Ngày 30-06-2010
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Suy tư về ''nghịch lý'' trong vùng đất truyền giáo
Phan Ngô
06:44 30/06/2010
Nhân đọc bài viết “Ưu tư truyền giáo tại một vùng ở Việt Nam” của tác giả Thanh Tâm, trong đó có nêu lên hiện trạng sống đạo của các tín hữu mỗi khi có “chuyện” và đặt dấu hỏi về công trạng của “kẻ gặt người gieo”, tôi xin mạn phép chia sẻ đồng cảm với ưu tư của tác giả, và cũng xin gởi chút đánh động tới những ai trăn trở ơn gọi “gieo-gặt”, qua kinh nghiệm người thật việc thật mà bản thân người viết đã và đang phải đau lòng chứng kiến.

Cách đây vài năm về trước, trên một vùng lãnh thổ nọ, nơi hiện đang thu hút nhiều di dân lao động, một nhóm nhỏ người đồng hương Công giáo và tu sĩ truyền giáo đã gặp nhau. Họ bắt đầu ước mong được gặp gỡ thường xuyên hơn; và nếu tổ chức được Thánh lễ ít ra mỗi tháng một lần thì không còn gì hơn nữa. Đức tin của người tín hữu nghèo quả thật đơn sơ và thánh thiện! Ý tưởng thành lập cộng đoàn đã thu hút đáng kể sự chú ý của đồng hương, số người tham gia ban đầu có khi lên đến hơn cả trăm người.

Thời gian trôi qua. Số lượng thành viên trong cộng đoàn hiện nay dường như không gia tăng thêm, ngược lại còn có dấu hiệu sụt giảm. So với cánh đồng truyền giáo còn bát ngát ngoài kia, đó là những di dân lao động đồng hương mà con số thống kê có thể lên đến cả chục ngàn người, biết đâu trong số đó còn rất nhiều chiên lạc chưa tìm thấy bầy, nhóm cộng đoàn với chỉ vài chục người “cốt cán” này quả thật là quá nhỏ. Phải chăng có một điều gì đó không ổn!?

Nhóm cộng đoàn có thể được xem là hội đoàn Công giáo và đồng hương duy nhất trên vùng lãnh thổ mới này. Tất cả di dân lao động đến đây đều là người nghèo ngay trên chính quê nhà của họ, và dĩ nhiên là càng nghèo hơn giữa chốn phồn hoa đô hội này. Nói thế để biết khả năng đóng góp tài chánh của họ cho kinh phí hoạt động của nhóm là vô cùng hạn hẹp. Đúng hơn, nhiều người trong số họ có thể là “đạo gạo” – từ ngữ mà người ta thường dùng để nói về những ai đi nhà thờ hoặc theo đạo chỉ vì miếng cơm manh áo. Và điều này cũng nhằm để giải thích vì sao một số người ngại đi nhà thờ, nơi mà họ cảm thấy thêm mặc cảm trước những lời kêu gọi đóng góp. Cộng đoàn nhỏ càng nhỏ hơn trong những sinh hoạt định kỳ.

Ấy vậy, như tác giả Thanh Tâm đã phản ảnh, mỗi khi có “chuyện” thì con số người “xem lễ” lại tăng vọt. Những “chuyện” ấy là gì? Đó là những ngày lễ lớn, những dịp sinh nhật, bổn mạng, khấn dòng, tái khấn dòng, ngân khánh, kim khánh của các thầy, các cha (cho dù họ chỉ là khách vãng lai), hoặc khi có ca sĩ, nghệ sĩ nào đó ghé thăm.

Lễ lớn thường đi kèm với “hội”, vì sau lễ thì có ăn uống, vui chơi. Còn những lễ kỷ niệm của tu sĩ, linh mục: hoặc do tu sĩ, linh mục tổ chức mà họ đến vì nể nang; hoặc do các thành phần “cốt cán” tổ chức để mọi người được dịp chụp ảnh với “những người nổi tiếng”, những người mà ở quê nhà họ đừng hòng có dịp bén mảng đến gần (theo lời kể của một Chị ở giáo phận Mỹ Tho)!

Dĩ nhiên bên cạnh các động cơ chính mà không đáng trên còn có nhiều động cơ phụ khác, như niềm tin vào việc bố thí cho các linh mục, tu sĩ chẳng hạn, và trên hết tất cả đó là lòng quảng đại đơn sơ của tín hữu dành cho các “đấng”, “bậc”. Phải chăng đây chính là hậu quả của tâm lý mặc cảm tự tôn hay là thói khoa trương dường như đã trở thành một dạng tiểu văn hóa của một bộ phận người Công giáo Việt? Nói như Descartes, nếu tôi không chứng tỏ mình ra, nếu tôi không làm gì đó cho bằng chị bằng em thì người khác không biết sự hiện hữu của tôi! Hay nói như kiểu nhà đạo bình dân mà tôi học được, đó là giữ đạo kiểu “bùi chu” (thật sự tôi không biết tính từ ấy liên quan như thế nào với giáo phận Bùi Chu!).

Thật là một nghịch lý tại một vùng đất truyền giáo, khi mà các giáo phái khác đang hoạt động và làm chứng cho Chúa bằng đời sống giản dị và năng động, thì một số người Công giáo chỉ có nhu cầu hội họp để xum xuê với "truyền thống" không mấy chính thống của mình. Thật là một nghịch lý rất khó chịu khi những người nhân danh Chúa mà đến lại được tôn vinh nhiều lần nhiều cách trước Chúa, còn tín hữu nghèo lại được chiều chuộng theo não trạng bỏ tiền “mua vui một vài trống canh”, hơn là chăm lo học hỏi và sống đạo (như người Philippines chẳng hạn).

Thiết nghĩ, việc truyền giáo và tử đạo ngày nay đối với người Công giáo có lẽ cũng khó khăn không kém gì ngày xưa. Với các giáo sĩ, đó là giảng dạy những gì mình tin và thực hành những gì mình giảng dạy. Với các giáo dân, đó là cộng tác với các giáo sĩ và can đảm giúp họ thoát khỏi ảnh hưởng bởi tâm lý quần chúng, để họ thật sự được tự do làm việc cho Chúa, không còn phải bám víu vào chút danh còm, tiền còm, tình còm, quyền còm của thế gian nữa. Truyền giáo trước hết là đặt "chuyện" của Chúa phải lên trên mọi “chuyện” của thế gian.
 
Phúc âm hoá bản thân mình trước hết
Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
10:52 30/06/2010
Chúa nhật Thứ14 Mùa Thường Niên, Năm C - Luca 10, 1-12; 17-20)

Người chủ ruộng sẽ rất lo âu và sốt ruột khi nhìn thấy đồng lúa mênh mông bát ngát của mình đang vào thời kỳ chín rục mà chẳng tìm đâu ra thợ gặt để thu hoạch lúa về kho.

Chúa Giê-su cũng cảm thấy tâm hồn nôn nao xao xuyến khi phần đông nhân loại đang cần được cứu độ nhưng chẳng mấy ai dấn bước đem ơn cứu độ cho bao người.

Thế nên, khi sai 72 môn đệ ra đi, Chúa Giê-su căn dặn các ông: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ ruộng sai thợ ra gặt lúa về". Lời căn dặn nầy hôm nay cũng được lặp lại với mỗi người chúng ta. Đáp lời Chúa mời gọi, chúng ta sẵn sàng cầu xin có thêm thợ gặt, nhưng vấn đề là chúng ta sẽ cầu cho ai đi làm thợ gặt đây?

Ai là thợ gặt của Chúa?

Khi cầu xin ơn bình an, sức khoẻ và may mắn, thì chúng ta cầu cho bản thân ta trước; còn khi cầu cho có người làm thợ gặt trong cánh đồng của Chúa, thì chúng ta cầu Chúa ban ơn đó cho những người khác, ngoại trừ ta!

Nhưng, dù muốn dù không thì chúng ta đã là thợ gặt chính danh ngay từ khi được lãnh Bí Tích Thánh Tẩy. Nhờ Bí Tích nầy, chúng ta đã trở nên chi thể của Chúa Giê-su, nên đã được thông dự vào chức vụ ngôn sứ, tức sứ vụ loan Tin Mừng của Người. Vậy thì trách nhiệm ‘gặt lúa’ là trách nhiệm của chúng ta, không thể thoái thác được, trừ phi chúng ta tự tách lìa mình khỏi Thân Thể Chúa.

Là thợ gặt của Thiên Chúa, chúng ta cũng được sai đi để loan Tin Mừng Nước Trời, để đẩy lùi quyền lực của ma quỷ như 12 tông đồ và 72 môn đệ xưa.

Ai là người cần được rao giảng trước tiên ?

Đứng trước đồng lúa mênh mông, thợ gặt không biết phải bắt đầu từ đâu? Nói khác đi, phải loan Tin Mừng cho ai trước hết ?

Giáo điểm đầu tiên cần được truyền giảng Tin Mừng là chính bản thân chúng ta, vì dù mang danh là ki-tô-hữu nhưng có thể chúng ta còn xa lạ với Tin Mừng.

Xa lạ với Tin Mừng vì chúng ta chưa đọc hết Tin Mừng và chưa từng khám phá kho tàng khôn ngoan chứa đựng trong đó.

Xa lạ với Tin Mừng vì đời sống chúng ta và những giáo huấn của Tin Mừng còn cách biệt rất xa!

Nếu Tin Mừng của Chúa Giê-su chưa sáng lên trong cuộc đời ta, trong tim ta, trong lòng ta… thì làm sao chúng ta có thể đem lửa Tin Mừng ấy thắp lên cho người khác được. Không ai có thể cho điều mình không có.

Thế nên, chính bản thân chúng ta phải được phúc âm hoá trước, rồi ta mới có thể phúc âm hoá tha nhân.

Ai là người cần được xua trừ ma quỷ trước tiên?

Sứ mạng thứ hai mà Chúa Giê-su uỷ thác cho các môn đệ song song với việc loan báo Tin Mừng là giải thoát con người khỏi quyền lực của Sa-tan.

Chưa bao giờ quyền lực Sa-tan trở nên khủng khiếp và mãnh liệt như trong thế kỷ nầy. Ma quỷ đã tận dụng mọi phương tiện truyền thông như sách báo, văn chương nghệ thuật, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, internet, âm nhạc, hội họa… để lôi cuốn nhiều người vào cạm bẫy và tội lỗi.

Ma quỷ đang hoành hành khắp nơi trên thế giới, nhưng cũng phải nhận rằng ma quỷ cũng đang chi phối mạnh mẽ cuộc đời chúng ta, đang lôi kéo chúng ta làm nhiều điều sai trái.

Một người đang mang xiềng xích không thể giải thoát được ai. Vậy thì trước khi giải thoát người khác khỏi ách Sa-tan, chúng ta phải tự giải thoát mình trước.

Vậy người đầu tiên cần được giải thoát khỏi quyền lực ma quỷ lại cũng là chính chúng ta.

***

Qua Tin Mừng hôm nay, thánh Luca thuật lại cho chúng ta biết sau cuộc hành trình truyền giáo ngắn ngày, 72 môn đệ vui vẻ trở về báo cáo với Chúa Giê-su những thắng lợi vẻ vang: “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con”.

Xin Chúa giúp chúng ta cũng đạt được những thắng lợi vẻ vang như vậy ngay trên chính cuộc sống của mình.
 
Những Maria Madalene ngày nay
Lm. Giuse Trần Đình Long, sss
11:01 30/06/2010
Ngày 22 tháng 7, Giáo Hội kính nhớ thánh Maria thành Magdala (Mác- đa-la hay Ma- đa-le-na) là người được gọi đầu tiên trong số các phụ nữ được Chúa Giêsu chữa bệnh, nay theo và phục vụ Chúa (Lc 8,2). Tin Mừng nói về những người phụ nữ mang tên Maria được Chúa chú tâm cách đặc biệt. Ít nhất có 3 người. Đó là các bà Maria thành Béthania (miền Giuđê), bà Maria thành Magdala (miền Galilê), và người đàn bà tội lỗi vô danh trong Tin Mừng Thánh Luca (Lc7).

Kể từ thời Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả, Phụng vụ Giáo Hội La Mã, đều coi Maria này là người đàn bà tội lỗi, rửa chân cho Đức Giêsu (Lc 7,36-50) và là chị của Matta và Lazarô (Lc10,38-50; Ga 12,1-8). Tuy nhiên khoa Thánh Kinh ngày nay không xác tín điểm này. Điểm chắc chắn không ai tranh cãi là Maria đã đứng dưới chân thập giá Đức Giêsu (Mc 15,40-41). Bà hiện diện nơi cuôc mai táng của Chúa (Mc15,47) và vào buổi sáng Phục Sinh, bà với mấy phụ nữ đã đi ra mồ Chúa (Mc 16, 1-8). Chính bà là người đầu tiên được Chúa Phục Sinh hiện ra và sai đi báo cho các Tông Đồ Tin Mừng Phục Sinh.

Dù sao đi nữa, khi nhắc đến tên Mađalena là người ta nghĩ đến ngay một người phụ nữ tội lỗi sống sa đoạ làm cớ cho cả vùng Galilê dèm pha khinh dể. Nàng ăn chơi truỵ lạc đến nỗi trở nên nô lệ ma quỷ, bị ma quỷ ám hại,...

Chúng tôi đã gặp gỡ những chứng nhân của Lòng Thương Xót Chúa, những Maria Mađalena của ngày hôm nay. Những con ngựa hoang đươọc ơn hoán cải quay về với Lòng Chúa Xót Thương. Họ là diễn viên điện ảnh, là gái gọi, gái bao...

ÁNH ĐÈN SÂN KHẤU

Văn Hay Võ Giỏi

Bạn Trần Thị Ngọc Anh đến với cộng đòan cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa và Đức Mẹ giáo xứ Chí Hòa để làm chứng về những điều kỳ diệu mà Chúa đã thương xót cô nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria. Một giọng nói dễ nghe, lưu lóat thể hiện sự năng động và một ngoại hình ưa nhìn của cô gái 22 tuổi khiến mọi người chú ý. Đặc biệt là khi cô bộc bạch về cuộc đời mình.

Sinh ra trong một gia đình Công Giáo gốc, ba là ông trùm, mẹ là bà quản. Thế nhưng vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, Ngọc Anh phải rời xa gia đình lên thành phố sinh sống. Cô bé vào đời bươn chải từ khi mới 14 tuổi. Với cái tài ăn nói có duyên, khả năng diễn xuất tốt, cộng thêm tài võ thuật, Anh trở thành một MC dẫn chương trình, một ca sĩ, một diễn viên điện ảnh. Cô còn là một “cascadeur”, diễn viên chuyên đóng thế vai trong những pha nguy hiểm đến tính mạng mà diễn viên bình thường không dám làm.

Chúa Vẫn Cứ Chờ

Vốn là người con được sinh và lớn lên trong gia đình đạo đức, cha mẹ rất siêng năng và gương mẫu, nhưng cuộc sống cơm áo gạo tiền đã cuốn hút làm cho Anh ngày một xa Chúa hơn. Cô tâm sự rằng có khi cả năm trời không bước chân đến nhà thờ. Cứ thế, Anh bận bịu trải đời mình trên những thước phim trong cũng như ngoải nước, và chỉ biết làm sao cho ấn tượng dưới ánh đèn sân khấu.

Cuộc sống và nghề nghiệp của đứa con gái út như thế khiến gia đình cũng không mấy an tâm. Các chị khuyên lơn nhưng xem ra không có gì thay đổi. Cô chỉ nhớ đến Chúa và kêu cầu trong những lần quay phim mà cô phải đóng thế vai trong những pha nguy hiểm chết người như nhảy lầu, té có độ cao … được việc rồi lại thôi không màng gì đến Chúa nữa. Thế mà Chúa vẫn cứ kiên nhẫn chờ đợi.

Biến Cố Trong Đời

Thời gian gần đây, Anh có vấn đề về sức khỏe. Như một tiếng sét kinh hòang bên tai mình khi bác sĩ cho biết Anh bị bệnh ung thư máu. Mọi thứ như sụp đổ, ở cái tuổi tràn đầy sức sống này! Còn đó bao nhiêu là ước mơ. Những dự định cho tương lai phía trước làm sao thực hiện được khi “cái án tử” treo trên đầu mình? Vậy mà người bạn trẻ này vẫn giấu hết mọi người về căn bệnh nan y. Gia đình cũng không hề hay biết. Có một điều chắc chắn đó là lòng thương xót của Chúa vẫn luôn dành cho đứa con gái đầy cá tính này. Như bà thánh Mônica, nguời chị của Anh không nản chí, cứ liên tục nhắc nhở và mời gọi Ngọc Anh đến Chí Hòa cầu nguyện. Đã năm lần bảy lượt cô em từ chối với đầy đủ lý do. Cho đến khi Anh tự nhủ thôi thì đi cho chị mình vừa lòng, để chị cứ nói mãi nghe nhức đầu quá. Lần đầu tiên đi cầu nguyện hết sức miễn cưỡng, chỉ vì nể chị mình mà Anh đến đây.

Nhưng lạ lùng thay, ba tiếng đồng hồ trôi qua thật nhanh, Anh xác tín rằng nếu không phải là ơn Chúa giúp thì với tính cách năng động của mình Anh không thể nào chịu ngồi im đọc kinh dâng lễ lâu như thế được. Quỳ dang tay cầu nguyện với mọi người dưới trời nắng chang chang vậy mà không thấy chút gì mệt mỏi. Tình yêu bao la của Thiên Chúa và sự chăm sóc dịu dàng của Mẹ Maria đã làm tan chảy trái tim cứng cỏi của người bạn trẻ này. Cô đã trải lòng mình trong tâm thư Nhờ Mẹ Đến Với Chúa, những ưu phiền bệnh tật, tín thác cho Chúa tất cả.

Cầu Được Ước Thấy

Ngọc Anh rất vui mừng chia sẻ về mọi điều kỳ diệu mà Chúa đã thương ban cho mình. Ơn trọng nhất là được hòa giải với Chúa sau bao tháng ngày nguội lạnh, khô khan. Có Chúa là có tất cả, Chúa không chỉ cứu phần hồn cho người bạn trẻ này mà còn cho cô hy vọng sống đang khi mắc căn bệnh nan y ung thư máu. Các bác sĩ cho biết rất may là Anh phù hợp với một lọai thuốc có thể được lành bệnh 100%. Thật tuyệt vời! Lời nhắn nhủ của Ngọc Anh đến mọi người đạc biệt là các bạn trẻ là: hãy đến với lòng thương xót của Chúa để được Chúa nâng đỡ chở che vì như Chúa đã hứa trong câu kinh chúng ta vẫn đọc để cầu khẩn lòng thương xót của Chúa: “thà rằng trời đất này biến ra không nhưng lòng thương xót của Ta luôn ấp ủ một linh hồn tín thác”.

Ôi lạy Chúa Giêsu giàu lòng thương xót, tạ ơn Chúa đã cho chúng con được thấy Tình Yêu vô biên và Quyền Năng của Chúa qua chứng nhân là người bạn trẻ này. Con xin ngợi khen chúc tụng Chúa muôn đời. Amen.

TÂM SỰ KẺ TRỞ VỀ

Tôi là con út của một gia đình có bảy anh chị em. Gia đình tôi là đạo gốc, cha mẹ tôi là ông bà trùm ở nhà thờ. Nhưng điều nghịch lý của cuộc sống là “cha mẹ làm thầy thì con đốt sách”. Từ nhỏ tôi đi nhà thờ như một sự bắt buộc, một bổn phận không đi không được. Thời gian cứ thế trôi qua, tôi cũng đi học giáo lý xưng tội, thêm sức. Cha tôi hằng tuần còn chở tôi đi học khoá giảng dạy giáo lý. Hình như cha tôi đoán được tương lai sa đọa của tôi cho nên cố ép tôi đi sinh hoạt ở nhà thờ. Nhưng lòng tôi không hề hướng về những nơi đạo đức ấy. Nơi mà được gọi là nhà thờ theo suy nghĩ của tôi lúc ấy sao buồn chán và lạnh lẽo thế! Tôi đã tự chọn hướng đi khác theo ý thích của mình.

Tình yêu đầu đời của tôi bắt đầu năm 16 tuổi. Không ngờ tình yêu vụng dại ở tuổi mới lớn ấy đã giết chết cả cuộc đời tôi. Tôi bị gia đình người ấy từ chối vì lý do hai đứa không cùng tôn giáo. Chúng tôi đành phải chia tay nhau. Đó cũng là lúc tôi vừa tốt nghiệp phổ thông xong. Chán nản, tôi bỏ nhà “đi bụi” để được sống tự do, muốn làm gì thì làm, không bị một rào cản nào.

Cái gì cũng có cái gía của nó. Người ta phải làm việc để mưu sinh, tôi may mắn có chút nhan sắc nên đã dùng nó làm vốn nuôi thân. Tôi làm nghề có tên gọi nôm na là “gái bao”. Tôi quen với những ai có thể cung phụng cho tôi đầy đủ vật chất, xe đưa, kiệu đón, ăn uống ở những nơi sang trọng.

Năm 20 tuổi, tôi gặp người yêu thứ hai. Lúc này tôi chuyển nghề sang làm “vợ bé”, hình thức không khác nhưng nội dung thay đổi đôi chút. Tôi trở thành”cục cưng” của người lớn hơn tôi 15 tuổi, đã có vợ con. Tôi sống ở một khách sạn sang trọng nhưng lại như một con búp bê chưng trong tủ kính. Mãi mãi tôi chỉ là người đến sau, người sống trong bóng tối. Dù tôi có thể đi du lịch, ở những nơi sang trọng, nhưng những ngày lễ Tết hay Chúa Nhật, người ấy thuộc về gia đình họ, vợ con họ. Tôi làm gì trong những ngày trống trải vô nghĩa ấy? Đi “lắc” chứ làm gì nữa. Lắc cho quên đời ! Đầu óc lúc ấy bay bổng, trống rỗng, mất hết cảm giác. Dần dần số tiền người ấy cung phụng cho tôi không đủ xài, “đô” của tôi ngày càng tăng. Tôi phải đi làm thêm ở các quán karaoke ôm, các vũ trường có người nước ngoài, và có lúc còn đi “lắc” thuê nữa. Có lần tôi đã phá kỷ lục “lắc” 7 ngày 7 đêm liền. Sau đó tôi phải nhập bệnh viện để truyền nước biển, truyền đạm vì kiệt sức, xỉu ngay tại “chiến trường”.

Sau vài năm ăn chơi trác táng phí sức như thế, sức khỏe tôi yếu dần. Khuôn mặt cũng ít hồng hào như xưa vì phải đi ăn đêm, nhậu đêm, nhằm mục đích “câu khách” ham vui. Một hôm trong lòng cảm thấy buồn chán, tôi gọi người bạn đi Champa chơi. Người đó không rảnh và cho tôi số điện thoại của bạn người ấy (tức chồng tôi bây giờ). Lúc gặp mặt tôi đặt thẳng vấn đề: “muốn đi chơi thì 100 USD!” Sau này chồng tôi kể lại rằng thật sự lúc ấy anh ta rất “sốc” vì tính thẳng thắn và lì lợm của tôi. Dần dà anh thành khách quen ngày nào cũng đi với tôi. Có lần “cắn thuốc” mấy ngày mấy đêm liền. Cứ thế rồi chúng tôi cưới nhau sau bao ngỡ ngàng của gia đình hai bên. Một đứa con dâu tóc vàng hoe và đang có thai nữa chứ. Đám cưới diễn ra nhanh chóng chỉ trong vòng một tháng. Cưới nhau được 5 tháng, con tôi chào đời, và “địa ngục trần gian” cũng bắt đầu từ đây. Chồng tôi đam mê cá độ bóng đá hơn cả vợ con. Tôi thất nghiệp, không làm ra tiền. Con cái nheo nhóc, léo nhéo. Thời tiết nóng nực. Sống trong cái không khí nặng nề ấy dường như không thở nổi. Tôi đã bỏ Chúa 8 năm trời. Không bước chân đến nhà thờ, không đọc kinh và cầu nguyện với Chúa nữa. Tôi đã “lì” mà Chúa còn “lì” hơn tôi!

Năm 2007, một người bạn làm chung rủ tôi đến nhà thờ cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa: “Mày xin gì được nấy. Và ở đó có một ông cha giảng vui lắm, hay lắm!” Như người sắp chết đuối vớ được cái phao. Tôi tò mò muốn đến tận nơi xem người bạn nói có thật hay không, và cũng muốn xin nhiều thứ với Chúa. Từ đó, tôi bị cuốn hút, không bỏ ngày nào. Tôi đã xin nhiều thứ với thầy Giêsu: xin trả được nợ, mua được xe… Những thứ này có nằm mơ cũng không dám, vì lúc đó vợ chồng tôi trắng tay với một đống nợ hơn trăm triệu. Nhưng cảm nhận của tôi mỗi khi bước ra từ nhà thờ là được thanh thản và bình an. Sự bình an mà có tiền cũng không mua được.

Lòng thương xót Chúa lớn hơn tôi nghĩ bội phần. Không thể ngờ được, chỉ sau vài năm quay về với Chúa, chúng tôi mua được mỗi đứa một chiếc xe máy để đi làm. Không những trả hết nợ, mua sắm đủ thứ, mà còn rủng rỉnh chút tiền gửi tiết kiệm nữa. Ôi lạ lùng thay, quyền năng và lòng thương xót Chúa qua lời bầu cử của Mẹ Maria! Những đồng tiền tôi kiếm ra bây giờ hoàn toàn chân chính. Vì suốt ngày tôi phải bán lưng cho trời bán mặt cho đất để đổi được những đồng tiền ấy. Không một lời cảm ơn nào có thể diễn tả hết. Tôi tìm đến toà hoà giải để giao hòa với Chúa. Bấy lâu tôi chỉ là người nghe và khóc chứ chưa được thổ lộ với Chúa như lúc này. Trong đầu tôi văng vẳng bài hát tôi đã được hát khi học khoá cầu nguyện:

“Biến đổi đời con Chúa ơi! Khi con nghe lời Chúa dạy. Khi con sum vầy bên Chúa. Khi con từng ngày khát mong. Con sống trong Ngài. Con luôn khát khao hoài. Một cuộc đời đổi mới Chúa ơi!”

