòng”.

“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Các môn đệ trong trình thuật tiệc cưới Cana chỉ là nhân vật phụ từ đầu đến cuối, không có một vai trò gì, nhưng trong mắt Đức Maria, họ lại có một vị trí đặc biệt. Nếu phép lạ nước hóa rượu ngon bên ngoài giúp đỡ gia đình, niềm vui của thực khách và hạnh phúc của lứa đôi, thì như cuối bài Phúc Âm ghi lại, bên trong phép lạ này nhằm củng cố lòng tin nơi các môn đệ. Ở ngưỡng cửa cuộc đời công khai sứ vụ, Đức Maria luôn hiện diện chăm chút đến niềm vui của các môn đệ hôm qua cũng như hôm nay.

“Người bảo gì, các anh cứ làm theo” là lời vắn tắt của một vị trung gian đầy uy thế, vừa nhiệt tình truyền thụ kinh nghiệm bản thân trong việc gặp gỡ Lời Chúa, vừa kín đáo chuẩn bị đường lối cho Lời Chúa làm người bước vào đời rao giảng và cũng tế nhị đỡ nâng niềm tin cho các môn sinh trong những bước đầu tiên chập chững học sống theo Lời Chúa. Đức Maria một trung gian đầy tâm huyết giữa Chúa Giêsu và nhân loại. Mẹ dẫn dắt người ta đến gặp gỡ Lời Chúa, Mẹ khích lệ người ta chăm lo thực hành Lời Chúa, và Mẹ rút lui cho Lời Chúa trở thành máu thịt trong lòng kẻ tin.

“Người bảo gì các anh cứ việc làm theo”. Đó cũng là lời Đức Mẹ nói với Giáo lý viên. Chúa bảo Giáo lý viên những gì? Tin mừng kể, trước khi về trời Chúa Giêsu đã nói với các Tông đồ và cũng là nói với giảng viên giáo lý hai mệnh lệnh: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15) và “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy…” (Cv1,8). Sứ mệnh Giáo lý viên là một ơn gọi đem Tin mừng đến cho mọi người và sống chứng nhân giữa đời.

Giới trẻ hôm nay bị ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa tương đối và chủ nghĩa tục hoá. Đó là là hai hình thái của chủ nghĩa vô thần. Vì thế Giáo lý có trách nhiệm cao cả trong sự nghiệp giáo dục đức tin cho các thế hệ trẻ. Một đức tin vững mạnh, một sự hiểu biết sâu xa về giáo lý sẽ giúp người trẻ vượt thắng mọi thách thức của chủ nghĩa vô thần.

Tại tiệc cưới Cana, đang khi cuộc vui dâng cao thì hết rượu. Một rủi ro bất ngờ làm hỏng cuộc vui. Đức Mẹ thấy hết, hiểu hết nỗi lo của chủ nhà; và chưa cần một lời cầu cạnh nhờ vả nào, Mẹ đã ra tay cầu giúp. Mẹ luôn hiểu nhân loại và Mẹ cũng luôn hiểu Thiên Chúa nơi Con Mẹ. Chính nhờ đó mà ơn huệ Thiên Chúa được tràn lan.

Sứ mệnh Giáo lý viên thật cao cả; hăng say trong sứ mệnh, đôi khi gặp khó khăn gian nan, thử thách từ nội tâm đến hoàn cảnh sống và cả môi trường phục vụ. Nhiều giáo lý viên lo lắng, thối chí, có lúc buông xuôi. “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Lời Mẹ giúp giáo lý viên phấn khởi và an tâm. Hãy nhiệt thành chu toàn sứ vụ rao giảng Tin mừng và làm chứng nhân cho Chúa.

Cuối thánh lễ, Đức Giám Mục làm phép ảnh tượng và nước cho khách hành hương. Ngài ban phép lành Toà Thánh với Ơn Toàn Xá.

Nắng lên, bầu trời ngập nắng nhẹ lung linh. Từng đoàn người tiếp tục lên núi kính viếng Mẹ.

Cha Giuse Hồ Sĩ Hữu, Trưởng ban Giáo lý Giáo phận phát động phong trào học tập về Đức Maria. Ban giáo lý đã in 36.000 cuốn sách “100 câu hỏi về Đức Maria”, gởi đến từng gia đình trong giáo phận. Tháng 9, tổ chức thi, đố vui giáo lý về Đức Maria tại Giáo xứ, tháng 10, tổ chức cấp giáo hạt và tháng 11 cấp giáo phận để tháng 12, trao giải thưởng dịp bế mạc Năm Thánh Đức Mẹ Tà Pao.

Một vài suy tư

Ở thành phố cũng như ở nông thôn Việt Nam, hoạt động nổi bật nhất của các giáo xứ, sau việc cử hành Các Bí Tích, là việc giảng dạy và học hỏi Giáo Lý. Sau Thánh Đường thì Phòng Giáo Lý cũng là mối quan tâm thứ hai trong kế hoạch xây cất cơ sở ở đại đa số các giáo xứ. Đó là hai sự việc nói lên sự quan tâm đến vấn đề huấn giáo của Giáo Hội Việt Nam.

Việc thu nhận và đào tạo các giáo lý viên cũng là vấn đề lớn còn bỏ ngỏ. Có một ít giáo phận đã cố gắng tổ chức chương trình đào tạo giảng viên giáo lý với các khóa. Nhưng nhiều nơi vẫn phải chấp nhận tình trạng "có sao làm vậy". Nhiều giáo lý viên chỉ có lòng nhiệt thành mà không được đào tạo chính quy, không có đủ vốn giáo lý, sư phạm và tâm lý cần thiết,. Vì thế mà việc giảng dạy và học hỏi giáo lý còn mang tính "từ chương" học sinh học thuộc lòng và thụ động. Tại nhiều giáo xứ, nhiều Giáo lý viên được đào tạo hẳn hoi, nhưng sau vài năm phục vụ phải đi tìm kế sinh nhai, rồi một số đi học Đại học, Cao đẳng. Giáo xứ lại phải đào tạo lớp Giáo lý viên mới.

Ở cấp toàn quốc cũng như ở cấp giáo phận chưa có một trường hay trung tâm đào tạo Giảng Viên Giáo Lý và đảm trách về huấn giáo của Giáo Hội Việt Nam hay của giáo phận. Từ ít năm nay một số giáo phận đã có Trung Tâm Mục Vụ hay Tòa Giám Mục mới được xây dựng có thể dùng làm nơi tổ chức các khóa, các đợt huấn luyện giáo dân nói chung, Giảng Viên Giáo Lý nói riêng. Thế nhưng cũng mới chỉ là bước khởi đầu, còn thiếu nhân sự và tài chánh, thiếu kế hoạch và chương trình.

Nếu Giáo Lý là vấn đề quan trọng bậc nhất thì vốn đầu tư vào lãnh vực mục vụ này cũng phải đứng hàng đầu trong các đầu tư của Giáo Hội hay giáo phận. Đầu tư từ con người, cho đến cơ sở vật chất và phương tiện làm việc. Bên lề Hội Nghị Thần Học Thường Niên của các nhà thần học Ấn Độ, với chủ đề “Giáo dân trong Giáo hội: Căn tính và sứ mạng tại Ấn Độ ngày nay” bà Valerie D'Souza, một nhà thần học giáo dân, đã nói với Thông Tấn Xã Công Giáo Á Châu rằng: "Giáo hội cần phải ưu tiên đầu tư vào việc đào tạo giáo dân. Trong khi Giáo hội chi những khoản khổng lồ cho việc đào tạo các linh mục và tu sĩ, thì Giáo hội không chịu tốn kém gì cho giáo dân cả.”

Một thành phần giáo dân xứng đáng được Giáo Hội ưu tiên đầu tư là các Giảng Viên Giáo Lý với các Trung Tâm Đào Tạo Giảng Viên Giáo Lý và hoạt động của các Ban Giáo Lý giáo phận hay toàn quốc.

Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, trong Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng, số 44 đã dạy rằng:"Một cách truyền giáo (loan báo Tin Mừng) không thể bị xem nhẹ là việc giảng dậy và học hỏi giáo lý. Trí khôn, nhất là của trẻ em và người trẻ, cần được học hỏi - thông qua việc giảng dạy và học hỏi một cách có hệ thống - những giáo huấn căn bản là nội dung sống động của chân lý mà Thiên Chúa đã muốn đem đến cho chúng ta, và Giáo Hội đã diễn tả một cách phong phú trong dòng lịch sử lâu dài. Không ai chối cãi được rằng việc giảng dậy và học hỏi này cần được tổ chức bằng những hình thái cụ thể của đời sống Kitô hữu và không chỉ ở trong ý niệm mà thôi. Thật ra nỗ lực truyền giáo sẽ được hưởng lợi rất nhiều - trong các lớp giáo lý ở nhà thờ, hay ở trường học (những nơi có thể thực hiện được) và trong mọi trường hợp là ở trong gia đình người Kitô hữu - nếu những người dạy giáo lý có được những bản văn thích hợp và được cập nhật với sự khôn ngoan và chuyên môn, dưới quyền giảng dạy của các Giám Mục. Các phương pháp phải được thích nghi với lứa tuổi, nền văn hóa và thái độ của những người liên hệ. Các phương pháp luôn phải tìm cách ghi sâu vào trí nhớ, trí hiểu và tâm hồn những chân lý cơ bản là những chân lý phải thâm nhập vào toàn bộ cuộc sống.

Trước hết cần phải chuẩn bị cho có những nhà giáo dục tốt, giáo lý viên của giáo xứ, thầy cô giáo, các người làm cha làm mẹ là những người ao ước chính họ trở nên hoàn thiện trong nghệ thuật cao trọng này, là điều hết sức cần thiết và đòi hỏi phải có học hỏi về tôn giáo. Hơn nữa không được xem thường bất kỳ phương pháp huấn luyện trẻ thơ nào, nhất là trong hoàn cảnh hiện nay là lúc việc giảng dậy giáo lý đã trở nên cấp bách, dưới hình thái các lớp giáo lý, cho rất nhiều người trẻ và người trưởng thành, là những người một khi được tác động bởi ơn thánh, sẽ dần dần khám phá ra dung mạo của Chúa Kitô và cảm thấy nhu cầu phải hiến thân cho Người”.