Không biết cuộc đời tôi kết thúc có hậu như những bộ phim truyền hình lãng mạn hay không. Nhưng gia đình tôi bây giờ đã tương đối ổn định, chỉ tương đối thôi chứ làm sao hoàn hảo được?

Lời cuối tôi muốn nhắn nhủ các bạn trẻ rằng: đừng bước vào vết xe đổ, vào vũng xình như tôi. Cuộc đời còn biết bao cái đẹp, có ý nghĩa để sống. Đừng coi cái TÔI của mình là số một, vì chung quanh còn có tình yêu, gia đình, bạn bè nữa. Và nhất là tình yêu của Giêsu, đã chết cho mình. Khi nào buồn chán, các bạn hãy tham gia công tác bác ái xã hội. Đến những nơi đó sẽ thấy có những mảnh đời bất hạnh, buồn khổ hơn các bạn, đang cần đến các bạn. Đọc trong cuốn “Tâm Thư Lòng Nhân Hậu của Cha” bạn sẽ thấy mình là “sáng tạo nhiệm mầu nhất với tất cả thương yêu của Cha”. Hãy sống xứng đáng với phẩm giá cao quý đó. Đừng vì ham muốn vật chất hoặc đam mê điên cuồng của tuổi trẻ mà đánh đổi cả cuộc đời mình như tôi. Uổng phí lắm các bạn ạ!

Lời Chúa khẳng định với chúng ta: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp để anh em có sức chịu đựng.” (Côrintô 10,13).

Thúy Kiều thời đại mới

CHÚA XÓT THƯƠNG NGƯỜI PHỤ TÌNH

Một chiều mưa như trút nước của miền đất đầy nắng gió. Đó là cái ngày đánh dấu lần đầu tiên tôi quen anh. Thấm thoát cũng đã ba năm, tôi những tưởng tình yêu đó không bao giờ xa cách. Thế mà! Cuộc đời này có gì là không thể xảy ra. Một buổi chiều, anh đưa tôi vào một quán cafe thật yên tĩnh và thơ mộng có dòng thác nhân tạo cất lên tiếng róc rách như lời tâm sự của đá. Anh buồn buồn nói lời tạm biệt vì phải theo gia đình đi định cư ở Mỹ. Những giọt nước mắt cay xè bắt đầu rơi. Tôi như chết lịm đi, nhưng rồi cũng phải chấp nhận sự thật. Tôi tiễn anh ra phi trường mà lòng chất chứa nỗi buồn, ngổn ngang tâm sự.

Đã hai tháng trôi qua từ ngày anh tạm biệt tôi nhưng sao trong tôi vẫn còn cái cảm giác trống rỗng, thiếu vắng như những ngày đầu xa anh. Tôi biết anh đang vất vả gầy dựng cơ nghiệp để có điều kiện bảo lãnh tôi qua đoàn tụ bên anh…

Trong lúc cô đơn trống vắng đó, tôi quen một anh chàng bên cạnh lớp. Lúc đầu tôi chỉ muốn tìm một ai đó để khỏa lấp nỗi trống vắng. Nào ngờ mối quan hệ ấy ngày càng tiến xa hơn. Và trong phút yếu lòng, tôi đã ngã vào vòng tay người bạn mới mà quên đi mối tình đầu với anh tưởng chừng như không gì có thể thay thế được.

Mỗi tháng ở bên Mỹ anh cặm cụi làm để gởi về cho tôi tiền học phí, tiền tiêu vặt… Thế nhưng anh đâu biết tôi đang sử dụng những đồng tiền mồ hôi nước mắt ấy chi vào việc “tình phí” cho người yêu mới. Tôi dường như cuồng si trong tình yêu mới mẻ này. Tôi là người chi trả mọi chi phí thuê nhà, sinh hoạt, sắm sửa, ăn uống…Tôi không hề biết người bạn trai mới này đang lợi dụng tôi. Con ma dục vọng, ham mê xác thịt đã làm tôi mờ mắt, không còn biết phải quấy gì nữa.

Sau hai năm trời xa cách, anh trở về quê hương tìm người tình cũ. Tôi vội vàng chia tay người bạn trai mới mà không nghĩ đến hậu quả đau lòng sẽ xảy ra. Anh về được ba ngày thì phát hiện ra tôi đã lừa dối anh suốt hai năm trời vắng mặt. Chính người bạn trai mới đã tìm đến anh và nói hết sự thật. Hắn còn đưa cho anh đọc những bức thư tình tứ mà chúng tôi viết cho nhau, những tấm hình chụp chung giữa tôi và hắn, rồi cả những bức thư tôi nhắn gởi tiền cho hắn suốt hai năm qua. Lúc này tôi chỉ muốn hắn chết quách đi cho rồi, nhưng sự thật vẫn là sự thật...

Anh chết lặng đi từ giây phút đó và quyết định về lại nước Mỹ không một lời từ biệt, chỉ gởi tin nhắn lại: “Tôi thất vọng về cô. Tôi yêu cô biết dường nào thế mà cô đã phụ tình tôi. Tôi không bao giờ tha thứ cho cô " Đọc xong bản tin, tôi lạnh hết người. Đúng, tôi là kẻ phụ tình. Tôi đã tự mình đánh mất tất cả. Tôi căm hận bản thân mình, và không còn muốn sống thêm một ngày nào nữa. Cho dù lấy hết nước sông Hằng cũng không thể nào rửa sạch tội lỗi của tôi. Từ đó ý nghĩ "tự sát" luôn nổi dậy trong tôi...

Một buổi chiều, trong tâm trạng tuyệt vọng, tôi tiến dần ra bờ sông, đến cái ngãng của sự sống và chết. Chỉ một phút nữa thôi, tôi sẽ trầm mình xuống giòng sông kia để không còn bị dằn vặt đau khổ nữa. Những điều đó luôn là ý nghĩ của những người tội lỗi như tôi. Chợt một cánh tay kéo tôi lại: "T. phải không ? Sao lại đứng gần mép cầu vậy?" Tôi cố giật tay cô bạn ra và định nhảy xuống giòng nước đang cuồn cuộn chảy. Cô bạn ôm chặt lấy tôi, cố hết sức giữ tôi lại. Sau một hồi vùng vẫy, tôi mệt lả, nằm vật xuống đất, bật khóc và bắt đầu tâm sự.

Cô bạn đã hiểu chuyện gì xảy ra với tôi. Cô bảo tôi: “Mình hiểu tâm trạng của bạn rồi. Lên xe đi. Mình đưa bạn đến nơi này. Hy vọng bạn sẽ tìm được lối thoát.” Tôi thẫn thờ bước lên xe, trong đầu vẫn còn vương vấn ý định nhảy xuống sông tự vẫn… Xe chạy loanh quanh thành phố, đến quận Tân Bình, vào đường Bành Văn Trân. Tôi nhớ hôm đó là chiều thứ năm, con đường tấp nập người qua kẻ lại như đang trẩy hội. Xe dừng lại, tôi nhìn xung quanh, mọi thứ thật xa lạ với mình. Ngước nhìn lên cổng, thấy tấm bảng đập vào mắt tôi hàng chữ "Nhà Thờ Chí Hòa". Tôi là người ngoại đạo mà cô bạn dẫn tôi đến nhà thờ làm gì? Cô bạn nắm tay tôi dắt vào trong sân nhà thờ. Trước mắt tôi một cảnh tượng thật lạ lùng. Dưới cái nắng chói chan, người người kéo nhau đến như nước chảy. Họ đông như thế mà không chen lấn, xô đẩy, la lối. Nét mặt thanh thản, nghiêm trang trật tự, kẻ trước người sau hàng hàng lớp lớp thành kính giang tay nguyện cầu mặc cho cái nắng như thiêu như đốt. Tôi ngơ ngác chưa hiểu như thế nào thì được cô bạn giải thích: “Mỗi chiều thứ năm bà con lương giáo kéo đến đây cầu kinh đông lắm. Họ cầu khấn Lòng Thương Xót Chúa đó. Nhiều người buồn sầu đau khổ thất vọng như bạn xin được ơn đấy. Bạn đến cầu khấn đi!" Tôi vẫn còn hơi chút nghi ngại... trầm ngâm một lúc.

Bên trong ngôi thánh đường phát ra một giọng nói của ai đó lúc trầm lúc bổng, nghe thôi mà đã thấy gần gũi. Thật sự mà nói tôi đã bao giờ nghe giảng đạo đâu. Tôi tưởng việc đó chỉ dành cho người trong đạo mà thôi. Ay thế mà chiều hôm đó, một con người chưa biết đạo là gì đã phải trầm ngâm nhìn lại mình sau bài giảng đó. Hỏi ra tôi mới biết đó là một linh mục với biệt danh là "Lãng tử". Những lời gợi ý của vị linh mục đó giúp tôi gần gũi với mọi người hơn sau những câu chào hỏi, những cái bắt tay thân thiện. Quan trọng hơn hết là bài giảng đã mở rộng tâm hồn tôi, giúp tôi thấy được giá trị của mình và biết quý trọng sự sống hơn.

Tôi ra về như người về từ cõi chết. Tâm hồn bình an, tôi cảm thấy dường như mình được sự ưu ái của Thiên Chúa quá nhiều. Chính từ hôm đó, Ngài hoán cải tôi trở nên một con người mới. Tôi bắt đầu biết tha thứ cho bản thân mình, tha thứ cho những ai làm tôi buồn lòng. Tôi thầm hứa với Ngài sẽ sống tốt hơn để bù lại những tháng ngày tội lỗi. Quả thật Lòng Thương Xót Chúa không bao giờ vơi cạn, Ngài đã hy sinh thân mình mà cứu chuộc những người tội lỗi như tôi. Ngài luôn giang tay đón mời những ai có lòng sám hối. Cũng nhờ ngày thứ năm ấy mà tôi biết được đã gần vào Mùa Phục Sinh, ngày mà Chúa chết đi để dành lại cho tôi và biết bao người sự sống. Tôi cũng đã chết đi và hôm nay cũng đã được Phục Sinh cùng Ngài với một con người mới, một tâm hồn mới, không còn vương vấn bụi bẩn của quá khứ. Tuy tôi là người ngoại đạo nhưng Ngài không hề xem tôi là người xa lạ. Trong trái tim Chúa, tôi vẫn có được một chỗ nghỉ ngơi. Lòng Chúa xót thương vẫn dành cho tôi, một người phụ tình.
 
Bù Đăng nắng bụi mưa lầy
Lm. Giuse Trần Đình Long, sss
11:39 30/06/2010
“Nếu cuộc đời vắng bóng Thánh Linh, thì Thiên Chúa sẽ nghìn trùng xa cách…”

o Thánh Thần Quy Tụ và Sai Đi

Trong thời đại @ này, dường như khoa học kỹ thuật càng lên cao thì tình người càng đi xuống. Người ta sống như những “rôbô”, nhịp sống thời gian tính toán chính xác đến từng mili mét, nhưng lại vô cảm trước những thống khổ của đồng loại. Thượng Phụ Giáo Chủ Athenagoras đã thốt lên: “Nếu cuộc đời vắng bóng Thánh Linh, thì Thiên Chúa sẽ nghìn trùng xa cách…” Thánh Thần là tình yêu. Ở đâu vắng bóng tình yêu, thì đúng là Thiên Chúa mãi nghìn trùng xa cách. Tạ ơn Chúa. Thánh Thần tình yêu đã rợp bóng trên Cộng Đoàn Cầu Nguyện Lòng Thương Xót Chúa giáo xứ Chí Hòa. Mỗi chiều thứ năm tại đây như một “tổ ấm yêu thương” của cả chục ngàn người đủ mọi tầng lớp già trẻ, lớn bé, khoẻ yếu, giàu nghèo, sang hèn, từ muôn nơi hội tụ lại. Trong bầu khí gia đình, ấm áp tình Chúa tình người, họ đến để cảm nghiệm lòng Chúa xót thương và thể hiện lòng yêu thương đối với Thiên Chúa qua hình ảnh con người nơi trần gian. Họ tập tành sống yêu thương như cộng đoàn tín hữu đầu tiên “luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Tất cả hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung…” (Cv 2,42-44). Tình hiệp thông đó biểu lộ trong lời cầu nguyện cho nhau mỗi buổi họp mặt và những đóng góp sẻ chia đến với những người đau ốm bệnh tật, ngặt nghèo và những anh chị em ở vùng sâu vùng xa trong những chuyến cộng tác bác ái hàng tháng.

Hơn 200 bạn trẻ trong Đội Quân Áo Xanh của cộng đoàn Lòng Thương Xót Chí Hoà được chính Thánh Thần quy tụ và sai đi. Tìm đâu ra được những thiện nguyện viên nhiệt tình như thế trong thời buổi @ vô cảm này? Chỉ có sức mạnh tình yêu của Thánh Thần mới biến đổi được lòng của họ, để thay vì “vô cảm”, họ lại “nhạy cảm” trước muôn vàn thống khổ của đồng loại. Tình yêu Đức Kitô thúc bách hơn 150 Cánh Chim Xanh lên đường trong ngày Lễ Chúa Thánh Thần với hành trang là 1000 phần quà của cộng đoàn Lòng Thương Xót Chúa và Đức Mẹ giáo xứ Chí Hòa chắt chiu dành dụm trong tháng hoa kính Đức Mẹ. Những bông “hoa tình thương” này được trao tận tay 1000 gia đình anh chị em nghèo khó thuộc giáo xứ Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, giáo phận Ban Mê Thuột, chắc chắn đẹp lòng Đức Mẹ hơn hẳn những bông hoa tươi tốn kém rình rang nghi thức.

o “Bù Đăng nắng bụi - mưa lầy”

Thánh Thần vẫy gọi những Cánh Chim Xanh cùng với 6 xe tải chở hàng chục tấn hàng hoá tạm rời “đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ” vượt quãng đường hơn 200 cây số đến với “Bù Đăng nắng bụi - mưa lầy” trong đêm thứ bảy 22-05-2010.

Miền đất nắng bụi mưa lầy này là một cánh đồng truyền giáo mênh mông bát ngát. Chỉ có 2 mục tử chăm sóc 12500 con chiên, gồm 14 dân tộc, ngôn ngữ chính là M-Nông, S-Tiêng, ở rải rác trong 35 sóc, bao gồm 5 xã và một thị trấn. Đường xá đi lại khó khăn, không có phương tiện giao thông, bà con không có điều kiện đến nhà thờ Bù Đăng, nên 2 mục tử phải thay phiên nhau đến tận các sóc thăm mục vụ và dâng Thánh Lễ cho họ. Sóc xa nhất đi về mất 125 Km! Hiện thời mới cất được 12 nhà nguyện cho 35 sóc, cho nên có những “nhà nguyện” chỉ là mái tranh vách nứa lụp xụp như một túp lều nơi rừng hoang. Thánh Thần cũng sai các thợ gặt thuộc dòng Nữ Vương Hòa Bình, Mến Thánh Giá Tân Việt, Thừa Sai Việt Nam, Đức Bà Truyền Giáo dấn thân trên cánh đồng truyền giáo này.

Tiếng chuông sớm mai vang vọng núi đồi đánh thức những chú chim xanh còn ngái ngủ và bà con từ các buôn làng mau chân đến mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, ngày khai sinh Giáo Hội. Những lời giảng và cách thức cử hành phụng vụ sống động của linh mục lãng tử đem lại bầu khí tươi mới cho người dân nắng bụi mưa lầy. Món quà Thánh Thần gởi đến là những tràng chuỗi Mân Côi, những bức ảnh Lòng Thương Xót Chúa được những Cánh Chim Xanh trân trọng trao tận tay bà con trong niềm xúc động nghẹn ngào.

o Đak-La với Giếng Nước Lòng Thương Xót

Điểm hẹn Thánh Thần sai đến đầu tiên là sóc Đak-La với 50 phần quà cho những anh chị em dân tộc M-Nông. Đây là điểm hẹn xa nhất, gian khổ nhất, và cũng nghèo khó nhất. Không có đường cho xe lớn đi xuyên qua 3 cây số vườn điều, ngoài xe máy cày. Thế là 150 sứ giả lòng thương xót phải đứng ngồi nhồi nhét trên 3 chiếc xe máy cày ì ạch leo qua những đoạn đường gập nghềnh bụi đỏ, những con dốc cao xe đi nửa chừng như muốn trượt xuống làm những cánh chim xanh nhiều phen thót tim. “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”. Vâng, chỉ có tình yêu mới thúc đẩy những cánh chim xanh vượt nổi chặng đường gian khó đến được sóc Đak-La loan truyền Lòng Thương Xót Chúa. Những khuôn mặt nhọc nhằn, những mái tóc cháy xém còn đượm mùi khói bụi hân hoan đón nhận phần quà gồm 10kg gạo, 1 bao quần áo, 15 gói mì, 3kg muối và đặc biệt là một trái bóng bay ngộ nghĩnh cho các em nhỏ. Những bệnh nhân được các bác sĩ, y sĩ chăm sóc tận tình. Những mái tóc bù xù được cắt tỉa gọn gàng. Người dân nơi tận cùng nỗi khó này nở nụ cười hạnh phúc vì chưa bao giờ có phái đoàn nào đông đảo đến tận nơi trao cho nhiều quà đến thế. Màu áo xanh hy vọng cùng với những chiếc áo blue trắng dưới ánh nắng vàng đem lại niềm hy vọng tươi sáng cho nơi đây. Cơn mưa trái mùa tháng trước làm cho 6 ngôi nhà bị tốc mái đã được cộng đoàn Lòng Thương Xót Chí Hoà hỗ trợ sửa chữa lại cho đỡ cảnh “nắng vẫn tới đầu, mưa vẫn đến mặt”!

Sau khi phát quà, những cánh Chim Xanh tủa ra thăm bà con trong sóc. Ở thành phố, lâu lâu bị cúp điện đã thấy khó chịu lắm rồi. Ấy thế mà ở đây, cho đến bây giờ, các mái nhà tranh vẫn còn lụp xụp trong ánh đèn dầu. Họ chưa có điện! Thật xót xa và nghịch lý vì đường dây “cao áp” 5000KV ngất ngưỡng đi qua sóc nhưng không chịu “hạ áp”. Người dân chỉ ngước nhìn đường dây điện băng ngang qua mà vẫn chưa biết điện là gì? Thế kỷ 21 rồi mà sao tăm tối vẫn mãi tối tăm thế này, Chúa ơi!

Dừng lại trước một ngôi nhà tranh rách nát, cánh cửa bằng phên tre thấp ngang nửa người, không thể coi là nơi “đi qua đi lại” mà phải gọi là nơi “chui ra chui vào”. Cặp vợ chồng già không có con, đến tuổi 2 màu tóc vẫn nương tựa bên nhau nhọc nhằn kiếm sống qua ngày. Trong nhà hầu như không có một vật dụng nào đáng giá. Đã qua rồi cái thủa “một túp lều tranh, hai trái tim vàng”, nhưng ngôi nhà lụp xụp chan chứa tình yêu thương đó chính là “lâu đài tình ái” của hai ông bà. Có nhiều cặp vợ chồng đại gia sống trong đảo Kim Cương nhưng mãi chỉ là 2 viên sỏi bất hạnh kề cận nhau vì họ thừa tiền của mà thiếu tình yêu!

Trong suốt tháng Hoa, cha linh hướng kêu gọi cộng đoàn giúp cho sóc Đak-La đây một giếng nước mang tên là “Giếng Nước Lòng Thương Xót”. Khi chúng tôi đến đây, giếng nước đang được khoan. Có giếng rồi lại phải lo máy phát điện để bơm nước lên. Cầu mong có nhiều bàn tay đưa ra trợ giúp cho giấc mơ “Giếng Nước Lòng Thương Xót ” mau thành hiện thực để mỗi ngày bà con khỏi phải lội bộ 5 cây số đến suối múc nước về dùng. Những ánh mắt người dân khát bỏng ngóng chờ từng ngày từng ngày mạch nước từ giếng khoan trào lên. Lòng Thương Xót Chúa cũng tuôn tràn như thác lũ, cuốn tất cả mọi người vào nguồn mạch yêu thương.

o Thánh Thần Dắt Từ Sóc Này Tới Sóc Kia

Rời Dak-La những cánh chim xanh vội vã nhét mình vào 3 chiếc xe máy cày nhích từng vòng quay đến sóc Bù Tre và Sơn Thành, đem theo 300 phần quà của Lòng Thương Xót. Vì lệ thuộc vào xe máy cày, muốn đi nhanh cũng không được, nên chúng tôi đã trễ hẹn với bà con gần một tiếng đồng hồ. Họ vẫn kiên nhẫn đứng nắng chờ đợi trong niềm hy vọng, chẳng hề kêu ca lấy một tiếng.

Không một phút nghỉ ngơi sau khi vượt qua “con đường đau khổ”, những cánh chim xanh đon đả chuyển từng món quà xuống một cách cẩn thận. Kẻ trao người nhận đều cảm thấy hân hoan của sự sẻ chia và đón nhận. Đúng là một lễ hội Lòng Xót Thương đang diễn ra nơi “nắng bụi mưa lầy” trước con mắt lạ lẫm của khách đi đường.

Buổi trưa hôm đó đúng là một bữa tiệc của tình huynh đệ. Những cánh chim xanh dừng chân ghé bến ngay trong vườn điều để ăn trưa. Tốp này chia nhau miếng bánh mì. Tốp kia trao nhau cái bắp, củ khoai. Tiếng hát, tiếng cười rộn rã xua tan đi mỏi mệt. Những tán lá điều là bóng mát che đầu cho những chú chim xanh suốt nửa ngày bị “nướng” ở vùng đất nắng bụi mưa lầy.

Dù muốn nằm lại dưới tán lá điều, nhưng còn 4 sóc nữa bà con đang chờ. Thánh Thần lại thúc dục, phải lên đường thôi. Những Cánh Chim Xanh lại giãi nắng băng mình cắp hơn 600 phần quà đến 3 sóc Sơn Lang, Sơn Tùng, Sơn Hòa. Cái nghèo đã cướp đi của họ tất cả để đổi lấy là những làn da rám nắng, những khuôn mặt hằn vết chân chim, những đôi mắt hõm sâu trĩu nặng nhọc nhằn. Thu nhập một năm chỉ trông chờ vào mùa điều, nhưng vì quá nghèo cho nên họ thường phải bán điều non trước cả 2 -3 vụ cho cánh lái buôn với giá rất rẻ để trang trải cho cuộc sống. Đến mùa điều chủ nợ đến thu sạch. Họ trắng tay, phải làm thuê làm mướn kiếm sống qua ngày. Cuộc sống của họ như chiếc bánh xe cứ lăn tròn rồi lại quay đều một nhịp. Sự xuất hiện của những cánh chim xanh làm cho bầu không khí trở nên tươi vui. Những chiếc bong bóng đủ sắc màu tung tăng chạy nhảy trên tay các em nhỏ thấp thoáng như những cung đàn cao thấp chính là niềm hy vọng của các em. Một bà mẹ trẻ gùi đứa con nhỏ sau lưng, tay khệ nệ ôm quà, mắt ngấn lệ, giọng rưng rưng: “Chưa bao giờ có ai đến đây cho nhiều quà như thế này. Bong bóng đẹp quá! Lại còn được cắt tóc, khám bệnh phát thuốc miễn phí nữa. Mừng lắm!”

Rời Sơn Hòa khi mặt trời đã đứng bóng, những Cánh Chim Xanh thấm mệt, rã rời sau một ngày dài, nhưng Thánh Thần vẫn thúc dục họ lên đườøng đến sóc cuối cùng mang tên… Bù Rách. Đúng thật là…rách! Trở ngại cuối cùng. Xe 45 chỗ không vào được, mà những Cánh Chim Xanh đuối lắm rồi, không còn sức để cuốc bộ 3 cây số nữa. Nét ưu tư hằn rõ trên khuôn mặt Chim Đầu Đàn. Không thể bỏ rơi sóc Bù Rách này được. Trời chập choạng tối rồi. Làm sao đây? Người trưởng đoàn nảy ra sáng kiến đi bằng xe chở hàng vì không thể lỗi hẹn với bà con. Chim Đầu Đàn ra lệnh bỏ xe 45 chỗ ở bìa rừng, cả người cả hàng nhồi nhét nhau trên 3 xe tải tìm đến sóc Bù Rách lúc chiều ngả bóng bên nương đồi. Chim Xanh đã “dốc hết tình này” cho Bù Đăng nắng bụi mưa lầy rồi đó!

o Lời Nguyện Thay Lời Kết:

Lạy Chúa là Thần Khí Sự Sống và Tình Yêu, xin ban cho con một thời để yêu và một thời để sống; để con sống vì tình yêu Thiên Chúa, để con yêu vì cuộc sống muôn loài.

Xin cho con biết đưa tình yêu vào cuộc sống, để mỗi giây phút sống, con đều cảm nhận được niềm hạnh phúc yêu thương.