Công Đồng Vatican II nói về việc huấn luyện giảng viên giáo lý như sau: “Cũng thế, có một đạo binh thực sự đáng khen và rất đáng thưởng công nhờ việc truyền giáo nơi muôn dân, đó là đạo binh các giảng viên giáo lý nam cũng như nữ; là những người đã thấm nhuần tinh thần tông đồ, họ vất vả rất nhiều để mang lại sự trợ giúp đặc biệt và hoàn toàn cần thiết cho việc bành trướng đức tin và Giáo Hội.

Trong thời đại chúng ta, chức vụ của các giảng viên giáo lý rất quan trọng vì số giáo sĩ ít oi không đủ để rao giảng Phúc Âm cho quần chúng quá đông đúc cũng như để thi hành mục vụ. Vì thế, việc huấn luyện những giảng viên này phải được kiện toàn và thích nghi với tiến bộ văn hóa, để như những cộng tác viên đắc lực của chức linh mục, họ có thể hoàn thành đến mức tối đa nhiệm vụ của họ, nhiệm vụ đang đặt nặng trên vai họ những trọng trách mới mẻ và rộng lớn hơn.

Bởi vậy phải tăng thêm nhiều trường học thuộc giáo phận và miền, để các giảng viên giáo lý tương lai vừa được học hỏi về giáo lý công giáo, nhất là về môn Thánh Kinh và Phụng Vụ, vừa được học hỏi về phương pháp dạy Giáo lý và thực hành mục vụ, lại được tự luyện theo luân lý Kitô giáo” (x. Gioan XXIII, Tđ. Princeps Pastorum, 28-11-1959: AAS 51 (1959), trang 855).

Trong khi không ngừng cố gắng trau dồi đời sống đạo đức và thánh thiện, còn phải có những buổi hội thảo hay những khóa học tập định kỳ, để các giảng viên giáo lý được cải tiến trong những môn học hay nghệ thuật hữu ích cho thừa tác vụ cũng như để nuôi dưỡng và củng cố đời sống thiêng liêng của mình nữa. Thêm vào đó, đối với những ai hoàn toàn tận hiến cho công cuộc này, phải cung cấp cho họ một khoản thù lao cân xứng để họ có một mức sống xứng đáng và được bảo đảm về mặt xã hội.

Ước mong rằng Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin đặc biệt trợ cấp cách thích đáng cho công cuộc đào tạo và nâng đỡ các giảng viên giáo lý. Nếu thấy cần và thích hợp, phải thành lập một Tổ Chức giúp các giảng viên này.

Ngoài ra các Giáo Hội cũng nên biết ơn nhìn nhận công việc quảng đại của các giảng viên giáo lý trợ tá mà Giáo Hội đang cần họ giúp đỡ. Chính các giảng viên giáo lý chủ sự các buổi đọc kinh chung trong cộng đoàn và giảng dạy giáo lý. Cũng phải đặc biệt lo cho họ được huấn luyện về giáo lý và đường thiêng liêng. Hơn nữa, ước mong rằng nơi nào thấy thuận lợi, nên công khai cử hành một nghi lễ phụng vụ để ủy thác sứ mệnh pháp lý cho các giảng viên giáo lý đã được huấn luyện đầy đủ, ngõ hầu họ được thêm uy tín với dân chúng mà phục vụ đức tin” (x. Công Đồng Vaticanô II, Sắc Lệnh Truyền Giáo, số 17).

Có bốn điều kiện thiết yếu để trở nên một Giáo Lý Viên giảng dạy giáo lý có hiệu quả. Đó là: sư phạm giáo lý, đời sống tâm linh, nhiệt thành tông đồ và vốn giáo lý.

Giáo lý viên cần được bồi dưỡng liên tục tại các giáo xứ và các khoá huấn luyện cấp giáo hạt giáo phận và toàn quốc để xứng đáng với ơn gọi sứ mạng giáo dục đức tin cho các thế hệ trẻ.

Kim Ngọc 13.7.2009
 
Trại Hè 2009 cho Thiếu Nhi giáo xứ Gia An và Vũ Hòa
Lm Giacôbê Tạ Chúc
06:16 14/07/2009
PHAN THIẾT - Hằng năm, vẫn theo thường lệ, Giáo xứ Gia an tổ chức sinh họat hè cho các em thiếu nhi, trong khuôn viên nhà thờ. Năm nay, khác biệt hơn khi có những anh chị em trong nhóm”Vào đời”, thuộc Giáo xứ Thanh Đa cùng đồng hành với em.

Chiều ngày thứ bảy, ngày 11 tháng 07 năm 2009, dù trời chiều đổ mưa, hơn 500 em thiếu nhi thuộc hai Giáo xứ Gia an và Vũ Hòa vẫn có mặt đông đủ để tham gia đêm lửa trại “Hiệp nhất”. Dưới sự hương dẫn tận tình của anh chị em huynh trưởng, các giáo lý viên, các em nhiệt tình tham gia vào các trò chơi. Không khí sôi động với những trò chơi dân gian, những hòa nhịp của những trái tim trẻ trung đầy khát vọng.

Sau những ngày học hành với những kỳ thi vất vả, các em lại được sống bên nhau qua những giây phút đầy ấn tượng. Những mỏi mệt dần tan theo thời gian của hai ngày đi trại. Đối với những em thiếu nhi kém may mắn, hay thuộc những vùng sâu, tương đối hẻo lánh, đây là dịp thuận lợi để được vui chơi trong cuộc sống tuổi thơ của mình.

 
Giáo xứ An Phú - TGP Hà Nội - tổ chức thi Kinh thánh Liên giáo xứ
Phêrô Trần Đinh
06:39 14/07/2009
HÀ NAM - Ngày 13 tháng 07 năm 2009, Giáo xứ An Phú, Tổng Giáo Phận Hà Nội, đã tổ chức hội thi Kinh Thánh liên xứ năm 2009 tại giáo họ Phố Bói - xã Thanh Phong, Thanh Liêm, Hà Nam. Hội thi đã quy tụ gần một trăm vận động viên đến từ 8 giáo họ với hàng chục đội tuyển tham gia dự thi và hằng trăm khán giả đến theo dõi và cổ vũ.

Xem hình ảnh

Vui tươi, hồi hộp, sôi động và một chút căng thẳng!...là những cảm giác mà người ta dễ nhận thấy ở hầu hết các thí sinh đến tham dự.

Ngay từ sáng, mặc dù trời mưa, các vận động viên đã tập hợp đông đủ để tham dự Thánh lễ khai mạc. Họ thuộc mọi giới: như Thiếu Nhi Thánh Thể, giới trẻ, giới Trưởng thành, giới Gia trưởng và Mân Côi... Về lứa tuổi cũng thật phong phú: người trẻ nhất là 8 tuổi và người lớn tuổi nhất đã trên 90. Chính vì sự phong phú như thế nên hội thi năm nay đã tạo nên những ấn tượng khó phai cả nơi các thi sinh và những người tham gia cổ vũ.

Nội dung thi là Tin mừng các Chúa Nhật thường niên năm B; Thư Mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và một số kinh như Kinh xin ơn Hòa Bình và Kinh Thánh Gia.

Về hình thức thi, các trận đấu sẽ gồm 4 phần là trắc nghiệm, chọn đúng - sai, điền từ và Nhìn hình đoán nghĩa (đối với Thiếu Nhi Thánh Thể) hay Bấm chuông nhanh (đối với giới trẻ và giới trưởng thành). Tất cả các chương trình được chiếu bằng máy chiếu.

Buổi sáng, các đội thi đấu vòng loại và buổi chiều thi đấu các trận trung kết. Mặc dù với hình thức thi khá mới lạ nhưng với tinh thần vô tư, trung thực và với chủ chương học hiểu để sống đúng tinh thần Tin mừng, các vận động viên đều thấy hài lòng và thích thú với hội thi Kinh thánh năm nay.

Tưởng cũng nên biết, việc tổ chức thi Kinh Thánh là truyền thống hằng năm của Tổng Giáo Phận Hà Nội. Và để chuẩn bị cho ngày thi đấu cấp Giáo phận, các giáo hạt và giáo xứ sẽ tổ chức thi đấu ở cấp địa phương. Chính vì thế, hưởng ứng lời kêu gọi của Bề trên giáo phận, hằng năm giáo xứ An Phú vẫn tổ chức thi Kinh Thánh cấp giáo xứ để chuẩn bị nhân sự đi thi cấp giáo phận.

Thiết nghĩ rằng, việc tổ chức thường xuyên các chương trình thi Kinh thánh như thế không chỉ thúc đẩy phong trào học giáo lý trong giáo xứ nhưng nó còn giúp người giáo dân học hiểu và sống Lời Chúa ngày một tốt hơn. Đó cũng chính là mục đích mà Bề trên giáo phận mong muốn trong các đợt phát động phong trào học hỏi Kinh Thánh hằng năm.
 
Tín Hữu Việt Nam tại Áo Quốc hành hương kính Đức Mẹ Maria tại Lanzendorf
Tường Vũ
16:31 14/07/2009
Chủ đề "Hiệp thông giữa các cộng đoàn"

LINZ, Áo quốc - Mùa hè đến, mang theo những tia nắng làm cho tiết trời trở nên ấm áp và dễ chịu. Những cánh rừng xanh tươi, trăm hoa đua nở khoe sắc quyến rũ; những chú ong chị bướm rời khỏi tổ của mình để thưởng thức hương và hút mật. Phía trên cao, các chú chim đang líu lo ca hót những bản nhạc thật du dương, làm cho khung cảnh vốn hiền hòa xinh đẹp lại càng thêm lãng mạng.

Xem hình ảnh

Cũng thế, theo truyền thống tốt đẹp, mỗi độ hè về, anh chị em công giáo Việt Nam tại thành phố Linz (Áo Quốc) hành hương kính Đức Mẹ Maria, đây cũng là dịp các thành viên trong cộng đoàn gặp gỡ, giao lưu và sống chung với nhau trong sự che chở của Mẹ hiền Maria. Năm nay, lần đầu tiên cuộc hành hương được mở rộng với sự tham dự mọi người công giáo Việt Nam trên khắp Áo Quốc, dưới sự hướng dẫn của linh mục Matthias Hoàng Vinh, thuộc dòng Augustinô.