Xin cho con biết đưa cuộc sống vào tình yêu, để từng giây phút yêu, con đều làm cho cuộc sống thêm giá trị.Cuối cùng, xin cho con biết hoà nhập cả hai nên một: để sống là yêu và yêu là sống, vì hiểu được rằng Thiên Chúa Hằng Sống cũng chính là Thiên Chúa Tình Yêu. Amen

Chiều núi rừng Bù Đăng
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:36 30/06/2010
LỤC Y SỨ GIẢ

N2T


Đời nhà Đường, ở Trường An có một người vừa giàu có lại vừa có thế lực, tên là Dương Sùng Nghĩa, trong nhà có nuôi một con chim Anh Vũ. Vợ của Dương Sùng Nghĩa là Liễu thị tư thông với một thanh niên hàng xóm tên là Lý Yêm. Một đêm nọ, hai người sau khi hợp lực giết chết Dương Sùng Nghĩa, thì đem tử thi của ông ta chôn ở trong cái giếng cạn của nhà họ Dương.

Về sau khi quan huyện đến điều tra, và khi phát án thì hiện trường chỉ có duy nhất là con chim Anh Vũ, đột nhiên nó mở miệng nói:

- “Giết chết chủ nhân nhà tôi chính là Liễu thị và Lý Yêm”. Quan huyện nhờ đó mà điều tra án mạng rất nhanh.

Đường Huyền Tông sau khi nghe biết câu chuyện ấy, bèn phong cho con chim Anh Vũ là “lục y sứ giả”.

Cho nên, trong cổ văn, lục y sứ giả là tên gọi của con chim Anh Vũ, hiện nay bởi vì màu xanh lục là màu của các thư tín viên (người đưa thư) chuyên dùng, do đó lục y sứ giả cũng trở thành tên gọi của những người đưa thư.

(Khai nguyên thiên bảo di thư)

Suy tư:

Những bác sĩ, những cô y tá trong các bệnh viện thường mặc áo trắng khi làm việc săn sóc khám bệnh cho bệnh nhân, nên được người ta thân thương gọi họ là “những thiên thần áo trắng”, những “thiên thần áo trắng" này thật dễ thương dễ mến và dễ thân cận, vì công việc của họ là cứu người qua khỏi những căn bệnh hiểm nghèo, là an ủi người bệnh...

Nhưng thời nay mỹ từ “thiên thần áo trắng” không còn nữa, hoặc rất ít dùng, bởi vì không ít người khi vào bệnh viện mà được các nữ y tá an ủi động viên ? Không ít người vào khám bệnh mà được các bác sĩ tận tình chăm sóc ? Bởi vì câu châm ngôn của họ không còn là “lương y như từ mẫu” nữa, mà là “không tiền thì đợi đó”, đợi cho đến khi chịu không nỗi nữa thì về nhà...

Người Ki-tô hữu không phải là lục y sứ giả như con chim Anh Vũ, nhưng họ là những sứ giả tình yêu của Thiên Chúa, là hiện thân của Chúa Giê-su Ki-tô khi họ hết lòng phục vụ tha nhân trong tình yêu của Thiên Chúa, họ chính là những sứ giả của yêu thương vậy.

---------------------

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby

jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:38 30/06/2010
N2T


39. Những người muốn yêu mến Thiên Chúa, nếu không luôn luôn nhiệt tâm vì Ngài mà chịu đau khổ, thì không yêu Ngài cách chân chính.

(Thánh Louis Gonzaga)
 
Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:39 30/06/2010
N2T


475. Cho dù mộng tưởng sắp thành hiện thực, thì cũng cần phải có thời gian.

 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
ĐTC cầu mong cho cuộc đối thoại giữa Giáo hội Công giáo và Chính thống tiến triển
Linh Tiến Khải
07:05 30/06/2010
VATICĂNG: Trong buổi tiếp phái đoàn của Tòa Thượng Phụ Chính Thống Costantinopoli về Roma tham dự lễ kính hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô sáng 28-6-2010 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI cầu mong cho cuộc đối thoại giữa hai Giáo hội Công Giáo và Chính Thống tiếp tục tiến triển khả quan.

Phái đoàn gồm Đức Cha Gennadios Limouris, Tổng Giám Mục Sassima, đồng thư ký Ủy ban thần học hỗn hợp công giáo chính thống, kiêm Phó điều hành Ủy ban trung ương của Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô Genève, Đức Cha Bartolomaios Ionannis Kessidis, Giám Mục Aranzos, Phụ tá Tổng Giám Mục chính thống bên Đức, và Phó tế Theodoros Maimaris thuộc tòa Thượn Phụ Fanar.

Đức Thánh Cha cám ơn Chúa về các tương quan tin tưởng thân tình cũng như nhiều cuộc gặp gỡ tích cực hai Giáo Hội đã đạt được trên con đường đại kết. Lễ kính cuộc tử đạo của hai thánh Tông Đồ, mà cả hai Giáo Hội đều cử hành cùng ngày, là một trong các lễ cổ xưa nhất trong phụng vụ và là chứng tá cho thời gian cả hai Giáo Hội cùng sống niềm hiệp thông chung với nhau.

Đức Thánh Cha cũng tỏ lòng biết ơn đối với Đức Thượng Phụ Bartolomaios I Giáo Chủ chính thống Costantinopoli kiêm Giáo chủ chính thống danh dự toàn thế giới đã gửi phái đoàn tới Roma.

Ngài cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho các thành viên Ủy ban thần học hỗn hợp công giáo chính thống, để Ủy ban tiếp tục các cuộc thảo luận trong phiên họp tới nhóm tại Vienne và đạt các kết qủa tốt. Đề tài đối thoại và cộng tác đại kết chắc chắn cũng sẽ được đề cập tới trong Thượng Hội Đồng Gám Mục đặc biệt cho vùng Trung Đông nhóm vào tháng 10 tới đây tại Roma, như đã được nêu bật trong Tài Liệu Làm Việc Đức Thánh Cha đã trao cho các Giám Mục toàn vùng trong chuyến viếng thăm Cộng hòa Chypre mới đây. Các khó khăn mà các kitô hữu Trung Đông đang phải sống cũng là các khó khăn chung của tất cả mọi tín hữu: là sống như một thiểu số và ước mong có được tự do tôn giáo và hòa bình đích thực. Cần phải đối thoại với các cộng đoàn hồi giáo và do thái. Trong ý hướng đó Đức Thánh Cha vui mừng chào đón phái đoàn chính thống sẽ tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục Trung Đông. Đức Thánh Cha xin phái đoàn chuyển lời chào thăm huynh đệ của ngài đến Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Bartolomaios I, cũng như Thánh Hội Đồng và mọi tín hữu chính thống của Tòa Thượng Phụ.

Chiều hôm 28-6-2010 phái đoàn chính thống đã tham dự buổi hát Kinh Chiều trọng thể do Đức Thánh Cha chủ sự tại đền thờ thánh Phaolô ngoại thành. Sáng thứ ba 29-6-2010 phái đoàn tham dự thánh lễ do Đức Thánh Cha chủ sự tại đền thờ thánh Phêrô, với lễ nghi trao dây Pallium cho 38 Tổng Giám Mục, trong đó có Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Tổng Giám Mục Hà Nội (SD 28-6-2010)
 
Thông tư của Tòa Thánh liên quan tới bản chất và các sinh hoạt đa diện của Bộ Truyền Giáo
Linh Tiến Khải
07:07 30/06/2010
VATICĂNG: Ngày 28-6-2010 Phòng Báo Chí Tòa Thánh đã công bố thông tư về bản chất và các sinh hoạt đa diện của Bộ Truyền Giáo, trong đó có việc quản trị các tài sản khác nhau. Việc quản trị tài chánh này cần có các cố vấn chuyên biệt và có thể có các sai lầm khi lượng định các thay đổi của thị trường quốc tế.

Thông tư cho biết Bộ Truyền Giáo là cơ quan có nhiệm vụ hướng dẫn và phối hợp công tác rao giảng Tin Mừng và cộng tác truyền giáo trên toàn thế giới. Mục đích dầu tiên của Bộ là hướng dẫn và hỗ trợ các Giáo Hội trẻ tại các vùng mới hay ít được truyền giáo. Để chu toàn nhiệm vụ này Bộ có các cơ cấu đào tạo trong đó có Đại Học Giáo Hoàng Urbaniana với khoảng 1.400 sinh viên ghi danh hằng năm, nhiều Trường khác nhau nơi có 150 chủng sinh, 360 linh mục và 150 nữ tu và giáo dân thuộc năm châu theo học. Bộ có các nguồn tài chánh khác nhau để tài trợ cho 1.080 giáo phận trên thế giới, cũng như nhiều tổ chức trợ giúp truyền giáo cấp học bổng cho các linh mục tu sĩ, giáo dân và nhân viên mục vụ theo học tại Roma. Ngoài ra hằng năm Bộ cũng tài trợ cho việc xây cất các nhà thờ, các cơ cấu mục vụ, cơ sở giáo dục, trường học, nhà thương và trạm xá đặc biệt cho trẻ em tại các vùng nghèo nhất thế giới. Nguồn tài trợ chính là tiền quyên góp trong Ngày quốc tế truyền giáo và tiền lời từ gia sản tài chánh và bất động sản, do nhiều tín hữu và ân nhân dâng cúng. Việc lượng định gia tài đó là điều phức tạp cần có các cố vấn chuyên môn, và có thể xảy ra các sai lầm.

Trong các năm qua đã có các cải tiến cơ cấu và cung cách làm việc nhằm bảo đảm cho việc quản trị thích hợp hơn theo các mẫu mực chuyên môn.

Thông tư nói trên nhằm trả lời cho dư luận tại Italia tố cáo Đức Hồng Y Crescenzio Sepe, Tổng Giám Mục Napoli, nguyên Tổng trưởng của Bộ, dính líu vào các vụ bán nhượng bất động sản của Bộ với các giới chức chính trị (SD 28-6-2010).
 
Thánh Lễ trao dây Pallium cho 38 Tổng Giám Mục tại đền thờ Thánh Phêrô
Linh Tiến Khải
07:09 30/06/2010
Tường thuật thánh lễ Đức Thánh Cha chủ sự kính hai thánh Phêrô Phaolô và nghi thức trao dây Pallium cho 38 Tổng Giám Mục trên thế giới tại đền thờ thánh Phêrô

Sáng thứ ba 29-6-2010 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã chủ sự trong đền thờ thánh Phêrô lễ trọng kính hai thánh Phêrô Phaolô Quan Thầy của Giáo Hội Roma. Cùng đồng tế với Đức Thánh Cha có một số Hồng Y và 38 vị Tổng Giám Mục Trưởng Giáo Tỉnh được Đức Thánh Cha trao dây Pallium trong đó có Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Tổng Giám Mục Hà Nội.

38 Tổng Giám Mục nhận dây Pallium gồm 4 vị Italia, 3 vị Hoa Kỳ, 3 vị Tây Ban Nha, 2 vị Anh quốc, 2 vị Brasil, 2 vị Mehicô, các vị khác đến từ các nước Ecuador, Zimbabwe, Lesotho, Canada, Angola, Phi Luật Tân, Camerun, Slovenia, Nam Phi, Bỉ, Tchèques, Colombia, Panama, Ấn Độ, Madagascar, Nam Hàn, Ba Lan, Việt Nam, Ghana và Slovakia.

Tham dự thánh lễ ngoài hàng chục Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục hiện diện tại Roma cũng có phái đoàn của Giáo Hội chính thống Costantinopoli và 10.000 tín hữu, trong đó có một số linh mục và tu sĩ nam nữ Việt Nam.

Mở đầu thánh lễ Đức Thánh Cha nói: ”Anh chị em rất thân mến, từ thời xa xưa Giáo Hội Roma cử hành lễ trọng kính các Tông Đồ Phêrô Phaolô như lễ duy nhất trong cùng một ngày.

Ngày lễ hôm nay cũng là một tưởng niệm biết ơn các chứng nhân lớn của Chúa Giêsu Kitô, đã trở thành anh em trong cuộc tử đạo, và là một tuyên xưng long trọng Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Dấu chỉ của lễ Hiện Xuống - cộng đoàn mới nói mọi thứ tiếng và hiệp nhất mọi dân tộc thành một dân duy nhất trong gia đình của Thiên Chúa - đã trở thành thực tại. Trong khi khẩn nài sự cầu bầu của các Tông Đồ Phêrô Phaolô, chúng ta hãy chuẩn bị cử hành các mầu nhiệm thánh và thú nhận các tội tỗi của chúng ta”.

Giảng trong thánh lễ, Đức Thánh Cha đã quảng diễn đề tài sự tự do của Giáo Hội trong chiều kích lịch sử và tinh thần như được trình bầy trong các bài đọc phụng vụ, và khẳng định rằng Thiên Chúa gần gũi các tôi tớ trung tín của Ngài, giải thoát họ khỏi mọi sự dữ và giải thoát Giáo Hội khỏi các quyền lực tiêu cực.

Bài đọc thứ nhất sách Công Vụ kể lại biến cố vua Hêrôđê bách hại Giáo Hội, bắt giữ và tống ngục thánh Phêrô. Nhưng đang đêm Thiên Chúa sai sứ thần đến tháo xiềng xích và giải thoát thánh nhân khỏi nhà tù Giêrusalem (Cv 12,1-11). Bài đọc thứ hai trích từ thư thứ II thánh Phaolô Tông đồ gửi Timoteo, trong đó thánh nhân tổng kết cuộc đời dương thế sẳp kết thúc của mình, và xác nhận rằng Chúa đã luôn gần gũi và giải thoát người khỏi miệng sư tử, khỏi mọi hiểm nguy và sẽ dẫn đưa người vào Nước vĩnh cửu (2 Tm 4,6-8.17-18). Thánh vịnh 33 cũng khẳng định Thiên Chúa giải thoát tín hữu khỏi mọi sợ hãi. Và đặc biệt trong Phúc âm Chúa Giêsu bảo đảm che chở toàn Giáo Hội khỏi mọi sức mạnh sự dữ và ”các cửa hỏa ngục sẽ không thắng được Giáo Hội” (Mt 16,18). Cuộc chiến đấu của Giáo Hội không phải là cuộc chiến đấu với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác từ chốn trời cao” (Pl 6,12). Áp dụng vào lịch sử Giáo Hội Đức Thánh Cha nói:

Thật thế, nếu chúng ta nghĩ tới hai ngàn năm lịch sử của Giáo Hội, chúng ta có thể ghi nhận như Chúa Giêsu đã báo trước rằng đối với các kitô hữu đã không bao giờ thiếu các thử thách. Trong một vài giai đoạn và tại một vài nơi, các thứ thách đó có tích cách bách hại thực sự. Tuy nhiên các khổ đau đó không gây ra, và không là nguy hiểm trầm trọng nhất đối với Giáo Hội. Qủa thế, nguy hại lớn nhất Giáo Hội phải chịu là những gì làm ô nhiễm đức tin và cuộc sống kitô của các thành phần và các cộng đoàn, và tấn công sự toàn vẹn của Thân Mình mầu nhiệm, làm suy yếu khả năng ngôn sứ và chứng tá của nó, và vấy bẩn vẻ đẹp gương mặt của nó. Đây là thực tại được thánh Phaolô nói tới trong thư thứ I gửi tín hữu Corintô khi trả lời một số vấn đề chia rẽ, không trung thực và bất trung với Tin Mừng đe dọa Giáo Hội. Thư thứ II gửi Timoteo cũng nói tới các ”nguy hiểm của thời cuối cùng” là các thái độ sống tiêu cực thuộc thế gian có thể tiêm nhiễm cộng đoàn kitô như ích kỷ, khoe khoang, kiêu căng, ham hố tiền bạc vv... (2Tm 3,1-5).

Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha nói: Thiên Chúa bảo đảm cho Giáo Hội được tự do khỏi các ràng buộc vật chất cản ngăn sứ mệnh của Giáo Hội cũng như khỏi các sự dữ tinh thần và luân lý.

Lễ nghi trao dây Pallium biểu hiệu cho sự hiệp nhất cũng diễn tả sự tự do mà Chúa Kitô đã hứa với Thánh Phêrô. Đức Thánh Cha giải thích ý nghĩa sự hiệp thông với Phêrô và các Người Kế Vị như sau:

Trên bình diện lịch sử, sự hiệp nhất với Tông Tòa bảo đảm cho các Giáo Hội địa phương và các Hội Đồng Giám Mục sự tự do đối với các quyền bính địa phương, quốc gia hay quốc tế, trong một vài trường hợp có thể ngăn cản sứ mệnh của Giáo Hội. Ngoài ra, và một cách đặc biệt, sứ vụ Phêrô là bảo đảm của sự tự do trong nghĩa gắn bó trọn vẹn với sự thật, với truyền thống đích thật, và như thế Dân Chúa được giữ gìn khỏi các lầm lạc về đức tin và luân lý... Đậy là điều hiển nhiên trong trường hơp các Giáo Hội bị bách hại, hay bị các quyền lực xen vào, hoặc bị các thử thách khó khăn khác. Nhưng nó cũng không kém phần quan trọng trong trường hợp các Cộng đoàn bị ảnh hưởng của các giáo thuyết lầm lạc hay các khuynh hướng ý thức hệ và thực hành trái với Tin Mừng. Như thế, trong nghĩa này, Dây Pallium trở thành dấu chỉ của sự tự do, giống như ”ách êm ái nhẹ nhàng” mà Chúa Giêsu mời gọi mọi người mang trên vai (Mt 11,29-30).

Sau cùng là lời Chúa Kitô hứa giải thoát Giáo Hội khỏi các quyền lực hỏa ngục. Một trong các hậu qủa đặc thù hành động của Kẻ Dữ là gây chia rẽ trong Cộng đoàn Giáo Hội. Thật thế, các chia rẽ là triệu chứng sức mạnh của tội lỗi tiếp tục tác động nơi các thành phần Giáo Hội, cả sau khi được ơn cứu rỗi. Sự hiệp nhất của Giáo Hội đâm rễ sâu nơi sự hiệp nhất với Chúa Kitô là nguồn gốc của sự hiệp nhất tràn đầy của các kitô hữu, cần được tìm kiếm và canh tân từ đời này sang đời khác. Đức Thánh Cha xin hai thánh Phêrô Phaolô bầu cử cho các Tổng Giám Mục Trưởng Giáo Tỉnh ngày càng yêu mến Hội Thánh hơn là Thân Mình mầu nhiệm của Chúa Kitô, sứ giả của hiệp nhất và hòa bình cho mọi người, cũng như biết tươi vui dâng mọi vất vả khổ đau phải chịu vì trung thành với Tin Mừng cho sự thánh thiện và sứ mệnh của Giáo Hội. Ngài xin Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương các Tông Đồ, luôn che chở các vị trong sứ vụ Tổng Giám Mục Trưởng Giáo Tỉnh.

Sau khi Đức Thánh Cha kết thúc bải giảng, các Phó tế bưng các dây Pallium tới trước bàn thờ Tuyên xưng đức tin. Dây Pallium hay Dây Quàng Cổ có hai dải phía trước và phía sau, quàng bên ngoài áo lễ, được dệt bằng lông chiên màu trắng có thêu 5 thánh giá mầu đen, hai dải cũng kết thúc bằng len mầu đen. Nó biểu hiệu cho sự hiệp nhất của các Tổng Giám Mục Trưởng các Giáo Tỉnh trên toàn thế giới với Đức Giáo Hoàng, Chủ Chăn của Giáo Hội hoàn vũ, cũng như biểu hiệu cho quyền bính trên các Giám Mục khác thuộc giáo tỉnh.

Truyền thống của Dây Quàng Cổ có từ thế kỷ thứ IV, và di tích các hình vẽ có từ thế kỷ thứ V. Từ thế kỷ thứ V trở đi nó thuộc phẩm phục của Đức Giáo Hoàng và các Tổng Giám Mục Trưởng. Theo thời gian, đặc biệt trong thời Trung Cổ, các Dây Pallium này biến dạng với các hình thánh giá khác nhau, có khi là mầu hồng ám chỉ Chúa Kitô là Chủ chiên lành kiếm tìm con chiên lạc và hối thúc đoàn chiên trở về. Trừ các Giáo Hội công giáo đông phương Maronít, Malankara và Malabar không dùng Dây Palliun, trong các Giáo Hội Đông Phương khác Dây Pallium rộng tới hai vai và có hai dải phía trước và phía dài xuống tới chân, có thêu thánh gía mầu đen hay mầu hồng.

Vào thời Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II các chiên con được dâng trong dịp lễ Phục Sinh được giao cho các nữ tu dòng kín nuôi và lấy len của chúng để làm Dây Pallium. Từ hậu bán thế kỷ thứ IX trở đi các Tổng Giám Mục Trưởng Giáo Tỉnh có thói quen xin Dây Pallium này, trong thời gian 3 tháng sau khi được chỉ định làm Tổng Giám Mục. Ngày nay, nghi lễ trao dây Palllium được tổ chức tại Roma ngày 29 tháng 6 hàng năm nhân dịp lễ trọng kính hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô. Nếu vì lý do ngăn trở vị Tổng Giám Mục không thể đến Roma được, Dây Pallium sẽ được gửi tới cho đương sự.

Đức Hồng Y trưởng đẳng Phó tế xướng danh 38 vị Tổng Giám Mục trưởng giáo tỉnh và nói: ”Kính lậy Đức Thánh Cha, các Tổng Giám Mục đáng kính hiện diện nơi đây tỏ lòng tôn kính trung thành và vâng phục lên Đức Thánh Cha và Tông Tòa, khiêm nhường kính xin Đức Thánh Cha trao cho các ngài Dây Pallium, lấy từ Mộ Thánh Phêrô, như dấu chỉ quyền Tổng Giám Mục đứng đầu Giáo Tỉnh, trong niềm hiệp thông với Giáo Hội Roma và được bổ nhiệm cách hợp pháp trong Giáo Tỉnh của mình”.

Tiếp theo đó các Tổng Giám Mục xướng tên mình và tên Giáo Phận và tuyên thệ trước mặt Đức Thánh Cha và cộng đoàn như sau: ”Tôi... Tổng Giám Mục Giáo Phận... sẽ luôn luôn trung thành và tuân phục Thánh Phêrô Tông Đồ, Giáo Hội tông truyền Roma, Đức Thánh Cha là Giáo Hoàng, và các Đấng kế vị cách hợp pháp của Đức Thánh Cha. Và xin Thiên Chúa toàn năng trợ giúp con”.

Rồi Đức Thánh Cha đọc lời nguyện làm phép Dây Pallium: ”Lậy Thiên Chúa là Mục tử đời đời của các linh hồn mà Chúa đã kêu gọi, nhờ Con Chúa, Đức Giêsu Kitô, như là các con chiên của đoàn chiên và việc chăn dắt đoàn chiên này được trao phó - dưới hình ảnh Chúa Chiên Lành - cho thánh Phêrô và các Đấng kế vị Người, qua thừa tác vụ của chúng con, xin Chúa đổ tràn đầy ân sủng đem lại phúc lành của Chúa trên các Dây Pallium này, được chọn để biểu hiệu cho thực tại săn sóc mục vụ.

Xin Chúa nhân từ thương chấp nhận lời cầu nguyện chúng con khiêm nhường dâng lên Chúa, nhờ công nghiệp và lời khẩn cầu của các Thánh Tông Đồ mà ban cho những người do ân lộc Chúa, sẽ đeo các Dây Pallium này để họ ý thức nhận ra mình là Mục Tử coi sóc đoàn chiên Chúa, và để họ thực hành trong cuộc sống ý nghĩa của biểu hiệu này.

Xin cho các Ngài nhận lấy ách Phúc Âm trên vai và xin cho ách này trở nên nhẹ nhàng êm dịu để các ngài có thể bước đi trước đoàn chiên trong việc thực thi các giới răn của Chúa, với gương sáng trung kiên cho tới khi đáng được đưa vào các đồng cỏ vĩnh cửu của Nước Chúa. Nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.

Sau cùng Đức Thánh Cha đọc công thức trao dây Pallium: ”Để tôn vinh Thiên Chúa toàn năng và ca tụng Đức Maria trọn đời đồng trinh và các Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, và để làm hiển vinh các Tòa Tổng Giáo Phận đã được trao phó cho anh em, và để cho thấy quyền của vị Trưởng Giáo Tỉnh, Ta trao cho anh em dây Pallium, lấy từ mộ nơi tử đạo của Thánh Phêrô, để anh em dùng trong ranh giới Giáo tỉnh của mình. Ước chi Dây Pallium này là dấu hiệu của sự hiệp nhất ràng buộc trong tình hiệp thông với Tông Tòa, là mối dây bác ái và tăng thêm sức mạnh, để trong ngày trở lại và ngày mạc khải của Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa tối cao và là Thủ Lãnh các mục tử, cùng với đoàn chiên đã được trao phó, anh em chiếm được áo của sự bất tử và vinh quang”.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đeo Dây Pallium cho từng Tổng Giám Mục và hôn chúc bình an các vị, trong khi ca đoàn Sistina hát: ”Các con hãy đi khắp nơi trên thế giới và dậy dỗ Tin Mừng cho muôn dân, Alleluia”.

Các lời nguyện giáo dân cầu cho Giáo Hội, các Tổng Giám Mục Trưởng Giáo Tỉnh và các nhu cầu của Giáo Hội, đã được đọc trong các thứ tiếng Bồ Đào Nha, Việt Nam, Malgache, Đại Hàn và Pháp. Lời nguyện tiếng Việt cầu cho Đức Thánh Cha như sau:

Cầu cho Đức Thánh Cha Bển Đức XVI Đấng Kế Vị thánh Phêrô và là vị Đại Diện của Chúa Kitô. Xin cho người luôn sống phù hợp với mầu nhiệm trọng đại người phục vụ, cho vinh danh Thiên Chúa và việc thánh hóa dân Ngài.

Trong phần hiệp lễ 50 linh mục đã giúp Đức Thánh Cha cho tín hữu rước Mình Thánh Chúa. Thánh lễ đã kết thúc lúc gần 12 giờ trưa.

Sau Thánh lễ Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin với tín hữu. Trong bài ngỏ ngắn, người nhắc lại lễ kính hai Thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô Bổn Mạng Giáo Hội Roma. Hài cốt của hai thánh được cất giữ trong hai đền thờ nguy nga dâng kính các Ngài.

Tuy nhận đươc các đặc sủng và sứ mệnh khác nhau, nhưng cả hai đều là nền tảng của Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, thường hằng rộng mở cho năng động truyền giáo và đại kết, vì cả hai vị đều đã được Chúa gửi đi loan báo, làm chứng, thực thi và phổ biến mầu nhiệm hiệp thông trên thế giới.

Đức Thánh Cha đã chào thăm và chúc mừng lễ các Tổng Giám Mục Trưởng Giáo Tỉnh và tín hữu đã tham dự thánh lễ và lễ nghi trao Dây Pallium cho các vị bằng nhiều thứ tiếng khác nhau.
 
Hiệp thông với Đức Giáo Hoàng bảo đảm tự do cho các giám mục và tín hữu
Nguyễn Hoàng Thương
08:16 30/06/2010
Hiệp thông với Đức Giáo Hoàng bảo đảm tự do cho các giám mục và tín hữu

Vatican City (AsiaNews) – Hiệp thông với Đức Giáo Hoàng bảo đảm quyền tự do của các giáo hội và các giám mục khỏi "quyền lực địa phương, quốc gia và quốc tế" và toàn thể các tín hữu "có ý thức trung thành hoàn toàn vào sự thật và truyền thống đích thực", để Dân Chúa có thể được giữ gìn khỏi những sai lầm về đức tin và luân lý". Vào ngày kính hai Thánh Phêrô và Phaolô, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã tái khẳng định nguyên tắc này và ý nghĩa thực sự "quyền tối thượng" của vị giám mục thành Rôma. Huấn từ của ngài cũng được đón nhận bởi 38 tổng giám mục đến khắp các lục địa để nhận Dây pallium – vốn được Đức Thánh Cha giải thíh trong buổi đọc kinh Truyền Tin "tượng trưng cho cả sự hiệp thông với Giám Mục thành Rôma, và sứ mạng nuôi dưỡng đàn chiên của Chúa Kitô bằng tình yêu". Ngoài ra còn có sự hiện diện của phái đoàn Tòa Thượng Phụ Đại Kết Constantinople, trong nhiều năm qua đã tham gia Lễ kính hai Thánh Tông Đồ, cũng giống như đoàn đại biểu Công Giáo đến Istanbul vào ngày Lễ kính Thánh Anrê, vị sáng lập Giáo Hội này.

"Tự do của Giáo Hội", được Chúa Kitô bảo đảm với Phêrô, được ràng buộc trong sự hiệp thông với Đấng Kế Vị Thánh Phêrô. Trong hai thiên niên kỷ của lịch sử Kitô giáo các tín hữu "chưa bao giờ thiếu những nỗi gian nan, mà trong một số giai đoạn và một số nơi đã phải chấp nhận đặc tính của bách hại thực sự. Tuy nhiên, bất chấp những đau đớn mà chúng gây ra vẫn không gây nguy hại lớn nhất cho Giáo Hội. Thực tế, Giáo Hội chịu nguy hại lớn nhất từ những gì làm mất đi tính thiêng liêng cho đức tin Kitô giáo và đời sống của các thành viên, các cộng đoàn, làm xói mòn tính vẹn toàn Thân Thể Mầu Nhiệm, làm suy yếu khả năng tiên tri và chứng tá, làm xấu vẻ đẹp của khuôn mặt Giáo Hội".

Đức Thánh Cha cho hay thêm: "Thực tế này đã được chứng thực trong Thư Tông Đồ của Thánh Phaolô. Chẳng hạn, Thư Tông Đồ đầu tiên gửi tín hữu Côrintô đáp trả một số vấn đề gây chia rẽ, mâu thuẫn, bội tín với Tin Mừng vốn đe dọa nghiêm trọng đến Giáo Hội. Nhưng Thư thứ hai gởi Timôthê – mà chúng ta nghe một đoạn trích - nói về sự nguy hiểm của "những ngày sau hết", chỉ ra những thái độ tiêu cực thuộc về thế gian và có thể lan truyền sang cộng đoàn Kitô giáo: ích kỷ, kiêu ngạo, lên mặt kiêu căng, ham tiền bạc v.v. (x. 3,1-5).

Kế đến, Đức Thánh Cha nói về chủ đề Tự Do của Giáo Hội "cũng có một sự liên quan đặc biệt đến các nghi thức trao Dây pallium". Sự hiệp thông với Thánh Phêrô và người kế vị ngài, trên thực tế, là đảm bảo tự do cho các vị mục tử của Giáo Hội và Các Cộng Đoàn được trao phó cho họ". "Trong lịch sử, hiệp nhất với Tòa Thánh đảm bảo đặc thù các Giáo Hội và các Hội Đồng Giám Mục tự do trong tương quan với quyền lực địa phương, quốc gia hay siêu quốc gia, đôi khi có thể cản trở sứ mạng của Giáo Hội. Hơn nữa, và cơ bản nhất, thừa tác vụ của Phêrô là một đảm bảo của tự do trong ý thức trung thành hoàn toàn vào sự thật và truyền thống đích thực, để Dân Chúa có thể được giữ gìn khỏi những sai lầm về đức tin và luân lý. Do vậy, mỗi năm các Tân Tổng Giám Mục Chính Tòa đến Rôma để nhận dây pallium từ tay Đức Thánh Cha, phải được hiểu theo ý nghĩa đúng đắn của nó, như là một cử chỉ hiệp thông, và vấn đề tự do của Giáo Hội cho chúng ta một chìa khóa đặc biệt quan trọng cho việc giải thích. Điều này là hiển nhiên trong trường hợp các giáo hội bị đánh dấu bởi sự bách hại, hoặc bị can thiệp chính trị hay khó khăn khác. Nhưng điều này không ít có liên quan trong trường hợp các cộng đoàn bị ảnh hưởng của những giáo lý gây hiểu lầm hoặc khuynh hướng tư tưởng và thực hành trái với Tin Mừng".

Điểm cuối cùng được Đức Thánh Cha kết múc từ bài đọc và "cụ thể là từ lời hứa của Chúa Kitô mà các quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi Giáo Hội của ngài. Những từ này có thể có một giá trị đáng kể về đại kết, vì như tôi đã nói trước đây, một trong những ảnh hưởng điển hình của ma qủy là chia rẽ trong nội bộ cộng đoàn Giáo Hội. Những chia rẽ là triệu chứng của thế lực tội lỗi, vốn vẫn tiếp tục hoạt động nơi các thành viên của Giáo Hội, ngay cả sau sự cứu chuộc. Tuy nhiên, lời của Chúa Kitô là rõ ràng: "Non praevalebunt - sẽ không thắng nổi" (Mt 16,18). Sự hiệp nhất của Giáo Hội được bén rễ sâu nơi sự hiệp nhất với Chúa Kitô, và là căn nguyên của sự hiệp nhất Kitô hữu tràn đầy - luôn luôn được tìm kiếm và canh tân từ thế hệ này sang thế hệ khác – được hỗ trợ đắc lực bởi lời cầu nguyện và khấn hứa của Giáo Hội. Trong cuộc chiến chống lại sự dữ, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trong Chúa Giêsu là 'Đấng Bào Chữa', là người che chở, và sau sự Phục Sinh của ngài, "là một Đấng Bảo Trợ khác"(Ga 14,16), Chúa Thánh Thần, vẫn luôn ở cùng chúng ta và dẫn dắt Giáo Hội vào sự thật toàn vẹn (x. Ga 14,16; 16,13), cũng là sự toàn vẹn của bác ái và hiệp nhất. Với những cảm xúc của niềm hy vọng tin tưởng này, tôi rất vui mừng chào đón phái đoàn của Tòa Thượng Phụ Constantinople, có tập quán tốt đẹp của những chuyến thăm viếng lẫn nhau, đến tham gia những cử hàng mừng kính vị thánh bảo trợ của thành Rôma. Chúng ta cùng nhau cảm tạ Chúa vì sự tiến triển trong quan hệ đại kết giữa Công Giáo và Chính Thống Giáo, và chúng ta canh tân sự dấn thân của chúng ta để đền đáp lại ân sủng của Thiên Chúa, soi dẫn chúng ta đi đến hiệp thông đầy đủ".

Trong nghi thức, Đức Thánh Cha Bênêđictô "trao" Dây pallium - một dây làm bằng lông chiên màu trắng, với 6 hình thánh giá kết bằng tơ màu đen, giống như những vết thương của Chúa Giêsu – cho 38 tổng giám mục, ở Á Châu gồm có Đức Tổng Giám Mục. Socrates B. Villegas, của Dagupan-Lingayen (Phi Luật Tân), Đức TGM Francis Kallarakal của Verapoly (Ấn Độ), TGM Hyginus Kim Hee-Joong, Kwangju (Hàn Quốc) và Đức Tổng Giám Mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn của Hà Nội (Việt Nam).
 
Tờ Dallas Morning News lại tố cáo toà Giám Mục Dallas
Trần Mạnh Trác
11:36 30/06/2010
Ngày 29 tháng 6 vừa qua, tờ Dallas Morning News đã đăng tin 2 phụ nữ tố cáo cha Robert Crisp, thuộc Giáo Phận Dallas, đã có những hành vi sàm sỡ và ngoại tình với họ. Mary O'Dell tố cáo cha Crisp theo đuổi cô ta từ lúc cô mới 12 tuổi, và Vicki Moo tố cáo cha Crisp đã ngoại tình với cô trong nhiều năm sau khi làm cố vấn cho cuộc hôn nhân đổ vỡ cuả cô ta.

Cả hai phụ nữ này đều cho biết họ không hề báo cáo sự việc lên toà giám mục hoặc lên các cơ quan công quyền.

Cha Crisp đã bị toà Giám Mục ngưng chức vụ sau khi một số phụ nữ tại giáo xứ Sacred Heart ở Rowlett tố cáo cha đã cạ chân vào chân họ hoặc đấm bóp vào gáy họ.

Cho tới nay không hề có lời buộc tội cuả cảnh sát, và không có cơ quan chính quyền nào ghi nhận cha Crisp đã có những hành vi không thích đáng. Tuy nhiên tờ Dallas Morning News vẫn lập luận rằng ĐGM Kevin Farrell đáng lẽ phải làm nhiều hơn và sớm hơn để tình trạng này không xảy ra.

Nguyên văn bài báo có thể truy cập trực tuyến như sau:

http://www.dallasnews.com/sharedcontent/dws/news/localnews/stories/062910dnmetrowpriest.1d5d61b.html

Toà Giám Mục Dallas ngay lập tức đã trả lời bài viết cuả tờ Dallas Morning News, nguyên văn như sau:

“Các cáo buộc trên bài báo là những sự việc cuả thời kỳ 1970 và 80 và trong hồ sơ cuả giáo phận đã không bao giờ có bất kỳ báo cáo nào về hành vi sai trái hoặc tội phạm liên hệ về tình dục với trẻ vị thành niên hoặc về bất kỳ một phân loại nào khác bởi Cha Robert Crisp. Vì vậy, khi Đức Giám mục Kevin Farrell đến đây ba năm trước, và trong suốt nhiệm kỳ của ngài trong Giáo phận Dallas, ngài đã không có gì mà quan tâm và cảnh báo về những hành vi thuộc về hình sự này.

Những khiếu nại về hành vi sai trái với trẻ vị thành niên đựợc tung ra trong tờ báo Dallas Morning News đã không hề được báo cáo với giáo phận và chính nguồn tin cung cấp cho tờ Dallas Morning News cũng đã xác nhận như vậy trong câu chuyện cuả họ.

Khi những khiếu nại từ giáo xứ Sacred Heart ở Rowlett cho thấy có nhửng vi phạm vượt qua ranh giới, Đức Giám mục Farrell ngay lập tức đã ngưng nhiệm vụ mục vụ cuả Cha Crisp.

Cha Crisp vẫn còn bị ngưng chức và không có kế hoạch tái phân nhiệm.“
 
Đức Cha Fisichella được bổ nhiệm làm chủ tịch hội đồng Giáo Hoàng về Tân Phúc Âm Hóa
Bùi Hữu Thư
13:19 30/06/2010
Một hội đồng mới được Đức Thánh Cha thành lập.

Rôma, ngày thứ tư 30 tháng 6, 2010 (Le Monde vu de Rome) - Đức Thánh Cha Benedict XVI đã bổ nhiệm Đức Cha Salvatore Fisichella làm chủ tịch hội đồng Giáo Hoàng về Tân Phúc Âm Hóa.

Đức Cha Fisichella trước đây là viện trưởng Giáo Hoàng Học Viện về đời sống và viện trưởng Giáo Hoàng Học Viện Latêranô.

Ngày 28 tháng 6, trong khi cử hành lễ vọng kính hai thánh Phêrô và Phaolô tại vương cung thánh đường thánh Phaolô Ngoại Thành, Đức Thánh Cha tuyên bố: “Tôi quyết định thành lập một cơ cấu mới, dưới hình thức một ‘hội đồng Giáo Hoàng’, với trách vụ chính là cổ võ một công cuộc truyền giáo canh tân tại các quốc gia nơi lời tuyên xưng đức tin đầu tiên đã vang dội và có sự hiện diện của các Giáo Hội có nền tảng xưa cổ, nhưng đang sống trong một xã hội ngày càng tục hóa, và có một hiện tượng ‘khuyết thực ý niệm về Thiên Chúa’”.

Sanh tại Codogno, trong giáo phận Lodi (Ý), ngày 25 tháng 8, 1951, Đức Cha Fisichella được truyền chức linh mục ngày 13 tháng 3, 1976.

Ngài đã là giáo sư thần học căn bản tại Giáo Hoàng Học Viện Grêgoria tại Rôma, cho đến khi được bổ nhiệm làm giám mục phụ tá Rôma ngày 12 tháng 9, 1998. Ngày 18 tháng 1, 2002 ngài được bổ nhiệm làm viện trưởng danh dự của Giáo Hoàng Học Viện Latêranô ở Rôma, một chức vụ bây giờ được linh mục Enrico dal Covolo, Dòng Ngôi Lời thay thế.

Kễ từ năm 1994 ngài là “tuyên uý” Hạ Viện Ý, và chánh sở nhà thờ chánh tòa Thánh Grêgori tại Naziance.

Ngài đã từng là thư ký Uỷ Ban Giám Mục về tín lý đức tin, và giáo lý của Hội Đồng Giám Mục Ý. Ngài là cố vấn cho Thánh Bộ Đức Tin và thành viên của Thánh Bộ Phong Thánh.
 
ĐHY Marc Ouellet TGM Quebec trở thành Bộ Trưởng Thánh Bộ Giám Mục tại Giáo Triều Roma
Dominic David Trần
17:20 30/06/2010
Điện VATICAN — Canada ngày 30/06/2010 10:50AM ( Như VietCatholic đã trình thuật trưóc đây) Tòa Thánh Vatican đã loan báo bổ nhiệm vị giáo sĩ Công Giáo cao cấp nhất của Canada; Đức Hồng Y Marc Ouellet đã được bổ nhiệm làm Bộ Trưởng của một trong những Thánh Bộ nhiều quyền lực nhất của Giáo Triều Vatican. Thánh Bộ Giám Mục của Giáo Triều Rôma: Thánh Bộ này có nhiệm vụ quan trọng nhất trong qúa trình kiến nghị bổ nhiệm các Đức Giám Mục Công Giáo trên toàn thế giới.

Cách đây đúng 4 phút theo bản tin của Thông Tấn Xã Canada; mặc cho những tranh cãi gần đây về những câu trả lời của Đức Hồng Y Ouellet liên quan đến các vụ lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên của một số Linh Mục Giáo Sĩ, Đức Giáo Hoàng Benêdicto XVI đã bổ nhiệm ĐHY Ouellet thay cho Đức Hồng Y đương nhiệm Re.

Một trong những nỗ lực mới nhất của Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI là thiết lập Hội Đồng Giáo Hoàng về Tái Phúc Âm Hóa Các Khu Vực bị ảnh hưởng nặng của thế tục hóa tại Âu châu, Châu Mỹ.

Đức Hồng Y Ouellet, 66 tuổi, là Tổng Giám Mục Quebec kiêm nhiệm Hồng Y Giáo Chủ Công Giáo Canada- chức vị cao nhất của Hàng Giáo Phẩm Canada.
 
ĐHY Marc Ouellet được bổ nhiệm làm Bộ Trưởng Thánh Bộ Giám Mục kiêm Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Đặc Trách về Châu Mỹ La-Tinh.
Dominic David Trần
17:24 30/06/2010
ĐIỆN VATICAN ngày 30/06/2010/ 10:56AM theo bản tin liên hợp của Thông Tấn Xã Công Giáo (CNA/EWTN News), trong sáng ngày Thứ Tư hôm nay, Tòa Thánh Vatican đã công bố sự bổ nhiệm Đức Hồng Y Marc Ouellet thay thế Đức Hồng Y Giovanni Battista Re xin hưu trí trong cả hai chức vụ quan trọng nhất của Giáo Triều Rôma. Với việc bổ nhiệm Đức Hồng Y MARC OUELLET, 66 tuổi, một đấng bậc không hề xa lạ gì với công việc của Giáo Triều Rôma, để đảm nhiệm cả hai chức vụ quan trọng một lúc: Bộ Trưởng Thánh Bộ Giám Mục và kiêm nhiệm Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Đặc Trách Châu Mỹ La-Tinh.

Từ năm 2002 ngài đã là Tổng Giám Mục Quebec và Giáo Chủ Công Giáo Canada, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ đệ Nhị đã vinh thăng Giáo Chủ Giáo Hội Công Giáo Canada Marc Ouellet lên tước vị Hồng Y vào năm 2003.

Căn cứ theo lý lịch của ngài được Tòa Tổng Giám Mục Quebec công bố thì Đức Hồng Y Marc Ouellet đã được thâu nhận vào ngành Giáo dục từ hồi còn thanh niên và sau đó ngài đã nhận văn bằng Cử Nhân Giáo Dục tại Viện Đại Học Laval - Quebec trước khi ngài theo

học Thần Học tại Đại Chủng Viện Montrean từ năm 1964-1968. Sau khi tốt nghiệp Văn bằng Cao Học về Thần Học, ngài được thụ phong Linh Mục tại Giáo Phận quê nhà Amos thuộc tỉnh bang Quebec của Canada.

Sau đó ngài nhận thêm văn bằng Cao Học Triết Học tại Viện Đại Học Giáo Hoàng Thánh Tôma Aquinô tại Rôma năm 1974 và nhận văn bằng Tiến Sĩ về Thần Học Tín Lý tại Viện Đại Học Giáo Hoàng Gregorian tại Rôma vào năm 1983.

Ngài giảng dạy về các môn Thần Học và Triết Học rộng rãi trong các Đại Chủng Viện tại Canada và Columbia, thuộc châu Mỹ La-Tinh cũng như là Giáo Sư Viện Đại Học Giáo Hoàng Latêranô tại Rôma.

Đức Hồng Y Marc Ouellet đã phục vụ với chức vị Bí Thư Hội Đồng Giáo Hoàng Đặc Trách Hiệp Nhất Các Tín Hữu Thiên Chúa Giáo từ tháng Ba năm 2001 cho tới khi ngài được tuyển chọn làm Tổng Giám Mục Quebec trong tháng giêng năm 2003. Ngài cũng được bổ

nhiệm là Cố Vấn cho các Thánh Bộ của Giáo Triều. Hiện nay ĐHY Marc Ouellet là Cố Vấn của Thánh Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, thành viên Ủy Ban Giáo Hoàng Đặc Trách Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế, và Cố Vấn của Hội Đồng Giáo Hoàng Đặc Trách về Châu Mỹ

La-Tinh.

Vừa khi được nghe tin bổ nhiệm của ĐHY Marc Ouellet, Đức Tổng Giám Mục Pierre Morissette đã gởi điện văn chúc mừng, trong đó viết rằng; " Thật là niềm vui và hân hoan cho tôi với tư cách là Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Canada để chúc mừng Đức Hồng Y Marc Ouellet nhân dịp ngài được bổ nhiệm là Bộ Trưởng Thánh Bộ Giám Mục và kiêm nhiệm Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Đặc Trách về Châu Mỹ La-Tinh của Giáo Triều Rôma.... Xin kính gởi đến Đức Hồng Y tân Bộ Trưởng tất cả lời chúc mừng tốt đẹp nhất và kèm theo với lời cầu nguyện cho ngài của tất cả các Hiền Huynh Giám Mục Canada...."

Đức Hồng Y Giovanni Battista Re đã đảm nhiệm chức vụ Bộ Trưởng Thánh Bộ Giám Mục của Giáo Triều trong hơn 10 năm qua. ĐHY Re còn kiêm nhiệm rất nhiều các chức vụ khác nổi bật nhất trong đó là thành viên Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh; thành viên các Thánh Bộ Tín Lý Và Đức Tin; Thánh Bộ Truyền Giảng Phúc Âm cho Các Dân Tộc; Thánh Bộ Đặc Trách Các Giáo Hội Đông Phương; và Hội Đồng Giáo Hoàng Đặc Trách Về Các Văn Bản Pháp Quy.
 
Đức Cha Kurt Koch, tân Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Hiệp Nhất Các Tín Hữu Thiên Chúa Giáo.
Dominic David Trần
17:34 30/06/2010
Đức Cha Kurt Koch Giám Mục Giáo phận Basel, Thụy Sĩ.
Điện VATICAN ngày 30/06/20/2010/ 12:48 PM theo bản tin liên hợp Thông Tấn Xã Công Giáo (CNA/EWTN News).- Phát biểu trước các phóng viên tại Văn phòng Thông Tin Báo Chí của Tòa Thánh Vatican; Linh Mục Federico Lombardi SJ, Giám Đốc kiêm Phát Ngôn Viên của Tòa Thánh

nói rằng sẽ có nhiều bổ nhiệm tại Giáo Triều sẽ được công bố tiếp theo hàng loạt các tin từ nhiệm, hưu trí và bổ nhiệm mới trong một số các chức vị bên trong Giáo Hội Công Giáo tại Giáo Triều Rôma

Hàng loạt các bổ nhiệm được công bố vào sáng Thứ Tư hôm nay 30/06/2010 bao gồm Đức Hồng Y Marc Ouellet được loan báo trở thành tân Bộ Trưởng của Thánh Bộ Giám Mục và Đức Tổng Giám Mục Rino Fisichella được bổ nhiệm làm Chủ Tịch của Cơ quan Tòa Thánh vừa mới được thành lập tức thì: Hội Đồng Giáo Hoàng Đặc Trách về Tân Phúc Âm Hoá.

"Tiếng Nói" của Điện Vatican cho biết là Linh Mục Lombardi kỳ vọng sự bổ nhiệm Đức Cha Kurt Koch, Giám Mục Giáo Phận Basel của Thụy Sĩ làm Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Đặc Trách về Hiệp Nhất Các

Tín Hữu Thiên Chúa Giáo sẽ được công bố vào ngày mai thứ Năm 01/07/2010 như Linh Mục Lombardi vừa đề cập và đã được nêu ra trước đây trong nội bộ Điện Vatican.

Linh Mục Lombardi nói; " Văn phòng Thông Tin Báo Chí của Toà Thánh chúng tôi sẽ công bố và ấn hành chính thức sự bổ nhiệm này trong ngày 01 tháng Bảy. Thế nhưng Đức Giám Mục Kurt Koch đã viết xong Lá Thư Mục Vụ từ biệt Giáo Phận rồi, ngài giải thích rằng ngài đã được triệu về Rôma và ngài cũng đã đề nghị và tiến cử xong vị Giám Quản Tông Tòa Giáo Phận Basel" để có thời gian cho việc bổ nhiệm hoặc tuyển chọn vị tân Giám Mục

Giáo Phận Basel..

Đức Giám Mục Koch sẽ kế nhiệm Đức Hồng Y Walter Kasper trong chức vụ mà Đức Hồng Y Kasper đã đảm trách trong hơn 11 năm qua.

Các phóng viên đã hỏi rằng Linh Mục Phát Ngôn Viên có ý tưởng là khi nào thì Tòa Thánh sẽ bổ nhiệm vị Khâm Sứ Tông Tòa cho Tu Hội Đạo Binh Đức Chúa Giêsu. Linh Mục Phát Ngôn Viên Tòa Thánh đã trả lời là; " Chắc chắn, chúng tôi đang chờ đợi quyết định này, nhưng tôi không nghĩ là ngày mai sẽ có sự bổ nhiệm ấy."

Linh Mục Phát Ngôn Viên Tòa Thánh cũng tuyên bố thêm là sẽ cần thêm một sự bổ nhiệm nữa để thay thế cho Đức Tổng Giám Mục Celestino Migliore trong nhiệm vụ Quan Sát Viên Thường Trực Đại Diện Tòa Thánh Vatican tại Liên Hiệp Quốc- bởi vì Đức TGM Migliore đã được bổ nhiệm làm Sứ Thần Tòa Thánh tại nước Ba-Lan.