14 giờ ngày 10.07.09, Những đoàn người ở khắp mọi miền Áo Quốc, từ Linz, Vienna, Salzburg, Tirol,… và có cả một số anh chị em từ München, Đức Quốc cùng về giáo xứ Tattendorf trong niềm hân hoan. Làng Tattendorf vốn nhỏ bé và yên tĩnh, hôm nay bỗng trở nên nhộn nhịp hơn, vui hơn. Người dân bản xứ niềm nở chào thăm và đón tiếp chúng tôi trong tình thương mến. Các cụ ông cụ bà, các anh chị, các bạn trẻ và các em thiếu nhi tay bắt mặt mừng thân mật và vui vẻ, cứ tưởng như tất cả đã quen biết nhau từ lâu lắm rồi; mà đúng vậy, tất cả chúng tôi người Việt Nam, là anh chị em với nhau trong cùng một dạ Âu Cơ, và hơn thế nữa chúng tôi là con của Mẹ Maria, Mẹ Giáo Hội.

Sau đó mọi người cùng nhau dựng trại. Những thao tác thật nhanh nhẹn, chỉ trong chốc lát đã hình thành một vườn trại với nhiều kiều dáng và màu sắc khác nhau thật phong phú.

17 giờ 30 phút, cộng đoàn hiệp thông kính Đức Mẹ Maria qua tràng chuỗi mân côi và cao điểm là thánh lễ sau đó. Sau thánh lễ, cộng đoàn dùng cơm tối chung với nhau bên ngọn lửa ấm áp. Ngọn lửa này cũng chính là nơi anh chị em giao lưu, ca hát và nhảy múa thật vui vẻ. Vì tâm đầu ý hợp nên mãi đến khuya, 1 giờ sáng hôm sau, chúng tôi mới chia tay đi nghỉ đêm. Căn lều nhỏ bé hôm nay là mái ấm cho mỗi người, mỗi gia đình; khu vườn nhỏ bé trở nên một mái nhà chung cho tất cả mọi người.

9 giờ ngày 11.07.09, cộng đoàn sinh hoạt chung với nhau, trong khoảnh khắc này chúng tôi học hỏi về chủ đề "Hiệp Thông Giữa Các Cộng Đoàn". Vì hiệp thông giữa các cộng đoàn thật là quí giá và khẩn thiết cho mỗi người chúng ta. Một Giáo Hội không chỉ giới hạn nơi cộng đoàn mình sinh hoạt mà còn nới rộng và liên kết với các cộng đoàn khác để tạo nên một Giáo Hội Chúa Kitô phổ quát. Đề tài cũng chính là mối quan tâm của các vị chủ chăn, và cũng chính là mục tiêu mục vụ của Giáo Hội. Nó sẽ được triển khai một cách sâu rộng hơn vào buổi chiều cùng ngày.

12 giờ 30 phút, thánh lễ trọng thể được cử hành tại Giáo xứ Maria Lanzendorf - được dâng kính cho Đức Mẹ Maria sầu bi - do linh mục Matthias Hoàng Vinh chủ tế. Trong bài giảng, linh mục chủ tế chia sẻ về mầu nhiệm đau khổ. Vì mỗi người đều cất lên tiếng khóc khi chào đời, gặp nhiều khó khăn vất vả và thử thách trong cuộc sống, và sẽ vĩnh viễn ra đi trong sự tiếc nuối và khóc thương của người khác. Tất cả dường như được dệt bởi những giọt lệ vui buồn và hạnh phúc. Mẹ Maria là chứng nhân và cũng là nhân chứng của sự đau khổ. Mẹ đồng hành với con Mẹ - là Chúa Giêsu - từ lúc chào đời nơi hang đá nghèo hèn và lạnh lẽo, đến những nơi Con Mẹ đi loan báo ơn cứu độ và cao điểm là cuộc thương khó, cái chết nhục nhã trên thập giá và sự phục sinh vinh quang. Mẹ Maira không cất cho chúng ta khỏi đau khổ, nhưng Mẹ dạy cho chúng ta biết giá trị của đau khổ. Có trải qua đau khổ mới đón nhận được ơn cứu độ.

Sau thánh lễ, cộng đoàn được hướng dẫn tham quan ngôi thánh đường nổi tiếng này do thánh vương Leopold xây dựng năm 1669.

Sau đó chúng tôi trở về Tattendrof dùng cơm trưa. Rồi sinh hoạt chung với nhau để đào sâu hơn về đề tài "Hiệp Thông Giữa Các Cộng Đoàn", mà sáng nay đã đề cập đến. Trước tiên linh mục Matthias Hoàng Vinh nhấn mạnh rằng: tha nhân chính là yếu tố làm nên cuộc đời ta, vì "không ai là một hòn đảo" biệt lập. Một Thiên Chúa duy nhất nhưng Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần là hình ảnh của một gia đình, một công đoàn.

Vợ chồng cần có nhau, con cái có ông bà, cha mẹ và anh chị em. Rộng lớn hơn, cộng đoàn được hình thành qua sự hiệp thông và hiệp nhất trong thương yêu giữa các phần tử lại với nhau. Giáo hội là thân thể và Đức Kitô là đầu của thân thể ấy. Nghĩa là tất cả chúng ta là một trong Đức Kitô.

Kế đến chúng tôi chia ra thành từng nhóm nhỏ để thảo luận. Các tổ đã chia sẻ với nhau một cách chân thành, cởi mở và thẳng thắng, làm sao để giúp cho cá nhân và cộng đoàn được thăng tiến trong sự hiệp nhất yêu thương. Cộng đoàn được hình thành từ các cá nhân, và để có một cộng đoàn hiệp nhất thì mỗi người, trước tiên phải tu chỉnh chính mình, bỏ đi những ý riêng để đón nhận ý chung, cảm thông với người khác và giúp những người còn tự ti mặc cảm hội nhập với cộng đoàn trong tình tương thân tương ái. Mỗi người đóng góp, hay nói cách khác là cho đi những gì mình có thể, tất cả để làm vinh danh Chúa và phục vụ tha nhân.

Như Lão Tử dạy:

"Đài cao chín tầng

khởi từ nhúm đất con.

Đi xa ngàn dặm,

khởi đầu một bước chân
."

Hay:

"Giải kỳ phân

Tỏa kỳ nhuệ

Hòa kỳ quang

Đồng kỳ trần
."

Giải kỳ phân là xoá bỏ những ngăn cách. Tỏa kỳ nhuệ nghĩa là mỗi người phải học biết và cố gắng gọt bỏ những thói hư tật xấu, tích ích kỷ, để làm tỏa sáng ra những gì là tinh anh, thiện hảo. Hòa kỳ quang là mọi người cùng kết hợp, cộng tác và trao ban cho nhau những gì là tốt đẹp nhất, sáng ngời nhất của chính mình. Đồng kỳ trần nghĩa là mỗi người trong chúng ta nên nhớ và phải hiểu mình là những con người mang kiếp bụi trần như nhau. Điều đó được Đức Giêsu dạy và chứng minh một cách hùng hồn qua cuộc đời của Ngài, mà thánh Phaolo tông đồ đã thuật lại trong thư gởi tín hữu thành Philipphê: "Đức Giê-su Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa" (Phil 2, 6-11).

Khổng Tử cũng dạy rằng: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân", nghĩa là những gì mình không muốn người khác làm cho mình, thì mình cũng đừng làm cho người ta. Điều này thật đúng, bởi như thế chúng ta sẽ không gieo rắc những tiếng xấu, những điều bất hạnh cho anh chị em của mình. Một cách tích cực hơn, Đức Giêsu cho chúng ta một khuôn vàng thước ngọc để xây dựng cộng đoàn trong tình thương và hiệp nhất: "Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta" (Mt 7, 12).

Nhưng để có thể cho, mỗi người cần phải có, vì có mới cho được. Muốn có, cần phải kín múc nơi các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể. Nơi ấy chúng ta sẽ đón nhận được sức mạnh nội tại và tình yêu vị tha, hầu chúng ta có thể vượt qua những trở ngại mà hân hoan phục vụ và xây dựng cộng đoàn một cách tốt nhất. Một cộng đoàn yêu thương là một Giáo hội hiệp nhất giữa các cộng đoàn trong Chúa Kitô.

Một chi tiết đã làm cho tôi thật cảm động - mà có lẽ các thành viên tham dự cũng cảm nhận được điều đó - tôi xin được phép chia sẻ ra đây, bởi tôi nhận ra đó là ân sủng vĩ đại mà Chúa đã thương ban cho cộng đoàn qua từ mẫu Maria. Một thành viên trình bày tổng kết cuộc thảo luận của nhóm mình cho cả cộng đoàn, sau đó nói về cảm nghĩ của mình và cuối cùng lên tiếng xin lỗi một thành viên khác - trong cộng đoàn mình phục vụ - trước cả tập thể. Hai người thật xúc động ôm nhau hoà giải trong dòng lệ. Hành động này không chỉ đã làm rơi nước mắt của hai thành viên mà còn làm cho tất cả mọi người nghẹn ngào!

Cao điểm của cuộc hành hương là đêm lửa trại. Mặt trời vừa khuất bóng sau những rặng núi, ngọn lửa trại được bừng cháy và bừng cháy lên mỗi lúc mỗi cao. Ngọn lửa sáng đã xua tan màn đêm vừa ập xuống, ngọn lửa đem lại hơi ấm cho từng người. Những bài hát câu hò, những điệu múa, những trò chơi sinh hoạt đã kéo chúng tôi lại gần hơn, sát nhau hơn và cái nắm tay như sưởi ấm con tim yêu thương của mỗi người. Như bài hát chủ đề Nổi Lửa Lên Nối Vòng Tay Lớn của nhạc sĩ Lê Đức Hùng: "Nổi lửa lên nối vòng tay lớn,… nổi lửa lên xua tan đêm đen, nổi lửa lên xua tan ngăn cách, … nối anh em xa xôi lại gần, nối anh em yêu thương đầy tràn,… nổi lửa lên xua tan ngại ngần. Nổi lửa lên cho tim hơi ấm. Nổi lửa lên nối liền con tim, nổi lửa lên nối lòng yêu tin, nối thêm xa yêu thương đồng loại, nối con tim ai đang lạc loài!"