Dominic David Trần
 
Hồng Y Ouellet Bộ Trưởng Bộ Giám Mục
Thiên Phong chuyền ngử
22:46 30/06/2010
Kiêm Chủ Tịch Ủy Ban Giáo Hoàng về Châu Mỹ La Tinh

Vatican, thứ Tư, 30.6.2010 – Phòng báo chí Tòa Thánh hôm nay công bố tin Đức Bênêđictô XVI đã bổ nhiệm vị Bộ Trưởng mới cho Bộ Giám Mục và đồng thời là Chủ Tịch Ủy Ban Giáo Hoàng về Châu Mỹ La Tinh. Đó là Hồng Y Marc Ouellet, 66 tuổi, cho tới nay là Tổng Giám Mục Québec.

Vị Hồng Y Giáo Chủ Canada này thay thế Hồng Y Giovanni Battista Re, 76 tuổi, người đã đệ đơn từ chức lên Đức Thánh Cha vì lý do tuổi tác.

SƠ LƯỢC VỀ VỊ TÂN BỘ TRƯỞNG

Với sự bổ nhiệm này, Hồng Y Ouellet một lần nữa trở lại giáo triều Rôma. Bởi Đức Gioan Phaolô II đã từng bổ nhiệm ngài làm Thư Ký cho Hội Đồng Giáo Hoàng về Thăng Tiến Hiệp Nhất Các Kitô Hữu, chức vụ mà ngài đảm trách trong những năm 2001-2002, trước khi được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Québec.

Ngài chịu chức linh mục (thuộc Giáo Phận Amos, Canada) ngày 25.5.1968, rồi đi dạy Triết Học tại Đại Chủng Viện Bogota (Colombia), một chủng viện được điều khiển bởi các Cha Xuân Bích, tỉnh Canada.

Kinh nghiệm của thời gian ấy đã thúc đẩy ngài tham gia Hội Các Linh Mục Xuân Bích từ năm 1972. Sau đó ngài đi học ở Rôma, và nhận văn bằng Cử Nhân Triết Học tại Đại Học Giáo Hoàng San Tommaso d’Aquino. Năm 1974, ngài được sai đến Đại Chủng Viện Manizales (Colombia); năm 1976, được gọi về Đại Chủng Viện Montréal (Canada), nơi ngài đã phục vụ cho tới 1978.

Tiếp tục việc học, năm 1983 ngài đạt văn bằng Tiến Sĩ Thần Học Tín Lý tại Đại Học Giáo Hoàng Gregoriana. Năm 1982, ngài được bổ nhiệm vào ban huấn luyện và giảng dạy của Đại Chủng Viện Cali, Colombia. Đồng thời, ngài cũng đảm nhận phụ trách các ứng viên Xuân Bích. Năm 1984, ngài làm Giám Đốc Đại Chủng Viện Manizales.

Năm 1988, ngài được bầu làm Cố Vấn thứ nhất của Hội Đồng Tỉnh Xuân Bích Canada, nhiệm vụ mà ngài đảm trách cho tới 1994. Năm 1988, ngài được bổ nhiệm vào ban huấn luyện và giảng dạy tại Đại Chủng Viện Montréal, rồi trở thành Giám Đốc chủng viện này vào năm 1990. Sau đó, vào năm 1994, ngài chuyển đến làm Giám Đốc Đại Chủng Viện St. Joseph ở Edmonton.

Từ năm 1995 đến 2000, ngài là cố vấn của Bộ Giáo Sĩ. Năm 1996, ngài được bầu vào Hội Đồng Cố Vấn Trung Ương của Hội Các Linh Mục Xuân Bích.

Năm 1996-1997, ngài là giáo sư tại Học Viện Gioan Phaolô II thuộc Đại Học Giáo Hoàng Lateranense ở Rôma. Ở đó, ngài được cử đứng đầu khoa Thần Học Tín Lý. Đức Gioan Phaolô II đã đặt ngài làm Hồng Y vào ngày 21.10.2003.

Vào tháng 10.2008, Hồng Y Ouellet là Tổng Thư Ký của Thượng Hội Đồng Giám Mục thường kỳ lần thứ 12 về Lời Chúa. Trong giáo triều Rôma, ngài là thành viên của: Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, Bộ Giáo Dục Kitô giáo, Bộ Giáo Sĩ, Hội Đồng Giáo Hoàng về Văn Hóa, Ủy Ban Giáo Hoàng về Châu Mỹ La Tinh, Ủy Ban Giáo Hoàng về Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế, Hội Đồng Hồng Y đặc trách nghiên cứu các vấn đề tổ chức và kinh tế của Tòa Thánh, Ban Thường Vụ Tổng Thư Ký Thượng Hội Đồng Giám Mục.

BỘ GIÁM MỤC

Theo Tông Hiến Pastor Bonus ngày 28 tháng 6 năm 1988 của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Bộ Giám Mục trợ giúp Đức Giáo Hoàng về việc thiết lập, phân chia, thống nhất hay bãi bỏ các Giáo Hội địa phương (tức các giáo phận, địa phận tông tòa, giám hạt...)

Bộ Giám Mục trợ giúp trong tất cả các vấn đề liên quan đến việc bổ nhiệm giám mục, và giúp các giám mục thi hành đúng đắn chức năng mục vụ của mình. Bộ phụ trách tất cả các trường hợp cần phải giải quyết với các chính phủ, liên quan đến các Giáo Hội địa phương.

Bộ Giám Mục cũng chịu trách nhiệm về các Công Đồng đặc biệt, về cơ chế của các Hội Đồng Giám Mục, và về việc xét duyệt qui chế của các Hội Đồng ấy.

Bộ Giám Mục coi sóc tất cả những gì liên quan đến các chuyến viếng thăm “ad limina,” trong đó các giám mục trên thế giới về Rôma gặp Đức Thánh Cha và gặp các cộng sự viên của ngài ở giáo triều. Công việc này được Bộ Giám Mục thi hành để phục vụ cho các giám mục trên khắp thế giới, ngoại trừ những vùng trực thuộc Bộ Các Giáo Hội Đông Phương hay Bộ Loan Báo Tin Mừng Cho Các Dân Tộc.

dịch từ “Il Cardinale Ouellet prefetto della Congregazione per i Vescovi,” trong Zenit.org ngày 30.6.2010
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Thông báo về kết quả cuộc xướng họa ''Sen Giữa Lầy''
Lm. Trăng Thập Tự
12:21 30/06/2010
THÔNG BÁO VỀ KẾT QUẢ CUỘC XƯỚNG HOẠ

SEN GIỮA LẦY


Cuộc xướng hoạ Sen Giữa Lầy từ đầu đã được gọi là “trò chơi trời cho”, không phải là một cuộc đọ sức so tài nhưng là nơi để nhiều người cùng góp tiếng hỗ trợ cho việc Đoan Hứa Khiết Tịnh của các bạn trẻ trên trang mạng Hướng Về Đại Hội Dân Chúa. Nhờ Chúa chúc lành, đã có đông đảo người tham gia sinh hoạt, từ sáng tác đến thưởng thức những bộ môn khác nhau: thơ, văn, nhạc và hoạ. Qua đó độc giả thấy nhiều tài năng xuất hiện, bất ngờ nhất là về thơ đường luật. Nhà thơ Lê Đình Bảng qua phân tích lượng giá tất cả các bài hoạ dự thi, ghi nhận “có những bài đáng đưa vào sách giáo khoa”.

Chúng tôi đã cố gắng tối đa để thực hiện việc bình chọn cách khách quan và khoa học, vừa dựa trên vẻ đẹp văn chương vừa dựa trên mục đích cuộc xướng hoạ là tôn vinh Mẹ Maria và cổ võ đoan hứa khiết tịnh. Một số vị được mời giúp bình chọn sơ tuyển, cho điểm mỗi bài từ 01 đến 10. Tiếp đó, chúng tôi gởi những bài được số điểm cao nhất đến những vị giúp chung khảo để chọn bài hay nhất.

Tham gia sơ tuyển về thơ là các nhà thơ Lê Đình Bảng, Đoàn Xuân Dũng, Martinô Nguyễn Văn Tường, Lê Quý Long, PM Cao Huy Hoàng và linh mục nhà thơ Mai Văn Khôi. Bảng tổng kết số điểm của sáu vị là cơ sở để chọn các bài thơ vào tuyển tập Sen Giữa Lầy. Tiếp đó 11 bài điểm cao nhất được chuyển đến các vị tham gia chung khảo, gồm có: Đức Giám mục nhà thơ Bạch Lạp, tức Đức Cha FX Nguyễn Văn Sang, nguyên Giám mục giáo phận Thái Bình, Đức Giám mục nhạc sĩ Giuse Nguyễn Năng, Giám mục giáo phận Phát Diệm, Đức Ông nhà thơ Xuân Ly Băng, nguyên Tổng đại diện giáo phận Phan Thiết và Linh mục nhà thơ Võ Thành Tâm, Tổng đại diện giáo phận Vinh. Theo ý các vị chung khảo, thay vì chỉ nêu một giải nhất, Ban Tổ Chức quyết định nêu thêm giải nhì.

Tham gia sơ tuyển các bài văn là nhà báo Nguyễn Thanh Xuân, thuộc Hội Văn Học Nghệ Thuật tỉnh Bình Định, nhà văn Nguyên Đạt, hiện sống tại San Jose, California, Hoa Kỳ, và nhà văn Lê Hồng Bảo, chủ biên chuyên san Vườn Ôliu. 05 bài có điểm cao nhất được chuyển đến các vị giúp chung khảo, gồm Lm nhà văn Anrê Trần Cao Tường, chủ nhiệm Mạng Lưới Dũng Lạc, Lm nhà văn Nguyễn Thiên Cung, giám đốc Chủng viện Thánh Nicôla Phan Thiết và nhà thơ Trần Vạn Giã thuộc Hội Nhà Văn Việt Nam. Trong thể lệ ban đầu, chỉ có một giải nhất, nay theo ý các vị chung khảo, bộ môn văn có hai giải nhất, một về nội dung tôn vinh Mẹ Maria và một về cổ võ đoan hứa khiết tịnh.

Xin đặc biệt cám ơn những vị đã tham gia bình chọn. Giữa một cuộc sống hiếm hoi thời giờ như hiện nay, làm sao có thể ngồi đọc, nghiền ngẫm và đánh giá một lượng bài rất lớn, nếu không có tấm lòng thiết tha với Đức Kitô và với lớp trẻ mà Ngài và Hội Thánh Ngài yêu thương và quý trọng?

Sau đây là kết quả bình chọn:

VỀ THƠ

GIẢI NHẤT: CHÚC KHEN MẸ - Giuse Nguyễn Văn Sướng

GIẢI NHÌ: LINH MỤC GIỮA ĐỜI – Đình Chẩn

9 BÀI TIẾP THEO:

* MẸ KHIẾT TRINH. – Bùi Nghiệp

* BẠCH LIÊN HOA – Lý Việt Thắng

* GỞI NGƯỜI THIẾU NỮ - Bùi Nghiệp

* MỘT THỦA Êđen – Tuyết Mai Texas

* DÂNG HIẾN – Hữu Tâm

* GƯƠNG SEN – Thiên Tâm

* NÊN THÁNH GIỮA ĐỜI – Đình Chẩn

* ĐOAN HỨA KHẾT TỊNH – Cao Danh Viện

* ÁI NỮ TINH TUYỀN – Tuyết Mai Texas

VỀ VĂN

HAI GIẢI NHẤT:

SEN GIỮA LẦY - Cécilia Nguyễn Cát Thu (Tôn vinh Mẹ Maria)

GIỮA MÙA SEN - Lưu Minh Gian (Đoan hứa khiết tịnh)


CÁC BÀI TIẾP THEO:

* Chùm thư của An Thiện Minh

- HOA LÒNG GỞI ANH 1

- HƯƠNG KINH CHO EM 2

- HOA LÒNG GỞI ANH 2

- HƯƠNG KINH CHO EM 2

- HOA LÒNG GỞI ANH 3

- HƯƠNG KINH CHO EM 3

* CẢM NHẬN SEN GIỮA LẦY - A.P Mặc Trầm Cung

* VÀI CẢM NHẬN VÀ CHIA SẺ KHI ĐỌC BÀI THƠ “SEN GIỮA LẦY” CỦA Lm TRĂNG THẬP TỰ - Lý Tân

* ĐOÁ SEN ÂN SỦNG – Anne Marie THUỶ TUYẾT

CÁC BỘ MÔN KHÁC:

NHẠC, HOẠ VÀ HÌNH CHIẾU

Do số lượng các bài văn xuôi khá ít, chỉ có 19 bài, Ban Tổ Chức quyết định chuyển một phần quà tặng dã dự kiến cho văn xuôi đến quý hoạ sĩ, nhạc sĩ và nhà thiết kế hình chiếu, đã góp phần giúp cuộc chơi thêm sinh động. Đó là các vị:

1. HOẠ SĨ TRẦM HƯƠNG

2. NHẠC SĨ LÊ ĐĂNG NGÔN

3. NHẠC SĨ KHÔI NGUYÊN

4. NHÀ THIẾT KẾ SƯƠNG MAI


Lễ trao quà kỷ niệm sẽ được tổ chức trong buổi sinh hoạt ĐIỂM HẸN GIÊSU tại Trung Tâm Mục Vụ Dòng Chúa Cứu Thế, 38 Kỳ Đồng, Quận 3, TPHCM, vào lúc 18g30 ngày Thứ Năm 29-7-2010.

Trân trọng kính mời các anh chị em đã góp phần vào cuộc xướng hoạ, cách riêng là các tác giả đạt giải, tham gia buổi sinh hoạt giao lưu vào lúc 14g30 và sau đó dự buổi trao giải vào lúc 18g30 tại địa điểm nêu trên.

Những tác giả không có điều kiện tham dự buổi sinh hoạt sẽ nhận được quà kỷ niệm qua Câu Lạc Bộ Đồng Xanh Thơ gần nhất, thời giờ và địa điểm sẽ được thông báo đến quý vị qua điện thư email.

Qui Nhơn, 26-06-2010

TM BAN TỔ CHỨC

LM TRĂNG THẬP TỰ

Những bài đạt giải

Thơ – giải nhất

CHÚC KHEN MẸ


Mẹ như trăng giãi khắp đêm đen

Bát ngát hương lừng triệu đoá sen

Thiên Sứ cúi mình Thiên Sứ chúc

Thế Nhân quỳ gối Thế Nhân khen

Chúc Bà vô nhiễm đầy ơn phúc

Khen Mẹ chẳng vương chút tội hèn

Hướng mắt trời cao nhìn Mẹ Thánh

Học đòi con cái quyết đua chen.

Giu-se Nguyễn văn Sướng

Giuse Nguyễn Văn Sướng



Thơ – giải nhì

LINH MỤC GIỮA ĐỜI


Kìa ai thanh thoát áo chùng đen

Thầm lặng dâng đời tựa đóa sen

Sóng đẩy ba chìm không ngại bước

Thuyền xô bảy nổi vẫn ca khen

Đèn chầu soi tỏ đời thanh tịnh

Muối đất ướp tan kiếp mọn hèn

Theo Mẹ từng ngày trên nẻo thánh

Đường đời thơm ngát hương hoa chen.

Đình Chẩn



Văn – giải nhất Tôn vinh Mẹ Maria

SEN GIỮA LẦY


Cécilia Nguyễn Cát Thu

Về thăm vườn cũ thuở Êđen

Thanh thoát ô kìa một đóa sen.

Trong trắng giữa lầy trong trắng gọi

Lặng thầm trên sóng lặng thầm khen.

Gọi mời ai giữ gìn cao quý

Khen ngợi Ai thương đoái mọn hèn.

Hướng tạ ơn Trời chưa nháy mắt

Ngoảnh nhìn sen đã nở đua chen.

Vào một buổi chiều, rất lâu sau cái ngày bị trục xuất khỏi chốn địa đàng, tôi, E-và, lại được Đức Chúa mời về thăm vườn xưa.

Êđen, ôi cái tên gợi nhớ bao ngày tháng rất xưa, xưa nhưng chưa bao giờ cũ! Nơi bắt đầu. Nơi kết thúc. Để lại bắt đầu… “A-đam, anh ở đâu?” Trên đường về, tôi đã đưa mắt quanh quất, thầm mong gặp lại chàng, gặp lại chính chàng, thuở ban đầu. “Dù chính em là người đã đưa tay hái và trao cho anh trái cây giữa vườn, anh vẫn không hiểu là em đã dành tất cả cho anh sao, và chỉ riêng anh thôi? Với em, anh quan trọng biết bao! Em đã phản bội Đức Chúa chứ nào đã phản bội anh? A-đam! A-đam! Anh của em! Anh ở đâu?”

Đang miên man với những khắc khoải hàng ngàn năm, cửa vườn đã ngay trước. “Lạy Đức Chúa, hành trình về lại chốn xưa dài như đêm trắng, lúc tưởng chừng quỵ ngã trong đơn côi lại kết thúc chẳng ngờ. Chẳng ngờ như ngày xưa con đã phải xa lìa chốn thiên thai, xa lìa Ngài và cũng xa lìa tình yêu chàng”…

Tôi vẫn còn nhớ rõ những lưỡi gươm sáng lóe trong vườn của các thần hộ giá ngày xưa đó. Làm sao có thể quên được thứ ánh sáng sắc lạnh như ánh chớp nhạt nhòa dấu chân sót lại, xóa vết đường đi lối bước về địa đàng. Tất cả ở phía sau. Qua mất rồi khi mặt đất dưới chân tôi đen ngòm gai góc, còn không gian là màu xám tang thương.

Bất giác tôi lo sợ. Có lưỡi gươm nào sẽ cản lối, có lưỡi gươm nào phải đâm thâu khi tôi tiến vào?

Thật ngạc nhiên! Lối về không… như ngày ra đi. Đón tôi là các thiên thần - bé thơ tung tăng đùa chơi bên những cành hồng rực rỡ rung rinh trong gió. Quá nhiều bé thơ! Nhiều không kể xiết! Ngào ngạt hương! Nồng nàn quá hương… Tình Yêu! Trái tim tôi bỗng đập mạnh. Hơi thở tôi bỗng dồn dập. Tay chân tôi bỗng run rẩy. Chính là chàng và tôi đã nhìn thấy nhau lần đầu tiên trong vườn Tình này. Tóc tôi thơm. Và bàn tay chàng ấm nóng. Tôi lại thấy chúng tôi trong trò chơi trốn tìm, trong cái nhìn trong veo và tiếng cười rổn rảng thơ ngây.

“Mẹ ơi! Mẹ ơi!” Có ai đang gọi mẹ. Không phải một tiếng gọi, mà rất nhiều tiếng gọi. Đưa mắt nhìn tôi thấy các thiên thần - bé thơ đang nhoẻn cười. Từ ngày Aben mất và Cain ngược xuôi trên mặt đất, tôi chẳng còn nghe tiếng gọi “Mẹ ơi”. Bà mẹ của chúng sinh mãi không được ai gọi là mẹ nữa. Có phải vì thế mà các con trai, con gái, con của tôi, những đứa con tôi có được nhờ Đức Chúa, đã dần từ chối quyền làm mẹ, làm cha?

Nỗi khát khao nghe được tiếng “Mẹ ơi” tưởng chừng đã chết lịm phút chốc trỗi dậy. Tôi là ai? E-và. E-và nghĩa là gì nếu không phải là mẹ? Sự cách chia với chàng, A-đam, đã che lấp cái tên E-và do chính chàng trao tặng. Quá lâu rồi! Tôi đánh mất giữa cơn quay quắt thương nhớ chàng và sự vắng bóng tiếng con trẻ bi bô.

Đôi chân thôi thúc tôi tiến đến gần thiên thần - bé thơ. Tôi đưa tay. Có khoảng cách giữa bàn tay tôi và bé thơ. Không chạm đến được. Tôi khom mình. Vẫn không chạm vào được. Tôi quỳ xuống. Vẫn không thể chạm được. Trước bà mẹ già nua với bàn tay nhăn nheo và lớp áo sống nhàu nát bụi bặm ngàn năm tuổi, các thiên thần - bé thơ không bỏ chạy mà vẫn bi bô “Mẹ ơi” và đưa tay vẫy gọi. Tôi rướn người gắng thêm chút nữa nhưng…Tôi cảm thấy bất lực và đổ sụp. Khi hàng mi khép lại, hình ảnh A-đam xuất hiện trong đầu tôi. Vẫn luôn là chàng. “Giá mà có anh ở đây. Một người mẹ dường như không đủ. Con chúng ta cần có một người cha nữa. Một mình em, em không thể, em không thể…”

Bỗng nhiên tôi thấy mình được nâng lên, càng lúc càng được nâng cao hơn. Tôi cảm thấy một làn gió mơn trớn khắp người. Mở mắt, tôi thấy mình đang lướt đi trong không trung giữa muôn vàn thiên thần – bé thơ. Những đôi cánh trắng muốt vẫy đập. Những bàn tay mũm mĩm ôm chặt lấy cổ, tay, chân, eo, trước ngực cũng như sau lưng tôi. Trái tim buốt giá dần ấm áp nhờ cặp má bầu bĩnh của con trẻ áp sát đòi sữa. Đôi tay mỏi mệt rã rời được cất cánh bay cao, đôi chân nặng nề lấm lem được nhấc bổng lướt nhanh bởi hàng trăm bé thơ quấn quýt ấp ôm.

Chớp mắt tôi đã về giữa vườn. Tiếng cười trong veo và những đôi cánh trắng xa dần. Giữa vườn còn mình tôi.

Con rắn. Trái cấm. Trần truồng. Đức Chúa. Cây trường sinh… Hình ảnh và âm thanh của buổi chiều hôm đó dồn dập ập về. Nỗi sợ hãi ngày xưa bỗng dâng tràn. Tôi nghe rõ tiếng Đức Chúa từ ngàn năm vọng về bên tai: “Ngươi đã làm gì thế?” Ngày xưa tôi… Quá tủi hổ, tôi lại tìm cách lẩn trốn. Tôi bịt chặt đôi tai, nhắm nghiền đôi mắt. “Lạy Đức Chúa, con không dám nhìn thứ trái cây “ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý”. Con quá sợ những lời đường mật ngày xưa “Chẳng chết chóc gì đâu!”. Con tin chắc rắn vẫn ở trong vườn và cây trường sinh vẫn được canh giữ ngày đêm. Xin Ngài thương xót con! Xin Ngài thương cứu con!”

Trong bóng tối của âm thanh và cảnh sắc, tôi nhận thấy mặt đất dưới chân mình ẩm ướt và mềm hơn lạ thường. Một cơn gió lạnh buốt ập vào để lại trên môi vị chua đắng ẩm ướt. Tôi rùng mình.

Có điều gì xa lạ trong vườn. Ngày xưa gió dịu dàng và không gian rất ngọt ngào.

Nhưng cũng có điều gì rất gần gũi như ngàn năm nay. Mồ hôi. Nước mắt. Đắng đót.

Thôi rồi! Chính cái thân rã rời bụi đất với bao đắng cay, bẽ bàng, với bao lao nhọc, vất vả của tôi đã làm ô uế nơi thánh thiêng nhất của vườn địa đàng. “Lạy Đức Chúa! Ngài đã sai lầm khi cho con quay về đây. Ngài được gì khi con làm ố bẩn vườn của Ngài? Con được gì khi phải vừa sống, vừa dằn vặt bản thân suốt hàng ngàn năm giữa cảnh hạnh phúc chưa kịp chín thì nước mắt đã đầm đìa; rồi cuối cùng, con nhận thấy mình chua đắng và giá lạnh giữa vườn xưa?”

“Không, tôi không thể chịu đựng cơn đau đớn này. Tôi không muốn một lần nữa sa ngã giữa vườn. Tôi không đủ can đảm để nhìn cảnh tượng này. Tôi phải ra khỏi vườn trước khi Ngài tìm gặp tôi một lần nữa.”

Toan cất bước…Nhưng kìa! Không phải đây chính là cái đầm lầy sau túp lều tôi vẫn sống sao? Không phải màu đen đặc quánh của màn đêm mà tôi vẫn ngụp lặn ngàn năm này qua ngàn năm kia ư? Ánh trăng chênh chếch kia không phải là người bạn sưởi ấm tôi giữa triệu đêm cô đơn sao? Tôi đã quay về? Hay vẫn ở giữa vườn địa đàng? Sao tôi không thấy cây biết lành biết dữ? Sao tôi không thấy cây trường sinh? Sao giữa vườn lại là đầm hoang vu?

Chợt có tiếng cựa mình khe khẽ. Tôi đưa tay tìm kiếm và khẽ hỏi “Ai đó?”. Đêm trả lời lặng thinh.

Những lại một tiếng lách tách vang lên. Tôi nheo mắt. Nương theo ánh trăng, tôi hướng về phía đầm lầy vẫn đen kịt ngày đêm. Đúng rồi! Có điều gì đó. Có vật gì đó… Ô kìa! Một Búp Sen! Một Búp Sen trắng nõn giữa đầm! Màu trắng ấy! Màu trắng ấy ở ngay giữa đầm lầy trước mắt tôi. Có bao giờ? Bao ngàn năm rồi? Có bao giờ? Với tôi, chỉ có ánh trăng trên kia khi tròn đầy mới mang màu trắng thật. Một đám mây kéo ngang cũng làm vẩn đục trinh khiết. Một đêm khuyết bóng cũng làm mờ tối trắng trong. Trăng tròn ở trên cao. Tôi chẳng thể nào với tới được. Lại còn lần đưa tay với trái cấm ngày xưa trên cây biết lành biết dữ…

Lại một cơn gió lướt qua tôi. Búp Sen ngả theo gió và khẽ khàng hé cánh tỏa hương. Gió thổi vào tôi. Sen nghiêng mình về phía tôi. Hương của Sen theo gió quyến luyến thân xác tôi. Cái búp thanh thoát kia hướng về tôi, nghiêng về tôi! Cái mùi hương thanh tịnh đó tràn vào tôi, quấn lấy tôi! Và những cơn gió thanh tẩy, chiều tối này sao cứ nhằm vào tôi mà thổi suốt!