9 giờ ngày 12.07.09, chúng tôi và cộng đồng người bản xứ cùng tham dự thánh lễ Chúa nhật chung với nhau, những bản thánh ca được kết hợp bởi hai dòng nhạc Áo - Việt. Điều này cũng nói lên tình hiệp thông giữa cồng đồng người Áo và người Việt trên mảnh đất hiền hòa và giữa lòng Giáo hội hiệp nhất yêu thương.

Những ngày hành hương kính Từ Mẫu Maria đã kết thúc, ngọn lửa trại cũng đã tàn, nhưng ánh sáng của ngọn lửa vẫn mãi soi trong tim mỗi người chúng tôi. Trước phút chia tay, chúng tôi ngồi lại với nhau trong tình thân ái. Mỗi người như muốn được gần nhau lâu hơn, bịn rịn với những cái bắt tay, những nụ hôn mà không nói lên lời. Trong giờ phút sâu lắng này không ai muốn nói lên hai chữ chia tay… Nhưng chúng tôi cũng phải tạm chia tay để về lại với đời thường, mang theo những bài học mới đã được đón nhận. Chúng tôi sẽ kể cho mọi người nghe những khảnh khắc ý nghĩa này và tin rằng những điều kỳ diệu của hôm nay sẽ là những điều tốt đẹp cho ngài mai. „Gặp nhau đây rồi chia tay, ngày vàng như đã vụt qua trong phút giây. Niềm hăng say còn chưa phai, đường trường sông núi hẹn mai ta xum vầy… Còn trong ta tình bao la.. Rồi suy tư lời đêm qua, dặn lòng hãy nhớ lời yêu thương nhắn về“. Xin chào tạm biệt và hẹn gặp lại vào mùa hè năm sau.

Linz, 12.07.2009
 
Đức Thánh Cha tiếp các Giám mục Việt nam
Hà-Minh Thảo
22:21 14/07/2009
Phái đoàn các 3 Đức Tổng Giám mục và 26 Đức Giám mục Việt-Nam đã đến Rôma để thực hành cuộc ‘Ad limina’ khởi sự từ ngày 22.06.2009.

Trong thời gian này, các Vị đã dâng Thánh Lễ và viếng mộ hai thánh Tông đồ, Phêrô và Phaolô, gặp riêng Đức Giáo Hoàng để tường trình về mục vụ tại Giáo phận mình có trách nhiệm và tiếp xúc với các Thánh Bộ và Hội đồng Giáo hoàng. Mục đích ‘Ad limina’ là liên kết các Giám mục với Đức Thánh Cha, liên kết các Giáo hội địa phương với Giáo hội toàn cầu, như ước nguyện của Chúa Giêsu: “Xin cho mọi người nên một”.

Tuy nhiên, sự kiện quan trọng đáng lưu ý là cuộc gặp gỡ chung giữa Đức Thánh Cha Biển Đức XVI với các Giám mục Việt-Nam và ban Huấn từ gởi đến các Kitô hữu, lúc 12 giờ ngày 27.06.2009, tại Sảnh đường Công Nghị, trong dinh Tông Tòa.

Nhân dịp này, chúng ta suy tìm những điểm khác nhau, giống nhau và mới trong Huấn từ năm nay so với Huấn từ cách nay hơn 7 năm của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II ngày 22.01.2002 trong dịp ‘Ad limina’ lần trước.

I. NHỮNG ĐIỂM KHÁC NHAU.

1. Năm 2002, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã tiếp chung 26 Giám mục và 2 Linh mục Giám quản để trao Huấn từ vì tình trạng sức khoẻ không khả quan. Trong khi năm nay, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã đọc Huấn từ của Người. Mặc dù, tham dự gặp gỡ chung lần này với Đức Thánh Cha, các thành viên đều là Hồng y hay Đức cha, nhưng, tại Việt-Nam, Giáo phận Phát diệm vẫn chưa có Giám mục Chính tòa cũng như hai Giáo phận Vinh và Thái bình vẫn chưa có Giám mục thay thế các Đức cha đã đến tuổi hồi hưu (Đức cha Phaolô Cao Đình Thuyên (82 tuổi) và Đức cha Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Sang (77 tuổi). Việc bổ nhiệm các Giám mục vẫn còn gặp nhiều khó khăn do đảng Cộng sản chủ trương.

2. Năm 2002, sau khi chào mừng Đức Thánh Cha, cám ơn Tiền Nhân từ gần năm thế kỷ đã gieo Tin Mừng và xây dựng Giáo Hội Đất Việt, Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, cựu Chủ tịch Hội đồng Giám Mục Việt-Nam, khi nhắc đến Quê hương đang canh tân, Đức Cha đã nói: «Việt-Nam là quốc gia đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ nền kinh tế quốc doanh chuyển sang kinh tế thị trường, từ chủ thuyết cô lập tiến vào việc hội nhập với cộng đồng thế giới tự do. Thế nhưng, trong tiến trình đổi mới nầy Giáo Hội vẫn còn chưa được hưởng tất cả những tự do cần thiết

Năm nay, trong diễn từ chào mừng Đức Thánh Cha, Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Giám mục Giáo phận Đà lạt, Chủ tịch Hội đồng Giám Mục Việt-Nam, đã nói: «Hàng Giáo Phẩm địa phương được tạo lập vào một thời điểm mà Việt-Nam bị chia cắt trên bình diện chính trị, và điều đó đã kéo theo những hậu quả sâu đậm trong nhiều lãnh vực của xã hội trên Đất Nước chúng con. Phải chờ đến năm 1980, sau khi hai miền Nam, Bắc thống nhất vào năm 1975. Hội đồng Giám mục của cả nước Việt-Nam mới được khai sinh

Đêm khuya ngày 20 rạng 21.07.1954, Cộng sản Việt-Nam và Thực dân Pháp đã ký Hiệp định Genève để chia đôi Đất Nước Việt-Nam. Chánh phủ hợp pháp Việt-Nam do Thủ tướng Ngô đình Diệm điều hành quốc vụ nước Việt-Nam thống nhất, từ ải Nam Quan đến mũi Cà mau, đã không ký vào đó, vì trái với nguyện vọng của toàn dân Việt-Nam. Sự chia cắt Việt-Nam chỉ có giá trị chính trị, không ảnh hưởng đến Giáo hội Công giáo Việt-Nam luôn là một. Hai sự kiện sau đây chứng minh điều đó:

a.- Ngày 25.05.1925, Đức Thánh Cha Piô XII đặt chức vụ Khâm sứ Tòa Thánh tại Đông Dương, Đại diện Tòa Thánh để liên lạc giữa Rôma và các Giáo phận truyền giáo tại Việt-Nam, Cam bốt và Ai lao, đặt Tòa Khâm sứ tại Huế. Năm 1951, Đức Khâm sứ John Dooley dời Tòa Khâm sứ từ Huế ra Hà nội.

Sau khi chiếm Miền Bắc, từ ngày 14.06.1955, chính quyền cộng sản Hà nội áp dụng sắc lệnh tôn giáo một cách triệt để khủng bố, de dọa, bỏ tù, chiếm đoạt tài sản, ly gián chia rẽ Giám mục, Linh mục và Giáo dân trong hoạt động mục vụ. Đức Khâm sứ không liên lạc được với các lãnh thổ khác thuộc quyền, nên, ngày 15.02.1956, Tòa Thánh cử Đức Cha Giuseppe Caprio làm Thanh Tra Tòa Thánh (Visiteur Apostolique) tại Sài gòn để có thể liên lạc được Việt-Nam, Cam bốt và Ai lao. Ngày 13.03.1957, vị Thanh Tra Tòa Thánh ở Sài gòn được nâng lên hàng Đại lý Khâm sứ (Régent Apostolique). Năm 1959, sau khi Đức Khâm sứ John Dooley rời Hà nội trong một cơn bệnh nguy kịch và, vài tuần kế tiếp, các nhân viên Toà Khâm sứ bị trục xuất khỏi Việt-Nam,, Tòa Thánh mới thiết lập Tòa Khâm sứ tại Sài gòn với tân Khâm sứ Mario Brini.

b.- Đức Khâm sứ Mario Brini đã góp công lớn trong việc chuẩn bị thiết lập ‘Hàng Giáo Phẩm Công Giáo Việt-Nam’.

Ngày 24.11.1960, qua Tông Hiến ‘Chư Huynh Đáng Kính’ (Venerabilium Nostrorum), Đức Thánh Cha Gioan XXIII thiết lập ‘Hàng Giáo Phẩm Công Giáo Việt-Nam’ với ba Giáo tỉnh: Hà nội, Huế và Sài gòn. Sắc chỉ được công bố ngày 08.12.1960, lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Do đó, Đức Cha Chủ tịch Hội đồng Giám Mục Việt-Nam nói: «Giáo Hội tại Việt-Nam sắp cử hành một Năm Thánh đặc biệt kéo dài từ đại lễ các Thánh Tử vì đạo Việt-Nam, ngày 24.11.2009, đến ngày lễ Hiển Linh năm 2011… Rồi ngày 24 tháng 11 năm 2010, sẽ đánh dấu 50 năm Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII thiết lập hàng Giáo Phẩm Công Giáo tại Việt Nam bằng Tông Hiến ”Venerabilium Nostrorum” ký ngày 24 tháng 11 năm 1960. »

3. Năm 2002, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã tiếp chung 26 Giám mục và 2 Linh mục Giám quản trong khung cảnh «cộng đồng Công giáo Việt-Nam đã nỗ lực có những suy tư thần học, linh đạo và mục vụ của mình qua cùng nhịp với những biến cố trọng đại của Giáo hội như Thượng Hội đồng Giám mục đặc biệt cho Á châu, kinh nghiệm phong phú của Năm Thánh 2000… »

Năm 2009, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã tiếp chung 29 Giám mục trong bối cảnh «Cuộc gặp gỡ của chúng ta mang một ý nghĩa đặc biệt trong những ngày mà toàn thể Giáo hội mừng lễ trọng kính thánh Phêrô và Phaolô Tông đồ, và thật là một niềm an ủi lớn đối với tôi vì được biết những mối liên hệ sâu xa về lòng trung thành và yêu mến Giáo hội mà các tín hữu tại đất nước Anh Em vẫn nuôi dưỡng đối với Giáo hội và Giáo Hoàng. » và « cách đây vài ngày, Năm Linh mục đã bắt đầu. Năm này sẽ giúp làm nổi bật sự cao cả và vẻ đẹp của sứ vụ Linh mục

II. NHỮNG ĐIỂM GIỐNG NHAU.

Trong hai Huấn từ ngày 22.01.2002 và ngày 27.06.2009, khoảng cách thời gian gần 7 năm rưỡi, hai Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II và Biển Đức XVI đều nhắc đến ‘sự cộng tác lành mạnh giữa Giáo Hội và cộng đồng chính trị’.

Năm 2002, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã viết: về Giáo hội Công giáo cũng được kêu gọi chia sẻ niềm Hy vọng bằng luôn đề xuất con đường đối thoại. Chỉ một cuộc đối thoại tín nhiệm và xây dựng giữa các thành phần của xã hội dân sự cũng đủ mở ra một niềm hy vọng mới cho toàn dân Việt-Nam.

"Giáo hội, vì sứ mạng và chức năng mình, Giáo hội không lẫn lộn với một cộng đồng chánh trị và không bị gắn liền với bất cứ hệ thống chánh trị nào". Bởi thế "cộng đồng chánh trị và Giáo hội độc lập với nhau và tự trị trong lãnh vực chuyên biệt của mình". Nhưng vì cả hai cùng được mời gọi hoàn tất sứ mạng riêng biệt phục vụ cùng một tập thể con người, sự phục vụ sẽ càng hữu hiệu nếu "cả hai thực hiện nhiều hơn nữa một sự hợp tác lành mạnh với nhau". Vì "sự hợp tác lành mạnh nầy", Giáo Hội mời tín hữu dấn thân cho sự phát triển mọi con người và xây dựng một xã hội công bằng, đoàn kết và bình đẳng.

Ngày 27.06.2009, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói với 29 Giám mục Việt-Nam: về Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt-Nam công bố năm 1980 nhấn mạnh về "Giáo hội của Chúa Kitô giữa lòng dân tộc". Khi đóng góp phần đặc thù của mình - là loan báo Tin Mừng của Chúa Kitô -, Giáo hội góp phần vào sự phát triển con người về mặt nhân bản và tinh thần, nhưng cũng góp phần vào sự phát triển đất nước nữa. Sự tham gia của Giáo hội vào tiến trình này là một nghĩa vụ và là một đóng góp quan trọng nhất là trong lúc Việt-Nam đang dần dần cởi mở đối với cộng đồng quốc tế.

Cũng như tôi, Anh Em biết rằng một sự cộng tác lành mạnh giữa Giáo hội và cộng đồng chính trị là điều có thể. Về vấn đề này, Giáo hội mời gọi mọi phần tử của mình hãy chân thành dấn thân xây dựng một xã hội công chính, liên đới và công bằng. Giáo hội không hề muốn thay thế các vị hữu trách chính quyền, nhưng chỉ mong muốn có thể tham gia chính đáng vào đời sống quốc gia, trong tinh thần đối thoại và cộng tác tôn trọng, để phục vụ toàn dân. Khi tích cực tham dự vào chỗ đứng của mình và theo ơn gọi đặc thù, Giáo hội không bao giờ có thể châm chước cho mình việc thực thi Bác ái trong tư cách là một hoạt động có tổ chức của các tín hữu, và mặt khác, sẽ không bao giờ có một tình trạng trong đó người ta không cần lòng Bác ái của mỗi Kitô hữu, vì con người, ngoài sự công bằng, vẫn luôn cần tình thương (Deus caritas est, số 29). »

Thật đáng tiếc: gần 7 năm rưỡi đã trôi qua và chưa biết đến bao lâu, đảng Cộng sản vẫn từ chối "sự cộng tác lành mạnh giữa Giáo Hội và cộng đồng chính trị" để phát triển toàn diện con người và xây dựng một xã hội công bằng, đoàn kết và bình đẳng. Nhờ thế, và chỉ nhờ thế, toàn dân Việt-Nam mới có thể chống ngoại xâm.

Trong nhiệm vụ Giáo dục, các trường Công giáo, từ mẫu giáo đến đại học, đã đào tạo bao nhiêu chuyên viên các ngành cho Việt-Nam. Sau ngày 30.04.1975, các cơ sở giáo dục này bị ‘mượn’ và, đến nay, nhiều nơi đã biến thành những nơi ăn chơi, nhảy nhót. Hậu quả tất yếu là bao nhiêu trẻ em phải bỏ học và nền Giáo dục đã đi đến chổ mà báo chí quốc doanh không ngừng lên tiếng báo động.

III. MỘT ĐIỂM MỚI ĐÁNG LƯU Ý.

Sau khi xác tín ‘một sự cộng tác lành mạnh giữa Giáo hội và cộng đồng chính trị là điều có thể’, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói tiếp: «Ngoài ra, tôi thấy cần nhấn mạnh rằng các tôn giáo không phải là một nguy hiểm cho tình đoàn kết quốc gia, vì các tôn giáo nhắm giúp mỗi người tự thánh hóa, và qua các tổ chức của mình, các tôn giáo mong muốn quảng đại phục vụ tha nhân một cách vô vị lợi

Đây là một trả lời đầy ý nghĩa cho những ai lên án bất công những tín hữu các tôn giáo lên tiếng đòi Tự do Tôn giáo hay đòi nhà cầm quyền trả lại tài sản của các Giáo hội là ‘phá hoại tình đoàn kết quốc gia’.
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Đơn kiến nghị nhờ can thiệp gửi Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam
Luật sư Lê Trần Luật
16:55 14/07/2009
ĐƠN KIẾN NGHỊ NHỜ CAN THIỆP

Kính gửi: Ông Lê Thúc Anh - Chủ tịch Liên Đoàn Luật sư Việt Nam
Đồng kính gửi: Đoàn Luật sư tỉnh Ninh Thuận

Tôi tên: Lê Trần Luật, sinh 28-07-1970.

Hiện là: luật sư của Đoàn Luật sư tỉnh Ninh Thuận.
Chứng chỉ hành nghề luật sư số: 0520-TP-LS-CCHN.
Bộ Tư Pháp cấp ngày 20/05/2002.

Văn phòng Luật sư trước đây: Văn phòng Luật sư Pháp Quyền. Địa chỉ: 9/10 Nguyễn Văn Cừ, Tp. Phan Rang, Tỉnh Ninh Thuận. Chi nhánh: 30 đường Số 3, Căn cứ 26B, P.7, Quận Gò Vấp, Tp. HCM.

Tôi đã hoạt động luật sư trên 10 năm nay, hiện là luật sư của Đoàn Luật sư tỉnh Ninh Thuận, là thành viên chính thức của Liên Đoàn Luật sư Việt Nam. Với những tư cách đó, tôi viết thư này, mong Liên Đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn Luật sư tỉnh Ninh Thuận, Luật sư đồng nghiệp Lê Thúc Anh, khẩn cấp can thiệp để bảo đảm quyền hành nghề luật sư của tôi.

Tôi xin được phép trình bày một số việc liên quan như sau:

Tôi có bào chữa vài vụ án "chính trị nhạy cảm" (chữ dùng của cơ quan An Ninh, tôi thì không nghĩ như vậy) như vụ Trương Minh Đức (Đảng Vì Dân), Phạm Bá Hải (Bạch Đằng Giang), Lương Văn Sinh (dân oan), Phan Văn Sào (dân oan), và vụ các giáo dân Thái Hà v.v... Xuất phát từ những vụ án này, mà cơ quan An Ninh Tp.HCM đã đặc biệt theo dõi, và giám sát chặt chẽ các hoạt động nghề nghiệp của tôi. Tôi nói điều này là đúng sự thật vì:

1. Cơ quan An Ninh đã có quyết định trưng cầu giám định các bài bào chữa của tôi.
2. Kết luận giám định số 70 đã kết luận tôi "công khai đứng về phe dân chủ".
3. Họ thường xuyên mời tôi làm việc về "hành vi tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCNVN" và cụ thể là lực lượng an ninh đã ra lệnh "khám xét và tịch thu" nhiều phương tiện hành nghề của tôi (như máy tính) vì cho rằng "tôi có hành vi tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCNVN".
4. Gần 1 năm nay, lực lượng an ninh trinh sát luôn đi theo tôi "như hình với bóng" và họ ngủ luôn trước nhà tôi.

Cơ quan an ninh đã ra lịnh cho tôi không được ra khỏi Tp. HCM và họ đã cho lực lượng trinh sát theo dõi tôi. Tôi phải có sự sự đồng ý của họ mỗi khi tôi muốn rời khỏi thành phố.

Điển hình như: Tôi muốn về thắp hương cho bố tôi (bị mất ở Ninh Thuận) thì phải có sự đồng ý và tôi phải lên làm cam kết là "Khi được về Ninh Thuận thắp hương, đi đúng ngày, về đúng giờ". Khi tôi đi thì họ cử trinh sát đi theo. Tôi biết điều này là vô lý, nhưng nếu không làm như vậy thì họ sẽ áp giải tôi về làm việc với hàng trăm lý do như: "có dấu hiệu tuyên truyền chống nhà nước CHXHCNVN, có dấu hiệu tội lừa đảo, lạm dụng", "có dấu hiệu trốn thuế", "có dấu hiệu vi phạm công nghệ thông tin", hoặc phải làm việc với các cơ quan khác v.v...

Tôi nói điều này cũng là có thật vì:

Các vị còn nhớ những ngày sắp xử phúc thẩm các giáo dân Thái Hà. Khi tôi đi đọc hồ sơ thì họ áp giải tại phi trường! Tôi "phải trốn" đi bằng đường bộ ra Hà Nội thì họ chặng và áp giải tôi tại Ninh Thuận. Và vì cuối cùng, tôi không thể nào có mặt tại phiên tòa, dầu rằng đã được tòa án Hà Nội xác nhận là Luật sư và có giấy mời tôi tham dự phiên tòa.