Từ đâu Sen cao quý giữa đầm lầy cho E-và sống trong một túp lều rách nát? Từ đâu một mùi hương thánh đức dành cho Sen chứ không phải một loài hoa khác? Từ đâu những cơn gió thần linh tỏa lan hương?

Từ đâu? Đã có điều xảy ra từ lâu rồi mà tôi không hề hay biết cho đến khi nó xảy ra. Điều gì đó rất lặng thầm. Đã có điều gì đó dành cho tôi từ lâu rồi mà tôi không hề hay biết cho đến khi nó ập tới. Điều gì đó rất gọi mời.

Điều gì lặng thầm? Điều gì mời gọi? Điều gì dành cho tôi? A-đam? Ca-in? A-ben? Tất cả những điều đó đã xảy ra rồi! Còn điều gì chưa xảy ra? Còn điều gì tôi mong đợi mà chưa xảy ra? Còn điều gì được hứa hẹn cho tôi, cho con cháu tôi?

Tôi phải tìm cho ra điều đó. Lạ lùng. Thôi thúc. Tôi quyết định thức suốt đêm.

Thật lạ là tôi không hề mỏi mệt, khác hẳn những lần trắng đêm thương nhớ A-đam và các con. Những lần ấy càng về sáng tôi càng suy sụp, nhưng đêm nay thì không. Có một niềm tin tưởng dâng tràn trong tôi. Chỉ thêm một chút nữa, một chút nữa thôi.

Tôi không hề rời mắt khỏi Búp Sen chớm nở. Ánh trăng vẫn chiếu sáng mặt đầm.

Trời càng về khuya, tôi càng tỉnh táo. Hơn thế nữa, lòng tôi thật hân hoan. Có một điều lãng quên sắp trở lại. Lần đầu tiên, tôi chờ mong ngày mau sáng. Lần đầu tiên, tôi khao khát được thấy ánh bình mình. Chẳng hiểu vì sao. E-và tôi chỉ biết một điều, khi trời sáng, Sen sẽ nở tung.

Đêm nay quả là một đêm dài. Tôi nghĩ là nó đủ dài để tôi lục bới, tìm kiếm quá khứ. Cuốn phim đời tôi được quay ngược chậm chạp để chắc chắn rằng, tôi không bỏ sót điều mà lúc này tôi đang mong tìm về.

Gió thổi suốt đêm. Hương lan tỏa. Bụi đất trên người tôi bị gió cuốn đi. Ngay cả đầm lầy kia, tôi bắt đầu thấy sóng sánh nước. Và Búp Sen kia đang hết sức cựa mình thành đóa.

Cuốn phim đã được quay ngược về ngày cuối cùng tại vườn địa đàng. Ngày ấy, Đức Chúa đã nói với A-đam “Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: "Ngươi đừng ăn nó", nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.". Lời đã ứng nghiệm từ rất lâu rồi. Bụi đất. Tro tàn. Khắp mặt đất.

Ngài cũng nói với tôi “Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi.” Tôi đã gánh gồng nỗi đau đớn bẽ bàng vì con cái và niềm khao khát không bao giờ được ắp đầy khi chàng không còn gọi tôi là “xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” hàng ngàn năm qua.

Vậy điều gì chưa xảy ra? Tôi có bỏ sót lời nào không? Suy đi nghĩ lại trong lòng, tôi chắc mình không bỏ quên bất kỳ điều nào. Làm sao tôi có thể quên được những lời đã đeo đẳng tôi, A-đam và con cháu chúng tôi từ đời này sang đời kia!

Phim lại tiếp tục quay…

“Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.”

Ngay lúc đó tia nắng đầu ngày lướt qua Búp Sen trắng và Mặt Trời rực rỡ nhô cao từ từ chiếu sáng cả đầm lầy. Sen vươn cao hứng trọn ánh bình mình bừng nở. Mặt đầm vỗ sóng và lóng lánh ánh vàng. Hương sen tỏa ngào ngạt như Khúc tiến hương Ngợi Khen Ánh Ban Mai.

Đúng rồi! Chính là điều đó! Niềm trông đợi đã bị biết bao đau đớn thể xác lẫn tâm hồn từ án phạt năm xưa che lấp. Thật Ngài đã phán “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.” Chưa bao giờ, nhưng hôm nay. Hôm nay chính là ngày Lời Ngài được khai mở và Lời đó viên thành.

Tạ ơn Ngài! Tạ ơn Đức Chúa!

Đang khi chắp tay cúi mình, mắt tôi dừng lại trước mặt đầm thì… Ô kìa, biết bao nhiêu sắc sen hồng, đỏ, xanh, tím, vàng… đua chen khắp mặt đầm. Và kìa, Đóa Sen trắng duy nhất giữa đầm đang nghiêng mình về phía tôi thật tha thiết. Cái màu trắng trinh khiết, cái nghiêng mình khiêm nhường mà thân vẫn ngập trong đầm lầy hôi hám sao mà thanh thoát quá! Tôi ngây ngất…

Mặt Trời càng lúc càng lên cao và ánh sáng chan hòa khắp muôn nơi. Các tia nắng óng ánh tràn ngập lấy thân xác héo hắt ngàn năm tuổi bất động của E-và. Nước ở đâu tràn lên mặt đất và mỗi lúc mỗi dâng cao cho đến khi E-và - đang ngoan ngoãn cháy mình dưới sự thiêu đốt của Mặt Trời - tan dần vào làn nước.

Khắp mặt đất ngập nước. Nơi E-và tan biến mọc lên những búp sen trắng nhỏ...

Khi Mặt Trời còn tỏa sáng, sen sẽ còn vươn lên và bừng nở. Giữa đầm lầy, trong đêm đen, Búp Sen trắng duy nhất đã chờ đợi như một lời bảo chứng. Vì nếu có đến ngày mây đen, Mặt Trời mãi rực lửa trên cao sẽ khiến những đám mây tan chảy để tưới thẫm mặt đất. Vì đầm lầy của trần gian đã được đặt vào vị trí trung tâm vườn địa đàng dưới bóng rợp của quyền năng Đức Chúa ngày cũng như đêm.

Từ đâu, các thiên thần - bé thơ như những cánh bướm bay chấp chới trên mặt đầm. Hương sen ngào ngạt. Và bài ca “Manificat” được cất lên dìu dặt với sự lĩnh xướng của Đóa Sen Trắng và tiếng phụ họa của dàn đồng ca đầm lầy cùng với những cử điệu nhịp nhàng của bầy bướm xinh và những cánh sen rực rỡ rung rinh trong gió. Tất cả đều hớn hở và rạng ngời trong ánh sáng chòi lòa của Mặt Trời vĩnh cửu. Trước cảnh tượng trên, Đức Chúa mỉm cười phán “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”.

9/12/2009 – 10/12/2009

Dâng Mẹ Hằng Cứu Giúp

Con cháu E-và

Cécilia Nguyễn Cát Thu

,



Văn – giải nhất Đoan hứa khiết tịnh

GIỮA MÙA SEN

Lưu Minh Gian


Viết tặng K.G.

và những bạn trẻ đoan hứa khiết tịnh trước hôn nhân

Nắm chặt trong tay xâu chuỗi Mân Côi, Sen cứ mải miết dõi về hướng sông lớn. Đó là con sông chính nối liền giáo họ của Sen với nhà thờ xứ và với thế giới bên ngoài. Trên dòng sông ấy, một người đã đến và đã đi.

Sen lặng người nhìn chiếc đò dần dần trôi xa. Màn sương chiều mỏng mảnh giăng giăng trên mặt sông. Nước triều đang mùa dâng cao, con nước phủ ngập cả đôi bờ lau trắng. Điều gì đó trong lòng Sen cũng đang dâng ngập như con nước muốn tràn bờ. Chút gì lãng đãng buâng khuâng...

Chiếc đò xa khuất tự bao giờ. Mặt nước xáo động lại trở về với trạng thái bình lặng. Bầu trời chiều ửng đỏ in bóng trên mặt sông. Sen nhìn thấy khuôn mặt mình in lờ mờ trên mặt nước... Đôi khi, để hiểu được con người thật của mình, người ta cần một tấm gương. Gương càng trong càng dễ giúp người ta nhìn thấy mình.

1.

Đi chợ về đến ngõ, Sen thoáng thấy giữa khoảng sân nhà mình có bóng một người đang chờ đợi. Nghĩ là Hưng lại đến tìm mình, Sen đi vòng qua hàng rào để vào nhà theo ngõ sau. Đã mấy tuần nay nàng tránh mặt Hưng.

Sen quen Hưng qua những lần chat trên mạng. Hưng là đứa con trai của thành phố, đẹp trai, lịch lãm, có học thức, lại có duyên ăn nói. Thế nên ngay ở lần đầu tiên về ra mắt, Hưng đã rất được lòng bố mẹ Sen. Ở quê, đâu phải ai cũng có cơ hội tìm được một chàng rể học đại học! Chuyện tình của Sen và Hưng được cả gia đình hết lòng ủng hộ. Mọi chuyện thật êm xuôi dễ dàng, cho đến buổi chiều hôm ấy...

Hôm ấy Hưng đến nhà xin phép để đưa Sen lên phố chơi. Sắp vào mùa Giáng Sinh, đường phố được trang hoàng thật rộn ràng đẹp đẽ. Vai sát vai bên Hưng trên đường phố, Sen cứ như người đang lướt đi trong mơ. Lòng nàng đầy ắp những hình ảnh tốt đẹp về một không gian huy hoàng cho ngày cưới của hai người...

Đi chưa được một vòng thì Hưng muốn đưa nàng về để giới thiệu nơi Hưng đang ở trọ. Căn phòng trọ của Hưng là căn phòng của một công tử nhà giàu. Kế bên giường ngủ là chiếc máy vi tính còn mới tinh. Hưng bảo Sen có thể sử dụng máy trong thời gian chờ đợi Hưng đi ra ngoài có chút việc.

Còn lại một mình, nhìn quanh căn phòng nhỏ, lòng Sen lại dâng đầy ắp những hình ảnh thơ mộng về một mái ấm nhỏ bé của hai người. Nàng mơ về một không gian tràn ngập tiếng cười trẻ thơ, mơ về bữa những cơm gia đình đầm ấm...

Sau một hồi mơ mộng, Sen mới bắt đầu ngó đến chiếc máy vi tính. Chiếc máy đã được mở sẵn từ lúc nào. Chỉ vừa chạm tay vào con chuột, nàng giật mình khi trên màn hình bất ngờ xuất hiện hình ảnh hai người trong trang phục của E-đam E-va đang quằn quại quấn lấy nhau. Tấm hình to đập vào mắt Sen. Bất ngờ thảng thốt, Sen len lén đưa mắt nhìn quanh như sợ bị ai bắt gặp... Rồi theo một thôi thúc kỳ lạ, nàng lại đưa tay vào con chuột. Click. Click. Sau mỗi cú click chuột, một tấm hình khác lại hiện ra. Tất cả trụi trần và nóng bỏng. Sen nghe máu nóng trong người mình như dồn lại. Bàn tay click chuột run run. Không thể cưỡng lại được sự tò mò mãnh liệt trước những điều mới mẻ, Sen lại click, click, click...

Một hơi thở nóng hổi phả vào gáy làm Sen giật mình. Nàng chưa kịp có phản ứng gì thì một đôi bàn tay đã vòng qua siết chặt lấy nàng từ phía sau. Là Hưng. Tai nàng ù lên trước những lời thì thầm. Cả người nàng như thất thần tê dại. Nàng quay mặt lại để tìm khuôn mặt Hưng. Mũi chạm mũi, môi chạm môi...

Rồi bất thần chạm vào đôi mắt Hưng, Sen rùng mình khiếp hãi. Trong đôi mắt lờ đờ là những đường gân máu đỏ ngầu. Đôi mắt ánh lên những tia hoang dại của một con dã thú sắp vồ mồi.

Sen hốt hoảng thét lên, rồi đẩy mạnh Hưng ra. Bị bất ngờ, Hưng ngã nhoài trên nền đất. Sen run rẩy chạy băng ra khỏi phòng. Đường phố đang hồi nhộn nhịp. Vẫn còn đâu đó vài tia nắng chiều sót lại trên nền trời xanh thẳm...

2.

Ngày hôm ấy Sen cho anh chàng chờ hơn một tiếng đồng hồ ở ngoài sân. Tới khi mở cửa, nàng bất ngờ vì gặp phải một khuôn mặt lạ hoắc. Lại là khuôn mặt trắng trẻo của một chàng công tử... nhưng không phải là Hưng. Chàng trai tươi cười:

- Xin lỗi, cho tôi hỏi, đây có phải là nhà của ông Trùm?

- Dạ... phải, anh là ai... muốn tìm bố tôi có chuyện gì?

- Tôi là sinh viên đến đây để thực tập...

- Tôi... xin lỗi... anh đợi có lâu không?

Chàng trai cười thật tươi:

- Không, không lâu... tôi mới xuống xe, rồi lại đi đò đến đây. Nãy giờ có cơ hội thơ thẩn để hít thở không khí trong lành của làng quê, tôi thích lắm...

Bố Sen bảo chàng trai về đây để dạy học cho những đứa trẻ nghèo trong vùng. Sáng sáng, ông lấy xuồng đưa chàng trai đi vào tận những kinh vùng sâu, đến chiều tối mới lại đưa chàng về nhà. Sen ngạc nhiên vì thái độ tôn trọng khác thường mà bố dành cho chàng sinh viên thực tập. Sen cũng thấy lạ vì cung cách đạo mạo trầm lặng của chàng sinh viên. Trông người thì rõ là dân phố, nhưng lại rất háo hức nghe về chuyện của những người nghèo ở thôn quê, chuyện của những trẻ em bị bỏ rơi, chuyện của những con người không được học hành...

Dù sao đi nữa, Sen không có nhiều cơ hội để gặp gỡ chàng trai. Đúng ra, nàng hay tìm cách lánh mặt chàng. Có vẻ lạ lùng, nhưng từ khi lờ mờ hiểu ra điều mà Hưng đã dàn xếp để chào đón mình trong căn phòng trọ buổi chiều hôm ấy, Sen đâm ra giận dỗi và nghi ngờ những người đàn ông mặt mũi trắng trẻo và miệng lưỡi ngon ngọt. Nàng nghi ngờ cả những khi chàng trai chỉ lịch sự mỉm cười thân thiện với mình. Sự có mặt của chàng trai trong nhà khiến nàng nghĩ đến Hưng...

3.

Sáng hôm ấy, bố Sen có việc đột xuất phải đi lên huyện. Trước khi đi, ông bảo Sen giúp ông đưa chàng trai vào vùng sâu. Sáng hôm ấy... mọi thứ cứ như một cuốn phim trôi qua trước mắt Sen. Sen được chứng kiến bao điều mới mẻ và lạ lẫm.

Nơi xuồng họ cập bến là một khoảng đất trống nằm trên bờ kinh. Lớp học là một căn chòi trống được dựng lên bởi những cây cột tràm, được che chắn bởi những tán lá dừa nước. Căn chòi đầy ắp cả người lớn lẫn trẻ con. Chàng trai vừa bước vào chòi thì đám nhóc đã nhao nhao vồ vập: Ông thầy... Ông thầy... Sau một hồi giành nhau cái balô nho nhỏ của chàng, cuối cùng đám nhóc lôi ra một chiếc kèn Harmonica, một quyển Kinh Thánh, mấy cây bút chì và vài cuốn tập...

Buổi học mở đầu bằng tiết mục thổi Harmonica. Chàng trai thổi những bài thánh ca quen thuộc mà giáo họ của Sen hay hát trong những dịp lễ Chúa nhật. Mọi người thích thú lẩm nhẩm hát theo... Sen ngạc nhiên khi thấy người ta đón chàng trai như đón một người bạn đã thân thiết từ bao giờ. Sen cũng ngạc nhiên khi thấy từ lúc bước vào nơi của những người nghèo chàng trai dường như đã biến thành một con người khác. Ngồi trước những cặp mắt đang chăm chú nhìn mình, chàng trai không còn là con người ngại ngùng trầm lặng. Sen bị thu hút bởi cách chàng trai nói chuyện và cười đùa với mọi người, bởi cách chàng dạy dỗ cho những đứa trẻ đen nhẻm bẩn thỉu, bởi cách chàng chăm chú lắng nghe những câu chuyện kể không đầu không đuôi của mấy bà nhà quê... Sen bị hút bởi tiếng cười trong veo lạ lùng của chàng trai hòa trong tiếng cười thỏa thích của những người dân quê chân chất.

Nàng nhận ra một điều đơn giản: chàng trai là người tốt bụng. Nhưng chàng đến đây để làm gì? Chàng tìm gì nơi đây? Chàng tìm gì nơi những con người cơm ăn không đủ no áo mặc không đủ ấm này? Chàng vui gì nơi những con người nghèo khổ thất học này? Tự mình, Sen biết chẳng bao giờ mình có thể trả lời được những thắc mắc ấy...

4.

Trên đường về, chàng trai xin Sen dạy cho mình lái xuồng. Sau một hồi lập bập, cuối cùng chàng trai cũng có thể làm cho chiếc xuồng chạy êm trên mặt nước. Ngồi một mình không biết làm gì, tự dưng Sen thấy mình thừa thãi bối rối. Sau một hồi lặng lẽ, Sen lại thả hồn mình vào những mơ mộng lãng đãng. Chàng trai lại khiến nàng nhớ đến Hưng...

Sen tự hỏi không biết bây giờ Hưng thế nào. Đã hơn hai tuần lễ trôi qua, vậy mà tất cả những hình ảnh của buổi chiều hôm ấy như vẫn còn mới nguyên trong Sen. Chúng như đã trở thành một phần trong tâm trí nàng, trong những lần lãng đãng mơ mộng, và cả trong những giấc mơ. Nàng bỗng nhận ra rằng có những điều chỉ cần được một lần đi vào tâm trí con người, là dấu ấn chúng đọng lại sẽ chẳng bao giờ phai nhòa. Tâm trí nàng như một tờ giấy trắng đã bị nhuốm bẩn bởi những dấu chân đen... Không biết đã bao lần Sen hồi tưởng lại hình ảnh cô bé ngu ngơ với những cái click chuột, hình ảnh từ chiếc máy vi tính, hình ảnh Hưng nằm chỏng chơ ngơ ngác sau khi bị nàng xô ngã... Nghĩ lại những điều ấy, nàng vẫn thấy mình còn nóng bừng cả mặt. Sen thấy ngượng với Hưng và ngượng với chính mình.

Dù sao đi nữa, Sen vẫn thấy mình thật may mắn khi tránh được những gì có thể xảy ra sau đó. Nàng quả thật sợ mất Hưng, nhưng nàng còn sợ hơn nữa nếu mình đánh mất điều gì đó quý giá nhất của một con người. Trong con người, có những điều thật sự quý giá mà mỏng mảnh biết bao. Chỉ cần một cái buông tay vô tâm, người ta sẽ dễ dàng làm vỡ nát nhiều thứ.

Nếu buổi chiều hôm ấy nàng buông thõng mình trong vòng tay của Hưng, mọi chuyện sẽ ra sao nhỉ?... Nàng nhớ đến cô Tư, người lặng lẽ sống bên mép làng, suốt đời mang theo nơi mình tội danh không chồng mà có chửa. Nàng mường tượng đến những lời xầm xì của các bà mẹ bên hông nhà thờ sau những giờ kinh chiều. Nàng tưởng tượng đến ánh mắt nguýt dài đầy dè bĩu của bà con trong xứ đạo. Nàng nghĩ đến ba mình, nghĩ đến danh giá của gia đình ông Trùm... Bao giá trị truyền thống của xứ đạo mà những người trẻ như nàng phải gìn giữ, là những khuôn phép gò ép hay là những giá trị đạo đức giúp người ta sống là người hơn?...

Cũng có lúc nàng đã nghĩ rằng, nếu chuyện có lỡ xảy ra, có thể nàng và Hưng sẽ tìm được một cách giải quyết gọn gàng trên phố, như đôi lần nàng đã nghe ai đó trong nhóm bạn của Hưng nói bóng gió. Mọi chuyện sẽ êm xuôi sau một chuyến đi phố... Nhưng liệu như thế, cuộc đời của nàng sẽ tiếp tục buông xuôi dễ dàng chăng? Liệu lương tâm nàng có im lặng dễ dàng chăng? Liệu nàng có thể tha thứ cho mình chăng?...

5.

Những cái lúc lắc của chiếc xuồng kéo Sen trở về với thực tại. Sen nghĩ về chàng trai đang cùng mình trên chiếc xuồng con giữa khoảng đồng không mênh mông sông nước. Giữa họ đã luôn có một khoảng cách vô hình, khoảng cách tưởng là mỏng manh nhưng dường như bất khả vượt qua. Sen nghĩ về đôi mắt trong veo, nghĩ về giọng cười trong veo của chàng trai. Đối diện với những cái trong veo ấy, tự dưng nàng thấy mình đục và bẩn quá. Nàng không biết chàng trai nghĩ gì khi đối diện với nàng, nhưng chắc hẳn nó không đen tối và tội lỗi như những gì cứ ám ảnh tâm trí nàng trong suốt những ngày qua.

Bỗng dưng Sen nghe tiếng chàng trai kêu lên thích thú: Ô, xem kìa... Hướng về phía chàng trai đang chỉ tay, Sen nhìn thấy cả một cánh đồng sen bát ngát. Thôi chết! Thì ra nãy giờ cứ thả hồn mơ mộng, nàng không nhận ra rằng chàng trai đã lái chiếc xuồng đi lạc đường. Thay vì rẽ theo hướng về nhà, chiếc ghe của họ lại đi thẳng đến đồng sen.

Sen đang vào mùa nở rộ. Cả vùng sen bát ngát trải dài như một tấm thảm hoa khổng lồ lay động trên mặt nước. Chàng trai thích thú cất tiếng cười vang...

Sen nhớ có một lần nàng phụng phịu với bố rằng tại sao ông lại đặt cho nàng cái tên là Sen. Tên gì nghe quê mùa chết đi được! Lần ấy bố lấy xuồng đưa nàng đến cánh đồng này. Bố bảo vì thích những đóa hoa sen, nên ông đã lấy tên ấy mà đặt cho nàng. Những đóa sen tượng trưng cho sự trong trắng. Sen cứ thầm lặng mà sống, nhưng luôn biết cách vươn cao khỏi mặt nước sình lầy. Vươn mình lên cao chính là một thôi thúc tự nhiên âm thầm mà liên lỉ mãnh liệt giữa lòng sen. Rồi ông giải thích: Sen có nghĩa là đẹp. Để minh họa cho điều mình nói, ông cất giọng ngâm nga:

“Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn...”

Sen nhớ hồi ấy bố còn nói rằng những đóa sen cũng là biểu tượng của sự sống. Trên vùng sóng nước long đong chập chờn, những bụi sen vẫn cứ sống và trổ hoa tươi tốt. Trong lòng sen dường như luôn tiềm tàng một nguồn sống dư đầy. Nước dâng đến đâu, những cây sen lại vươn cao đến đó. Vươn lên khỏi lũng sình lầy để đón nắng trời, để gặp gió khơi, để những cánh hoa trắng muốt tinh khôi không bị nhuốm bẩn bởi dòng chảy ô nhiễm...

Chiếc xuồng của họ lờ lững lướt đi vào giữa vườn sen. Những đóa hoa sen gần thật gần, đến độ chỉ cần vươn tay là chạm được. Hương sen thơm ngan ngát. Sắc sen đẹp mặn mà... Sen nhoài người ra khỏi xuồng để với tay hái một đóa hoa sen cạnh mình. Cầm được chiếc hoa trong tay, Sen bất chợt bị mất thăng bằng vì chiếc xuồng chòng chành. Nàng chao qua đảo lại, rồi ngã nhào về phía chàng trai. Có thể là vô tình. Có thể là hữu ý... Chàng trai vội đưa tay đỡ lấy Sen. Khi chiếc thuyền trở lại thăng bằng, Sen thấy mình đã nằm gọn trong vòng tay chàng trai. Nàng nghe cả tiếng con tim mình và con tim của chàng trai đang gióng nhịp dồn dập.

Vội buông vòng tay khỏi Sen, chàng trai ngượng ngùng lí nhí...

- Tôi... xin lỗi...

Ngước nhìn lên, Sen lại một lần nữa nàng chạm vào đôi mắt trong veo. Người ta nói đôi mắt trong veo là cánh cửa sổ dẫn vào một tâm hồn trong veo... Nhìn dáng vẻ lúng túng của chàng trai, Sen lại thấy mình có lỗi.

Tự dưng Sen hỏi một câu ngớ ngẩn:

- Anh... anh có phải là thầy tu không?

Trước sự ngạc nhiên của Sen, chàng trai gật đầu:

- Phải, phải... tôi là thầy tu. À, nhưng mà tôi phải nói mình là sinh viên thì mới có thể về vùng này để làm việc được... vì lý do an ninh mà. Tôi đến đây với tư cách là một thầy giáo thì mới không bị để ý, mới có tự do để tiếp xúc với bà con...