Tôi nói điều này cũng không nhằm "tố cáo" các hành động của lực lượng an ninh, tôi chỉ mong được tự do đi lại để hành nghề mà thân chủ đã tín nhiệm.

Thưa Liên đoàn Luật sư Việt Nam! Đoàn Luật sư tỉnh Ninh Thuận!

Suốt liền 5 tháng qua, tôi đã có hơn 100 buổi làm việc với rất nhiều cơ quan chức năng. Rất nhiều cơ quan truyền thông đưa tin tôi "vi phạm", "trốn thuế", "lừa đảo", "vi phạm công nghệ thông tin", "tuyên truyền chống nhà nước". Tôi không bình luận về việc này, chỉ muốn khẳng định với Liên đoàn Luật sư Việt Nam rằng, cho tới nay:

1. Tôi chưa bị bất kỳ "Một lệnh khởi tố" nào của cơ quan công an.
2. Chưa có phán quyết nào của Tòa án hạn chế "Quyền tự do đi lại của tôi".
3. Tôi chưa hề bị các thẩm phán phạt vì vi phạm kỷ luật tòa án trong các vụ xử.

Trong những ngày sắp tới, Tòa án các tỉnh phía Bắc như Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Bắc Giang sẽ đưa các vụ án "tuyên truyền chống nhà nước CHXHCNVN" ra xét xử. Gia đình và các thân nhân trong những vụ án như: Bà Nguyễn Thị Trang (vợ bị can Phạm Văn Trội), bà Nguyễn Thị Nga (bợ bị can Nguyễn Xuân Nghĩa), ông Ngô Quyền (anh của bị can Ngô Quỳnh), bà Nguyễn Thị Lợi (mẹ của bị can Phạm Thanh Nghiên) đã nhiều lần yêu cầu tôi làm Luật sư cho thân nhân của họ. Tôi đã đồng ý, nhưng không biết được liệu tôi có được sự tự do đi lại để hành nghề hay không? Nếu lực lượng an ninh tiếp tục cản trở sự tự do đi lại của tôi, thì rõ ràng họ đã cản trở "Quyền hành nghề luật sư" của tôi.

Bằng đơn này, một lần nữa tôi tha thiết kính mong Liên Đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn Luật sư tỉnh Ninh Thuận, luật sư đồng nghiệp Lê Thúc Anh khẩn cấp có hành động can thiệp với lực lượng an ninh Tp.HCM để tôi được tự do hành nghề luật sư của mình, một đồng nghiệp luật sư của quí vị và một hội viên của quí đoàn thể.

Thưa các vị!

Nếu chúng ta tin rằng: "Ở Việt Nam không có tù chính trị, chỉ có những người vi phạm pháp luật" thì chúng ta cũng tin tưởng rằng “ở Việt Nam, không có luật sư lợi dụng phiên tòa, chỉ có luật sư hoạt động nghề nghiệp”.

Tôi xin cam đoan rằng tôi là luật sư muốn hoạt động nghề nghiệp của mình đúng theo qui định của luật pháp và tòa án Việt Nam.

Trân trọng cám ơn và kính chúc Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Đoàn Luật sư tỉnh Ninh Thuận đoàn kết và lớn mạnh.

Tp.HCM ngày 14-07-2009

Kính đơn
 
Cộng sản và chứng hoang tưởng bị hại
Lê Sáng
17:06 14/07/2009
Hoang tưởng bị hại là một bệnh lý về sức khoẻ tâm thần ở người. Các biểu hiện lâm sàng của con bệnh ở giai đoạn sớm rất khó phát hiện. Thậm chí đến bác sĩ chuyên khoa tâm thần cũng có thể nhầm lẫn giữa một người có tính cách cẩn trọng với một con bệnh tâm thần hoang tưởng bị hại, lúc nào cũng đề phòng một mối nguy hại xa vời nào đó…

Một trong những biểu hiện lâm sàng khác của con bệnh tâm thần hoang tưởng bị hại đó là biết che dấu, biết lý giải, biện minh cho hành vi của mình rất khéo léo, rất hợp lý… Chính vì thế có nhiều người không thể kết luận được đây là con bệnh cho dù chứng kiến nhiều biểu hiện kỳ cục của nó…

Con bệnh tâm thần hoang tưởng bị hại đương nhiên không bao giờ coi mình là người bệnh để chạy chữa mà còn dấu đi bệnh tật của mình… Và bệnh tình sẽ nặng dần cho đến lúc nó toàn phát thì thường có hành động giết người… Bởi từ hoang tưởng bị hại, con bệnh tâm thần này sẽ tấn công giết người để “phònh vệ chính đáng”… Tâm thần hoang tưởng bị hại không thể chữa trị khỏi hoàn toàn. Bệnh nhân thường là phải sống trong nhà thương điên đến lúc chết…

Nói đến người cộng sản trong quá khứ và cả hiện tại, người ta liên tưởng đến những kẻ mắc chứng tâm thần hoang tưởng. Hoang tưởng mình là vĩ nhân. Hoang tưởng mình có phát minh sáng chế. Hoang tưởng mình được yêu… Nhưng có lẽ tai hại nhất là hoang tưởng mình bị hại. Vì từ hoang tưởng bị hại người cộng sản đã giết hơn 100 triệu người vô tội gồm cả đàn bà trẻ em tay không vũ khí… Chưa kể đến những người lính của họ chết uổng, và những người lính bên kia chiến tuyến phải chiến đấu với những kẻ tâm thần sẵn sàng ôm bom tấn công liều chết…

Nạn nhân chứng hoang tưởng bị hại của cộng sản có rất nhiều và không loại trừ thành phần nào. Từ trí thức đến dân lao động. Từ kẻ ngoại bang đến đồng chí chung chiến hào với cộng sản. Thậm chí cả lưu manh cũng phải chết chỉ vì biết được quá khứ lưu manh của một cán bộ cộng sản nào đó (Xem hồi ký của Vũ Thư Hiên - Đoạn viết về Trần Quốc Hoàn).

Ngay như các tôn giáo vẫn tồn tại qua mọi chế độ chính trị, dù trong những giai đoạn thăng trầm nhất của họ, họ cũng chưa bao giờ chủ động tấn công ai… Vậy mà cộng sản cũng liệt họ vào diện kẻ thù không đội trời chung. Không thể dùng luật lệ hà khắc để tiêu diệt tôn giáo, thì cộng sản dùng xã hội đen tấn công khủng bố… Rồi đẻ ra các tu sĩ quốc doanh đặc tình công an, thậm chí đảng viên cộng sản… Nhưng đến một ngày đẹp trời nào đó mấy ông tu sĩ quốc doanh kia buột miệng nói ra một câu nào đó hợp lẽ đạo trái ý cộng sản, thì tức khắc cũng bị liệt vào diện kẻ thù thâm hiểm trèo cao chui sâu vào nội bộ cộng sản để đánh phá… Và án tử hình được thi hành không cần qua xét xử…

Cho đến hôm nay, lịch sử đã minh chứng từ trong học thuyết cho đến thực tiễn, chủ nghĩa cộng sản là một mớ lý luận phá sản. Nhà nước cộng sản là một cỗ máy giết người vô tội vạ. Người ta tự hỏi, không hiểu trong đầu những người cộng sản có cái gì, mà sự thực nhãn tiền đến thế vẫn không làm họ tỉnh ngộ ??? Tại sao người cộng sản nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, bốn phương tám hướng đều có thế lực thù định cộng sản cả ??? Thậm chí người cộng sản còn liệt cả đồng chí, trong chiến tranh vào sinh ra tử với nhau, nay cũng thành kẻ thù của chế độ, đem ra toà xét xử và nếu cần thì ám sát chẳng nương tay ??? Ở góc độ quốc tế, các quốc gia cộng sản đối xử với nhau cũng không khá hơn: Họ ôm hôn nhau đêm hôm trước, rồi cầm dao chém giết nhau ngay sáng hôm sau. Một tuần sau, họ lại có thể ngồi với nhau chúc tụng tình hữu nghị đời đời bền vững tài sản vô giá…Thật đúng là những hành động kỳ cục như của người điên không biết buồn vậy.

Khởi đầu kẻ sáng lập ra chủ thuyết cộng sản là Mác đã có các dấu hiệu của người tâm thần. Rõ nhất là lý luận về sự bóc lột giá trị thặng dư tư bản. Ngày nay thì ai cũng có thể nhận ra cái giá trị thặng dư đó, là giá trị chất sám (Chất sám công nghệ kỹ thuật + Chất sám kỹ nghệ quản lý…). Giá trị này nếu không được trả cho người tìm tòi, phát minh, phát triển, ứng dụng nó, xã hội sẽ không thể tiến lên được, vì có ai muốn làm không công???…

Vậy mà Mác đòi giá trị này phải trả lại cho công nhân. Nếu không trả cho công nhân là bóc lột. Công nhân đâu biết gì chuyện lý luận kinh tế chính trị, họ cũng không có khả năng phát minh sáng chế hay tổ chức quản lý điều hành mang tính cách mạng trên bình diện thế giới… Tự dưng được hưởng lợi họ vui vẻ nhận ngay… Thế là hàng trăm triệu đảng viên cộng sản thực thi lý thuyết kỳ cục này của Mác, làm cho nền kinh tế cộng sản đi vào ngõ cụt vì không ai muốn đầu tư chất sám… Kinh tế phá sản, chế độ cộng sản dù tàn bạo đến đâu cũng thành “bạo chúa ốm liệt giường” lực bất tòng tâm… Và sụp đổ không tiếng súng là do tự họ gây ra chứ chẳng phải thế lực thù địch nào cả…

Khi ứng dụng học thuyết cộng sản, những người cộng sản còn chế biến một cách tuỳ tiện chứ họ không làm theo nguyên mẫu của Mác. Vì Mác là lý thuyết gia, ông ta không dám đưa ra các mô thức giết người tàn bạo như nhà nước cộng sản đã làm. Những người cộng sản lấy học thuyết cộng sản của Mác để làm gốc lý luận hòng tập hợp đông đảo quần chúng lao động. Nhưng nếu chỉ thế, họ cũng khó mà giành được chính quyền vì còn có nhiều trí thức, nhiều người dân lao động, nhiều người có tôn giáo lấy làm khó hiểu về mớ lý thuyết rối rắm và vô luân của học thuyết này. Và để có thể cướp được chính quyền, những kẻ ứng dụng chủ nghĩa Mác dùng thủ đoạn giết người không gớm tay, giết tất cả những ai không theo cộng sản… Giết bằng luật lệ hà khắc chưa đủ thì giết bằng ám sát, bằng xã hội đen, bằng khủng bố… Những ai không theo cộng sản là kẻ thù của cộng sản, dứt khoát thế cấm bàn cãi.