Sen hiểu điều này. Tự dưng nàng thấy mình ngớ ngẩn ghê khi không nhận ra điều ấy ngay từ đầu. Trước đây, cũng đã có nhiều tu sĩ đến liên hệ với bố nàng để vào làm việc trong vùng sâu cho những bà con nghèo. Họ dừng chân ở nhà nàng như một trạm trung chuyển. Họ phải thật kín đáo để thích nghi với những khó khăn kỳ lạ của hoàn cảnh. Hồi ấy, nàng vẫn thường hay nghe bố chép miệng than cuộc sống này sao mà kỳ lạ. Kỳ lạ ở chỗ những người làm việc tốt thì phải âm thầm ý tứ, còn những kẻ làm bao chuyện động trời thì cứ nghiễm nhiên công khai...

Im lặng một hồi, Sen lại lên tiếng:

- Mà nè, tại sao anh... ơ... thầy lại đi tu?...

Dường như đã qua cơn bối rối, chàng trai cười thật tươi:

- Tại thích.

- Sao lại thích? – Sen nhất định không buông tha.

- Hỏi thế thì thật khó trả lời... Nói sao nhỉ?

Sau một hồi lúng túng chàng trai cũng bắt đầu nói. Chàng nói chàng tin rằng mình được sinh ra để đi tu. Đi tu như là điều đã được chuẩn bị cho chàng từ rất lâu. Đi như có một điều gì đó cứ thôi thúc không ngừng trong lòng chàng. Chàng được sinh ra và lớn lên trong một gia đình công giáo đạo đức, bố chàng đã từng là một chủng sinh phải từ bỏ ước mơ sống đời dâng hiến vì chủng viện bị giải tán trước những đổi thay của thời cuộc. Từ nhỏ, chàng đã được nghe kể nhiều về đời tu, về những sinh hoạt trong tiểu chủng viện, về ước mơ không thành của bố... Chẳng biết tự bao giờ, những điều ấy đã trở nên một phần ước mơ của chàng. Dâng hiến cả cuộc đời để sống ơn gọi tu trì trở nên một ướ mơ vừa tự nhiên vừa linh thánh. Ước mơ ấy được nuôi dưỡng từ những giờ kinh tối của gia đình, từ những buổi lễ của xứ đạo, từ những giá trị truyền thống mà người công giáo gìn giữ...

Rồi chàng trai kết luận: có những giá trị đẹp được bén rễ từ rất sâu trong con người. Những giá trị ấy là âm thầm vô hình, nhưng luôn có sức mạnh rõ nét chi phối những chọn lựa và cung cách sống của một con người.

Sen hiểu điều ấy. Sen nhớ đến thời khắc mình vùng vẫy ra khỏi vòng tay của Hưng. Như có một luồng sức mạnh vô hình nào đó từ rất sâu trong con người nàng bừng lên. Sức mạnh ẩy giúp nàng vượt thắng những đòi hỏi của con người xác thịt. Sức mạnh ấy đẩy nàng vượt ra khỏi tình trạng thụ động khờ khạo. Sức mạnh ấy bỗng dưng bùng phát đẩy nàng vượt lên cao...

Sau một hồi lâu, Sen lại thắc mắc:

- Hồi giờ thầy... có người yêu chưa? Bộ thầy không biết yêu hay sao mà đi tu?

Chàng trai ngạc nhiên:

- Sao lại không biết yêu...

- À, ý là bộ thầy chưa bao giờ có tình cảm với ai, chưa từng yêu một người con gái nào? Bộ thầy từ bỏ dễ dàng ước mơ về một mái ấm gia đình hạnh phúc sao? Bộ tình cảm của con người là không tốt sao? Bộ tình yêu là có tội sao?

Sen hỏi một thôi một hồi những câu hỏi khó nghe khiến chàng trai phải trợn tròn con mắt. Sau một hồi thinh lặng, chàng trai đủng đỉnh đáp:

- Sen có nghe bài hát hày bao giờ chưa nhỉ? - Rồi chàng cất tiếng hát nho nhỏ:

“Chúa không lầm khi Ngài dạy con yêu,

dù đường tình con oan trái nhiều.

Vì Chúa đã biết từ ngàn xưa,

từng giây rung cảm trong lòng

là từng giây hơi thở rực nóng”. (Chúa Không Lầm – Kim Long)

Không có con người nào chai sạn như sỏi đá, cũng không có con người nào vô tâm như cỏ cây. Con người nào cũng là người được Chúa cho một thân xác bằng thịt và một trái tim bằng thịt. Chúa thật dễ thương khi ban cho thân xác và con tim con người có khả năng rung động và có những tình cảm thật đẹp. Điều quan trọng là con người sống sao với những rung cảm ấy để còn được xứng đáng với ân huệ mà Chúa ban, phải không? Đi tu cũng là một cách lựa chọn để đáp trả lại ân huệ ấy mà.

Điều chàng trai nói làm Sen suy nghĩ về những gì đang diễn ra giữa lòng mình trong thời gian qua. Tất cả những biến động ồn ào cứ gầm gào trong nàng như thể con nước đang chực tràn bờ. Những biến động mới mẻ mà đen đủi. Nàng nhận ra sự giằng con ngay trong chính con người mình giữa một bên là những mời gọi tội lỗi và bên kia là những khao khát vươn lên. Có lúc Sen thấy mình nhỏ bé như một chiếc thuyền con giữa chênh chao sông nước, luôn có thể bị chìm đắm bất cứ lúc nào...

Nàng lặng yên nhìn chiếc xuồng con lướt đi trên mặt sông. Dòng nước giữa đồng sen bị khuấy động đã ùng ục sủi bọt và trở nên đục ngầu. Chiếc xuồng con vẫn hếch mõm lên trời lướt mình về phía trước... Đã quen thuộc với vùng sông nước từ nhỏ, nhưng lúc này Sen mới để ý đến sự trái ngược lạ lùng giữa dòng sông và chiếc xuồng con: dòng sông nước bao la luôn biến động, còn chiếc xuồng con thì mỏng manh bé xíu. Tưởng rằng lúc nào chiếc xuồng con cũng có thể bị tràn phủ ngợp chìm bởi con nước, tưởng rằng những rác rưởi ô uế từ dòng sông luôn có thể cuốn trôi và dìm sâu chiếc xuồng con... thế mà chiếc xuồng vẫn cứ lướt đi nhẹ nhàng trên mặt nước. Chỉ cần con người biết điều khiển và làm chủ, mỗi nhịp hướng mình lên cao sẽ là một bước đẩy họ tiến về phía trước.

Lặng yên một hồi, Sen lại lên tiếng:

- Có lẽ như thầy vậy mà hay... Yêu đương bây giờ lằng nhằng quá, tội lỗi quá...

Chàng trai lại cười thật hiền:

- Hình như chỉ có con người mới hay lằng nhằng, chứ tình yêu đâu có lằng nhằng... Yêu nhau đâu có tội. Bởi vì tình yêu có bao giờ là tội đâu. Làm hoen ố tình yêu của mình mới là có tội. Đạp đổ đi tương lai tốt đẹp của tình yêu mình mới là có tội.

Sen nghĩ đến tình yêu của mình. Bây giờ thật sự nàng chẳng biết phải bắt đầu lại từ đâu. Có lẽ nàng sẽ chẳng còn có thể đối diện với Hưng hồn nhiên và trong sáng như thuở ban đầu. Trong tình yêu, họ đã khuấy lên những điều không được phép khuấy động, và tình yêu ấy đã bị nhuốm bẩn bởi nhiều bợn nhơ...

- Thầy ạ, có phải thời buổi bây giờ sống trong sạch là khó lắm không?

- Có lẽ vậy... Tôi đã qua một thời sinh viên, nên tôi hiểu phần nào những khó khăn của việc sống trong sạch giữa một môi trường bị thấm nhiễm bởi quá nhiều tạp chất. Văn minh phố thị mở ra một thế giới bao la cho người trẻ, nhưng cũng đặt ra trên bước đường họ đi bao là cạm bẫy... Trong con người luôn có những góc khuất mỏng manh và dễ bị thương tổn, thế giới hiện đại lắm khi lại đụng chạm và khai thác chính vào những góc khuất ấy. Con người thì yếu mềm như một nhóm rơm khô dễ cháy, mà những mời mọc của thế giới hiện đại thì mạnh mẽ và quyến rũ như những ngọn lửa thiêu...

- Vậy thầy thường làm gì để có thể vượt lên trên những nhếch nhác của cuộc sống và những tạp nhạp của lòng mình?

Không chần chừ, chàng trai đáp:

- Tôi cầu nguyện. Tôi cầu nguyện nhiều với Mẹ Maria. Giữa cuộc sống có nhiều góc tối, tôi cần một mẫu gương thật trong, thật sáng và thật đẹp để soi mình. Trước Mẹ, tôi thấy lòng mình luôn trầm lặng và bình an. Tôi thích những lời nguyện đơn sơ mà sâu lắng của lời kinh Kính Mừng: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, bây giờ và trong giờ lâm tử... Lời kinh ấy vừa là lời nhắc nhở tôi về thân phận con người của mình, đồng thời vừa là lời nhắc nhở về cuộc chiến liên lỉ để vươn mình lên cao...

Chiều lặng im. Bóng nắng mênh mông dát vàng trên cả cánh đồng. Gió nhẹ đưa những tán lá sen như thì thào vẫy gọi. Những búp sen đong đưa la đà trên mặt nước. Hương sen vẫn thoang thoảng ngát thơm....

6.

Hai tuần sau chàng trai lên đường. Sen thấy má mình cũng nóng hổi trước những giọt nước mắt chia tay của bà con. Một tháng nơi này, có lẽ chàng trai đã không làm được nhiều điều... nhưng chàng đã khơi dậy được nhiều. Từ ngày gặp chàng trai, Sen mới thấy yêu mình hơn. Được nhìn bằng cặp mắt trân trọng, Sen tự nghĩ mình được nhắc nhở phải biết trân trọng mình hơn.

Sự xuất hiện của chàng trai cũng khiến Sen nhìn lại cuộc đời và lối sống của mình. Chàng trai từ nơi xa xôi đến đây chỉ để làm một chút gì đó cho bà con dân nghèo. Còn nàng, nàng sống cạnh bên họ, chẳng lẽ nàng chẳng thể chia sẻ gì với họ sao? Cuộc sống chung quanh còn biết bao người đang cần mình, có biết bao điều tốt đẹp mình có thể làm cho những người xung quanh... Nàng tin rằng mình luôn có thể làm được điều gì đó đẹp đẹp và hữu ích cho cuộc đời. Đẹp hơn nhiều so với việc chỉ luẩn quẩn trong thế giới nhỏ hẹp của riêng mình. Hữu ích hơn nhiều so với việc chỉ biết giam mình trong những ám ảnh của bao mời gọi ích kỷ và thấp hèn...

Cầm trong tay xâu chuỗi Mân Côi mà chàng trai tặng trước lúc chia tay, Sen tự hứa với lòng mình nhiều điều lắm. Nàng sẽ tập cho mình thói quen tâm sự với Mẹ mỗi tối. Nàng sẽ luôn ngước nhìn lên Mẹ để tìm thấy cho mình con đường đi về vùng trời ánh sáng...

Sẽ có nhiều điều nơi nàng được bắt đầu lại. Và Sen sẽ thực là Sen...
 
Giáo xứ Thanh Đức Gp Đà Nẵng hành hương La Vang 2010
Paul Maria
14:21 30/06/2010
Ai là con cái Giáo Hội Việt Nam, dù ở quốc nội hay hải ngoại, lại không một lần ước ao về Đất Mẹ La Vang ?
Chỉ nghĩ đến, chỉ nghe kể lại những phút giây an bình quỳ dưới chân Mẹ hiền khi bình minh vừa ló rạng, khi hoàng hôn tím vàng lùi dần sau những ngọn cây, hay khi trời đã về khuya thanh vắng, Mẹ con nhìn
nhau thương mến... cũng đủ để ước ao lớn mạnh thêm hơn.
Và thật tuyệt vời biết bao, nếu một lần cùng với nhau, cả gia đình, cả Giáo họ, cả Giáo xứ được quây quần dưới bóng áo Mẹ Từ Bi, tâm hồn mỗi người sẽ là một đóa hoa dâng tiến mẹ theo làn trầm hương nghi ngút bay cao... Ôi, còn hạnh phúc nào bằng ?

Xem hình ảnh hành hương

Năm nay, 2010, là lần thứ 13 liên tiếp kể từ năm 1998, Giáo xứ Thanh Đức Giáo phận Đà Nẵng được về thăm Mẹ như thế.

Đoàn hành hương năm nay do Cha Quản xứ Bônaventura Mai Thái và Ban Thường Vụ HĐGX dẫn đầu với hơn 400 Giáo dân tham gia.
Đặc biệt và cảm động nhất là sự hiện diện của Cha Tổng Đại diện Giáo phận FX Đặng Đình Canh, nguyên Quản xứ Thanh Đức.

Chương trình hành hương gồm 2 ngày 27&28/6/2010 với chủ đề: " Đức Maria hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng ".

Về thăm Mẹ lần này, Đoàn hành hương sẽ sốt mến dâng lên Chúa và Thánh Mẫu La Vang tâm tình cảm tạ, tri ân vì muôn lành Chúa và Mẹ đã ban xuống trên mỗi người, mỗi gia đình và toàn Giáo xứ.
Đoàn cũng xin phó thác vào tay Mẹ ngày lễ Bổn mạng Giáo xứ Phêrô và Phaolô sắp đến và xin ơn bình an cho Đại Hội Thanh Đức Hải Ngoại lần thứ 21 tổ chức ngày 4/7/2010 tại Santa Ana CA - USA.

Mở đầu ngày Hành hương thứ nhất là cuộc Ngắm Đàng Thánh Giá quanh Linh đài Mẹ với ý nguyện:
" Cầu cho sự hiệp nhất trong Giáo Hội ".
Dưới cái nắng gay gắt của mùa hè Miền Trung, cùng những đợt gió Lào đem theo hơi nóng hừng hực, bầu khí của giờ nguyện ngắm vẫn trang nghiêm, lời Thánh ca sốt mến càng cất lên cao vút:

" Vạn lạy Thượng Đế, ôi Đấng con mong
Tình Ngài ngời sáng xin xót thương con.
Cuộc đời trần gian cay đắng muôn vàn, Ngài ơi trông đến.
Đường dài Thập giá con quyết tin yêu
Nguyện Ngài ủi an giây phút cô liêu.
Để trọn đời con dẫu thân hao mòn, xin bước theo Ngài... "


Trước khi bắt đầu Thánh lễ tối tại Linh đài để xin ơn bình an cho Giáo xứ ( Quê nhà & Hài ngoại ) do Cha Tổng FX Đặng Đình Canh chủ sự cùng với Cha Quản xứ, cộng đoàn Phụng vụ tiến hành nghi thức tôn vinh và rước kiệu Đức Mẹ La Vang.
Đoàn kiệu Đức Mẹ khởi đi từ nhà Hành hương với Thánh giá đèn hầu dẫn đầu.
Con cái Mẹ đèn nến trên tay, miệng ca vang những bài ca chúc tụng. Ánh sáng của những ngọn nến rọi sáng bao tâm tình yêu mến Mẹ hiện rõ trên từng khuôn mặt mọi người tham dự.

Đèn điện Linh đài sáng trưng.
Mẹ đứng nhìn và hiệp lòng cùng con cái Mẹ sốt mến tham dự cuộc hiến tế của Con Yêu được tiếp diễn trên bàn thờ qua tay các Linh Mục đồng tế.
Lung linh huyền diệu, cảm động sốt mến, chúc tụng tri ân. Đó là những tâm tình của đoàn con cái dâng lên Chúa và Mẹ trong Thánh lễ đêm nay, đêm quá đỗi hạnh phúc.

Sau Thánh lễ là giờ " Tâm tình với Mẹ " theo chủ đề chính của cuộc hành hương: " Đức Maria ghi nhớ những kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng ".

Từng Nhóm đại diện cho Giáo xứ, đại diện của 12 Giáo họ, đại diện của các Đoàn thể, các Giới lần lượt dâng Mẹ nến lớn, hương trầm và hoa, rồi đọc 10 Kính Mừng, một bài ca tôn vinh Mẹ cùng lời tâm tình của mình.
Ông Anrê Nguyễn Đại Việt, Chủ tịch HĐGX, trong lời tâm tình có đoạn nói: "... Cộng đoàn Giáo xứ chúng con hành hương về Mẹ, trước để tạ ơn Mẹ đã ban cho Giáo xứ chúng con một năm qua được mọi sự bình an, sau nữa xin Mẹ giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn sốt sắng để mừng Lễ Bổn mạng cho xứng đáng. Cũng như chuẩn bị tinh thần để đón nhận Thánh Ý Chúa sắp gởi đến cho Giáo xứ chúng con... ".
Không nói rõ ra, nhưng mọi người tham dự đều hiểu điều Ông Chủ tịch muốn thưa cùng Mẹ. Một thời gian không lâu nữa, Giáo xứ sẽ chia tay Người Cha Chung kính yêu của mình mà bao năm tháng qua Ngài đã một lòng chuyên chăm dẫn dắt đoàn chiên Giáo xứ sống đúng Tin Mừng Chúa Kitô cách quảng đại và kiên vững. Xin Mẹ ban cho Giáo xứ chúng con chấp nhận theo Ý Chúa quan phòng, vì lợi ích của Giáo Hội, của Giáo phận, và thế cũng là lợi ích của Giáo xứ chúng con.

Một mục mới không có trong chương trình nhưng đã để lại nhiều ấn tượng tuyệt đẹp là phần: " Với Mẹ giữa trời khuya La Vang ". Theo lời mời của Cha Quản xứ, trên 200 anh chị em của đoàn hành hương đã ở cùng Mẹ lúc nửa đêm dưới ánh sáng lung linh của đêm trăng 16. Cha con cùng ngồi trước thềm Linh đài Mẹ, hợp tiếng hợp lòng dâng Mẹ những tràng hoa Mân Côi Năm Sự Mừng.
Để lòng trí " theo Thần Khí dẫn đưa ", Cha Quản xứ đã chia sẽ những tâm tình cảm mến trước mỗi chục kinh Mân Côi dâng Mẹ.
Và những bài Thánh ca tôn vinh Mẹ được hát vang giữa bầu trời đêm quyện theo tiếng đàn ghita vang vang êm ái.
Lòng bên lòng, yêu thương đáp lại yêu thương, giờ kinh dâng Mẹ qua đi trong bao niềm thổn thức, cảm động đến rơi lệ...

Ngày hành hương thứ hai được bắt đầu với Thánh lễ đồng tế do Cha Tổng FX Đặng Đình Canh chủ sự với ý cầu nguyện cho các Linh Mục là con cái của Giáo xứ, các Linh Mục đã và đang phục vụ tại Thanh Đức được cử hành tại Linh đài lúc 7 giờ sáng.

Ngoài đoàn hành hương của Giáo xứ Thanh Đức, tham dự Thánh lễ sáng nay còn có sự hiện diện của khá đông anh chị em đến từ Miền Bắc và Miền Nam.

Trong bài giảng lễ sau Tin Mừng ( Lc. 1,39-45 ), Cha Bônaventura Mai Thái đã dựa vào câu Lời Chúa: " Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em " để chia sẽ cùng cộng đoàn hành hương. Tin là đã được phúc. Tin rằng " những gì Chúa đã hứa thì Người sẽ thực hiện " lại là được thêm một diễm phúc khác nữa...

Kết thúc chương trình hành hương ' 2010 là giờ chầu Thánh Thể.

Thật ý nghĩa và đẹp đẽ biết bao khi được ở bên Thánh Thể Chúa một giờ trước lúc chào Mẹ ra về ngay tại Đất Thánh của Mẹ trong Tháng Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu.
" Đức Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt " ( Mt. 9, 36 ).
Cộng đoàn đã cầu nguyện thật sốt sắng cho Giáo Hội Việt Nam được Chúa thương luôn gửi đến những Mục Tử nhân lành, sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để bảo vệ đàn chiên.

Đúng 15 giờ 30, đoàn hành hương lại đến trước Nhan Thánh Mẹ để cảm ơn và chào Mẹ ra về.

Một cuộc hành hương trong nắng nóng gay gắt. Nhưng đã mang lại không biết bao nhiêu ơn ích cho đoàn con cái Mẹ. Hân hoan, vui sướng và cảm động, đó là những cảm nhận của mọi người qua lần hành hương La Vang năm nay.

" Bầu trời La Vang ngập tràn yêu thương của Mẹ lành,
Thảm cỏ xanh như thảm ân tình: Có bóng Mẹ kề bên chúng con.
Bầu trời La Vang lá vằng còn nhắc nhở
Ơn lành Mẹ trao ban,
Nâng đỡ đời con đi qua kiếp trần gian. .. "
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Hiệp thông
Lm Giuse Trần Việt Hùng
06:48 30/06/2010
Vòng tròn có một cái tâm, cái tâm ở giữa vòng tròn.

1. Vòng Quanh Bên Chúa

Vòng tròn có một cái tâm là mô hình của Giáo Hội Chúa Kitô. Đức Kitô chính là trung tâm điểm niềm tin và hy vọng của các Kitô hữu. Bao quanh Chúa Kitô là các anh chị em và con cái của Ngài. Một hình ảnh rất đẹp giúp chúng ta suy niệm về sự gắn bó của chúng ta với thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô. Mỗi người Kitô hữu chúng ta được tháp nhập vào đời sống của Chúa Kitô qua các Bí Tích. Chúng ta được thông truyền ân sủng từ chính Chúa Kitô để được dưỡng nuôi trong sự hiệp thông với toàn nhiệm thể mà Chúa Kitô là Đầu và chúng ta là Chi Thể.

Chúa Giêsu đã nhập thể để trở thành một con người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Khi thời gian chuẩn bị đã mãn, Chúa Kitô đã ra rao giảng và qui tụ những ai tin theo Ngài. Họ sống với Chúa và trong Chúa qua hình ảnh của một vòng tròn có một cái tâm. Chúa là tâm điểm, Chúa mời gọi những môn đệ đầu tiên vây quanh Chúa là thánh Phêrô, Gioan, Anrê và Giacôbê để cùng chia sẻ sứ mệnh đem tin mừng vào thế gian. Các Ngài là những môn đệ đầu tiên và thân tín nhất được Chúa yêu thương, dạy dỗ và cho chứng kiến những phép lạ mà Chúa đã thực hiện trong khi đi rao giảng như: Các Ngài được hiện diện khi Chúa Biến Hình trên núi cao (Mk. 9:2), được chứng kiến phép lạ Chúa cho em gái sống lại (Lk. 8:51) và cùng Chúa cầu nguyện trong Vườn Cây Dầu (Mt. 26:37). Chúa còn trao quyền điều hành Giáo Hội cho Phêrô và trước khi tắt thở trên thập giá, chính Chúa đã trao Đức Maria cho Thánh Gioan.

2. Nước Trời Tại Thế

Cầu nguyện thâu đêm cùng Chúa Cha, sáng sớm Chúa Giêsu đã chọn mười hai tông đồ để họ cùng quây quần bên Chúa. Chúa ưu ái dậy dỗ họ cách đặc biệt và trao quyền giảng dạy, thánh hóa, quản trị và tha giải tội lỗi cho con người. Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã trao quyền thừa tác linh mục đầu tiên cho các Tông Đồ để các Ngài hiến tế của lễ toàn thiêu lên Chúa Cha qua lời nhắn nhủ: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Các Tông Đồ đã được chung bàn với Thầy và đã uống Chén mà Thầy đã uống. Các Ngài đã hiệp thông trọn vẹn trong sứ vụ là cộng tác viên và là nhân chứng cho Chúa Kitô.

Vòng tròn quanh Chúa cứ mở rộng mỗi ngày. Chúa mời gọi và đón nhận nhiều tâm hồn muốn theo Chúa. Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, để ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền (Mt. 10:1). Thánh Matthêô kể tên các Tông Đồ được Chúa chọn: “Đứng đầu là ông Simôn, cũng gọi là Phêrô, rồi đến ông Anrê, anh của ông; sau đó là ông Giacôbê con ông Dêbêđê và ông Gioan, em của ông, ông Philípphê và ông Batôlômêô; ông Tôma và ông Mátthêu người thu thuế; ông Giacôbê con ông Anphê và ông Tađêô; ông Simôn thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giuđa Ítcariốt, là chính kẻ nộp Người” (Mt. 10:2-4).

Bao quanh các Tông đồ là các môn đệ. Bảy mươi hai môn đệ là những cộng tác viên đắc lực tiếp nối sứ mệnh mà Chúa đã sai đi từng hai người vào các làng mạc chung quanh để chuẩn bị tâm hồn dân chúng đón nhận tin mừng. Chúa cũng ban cho các môn đệ quyền trên những thần ô uế và chữa lành các loại bệnh hoạn tật nguyền. Thánh Luca đã kể lại: “Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến” (Lk. 10:1). Các Tông đồ đã cùng chia sẻ con đường thập giá và đã được chung hưởng hạnh phúc trong Tiệc vui Nước Trời. Có biết bao nhiêu vị tiền nhân cũng đã bước theo con đường Chúa đã đi xưa, các Ngài cũng đang chia phần hạnh phúc với Đấng mà họ tôn thờ.

Bên cạnh các Tông đồ và các môn đệ, còn có các thầy Thông Luật hoặc các nhà Biệt Phái. người thu thuế đã lắng nghe lời giảng, nhận ra chân lý và cải đổi lối sống theo con đường Chúa đã khai mở. Nhiều người đã bỏ cả công ăn việc làm để đi đến nghe Chúa giảng và đi theo Chúa. Đặc biệt có các bà, Thánh Marcô ghi lại rằng: “Nhưng cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Maria Madaglene, bà Maria mẹ các ông Giacôbê Thứ và Giôxết, cùng bà Salômê. Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Đức Giêsu khi Người còn ở Galilê. Lại có nhiều bà khác đã cùng với Người lên Giêrusalem, cũng có mặt tại đó” (Mt. 15:40-41). Tất cả họ là những thành viên cơ bản quây quần gần bên Chúa.

3. Giáo Hội Hiệp Thông

Nhìn hình vòng tròn quyện quanh như màng nhện liên đới, chúng ta nhận ra cấu trúc của Giáo Hội Chúa Kitô như một hình vòng tròn xoáy hình trôn ốc. Qua Bí Tích Rửa Tội, tất cả các thành viên không phân biệt màu da, sắc tộc, ngôn ngữ, văn hóa, chức bậc lớn nhỏ, già trẻ, trai gái, tất cả đều quy hướng về một mối là Chúa Kitô. Trong tình Hiệp Thông của Giáo Hội, chúng ta không nên phân biệt nhau như hình thức từ trên xuống mà là sự hiệp thông vòng tròn quanh Chúa Kitô. Trong sự hiệp thông, mỗi người được nhận lãnh những sứ vụ khác nhau để cùng nhau xây dựng một Giáo Hội. Chúng ta không thể tách rời khởi Chúa Kitô và Giáo Hội. Giáo Hội Chúa Kitô như cành nho vươn tới nhưng sức sống vẫn luôn phát nguồn từ cùng một gốc, đó chính là Chúa Kitô. Giáo Hội phát triển và sống dồi dào là do chính nguồn ân sủng từ Chúa Kitô qua các thừa tác viên trong Giáo Hội.

Hiệp thông trong sự cầu nguyện và nhận lãnh Bí Thích Thánh Thể. Trong Giáo Hội, mọi tín hữu được nuôi dưỡng bằng ân sủng và Mình Máu Thánh Chúa. Như ngàn hạt lúa miến làm thành tấm bánh trắng và muôn hạt nho ép thành chén rượu, các chi thể trong nhiệm thể hòa lẫn trong tình yêu thương kết dệt nên một Hội Thánh trong Chúa Kitô

Hiệp thông trong niềm tin và hy vọng. Các Kitô hữu cùng tin vào Chúa Kitô chịu chết và phục sinh, đã mang lại niềm hy vọng tràn đầy cho con người trong cuộc lữ hành trần thế. Con đường lên thiên đàng là thiên đàng. Con đường hy vọng chính là con đường giải thoát và cứu độ. Niềm tin vào Chúa Kitô sẽ dẫn dắt chúng ta vào cuộc sống hạnh phúc đời đời.

Hiệp thông trong Đức Ái. Đức ái chính là nguồn yêu thương chia sẻ, đặc biệt đối những người kém may mắn, nghèo đòi, cô đơn, bệnh họan tật nguyền và những người đau khổ tinh thần cũng như thể xác. Đạo của Chúa Kitô là đạo của tình yêu thương. Chính Chúa đã gồm tóm các giới răn về cùng một mối: Yêu mến Thiên Chúa và thương yêu đồng loại. Chúa Giêsu nhắn nhủ: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Jn. 15:17). Chỉ có tình yêu hiến dâng và tha thứ mới có thể liên kết con người trong một niềm Tin, Cậy và Mến.

4. Sống và Hành Đạo

Các thành viên trong Giáo Hội hiệp thông trong Niềm Tin, Đức Cậy và Lòng Mến, đây chính là Kim Chỉ Nam của cuộc sống Đạo. Ai có lòng mến nhiều sẽ tiến gần đến Chúa nhiều hơn. Không ai tự định vị trí cho mình ở vòng trong hay vòng ngoài, vòng xa hay gần, nhưng hoàn toàn tùy thuộc vào sự gắn bó nhiều hay ít với chính Đấng là nguyên thủy và cùng đích của cuộc đời. Các thừa tác viên trong Giáo Hội nhận lãnh trách nhiệm và thừa tác vụ là để phục vụ Giáo Hội và dân thánh. Họ sẽ là những nhân chứng đích thực để giúp chính mình và người khác nên hoàn thiện. Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta hãy nên hoàn thiện: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt. 5:48).

Nhìn Giáo Hội hôm nay, chúng ta cần bảo vệ và qúi mến Giáo Hội hơn. Giáo Hội đang bị bách hại và bị tấn công từ đủ mọi phía và mọi khía cạnh của cuộc sống. Trong suốt lịch sử Giáo Hội đã có biết bao những vị thánh, những bậc hiền nhân có đời sống thánh thiện nhưng Giáo hội cũng không tránh khỏi những thành viên tội lỗi và lầm lạc làm ô danh Giáo Hội. Nhưng không phải vì thế mà Giáo Hội mất đi sự thánh thiện từ bản thể. Vì chúng ta biết rằng chính Chúa Kitô là Thiên Chúa và là Đầu của Nhiệm Thể. Chúa Kitô là Đấng Thánh. Còn chúng ta hết thảy đều là con người yếu đuối và tội lỗi. Đứng trước tôn nhan Chúa, tất cả mọi người, kể cả các đấng bậc trong Giáo Hội, đều luôn luôn phải đấm ngực mình để sám hối ăn năn và tập đàng nhân đức mỗi ngày.

Vòng tròn của Giáo Hội ngày nay cứ tiếp tục phát triển thêm rộng lớn qua nhiều chiều kích. Chúng ta phải luôn ý thức rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào, sự gắn bó với Chúa Kitô là cốt lõi của sự sống trong Hội Thánh. Gia nhập vào vòng Giáo Hội, chúng ta không phân biệt thừa tác vụ đã nhận lãnh nhưng bất cứ ai sống đời từ bỏ chính mình càng nhiều, càng gắn bó gần với Đức Kitô. Và ai yêu mến nhiều, sẽ tiến gần đến tâm điểm nhiều hơn. Mọi thành viên không phân biệt tuổi tác và nhiệm vụ đều có thể làm sáng danh Chúa và Giáo Hội trong đời sống của mình.

5. Sứ Vụ Hôm Nay

Những thầy dạy hay các thừa tác viên tự đòi buộc mình nên hoàn thiện hơn, để các sứ vụ luôn được sinh hoa kết quả. Chúng ta đã lãnh nhận Lời Chúa thì hãy đem ra phân phát cho mọi người. Chúng ta học hỏi và suy gẫm luật Chúa, chúng ta hãy chú tâm tin điều chúng ta đọc, dạy điều chúng ta tin và thi hành điều chúng ta dạy. Đây chính là lời mà Đức Giám Mục nhắn nhủ các ứng viên lên chức Phó Tế và Linh Mục. Lời đó có thể áp dụng cho mọi thành viên trong Giáo Hội để Lời Chúa nên lương thực nuôi dân Thiên Chúa. Hương thơm của đời sống của các chứng nhân trong lời nói và gương lành sẽ xây dựng Nhà Thiên Chúa là Hội thánh.

Vai trò và chức bậc có trong Giáo Hội là để phục vụ. Kết qủa của việc phục vụ còn tùy thuộc đời sống đạo hạnh và yêu thương. Muốn là môn đệ của Chúa, không ai được miễn trừ khỏi con đường Chúa đã đi qua. Con đường tình yêu và thập giá. Nếu chúng ta muốn nên thánh, chúng ta phải sống thánh mỗi ngày và xa lánh tội lỗi.

Truyện kể ở một giáo xứ kia, cha sở và ông trùm được Chúa gọi về cùng ngày. Hạnh phúc được lên tới cổng thiên đàng, thánh Phêrô cho hai người vào phòng đợi và trao cho mỗi người một tấm bảng và một cục phấn, rồi bảo kê khai các tội đã phạm. Ai xong trước sẽ được xét vào thiên đàng trước. Ông trùm nhủ thầm: “Kiểu này là nguy rồi. Tội lỗi nhiều quá, chắc cha sở vào trước rồi”. Hai cha con hì hục viết. Được một lúc, cha sở đứng dậy đi vào. Ông trùm nói: “Cha đi trước và nói dùm con một tiếng”. Đúng 30 giây sau, ông trùm thấy cha lại đi ra. Ông hỏi: “Cha ơi vào thiên đàng rồi mà sao còn ra đây làm chi?” Cha sở rầu rĩ nói: “Ông nói sao? Tôi vào thiên đàng hả? Chưa đâu! Tôi mới vào xin Thánh Phêrô cho thêm một cục phấn nữa đấy.”

6. Phục Vụ Trong Chúa

Dĩ nhiên, xét về mặt cơ cấu tổ chức, Giáo Hội cần có phẩm trật và tôn ti trật tự. Giáo Hội sinh hoạt giống như ngoài xã hội trần thế, cũng cần có tất cả các Ban Ngành Đoàn Thể và cơ cấu để điều hành. Nhưng sự sống của Giáo Hội không cậy dựa vào quyền hành mà là lòng yêu mến và phục vụ. Chúa Giêsu luôn nhắc nhở rằng ai làm lớn thì phải phục vụ anh em. Thánh Matthêô đã truyền đạt lời của Chúa cho chúng ta: “Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người." (Mt. 20:26-28).

Gia nhập vào vòng tròn Giáo Hội của Chúa Giêsu, mọi người được gọi là bạn hữu. Bạn hữu sẽ cùng chia sẻ mọi nỗi vui buồn và gánh nặng của cuộc sống với nhau trong tình tương thân tương ái. Bạn hữu thì được thông dự đồng bàn và nâng đỡ bình đẳng với nhau. Chúa Giêsu nói rằng: “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Jn. 15:14-15).

Thay lời kết, chúng ta đang cử hành Năm Thánh Giáo Hội Việt Nam 2010. Năm Hồng Ân cho mọi tín hữu. Niềm tin vào Chúa Kitô dẫn dắt chúng ta đến gần Chúa và gần gũi với anh em hơn. Tình yêu thương phục vụ và bác ái chính là giây ràng buộc chúng ta lại với nhau trong Chúa. Cứ yêu đi rồi làm. Yêu Chúa, yêu Giáo Hội và yêu tha nhân trong tình anh chị em một nhà, vì tất cả chúng ta có cùng một niềm Tin, niềm Hy Vọng và cùng tôn thờ một Chúa Cha trên trời. Xin cho tình Chúa kết hợp mọi người nên một. Ước chi trong Năm Thánh này, mỗi người chúng ta hãy xích lại gần bên Chúa và gần anh chị em hơn một chút.
 
Thông Báo
Cáo Phó: Thân mẫu của Cha Giám tỉnh Toma Vũ Quang Trung, SJ., đã từ trần
LM Giuse Phạm Thanh Liêm
05:39 30/06/2010
CÁO PHÓ
“Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.
Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.”
(Ga 6, 51)

Trong niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Tử nạn và Phục sinh,
Dòng Tên chúng con xin trân trọng kính báo:
Bà Cố Maria Nguyễn thị Lan
Thân mẫu cha Giám tỉnh chúng con, Lm. Tôma Vũ Quang Trung, S.J.
Đã được Chúa gọi về nhà Cha trên trời
Lúc 6g00, sáng Thứ Ba, ngày 29.6.2010.
Hưởng thọ 81 tuổi.

Nghi thức tẩm liệm được cử hành lúc 18g00, ngày 29.06.2010,
Tại tư gia, số 44C Ấp 5, Xã Xuân Thới Sơn, Huyện Hóc Môn, Saigòn.
Thánh lễ an táng sẽ cử hành lúc 8g00 sáng thứ Sáu, ngày 02.07.2010
Tại thánh đường giáo xứ Cầu Lớn,
Số 1E, Đăng Công Bỉnh, Xã Xuân Thới Sơn, Huyện Hóc Môn, Saigòn.
Chúng con kính xin Đức Hồng Y, Quý Đức Cha, Quý Cha,
Quý Bề Trên, Quý Tu Sĩ Nam Nữ và Quý Vị
Thương cầu nguyện cho linh hồn Maria được sớm hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa.
Dòng Tên chúng con xin chân thành cảm tạ.
Đại Diện Giám Tỉnh
 
Văn Hóa
Tình thương của cha tôi
Trầm Thiên Thu
06:38 30/06/2010
Tháng 6 có Ngày Thân Phụ (Father’s Day), xin giới thiệu với bạn tâm tình của tác giả Frank Krause viết thật về người cha quá cố của mình tại http://www.thoughts-about-god.com/stories/krause_f.htm, và chính Frank Krause cũng đã qua đời ngày 23/12/1998.

Tôi muốn nói với bạn rằng những gì bạn đọc ở đây là thực sự quan trọng và sẽ ảnh hưởng cuộc đời bạn. Sự thật là, tôi có thể không nói những gì bạn chưa hề nghe, nhưng dù sao thì bạn cứ để tôi khuyến khích bạn đọc.

Tôi lớn lên trong một gia đình Kitô giáo sống tại một trại bò sữa ở Fraser Valley cùng với 5 chị em gái và 1 anh trai. Đó là một nơi đẹp và tĩnh mịch. Khi chưa đi học, tôi thường dắt chó đi dọc theo con lạch để bắt cá dọc lên ngọc đồi phía sau trang trại. Cha mẹ tôi luôn dạy tôi về Thiên Chúa và Con Một Ngài là Giêsu, nên khi tôi đi dạo thì tôi thường nghĩ đến Chúa. Ngài có lớn hơn cha tôi không? Có lâu hơn thánh lễ sáng Chúa nhật không?

Sinh trưởng

Tôi cũng làm những thứ mà trẻ em vẫn làm trong gia đình Kitô giáo: Học giáo lý, hát thánh ca, cầu nguyện,… Tôi làm mà không than phiền – cho đến khi tôi 15 tuổi. Đó là một buổi sáng Chúa nhật, cha tôi và tôi vừa làm xong việc nhà. Tôi từ từ vào kho thóc, còn cha giục tôi mau lên kẻo trễ giờ đi lễ. Tôi nói với cha là tôi không đi lễ. Cha tôi là người to lớn, rất khỏe và rất nóng tính. Tôi nghĩ cha la rầy hoặc đánh tôi. Cha lặng nhìn tôi với ánh mắt u buồn. Tôi phải ra khỏi phòng, không dám nhìn cha như vậy.

Lòng chai cứng

Có điều gì đó xảy đến với tôi vào ngày hôm đó. Tôi thấy lòng bất an. Trước đó, tôi hay uống rượu vào cuối tuần và bỏ học giáo lý. Khi tôi 17 tuổi, cách cư xử của tôi đã khiến cha mẹ bảo tôi ra khỏi nhà. Có nhiều an toàn trong gia đình Kitô giáo, tôi sống theo ý mình nên tôi đã mất. Tôi tiếp tục uống rượu nhiều. Có nhiều đêm say quá nên tôi không về nhà hoặc ngủ ngoài kho lúa. Tôi không tìm được việc gì làm để lo cho bản thân. Thất vọng về mình nên tôi gia nhập quân đội.

Sau 6 tháng quân trường, tôi được đưa sang Đức. Khi người ta ở tuổi đôi mươi, người ta sống ở nơi khác. Tôi lao vào rượu chè và gái đẹp. Sau 3 năm, tôi về nhà. Điều đầu tiên tôi làm là gặp cha tôi. Ông đang lái xe ủi đất. Khi thấy tôi, ông tắt máy và đến bên tôi. Hồi lâu sau ông mới nói nên lời, ông rất vui được gặp lại tôi.

Tuy nhiên, trước đây không lâu, đời tôi đã trở lại vị trí ngày xưa. Khoảng 1 năm sau, tôi gặp một cô gái có cha cũng nghiện rượu, cô ấy không ngạc nhiên về tôi. Rồi chúng tôi kết hôn và có 2 con gái.

Một trong những điều cha tôi dạy tôi là cách làm việc chăm chỉ. Tôi bắt đầu công việc của mình khi tôi 25 tuổi và công việc khá xuôi xắn. Vài năm sau, tôi mua một trang trại nuôi gia cầm. Dù ổn định cuộc sống nhưng việc uống rượu của tôi luôn là vấn nạn. Nó ảnh hưởng hôn nhân và gia đình tôi đến nỗi tôi biết tôi phải làm điều gì đó. Rồi tôi tham gia hội Cai Rượu (AA – Alcoholics Anonymous). Trước sự thất vọng của tôi, những gì tôi nghe được buổi chiều tối hôm đó là những người đan ông nói chuyện với Chúa. Thật là thất vọng! Nhưng tôi nghĩ họ thực sự dạy tôi điều gì đó về cách bỏ rượu.

Thay đổi

Dù vậy, tôi vẫn quyết định sẽ không uống rượu nữa và tôi bắt đầu đưa các con đi nhà thờ. Tôi rất thành kính nghĩ rằng hẳn là Chúa cũng thể chịu nổi tôi. Nhưng 2 năm sau, tôi lại bắt đầu uống rượu.

Tôi không biết tại sao, nhưng buổi chiều mà tôi bắt đầu uống lại, tôi đã ghé tham cha tôi. Ông sống một mình, vì mẹ tôi mất 10 năm trước. Tôi nói với ông tôi không thể sống như vậy nữa mà phải uống rượu lại. Cha tôi im lặng dù tôi biết ông rất buồn. Ông rất nóng tính. Đối với ông, không hành động như tôi thì đó là quà tặng của Thiên Chúa.

Khi tôi ngoài 30 tuổi, tôi bán hết cơ ngơi của tôi. Lúc đó, tôi đã có được tài sản khá nếu tôi biết khôn khéo quản lý tiền bạc thì tôi không phải làm việc nữa. Tôi mua một căn nhà lớn trên đồi. Đáng lẽ tôi đã có mọi thứ khiến tôi hạnh phúc…

Một buổi sáng Chúa nhật, tôi nằm bệnh trên giường và thấy lòng trống vắng. Lần đầu tiên trong nhiều năm qua tôi cầu nguyện: “Lạy Chúa, cón có những gì con muốn mà con vẫn không hạnh phúc. Phải có điều gì khác hơn thế này. Con xin Chúa làm những gì con ở đây nói với Chúa. Xin Chúa nhận lời con cầu nguyện”.

Mọi thứ sụp đổ

Không lâu sau khi tôi cầu nguyện hôm đó, tôi bán nhà trên đồi và mua một miếng đất rộng để làm nhà mới. Đó là khoảng thời gian mọi thứ sụp đổ. Hôn nhân rắc rối, tài chính cạn kiệt. Tôi không giữ được những gì tôi đã làm ra. Mọi thứ từ từ đội nón ra đi. Tôi phải làm thuê cho người ta, công việc vất vả cực nhọc. Tôi hiểu ra rằng càng làm việc thì càng được tôn trọng.

Khi đi làm về, tôi thường ghé thăm cha tôi. Ông luôn vui vẻ khi gặp tôi, và tôi biết ông luôn quan tâm tôi. Tôi cũng biết ông yêu Chúa và ông có điều gì đó mà tôi nghĩ tôi không bao giờ có. Lúc đó tôi nghĩ mình bị sa hỏa ngục mà không thể làm gì hơn. Một buổi chiều Chúa nhật, tôi đến thăm cha trước khi ông phải phẫu thuật. Sau đó tôi đến chỗ làm.

Hôm đó là thứ Tư, tôi nhận điện thoại báo tin cha tôi đã mất. Lúc đó lòng tôi rất nặng nề, tôi nói với vợ là tôi không về nhà. Tôi không muốn gặp vợ hoặc các anh chị em Kitô giáo của tôi. Tôi biết tôi về nhà cũng không lấy lại được một người đã yêu thương tôi. Nhưng một lần nữa Thiên Chúa đã can thiệp.

Tôi không hề biết cha tôi đã thay đổi di chúc 2 ngày trước khi chết, cho tôi quyền cai quản tài sản của ông. Chị Katherine bảo con rể chở chị đến cho tôi biết. Dù người tôi đang lấm lem, chị vẫn ôm chầm lấy tôi và khóc. Và tất nhiên tôi phải về nhà.

Di sản của cha tôi

Phải mất 1 tuần để tôi lo liệu công việc của cha tôi. Khi mọi thứ hoàn tất, chỉ còn 1 điều: Cuốn Kinh thánh gối đầu của cha tôi. Tôi cho cuốn sách vào túi xách, đi uống rượu 2 ngày rồi về chỗ làm.

Qua 2 tuần kế tiếp, tôi tò mò đọc mấy câu Kinh thánh mà cha tôi gạch dưới. Tôi còn nhớ đoạn Chúa Giêsu chết trên Thập giá, Ngài chết vì tội của tôi trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Tôi ngưng đọc. Tôi chưa bao giờ nghe vậy. Có thể là in sai, tôi nghĩ vậy. Tôi phải đọc 5, 6 lần mới hiểu rằng Kitô giáo có mọi bằng chứng để nói Đức Kitô đã chết vì tôi.

Tôi đã quỳ xuống và đón nhận ơn tha thứ của Đức Kitô đối với tội trong quá khứ của tôi, xin Ngài cứu độ tôi bây giờ và tương lai. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy thanh thản. Tôi đứng dậy, nhảy lên và hét to: “Tôi tự do rồi”.

Đó là 10 năm trước. Tôi muốn nói với bạn rằng từ lúc đó, mọi thứ đều tuyệt vời. Sự thật là hôn nhân của tôi vẫn chưa ổn, con cái tôi vẫn buồn và tôi vẫn mất hết tiền. Nhưng tôi đã trở về với Chúa và có được bình an tâm hồn. Tôi cũng phải đối mặt với sự thật là tôi đã từng nghiện rượu. Qua hội AA, tôi có thể cởi bỏ quá khứ và trở nên tự do sống phần đời còn lại.

Chẩn đoán định mệnh

Ngày 16/12/1994, tôi được chẩn đoán bị ALS, thường gọi là bệnh Lou Gehrig. Các bệnh nhân ALS chỉ có hy vọng sống thêm 2–5 năm từ khi phát hiện triệu chứng. Có thể tôi bị từ hơn một năm trước, không biết thời gian sống của tôi còn lại bao nhiêu nữa. Tôi xin Chúa cho tôi không sợ chết, và Ngài đã làm điều đó. Tôi cũng xin Ngài chấp nhận đời tôi dù tôi còn sống bao lâu.

Không lâu sau khị được chẩn đoán, một người bạn cùng làm chỗ tôi chết vì ung thư. Anh ấy cũng theo Kitô giáo, anh nhờ tôi chôn cất anh. Tôi có dịp chia sẻ đức tin với nhiều người, trong đó có cả những người không có đạo. Tôi không biết trong số đó có ai thay đổi cuộc đời như tôi hay không. Tôi chỉ muốn chia sẻ với họ những gì Chúa đã làm cho tôi và để Ngài dùng tôi khi Ngài muốn. Khi người ta biết mình không còn sống bao lâu nữa, sự sợ hãi không còn vì không còn gì để chứng tỏ. Nhưng nếu bạn ở trường hợp như tôi, bạn sẽ thấy mỗi ngày tôi càng gần Chúa Giêsu hơn.

Đôi khi tôi không hiểu sẽ ra sao khi một mình với Chúa – ngồi lặng lẽ bên dòng suối và hỏi Ngài nhiều câu hỏi, đứng lặng nhìn vào khuôn mặt Đấng đã chết vì tôi và nói với Ngài: “Con yêu Ngài biết bao”. Bạn có thể tưởng tượng ra được chạm vào Đức Kitô, Đấng đã chết và sống lại?

Mọi thứ đã thay đổi trong đời tôi khi tôi “đầu hàng” Thiên Chúa nhờ sức mạnh của Thánh Thần. Ngài đã làm mọi thứ thay đổi, và Ngài vẫn đang làm vậy. Tôi tạ ơn Chúa về Cha Mẹ tôi là Kitô giáo và Cha Mẹ đã không bỏ rơi tôi. Khi tôi muốn xét đoán con cái, tôi luôn nhớ đến tình thương vô điều kiện của cha tôi. Kinh thánh nói: “Nếu anh em là người xấu mà còn biết cho con cái những điều tốt thì Cha trên trời lại không cho anh em điều tốt sao?” (Mt 7, 11). Hành trình dẫn tôi đi thực sự ở trong tay Chúa. Nếu tôi xin Ngài lòng thương xót và ân sủng thì Ngài sẽ ban cho tôi.

Hãy tín thác vào Thiên Chúa!

Nếu bạn đọc những gì tôi viết và muốn chân nhận Chúa Giêsu là Đấng cứu độ, hãy phó thác và để Thiên Chúa hành động. Đây là ngày cứu độ, đừng cứng lòng nữa! Đừng trì hoãn, hãy sám hối và thay đổi để nhận ơn tha thứ. Hãy tin tưởng và hãy chân thành xin Ngài, Ngài sẽ ban cho bạn!

“Này, Ta đứng ở cửa và gõ cửa, ai nghe tiếng Ta và mở cửa, Ta sẽ vào nhà người ấy” (Kh 3, 20).

(chuyển ngữ từ Beliefnet.com)
 
Tiếng mưa
Trầm Thiên Thu
06:39 30/06/2010
Mưa buồn như những câu thơ
Tiếng mưa như khúc nhạc khuya chiêu hồn
Mưa rơi những giọt cô đơn
Giọt sầu, giọt tủi, giọt hờn, giọt đau
Tiếng mưa khắc khoải bể dâu
Ánh đèn cũng chợt hắt hiu căn phòng
Nghe mưa ai rối tơ lòng
Ai ngồi lặng lẽ đếm từng sợi mưa
Ngước nhìn lên Chúa Giêsu
Chết treo Thập giá càng cô đơn nhiều
Một mình con cũng cô liêu
Xin cùng chia sẻ mọi điều, Chúa ơi!
Đêm khuya thầm thĩ đôi lời
Tiếng mưa hay tiếng Chúa mời gọi con?
Xin cho con hiểu ngọn nguồn
Nhận ra Ý Chúa để con thực hành.