Giết người để thu phục nhân tâm thì từ cổ chí kim chỉ có người cộng sản tự huyễn hoặc mình chứ chế độ nô lệ man ri đến thế cũng không mơ hồ về thủ pháp này. Nó cướp - giết để bắt người làm nô lệ để phục dịch nó chứ không phải để thu phục nhân tâm… Thế là những kẻ thực hành chủ nghĩa cộng sản mang theo mình đầy đủ những dấu hiệu lâm sàng của con bệnh tâm thần. Nhưng ban đầu là con bệnh tâm thần thể hung bạo. Tấn công giết chóc bất kỳ ai mà nó cho là cản trở nó giành chính quyền, cản trở nó xây dựng chính quyền xô viết, chính quyền nhân dân xã hội chủ nghĩa, từng bước tiến lên cộng sản chủ nghĩa… v.v

Khi chính quyền cộng sản đã giành được trên bình diện quốc gia, quốc tế. Người cộng sản bắt tay vào xây dựng xã hội không tưởng họ gọi là xã hội xã hội chủ nghĩa. Càng làm càng thất bại vì theo mớ lý luận của một người tâm thần viết ra. Các quốc gia văn minh thì xa lánh cộng sản vì thấy xã hội này rất quái gở. Người dân trong chế độ cộng sản bắt đầu nghi ngờ tính chất chân lý, tính chất hợp qui luật của cái xã hội này. Khi người dân lên tiếng đối chất với quan chức cộng sản, họ không thể lý giải cách hợp lý… Bị bế tắc về lý luận, rồi nghĩ đến những việc giết người vô tội vạ trong quá khứ, những việc tham nhũng đục khoét tài sản công bị quốc tế phanh phui không thể chối cãi… Cộng sản đương nhiên sợ hãi. Nếu cách mạng nổ ra, với những “quần chúng cốt cán” từng được cộng sản huấn luyện giết người không gớm tay, nay lại bị quan chức cộng sản bội ước cho về sống với dân đen thành ra uất hận quay lưng lại với cộng sản… chẳng có gì bảo đảm rằng đám quần chúng này sẽ chừa đảng viên cộng sản ra cả…

Thế là kẻ thù của cộng sản có ở khắp nơi. Nhưng nếu nói là người dân sẽ giết hết cộng sản để trả thù cho những gì cộng sản đã làm thì không đúng. Nhưng chắc chắn sẽ có một bộ phận người dân muốn làm việc này. Trước tiên họ là những người mà cộng sản gọi là “quần chúng cốt cán” - Biến chất. Họ mà giết người thì rất có nghề vì đã được chính cộng sản huấn luyện… Thứ đến là nạn nhân cộng sản, họ từng chứng kiến cộng sản giết cha ông họ khi xưa chỉ bằng một bản án tuyên từ mồm mấy ông bà “quần chúng cốt cán” chưa biết đọc biết viết… Chỉ biết làm theo lệnh đảng…

Kẻ tội ác tày trời đêm nhìn bóng trăng cũng tưởng kẻ thù rình ám sát… Nghĩ ngợi đề phòng lâu ngày hoá thành tâm thần hoang tưởng nhìn đâu cũng thấy kẻ thù. Toàn là kẻ thù không đội trời chung, không thể thương lượng… Đến độ chỉ cần xuống thang đàm phán cũng là tự sát… Thế là phải tiếp tục cuộc phiêu lưu, và luôn cảnh giác đề phòng kẻ thù, đề phòng thế lực thù định bên ngoài, đề phòng cả anh em đồng chí đồng bào ngộ nhỡ họ bị thế lực thù địch lợi dụng nối giáo cho giặc… Ngay trong đội ngũ chính khách cộng sản cũng có ý kiến loé lên, hay là thử thương thuyết xem sao? Việc chấp nhận nội dung đàm phán đâu phải là bắt buộc? Lập tức ý kiến này bị liệt vào loại thế lực thù địch len lỏi vào trong hàng ngũ cộng sản… Và đã có một đạo luật cho phép an ninh quân đội (tổng cục 2) ám sát, giết ngay tức khắc không cần phải xin lệnh cho dù đó là cán bộ cao cấp đến cỡ nào…

Từ chỗ đề cao cảnh giác… đến chỗ lợi dụng duyên cớ để giết người là rất gần nhau… Trong thực tế người cộng sản vẫn lợi dụng việc đề cao cảnh giác, tuyên truyền về một nguy cơ nào đó, rồi đặt quốc gia vào tình trạng khẩn cấp, để giết người cho thuận tiện… Chính ông đại tá Nguyễn Khải cũng đã thừa nhận và cho bạch hoá vấn đề bằng tuỳ bút cuối đời của ông: “Đi tìm cái tôi đã mất”. Nhưng cứ làm như thế mãi thì thù oán sẽ chất chồng, người cộng sản sẽ gia tăng kẻ thù theo cấp số cộng. Và với tư duy của kẻ tâm thần hoang tưởng bị hại, kẻ thù của cộng sản sẽ được người cộng sản mở rộng theo cấp số nhân… Càng nhiều kẻ thù, người cộng sản càng phải đề phòng bằng các phương án. Càng ôm đồm phương án đề phòng, người cộng sản càng phải chi phí tốn kém. Chỉ riêng việc chi tiền bạc trang trải cho những phương án chống kẻ thù, chống thế lực thù địch rộng lớn của csvn chắc chắn sẽ làm cho nền kinh tế của nó vỡ nợ trong nay mai…

Lịch sử xã hội loài người chưa từng có một thế lực chính trị nào lại có lắm kẻ thù đến thế. Người cộng sản tự đặt phần còn lại của thế giới là kẻ thù của họ. Như thế vẫn chưa đủ họ còn đặt đồng chí của họ cũng là kẻ thù, chỉ vì những đồng chí này bày tỏ quan điểm khác với vài kẻ trong bộ chính trị đang nắm quyền lực tối cao. Đến thế họ vẫn chưa thoả mãn. Họ còn bày đặt ra cả những kẻ thù ảo không tên không tuổi hay tên tuổi rất mơ hồ nào đó ở một nơi rất xa, ở trên internet… Thật đúng là kẻ tâm thần hoang tưởng bị hại không hơn không kém.

Suy luận của người điên thì bao giờ cũng khác xa người thường… Và chỉ có những kẻ điên khùng mới giống nhau được mà thôi… Hãy nhìn xem người thầy - người đồng chí của csvn trong biến cố Tân Cương ngày 7/7/2009. Lại những lời cáo buộc kẻ thù, thế lực thù địch, những kẻ ly khai gây bất ổn, những kẻ chia rẽ dân tộc… Rồi sau đó là đóng cửa biên giới, cấm phóng viên báo chí, ban hành lệnh giới nghiêm… Giết người diệt khẩu… Vài nghàn người tay cầm gậy gộc mà lại có thể là kẻ thù nguy hiểm cho chế độ cộng sản phát xít như nước Tàu được ư ? - Thật quá lố. Rồi lãnh tụ cao cấp nhất của Tàu Cộng hứa sẽ trừng trị người bạo loạn bằng cả án tử hình – Trong khi chẳng ai bắt ông ta phải thề hứa gì cả. Hứa như thế để làm gì? Đúng là những kẻ điên cuồng quyền lực. Nhưng đáng khinh bỉ hơn là những lời tuyên bố ủng hộ đàn áp dân Tân Cương của csvn. Tầu cộng cũng chẳng lên tiếng bắt csvn phải tuyên bố gì cả. Vậy mà chúng cũng hùng hổ ra tuyên bố ủng hộ Trung Quốc trấn dẹp bạo loạn này nọ… Đúng là tư duy của những kẻ tâm thần hoang tưởng gặp nhau.

Cũng là bạo động sắc tộc – Hồ Cẩm Đào hãy mở mắt ra mà coi: Vào tháng 11/2005 nước Pháp phải hứng chịu một cuộc bạo động suốt 2 tuần lễ liền Tại thủ đô Paris, sau lan ra nhiều thành phố trên toàn quốc. Bắt nguồn từ việc cảnh sát truy đuổi làm 2 thiếu niên gốc Algreia nhập cư chạy trốn vào trạm biến thế và chết vì giật điện. Cuộc bạo động làm chết và bị thương hàng trăm nhân mạng trong đó có cả cảnh sát. Cả ngàn xe ô tô, tầu điện, cũng như nhà hàng bị đốt phá, riêng tại Paris có 315 ôtô bị đốt, thiệt hại hàng tỉ EURO… Cảnh sát Pháp cũng phải ra tay trấn áp… Cũng có hàng ngàn người bị bắt giữ… Nhưng chính phủ Pháp chẳng cấm báo chí, chẳng chụp mũ người dân nhập cư này là nghe theo súi dục của thế lực thù định, gây chia rẽ, làm bất ổn an ninh chính trị gì gì… Sau một hồi bạo động, người dân như tự cảm thấy “đủ”, họ tự dừng lại và giải tán. Có ai sống được bằng nghề đi đốt xe, đánh nhau trên phố đâu??? Ở một góc độ nào đó, phản ứng cách dữ dội cũng góp phần hoàn thiện cho công bằng xã hội… Văn minh của nhân loại là như vậy chứ không phải hùng hổ tự thề hứa sẽ trừng trị bằng án tử hình…

Một chủ thuyết được viết ra từ một người mắc chứng tâm thần ngộ nhận chân lý. Được những kẻ mắc chứng tâm thần hoang tưởng tự cho mình là vĩ nhân vồ vập và ứng dụng. Đương nhiên nó sẽ chuốc lấy thảm bại. Nhưng trong khi ứng dụng chủ thuyết cộng sản bằng bàn tay hung bạo, csvn đã kịp giết hàng chục triệu nhân mạng, đẩy dân tộc Việt tụt lùi hàng thế kỷ… Vì thế nó có rất nhiều kẻ thù – Và luôn điên khùng hoang tưởng sắp bị hãm hại, sắp bị trả thù. Không phải chỉ người cộng sản, mà bất cứ ai đặt mình vào tình thế là kẻ thù của cả nhân loại cũng sẽ hoá khùng bởi áp lực tâm lý... Một người lương thiện sửa đổi thói quen xấu mà còn khó khăn, phương chi kẻ tội phạm, điên khùng, hoang tưởng… Ai có thể đoán biết được trong đầu nó nghĩ gì? Cho nên hiếm hoi có một ông từng mắc chứng tâm thần hoang tưởng được Thượng Đế chữa khỏi. Vì “từng ở trong chăn” ông mới khảng khái mà nói rằng: "Cộng sản không thể thay đổi mà phải thay thế." (Boris Yeltsin).
 
Thông Báo
Linh Mục Giuse Đinh Cao Thuấn, nguyên Giám đốc Nha Tuyên Úy Công Giáo Quân Đội VNCH, đã qua đời
Hội đồng hương Bùi Môn
14:30 14/07/2009

CÁO PHÓ


Trong niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh
Xin trân trọng kính báo:
Linh Mục GIUSE ĐINH CAO THUẤN
Nguyên Giám Đốc Nha Tuyên Uý Công Giáo Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Chánh Xứ Bùi Môn, Hạt Hóc Môn, TGP Sàigòn
Giám Đốc Trường Nhân Vị, Gia Định
13 năm tù giam tại trại tù Thanh Cẩm của Cộng Sản Việt Nam.
Đã tạ thế vào sáng ngày Chúa Nhật 12/07/2009 tại nhà xứ Bùi Môn
Hưởng Thọ: 85 tuổi.

Linh Cửu quàn tại Giáo Xứ Bùi Môn
Thánh Lễ An Táng sẽ được cử hành vào lúc 9 giờ sáng thứ Tư 15/07/09
sau đó được án táng tại khuôn viên Thánh Đường Giáo Xứ Bùi Môn, Sàigòn.


Xin cầu nguyện cho linh hồn cố linh mục Giuse Đinh Cao Thuấn được hưởng tôn nhan Chúa.
 
Văn Hóa
Trọng Thủy - Mỵ Châu
lykhách
05:25 14/07/2009
Chuyện rằng thời vua An-Dương-Vương
Dân ta xây thành Cổ-Loa ngăn giặc Bắc phương
Nhưng dở dang mãi hoài đất đá sụp
Vua lập đàn cầu tế xin trời thương

Niềm chính tâm đã xúc động lòng trời
Thần Kim-Quy hiện xuống giúp con người
Thành phải xây từ dân tâm mới khỏi
Sụp đổ và bền vững đất nước bao đời

Rồi Thần tặng nhà vua một móng chân
Bảo hãy làm ra chiếc nỏ thần
Khi nào giặc xua quân sang xâm lấn
Thì những mũi tên sẽ đuổi lũ hung hăng

Vua của giặc, Triệu-Đà cứ đánh mãi
Bao nhiêu phen thua lại hoàn thua
Hắn tức giận vì nỏ Thần tai quái
Mới nghĩ ra một kế sách ngụy lừa

Sai con trai Trọng Thủy sang nghị hoà
Xin cầu hôn công chúa xóa hận thù xưa
Vua bằng lòng gả Mỵ-Châu công chúa
Để muôn dân được vui cảnh chiến chinh qua

Tình vợ chồng bên nhau rồi thương nhau
Mỵ-Châu nào có biết gì đâu
Kể Trọng-Thủy nơi nỏ thần cất dấu
Lòng tối tăm đánh tráo cả thương yêu

Hắn trộm chiếc nỏ thần thay vào
Cái nỏ giả như tâm địa lừa đảo
Rồi xin vua về thăm quê một dạo
Cho thỏa nhớ nhung lòng cha mẹ gầy hao

Rồi tặng vợ mình một chiếc áo
Dệt bằng lông ngỗng trắng và bảo:
“Anh ra đi, nếu có điều gì thì rứt áo
Thả lông trên đường anh sẽ tìm theo!”

Mỵ-Châu lau dòng lệ nghẹn ngào
Thôi chàng đi đi rồi hãy về mau
Em sẽ nhớ chàng, em sẽ đợi
Trái tim em hằng dõi bước chàng dù nơi nào!

Trọng -Thuỷ ra đi đem về chiếc nỏ thần
Triệu-Đà ôm chiếc nỏ vui mừng
Phen này đánh ta phá thành bình địa
Rửa tủi hờn bao nhục nhã gian truân

Rồi hắn xua quân đi đánh thành
An-Dương-Vương bình tĩnh bảo ba quân:
Ta muốn thanh bình,
dân chẳng muốn chiến chinh
Mà phương Bắc mộng luôn thôn tính
Bọn chúng là quân bất nghĩa bất tình…

Hãy đem chiếc nỏ thần ra đây
Cho ta xóa sạch lũ sói lang nầy
Nhưng chiếc nỏ chẳng ngăn chân giặc
Vua đâu biết rằng chiếc nỏ giả đã thay!

Và Cổ-Loa đỏ tràn muôn máu
Của dân Nam tử đấu giữ thành
Mà sức giặc tràn muôn cuồng bạo
Đã chiếm thành ghi thống hận sử xanh!

Vua ôm Mỵ-Châu lên lưng ngựa
Bước đường cùng phi về hướng biển Nam
Mỵ-Châu rứt từng chiếc lông lần lữa
Thả theo từng thổn thức dấu tình làm

Chân vó ngựa đến đâu giặc theo đến đó
Bởi những chiếc lông trắng xóa chỉ phương
Đến Mộ-Dạ, biển xanh thôi thế cùng đường
Vua định tự tử, thần Kim-Quy thương hiện bảo:

“Tâu bệ-hạ, giặc ngồi sau lưng bệ hạ!”
Vua quay nhìn con gái chợt hiểu ra
Bao uất hận, bao nghẹn ngào mang con xuống ngựa
Mỵ-Châu lệ trào ôm lấy chân cha:

“Cha hãy giết con đi con đáng tội
Chút tình riêng gây muôn nỗi cho dân!
Vì yêu thương con đáng chết muôn lần
Đã bội phản trong lỡ lầm mà không biết!”

An-Dương-Vương quỳ bên con tha thiết:
“Cha con ta chẳng đáng sống trên đời
Bao thống hận của ba quân dũng tiết
Của nhân dân muôn máu đổ thây rơi!

Ta cũng như con đáng tội vì tin người
Mà làm vua như thế cũng nhục thôi
Cây kiếm này ta chém tình máu mủ
Ta chẳng còn chi để đáng sống trên đời!”

Một làn kiếm thân Mỵ-Nương hai mảnh
Đôi mắt còn khối lệ đọng rưng rưng
Không nhắm được trong chiều sương lạnh
Tiếng chim rừng kêu thảng thốt long lanh!

An-Dương-Vương ôm thây con gái
Hôn lần cuối cùng đôi dòng lệ chảy dài
Rồi quỳ xuống lạy trời lạy đất
“Xin hãy tha thứ tôi hỡi dân nước Nam ơi!”

Từng bước một vua lê về biển lạnh
Trời mây chiều u ám chẳng xanh
Nhảy xuống biển xin dòng nước lạnh
Rửa nỗi lòng đầy đau khổ đoạn đành!

Trời bỗng gầm vang một tiếng sét
Rừng âm u đầy giá rét chiều hôm
Tiếng con chim Cuốc kêu mờ mờ như sao khuyết
Màu tịch liêu như vận nước khúc buồn!

***
Theo lông ngỗng Trọng-Thủy về Mộ-Dạ
Ngựa cuồng chân chợt đá hí vang rừng
Hình như ngựa cũng hiểu lời đất đá
Vọng đau từ mỗi chốn đặt chân

Trọng-Thủy ôm xác Mỵ-Châu quỳ nức nở
Bởi vì ta mà em chết chẳng toàn thây
Ta là nạn nhân hay chính là man rợ?
Là con người hay loài thú vì bầy?

Tay vuốt mặt, lệ Mỵ-Châu chợt trào
Trọng-Thủy biết vợ yêu chết tức tưởi nghẹn ngào
Ôi chính vì yêu ta nàng lỗi đạo
Thì xin về nơi chín suối gặp nhau!

Trọng-Thủy phóng đầu lao xuống giếng
Nước trong veo rửa vết dấu ưu phiền
Thôi trả lại cho nghìn sau ước nguyện
Nàng chết rồi ta đáng sống hay sao?!

***
Ôi lịch sử nghìn năm giờ trở lại
Trên đất Nam đau khổ mãi trời ơi!
Lòng dạ lũ Tàu luôn vẫn mãi
Đầy manh tâm đi nô lệ đất người

Ngày xưa Mỵ-Châu chết vì tình
Vì tin yêu lòng Trọng-Thủy, vì cả tin
Ngày nay dùng tiền chúng ra lệnh
Cho uy quyền ngu muội phải làm thinh!

Dân ta ơi cộng sản không là An-Dương-Vương
Kẻ cầm quyền chẳng phải là Mỵ-Châu đáng thương
Xưa vì tình như dân ta vốn hằng độ lượng
Nay vì đồng tiền dơ bẩn và bất lương!

Hãy nhìn rõ dã tâm phương Bắc
Chẳng đổi thay vì muôn mặt gian tham
Hãy giữ chiếc nỏ thần là tình yêu non nước
Hãy đuổi chúng ra khỏi khốn khổ quê hương!

Bỏ đồ Tàu, bỏ văn hóa Tàu, bỏ tiền Tàu
Gột rửa từ nghìn trước đến nghìn sau
Ta chỉ chấp nhận trong tình nhân loại
Trong công bình và bác ái đối xử nhau!
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Dấu Thời Gian
Lê Ngọc Minh
06:07 14/07/2009

DẤU THỜI GIAN



Ảnh của Lê Ngọc Minh

Thời gian độc cước của Trời

Văn ôn võ luyện chẳng dời được đâu!

(nđc)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền