Phụng Vụ - Mục Vụ
Thiên Chúa tình yêu trao ban
Lm Jude Siciliano OP
22:41 13/06/2014
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA BA NGÔI A
Xhành 34: 4b-6, 8-9; Daniel 3: 52-55; 2 Cor 13: 11-13; Gioan 3: 16-18
Thiên Chúa TÌNH YÊU TRAO BAN
Vợ chồng đứa cháu gái của tôi đã chuẩn bị đón chào đứa con của mình bằng việc chuẩn bị một loạt những tên gọi có thể đặt cho đứa trẻ, dù trai hay gái. Gia đình tôi chẳng ngại gì trong những vấn đề như thế này, nên mọi người cùng bàn luận. Một vài cái tên được nêu ra nhưng lại không phải là những tên gọi gia đình thường dùng. Hẳn quý vị còn nhớ cách đây vài năm, các tên gọi được ưa dùng là Emma, Heather, Jeremy và Jacob không? Nhưng chẳng cái tên nào trong số này được chọn. Có người đề nghị đặt theo tên một người dì dễ mến, nếu là bé gái, hoặc theo tên của một người cậu, nếu là bé trai. Mỗi cái tên trong gia đình đều mang nhiều ý nghĩa, kỷ niệm, tầm ảnh hưởng cũng như những yêu thương gửi gắm vào đó.
Tên gọi trong Kinh Thánh cũng thế. Chúng còn hơn là một danh xưng, một cách để phân biệt giữa người này với người khác. Biết tên của một người là đã thiết lập mối tương quan với người ấy, và thậm chí có ảnh hưởng trên họ. Mỗi tên gọi đều có ý nghĩa và thường nói lên đôi điều về nhân tánh đó. Thường người ta cho rằng tên gọi chất chứa sức mạnh của người mang nó. Tuy nhiên, Thiên Chúa quyền năng trổi vượt tất cả mọi người, và do đó, một dấu cho thấy Thiên Chúa Toàn Năng là khi Người thay tên đổi họ cho người ta. Abram được đổi thành Abraham (St 17,5); Giacop đổi thành Israel (St 35,10),…
Nếu danh xưng chứa đựng năng lực và tầm quan trọng của một người, thì Danh Thiên Chúa còn quan trọng hơn biết nhường nào? Biết Danh Thiên Chúa là biết bản tính của Người. Danh mà Thiên Chúa mạc khải cho ông Môsê là “Giavê”, “Đức Chúa”. Kêu cầu tên của một người là làm cho họ hiện diện cách nào đó. Vì thế, biết Danh Thiên Chúa và cầu khẩn Danh đó nói lên sự hiện diện cùng với quyền năng và sự bảo trợ của Đức Chúa. Thiên Chúa chủ động mạc khải Danh Thánh cho ông Môsê. Biết và kêu cầu Danh Thiên Chúa là cảm nghiệm được thực tại Thiên Chúa. Đâu là thực tại về Thiên Chúa của ông Môsê và của dân Do Thái? Câu sau đây nói lên điều đó: Thiên Chúa nhân từ và rất mực xót thương. Người chậm giận, giàu tình thương và lòng thành tín. Đây là bản tính của Thiên Chúa mà chúng ta mừng kính hôm nay – vị Thiên Chúa trong Kinh Thánh Do Thái và trong Tân Ước. Chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa này trong Điệp ca hôm nay:
“Chúc tụng Ngài, lạy Chúa, Thiên Chúa của cha ông chúng con, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời.Chúc tụng danh thánh Ngài vinh hiển, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời.”
Thông thường, Điệp ca được lấy từ Thánh vịnh. Tuy nhiên, Điệp ca hôm nay được lấy từ sách ngôn sứ Đaniel (3,52-56). Đó là bài thánh ca mà ba trẻ hát trong lò lửa đang bừng cháy. Họ bị trừng phạt vì từ chối thờ lạy tượng vua.Thay vào đó, họ tuyên xưng niềm tin của cha ông họ. Thiên Chúa, Đấng chúng ta mừng kính trong bài đọc thứ nhất (“Thiên Chúa nhân từ và rất mực xót thương, chậm giận, giàu tình thương và lòng thành tín”) không phải là một Thiên Chúa trừu tượng hay được cất giữ trong các khảo luận thần học. Quả thực, ba trẻ nhỏ đã có một trải nghiệm rất cụ thể về Thiên Chúa của mình: Họ được cứu khỏi cái chết cận kề nhờ Thiên Chúa sai một thiên thần đến bảo vệ họ.
Những trẻ nhỏ từ chối thờ lạy biểu tượng sức mạnh được đặt ngay trước mặt. Thay vào đó, những trẻ này chọn trung thành với Thiên Chúa. Đối với ba người ấy và cả ta nữa, hậu duệ thiêng liêng của họ, Thiên Chúa là Thiên Chúa trung tín, Người yêu thương, cứu vớt và ban cho chúng ta hơi thở trong từng giây phút mỗi ngày.
Chúng ta cố giữ vững niềm tin trong bất kỳ lò lửa nào ta gặp thấy trong chính cuộc đời của mình – khi niềm tín thác nơi Thiên Chúa Tình Yêu của chúng ta bị thử thách. Ba trẻ nhỏ được cứu, không phải tự sức họ, nhưng nhờ sức uy hùng từ Thiên Chúa – Đấng mà chúng ta thờ hôm nay, đã được Đức Giêsu xác định cách rõ ràng là Thiên Chúa Tình Yêu trổi vượt tuyệt vời. Thiên Chúa, Đấng mà ông Môsê gặp trên núi Sinai cũng chính là Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta. Chính Thiên Chúa đã ban cho chúng ta cuộc sống của Đức Giêsu, như dấu chỉ cụ thể về tình yêu trung tín của Thiên Chúa.
Hôm nay, chúng ta ca tụng Thiên Chúa được nhắc đến trong tín biểu Ba Ngôi khi ta lãnh nhận Phép rửa: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.” Mỗi khi chúng ta bước vào thánh đường và dùng nước phép để làm dấu thánh trên mình, ta lặp lại tín biểu đó. Khi thánh lễ kết thúc, ta lại được chúc lành nhân danh Chúa và được sai vào thế giới nơi nhắc cho chúng ta về thực tại của Thiên Chúa. Chúng ta cũng nhớ rằng những lời đó chỉ mang tính loại suy. Thiên Chúa không thể bị giới hạn nơi con tim và trí óc chúng ta bằng những từ ngữ đó. Tuy nhiên, những câu chữ này gợi cho ta về Thiên Chúa, nơi Người, chúng ta sống trong mối tương quan cha – con và Thần Khí Sáng Tạo của Người sẽ tiếp tục uốn nắn chúng ta trở thành những môn đệ của Đức Kitô.
Mọi cố gắng nhằm giới hạn Thiên Chúa vào một tín biểu hay một định nghĩa đều thất bại. Trọng tâm của đại lễ hôm nay nhắc chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa là Mầu Nhiệm. Chúng ta không thể nắm bắt hay hiểu thấu Mầu Nhiệm đó. John Shea lưu ý rằng “bản chất của Mầu Nhiệm là tình yêu tự hiến được dành cho nhân loại cách trọn vẹn. Điều này chi phối mọi sự”.
Shea tiếp rằng Thiên Chúa không chấp nhận để cho con người chịu đau khổ và diệt vong. Vì thế, Thiên Chúa Tình Yêu đã sai Người Con vào thế gian “để ban cho chúng ta cuộc sống không bao giờ hư mất.” Cho dù thế gian phạm tội và ngoảnh mặt làm ngơ, Thiên Chúa vẫn không trừng phạt nhưng kiếm tìm và ban ơn cứu độ. Thiên Chúa đã không phán xét nhưng chọn cho chúng ta sự sống và tình yêu.
Chúng ta ở đâu trong kế hoạch cứu độ này? Chắc chắn chúng ta không được gọi để vào lụy phục. Chúng ta không phải là những nô lệ luôn cố gắng làm vui lòng Thiên Chúa bằng lễ tế. Nếu chúng ta tìm kiếm một định nghĩa về Thiên Chúa, thì không cần đi xa hơn những gì Kinh Thánh mạc khải. Mạc khải hôm nay không phải là mạc khải về một Thiên Chúa phán xét và trừng phạt. Bản tính của Thiên Chúa là ân sủng. Người không ngừng trao ban chính mình cho thế giới này.
Thật khó để rũ bỏ hình ảnh trước đây khỏi trí tưởng của chúng ta, nó đã ăn sâu vào tâm trí. Đối với nhiều người, mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa được dựa trên sự thưởng phạt. Nhưng hôm nay, một lần nữa, Kinh Thánh kéo chúng ta ra khỏi việc thờ lạy các tà thần để tôn thờ cách đích thực một Thiên Chúa Tình Yêu Vô Hạn.
Hôm nay, chúng ta không có thêm một định nghĩa hay giải thích mới mẻ nào về Chúa Ba Ngôi. Nhưng, chúng ta lại được nghe công bố bản tính thật sự của Thiên Chúa, Người “quá yêu thế gian”. Đây là Thiên Chúa của chúng ta, Đấng thấy chúng ta đang bấn loạn, thờ lạy các tà thần, và trong Đức Giêsu, Người đã đưa tay cứu vớt chúng ta. Ân sủng của tình yêu Thiên Chúa ban không phải vì chúng ta xứng đáng, nhưng vì lòng nhân ái của Người. Nếu cảm nhận của chúng ta về tình yêu nhân loại chỉ dựa trên sự thành công, bề ngoài và sự cần mẫn, thì chúng ta không thể hiểu chút gì về ngày lễ hôm nay. Tuy nhiên, nếu đã từng thích thú trước quà tặng nhưng không của tình yêu, thì chúng ta sẽ hiểu được phần nào trong ngày đại lễ hôm nay.
Chuyển ngữ: Anh Em HV Đaminh Gò-Vấp
THE HOLY TRINITY SUNDAY (A)
Exodus 34: 4b-6, 8-9; Daniel 3: 52-55; 2 Cor 13: 11-13; John 3: 16-18
When my niece and her husband were expecting a baby they made a list of possible names for a boy or a girl. My family, hardly shy in such matters, all got into the discussion. Some proposed names that were not the usual family names. Remember a few years ago when the most popular names were Emma, Heather, Jeremy and Jacob? None of these made the cut. Some argued for a name after a favorite aunt, if it were a girl, or after an uncle, if it were a boy. Family names have lots of meaning, memory, influence and love attached to them.
Names in the Bible are like that. They are more than a title, a way to distinguish one person from another. Knowing a person’s name established a connection with the person, and even gave influence over them. Names had meaning and were thought to tell something about the person. They were thought to contain the power of the person. But God has more power than any human and so, one sign of God’s omnipotence, was when God changed a person’s name. Abram was renamed Abraham (Gen 17:5); Jacob became Israel (Gen 35:10), etc.
If a human name contained the power and significance of a person, how much more significant was God’s name? To know God’s name is to know the nature of God. The name God revealed to Moses was "Yahweh," "the Lord." Invoking the name of a person made them present in some way. So, to know God’s name and to invoke it, made present the Lord – along with the Lord’s power and protection. God took the initiative and revealed the sacred name to Moses. To know and use the name of God is to experience the reality of God. What is the reality of this God of Moses and the Israelites? The subsequent verse spells it out: God is mercy and graciousness. God is slow to anger and rich in kindness and fidelity. This is the nature of the God we celebrate today – the God of the Hebrew scriptures and of the New Testament. We proclaimed this God in our Responsorial today.
"Blessed are you, O Lord, the God of our fathers, praiseworthy and exalted above all forever, and blessed is your holy and glorious name, praiseworthy and exalted above all for all ages"
Normally our Responsorial is taken from a Psalm. But today it is from Daniel (3:52-56). It is the canticle the three young men sang in the fiery furnace. They were being punished for refusing to worship the statue of the king. Instead they proclaimed the faith of their ancestors. The God whom we celebrate in our first reading ("merciful and gracious God, slow to anger and rich in kindness and fidelity) isn’t a God of abstraction or locked away in theological treatises. No, the three young men had a very concrete experience of their God: they were saved from imminent death by an angel God sent to protect them.
The young men refused to worship the image of power placed before them. Instead, they chose to be faithful to their God." For them and for us, their spiritual descendants, God is a faithful God who loves us, saves us and gives us breath each moment of the day.
We to try to keep faithful in whatever fiery furnace we find ourselves – when our trust in a loving God is put to the test. The three young men were saved, not by their own strength, but by the strength and greatness of their God – the God we worship today, whom Jesus defines quite clearly as our God of exceptional and surprising love. The God whom Moses met on Mount Sinai is the same God Jesus reveals to us. It is the God who has given us the life of Jesus as a concrete sign of God’s steadfast love for us.
Today we praise God in the Trinitarian formula in which we were baptized, "In the name of the Father and of the Son and of the Holy Spirit." Each time we enter church and bless ourselves with water we repeat that formula. At the close of our celebration we are again blessed in the name of God and sent into the world reminded of the reality of our God. We also remember that those words are only analogies. God can’t be confined in our hearts and minds by these words. But they do remind us of our God in whom we are in a parent-child relationship and whose creative Spirit continues to form us into disciples of Christ.
Any attempt to confine God to a formula or definition is doomed to failure. At the heart of this feast, we are reminded, our God is Mystery. We do not control or grasp that Mystery. John Shea ("The Spiritual Wisdom of the Gospels for Christian Preachers and Teachers: Year A") reminds us that "the essence of the Mystery is a self-giving love completely dedicated to human fulfillment. This is what drives everything" (page 112).
Shea goes on to say that God could not tolerate the sight of human suffering and perishing. So, Divine Love sent the Son into our world "to fill us with a life that does not end," Even though the world has sinned and turned away, God does not seek condemnation but our salvation. God passes judgment and chooses life and love for us.
Where are we in this divine economy? It is clear that we are not called into subservient service. We are not slaves always trying to please our God by sacrifice. If we are searching for a definition of God then we need go no further than the God scripture reveals to us today. The revelation today is not of a judging and punishing God. The essence of our God is grace, who continually gives self into our world.
It is hard to shake that earlier image from our imagination, it is so deeply ingrained there. For a lot of us our relationship with God has been based on rewards and punishment. But today, once again, scripture draws us away from worshiping false gods to true worship of our God of infinite love.
We don’t get a new definition or explanation of the Trinity today. Instead we hear proclaimed once again the true nature of God who "so loved the world." This is our God who sees us in chaos, worshiping false and fearsome gods and who, in Jesus, reaches out to save us. The gift of God’s love doesn’t come because we have earned it, but because of God’s grace. If our experience of human love has been based on achievement, appearance and hard work, then we won’t have a clue about today’s celebration. But if we have ever been surprised by love’s free gift, then we just might get some insight into today’s feast.
Xhành 34: 4b-6, 8-9; Daniel 3: 52-55; 2 Cor 13: 11-13; Gioan 3: 16-18
Thiên Chúa TÌNH YÊU TRAO BAN
Vợ chồng đứa cháu gái của tôi đã chuẩn bị đón chào đứa con của mình bằng việc chuẩn bị một loạt những tên gọi có thể đặt cho đứa trẻ, dù trai hay gái. Gia đình tôi chẳng ngại gì trong những vấn đề như thế này, nên mọi người cùng bàn luận. Một vài cái tên được nêu ra nhưng lại không phải là những tên gọi gia đình thường dùng. Hẳn quý vị còn nhớ cách đây vài năm, các tên gọi được ưa dùng là Emma, Heather, Jeremy và Jacob không? Nhưng chẳng cái tên nào trong số này được chọn. Có người đề nghị đặt theo tên một người dì dễ mến, nếu là bé gái, hoặc theo tên của một người cậu, nếu là bé trai. Mỗi cái tên trong gia đình đều mang nhiều ý nghĩa, kỷ niệm, tầm ảnh hưởng cũng như những yêu thương gửi gắm vào đó.
Tên gọi trong Kinh Thánh cũng thế. Chúng còn hơn là một danh xưng, một cách để phân biệt giữa người này với người khác. Biết tên của một người là đã thiết lập mối tương quan với người ấy, và thậm chí có ảnh hưởng trên họ. Mỗi tên gọi đều có ý nghĩa và thường nói lên đôi điều về nhân tánh đó. Thường người ta cho rằng tên gọi chất chứa sức mạnh của người mang nó. Tuy nhiên, Thiên Chúa quyền năng trổi vượt tất cả mọi người, và do đó, một dấu cho thấy Thiên Chúa Toàn Năng là khi Người thay tên đổi họ cho người ta. Abram được đổi thành Abraham (St 17,5); Giacop đổi thành Israel (St 35,10),…
Nếu danh xưng chứa đựng năng lực và tầm quan trọng của một người, thì Danh Thiên Chúa còn quan trọng hơn biết nhường nào? Biết Danh Thiên Chúa là biết bản tính của Người. Danh mà Thiên Chúa mạc khải cho ông Môsê là “Giavê”, “Đức Chúa”. Kêu cầu tên của một người là làm cho họ hiện diện cách nào đó. Vì thế, biết Danh Thiên Chúa và cầu khẩn Danh đó nói lên sự hiện diện cùng với quyền năng và sự bảo trợ của Đức Chúa. Thiên Chúa chủ động mạc khải Danh Thánh cho ông Môsê. Biết và kêu cầu Danh Thiên Chúa là cảm nghiệm được thực tại Thiên Chúa. Đâu là thực tại về Thiên Chúa của ông Môsê và của dân Do Thái? Câu sau đây nói lên điều đó: Thiên Chúa nhân từ và rất mực xót thương. Người chậm giận, giàu tình thương và lòng thành tín. Đây là bản tính của Thiên Chúa mà chúng ta mừng kính hôm nay – vị Thiên Chúa trong Kinh Thánh Do Thái và trong Tân Ước. Chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa này trong Điệp ca hôm nay:
“Chúc tụng Ngài, lạy Chúa, Thiên Chúa của cha ông chúng con, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời.Chúc tụng danh thánh Ngài vinh hiển, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời.”
Thông thường, Điệp ca được lấy từ Thánh vịnh. Tuy nhiên, Điệp ca hôm nay được lấy từ sách ngôn sứ Đaniel (3,52-56). Đó là bài thánh ca mà ba trẻ hát trong lò lửa đang bừng cháy. Họ bị trừng phạt vì từ chối thờ lạy tượng vua.Thay vào đó, họ tuyên xưng niềm tin của cha ông họ. Thiên Chúa, Đấng chúng ta mừng kính trong bài đọc thứ nhất (“Thiên Chúa nhân từ và rất mực xót thương, chậm giận, giàu tình thương và lòng thành tín”) không phải là một Thiên Chúa trừu tượng hay được cất giữ trong các khảo luận thần học. Quả thực, ba trẻ nhỏ đã có một trải nghiệm rất cụ thể về Thiên Chúa của mình: Họ được cứu khỏi cái chết cận kề nhờ Thiên Chúa sai một thiên thần đến bảo vệ họ.
Những trẻ nhỏ từ chối thờ lạy biểu tượng sức mạnh được đặt ngay trước mặt. Thay vào đó, những trẻ này chọn trung thành với Thiên Chúa. Đối với ba người ấy và cả ta nữa, hậu duệ thiêng liêng của họ, Thiên Chúa là Thiên Chúa trung tín, Người yêu thương, cứu vớt và ban cho chúng ta hơi thở trong từng giây phút mỗi ngày.
Chúng ta cố giữ vững niềm tin trong bất kỳ lò lửa nào ta gặp thấy trong chính cuộc đời của mình – khi niềm tín thác nơi Thiên Chúa Tình Yêu của chúng ta bị thử thách. Ba trẻ nhỏ được cứu, không phải tự sức họ, nhưng nhờ sức uy hùng từ Thiên Chúa – Đấng mà chúng ta thờ hôm nay, đã được Đức Giêsu xác định cách rõ ràng là Thiên Chúa Tình Yêu trổi vượt tuyệt vời. Thiên Chúa, Đấng mà ông Môsê gặp trên núi Sinai cũng chính là Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta. Chính Thiên Chúa đã ban cho chúng ta cuộc sống của Đức Giêsu, như dấu chỉ cụ thể về tình yêu trung tín của Thiên Chúa.
Hôm nay, chúng ta ca tụng Thiên Chúa được nhắc đến trong tín biểu Ba Ngôi khi ta lãnh nhận Phép rửa: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.” Mỗi khi chúng ta bước vào thánh đường và dùng nước phép để làm dấu thánh trên mình, ta lặp lại tín biểu đó. Khi thánh lễ kết thúc, ta lại được chúc lành nhân danh Chúa và được sai vào thế giới nơi nhắc cho chúng ta về thực tại của Thiên Chúa. Chúng ta cũng nhớ rằng những lời đó chỉ mang tính loại suy. Thiên Chúa không thể bị giới hạn nơi con tim và trí óc chúng ta bằng những từ ngữ đó. Tuy nhiên, những câu chữ này gợi cho ta về Thiên Chúa, nơi Người, chúng ta sống trong mối tương quan cha – con và Thần Khí Sáng Tạo của Người sẽ tiếp tục uốn nắn chúng ta trở thành những môn đệ của Đức Kitô.
Mọi cố gắng nhằm giới hạn Thiên Chúa vào một tín biểu hay một định nghĩa đều thất bại. Trọng tâm của đại lễ hôm nay nhắc chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa là Mầu Nhiệm. Chúng ta không thể nắm bắt hay hiểu thấu Mầu Nhiệm đó. John Shea lưu ý rằng “bản chất của Mầu Nhiệm là tình yêu tự hiến được dành cho nhân loại cách trọn vẹn. Điều này chi phối mọi sự”.
Shea tiếp rằng Thiên Chúa không chấp nhận để cho con người chịu đau khổ và diệt vong. Vì thế, Thiên Chúa Tình Yêu đã sai Người Con vào thế gian “để ban cho chúng ta cuộc sống không bao giờ hư mất.” Cho dù thế gian phạm tội và ngoảnh mặt làm ngơ, Thiên Chúa vẫn không trừng phạt nhưng kiếm tìm và ban ơn cứu độ. Thiên Chúa đã không phán xét nhưng chọn cho chúng ta sự sống và tình yêu.
Chúng ta ở đâu trong kế hoạch cứu độ này? Chắc chắn chúng ta không được gọi để vào lụy phục. Chúng ta không phải là những nô lệ luôn cố gắng làm vui lòng Thiên Chúa bằng lễ tế. Nếu chúng ta tìm kiếm một định nghĩa về Thiên Chúa, thì không cần đi xa hơn những gì Kinh Thánh mạc khải. Mạc khải hôm nay không phải là mạc khải về một Thiên Chúa phán xét và trừng phạt. Bản tính của Thiên Chúa là ân sủng. Người không ngừng trao ban chính mình cho thế giới này.
Thật khó để rũ bỏ hình ảnh trước đây khỏi trí tưởng của chúng ta, nó đã ăn sâu vào tâm trí. Đối với nhiều người, mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa được dựa trên sự thưởng phạt. Nhưng hôm nay, một lần nữa, Kinh Thánh kéo chúng ta ra khỏi việc thờ lạy các tà thần để tôn thờ cách đích thực một Thiên Chúa Tình Yêu Vô Hạn.
Hôm nay, chúng ta không có thêm một định nghĩa hay giải thích mới mẻ nào về Chúa Ba Ngôi. Nhưng, chúng ta lại được nghe công bố bản tính thật sự của Thiên Chúa, Người “quá yêu thế gian”. Đây là Thiên Chúa của chúng ta, Đấng thấy chúng ta đang bấn loạn, thờ lạy các tà thần, và trong Đức Giêsu, Người đã đưa tay cứu vớt chúng ta. Ân sủng của tình yêu Thiên Chúa ban không phải vì chúng ta xứng đáng, nhưng vì lòng nhân ái của Người. Nếu cảm nhận của chúng ta về tình yêu nhân loại chỉ dựa trên sự thành công, bề ngoài và sự cần mẫn, thì chúng ta không thể hiểu chút gì về ngày lễ hôm nay. Tuy nhiên, nếu đã từng thích thú trước quà tặng nhưng không của tình yêu, thì chúng ta sẽ hiểu được phần nào trong ngày đại lễ hôm nay.
Chuyển ngữ: Anh Em HV Đaminh Gò-Vấp
THE HOLY TRINITY SUNDAY (A)
Exodus 34: 4b-6, 8-9; Daniel 3: 52-55; 2 Cor 13: 11-13; John 3: 16-18
When my niece and her husband were expecting a baby they made a list of possible names for a boy or a girl. My family, hardly shy in such matters, all got into the discussion. Some proposed names that were not the usual family names. Remember a few years ago when the most popular names were Emma, Heather, Jeremy and Jacob? None of these made the cut. Some argued for a name after a favorite aunt, if it were a girl, or after an uncle, if it were a boy. Family names have lots of meaning, memory, influence and love attached to them.
Names in the Bible are like that. They are more than a title, a way to distinguish one person from another. Knowing a person’s name established a connection with the person, and even gave influence over them. Names had meaning and were thought to tell something about the person. They were thought to contain the power of the person. But God has more power than any human and so, one sign of God’s omnipotence, was when God changed a person’s name. Abram was renamed Abraham (Gen 17:5); Jacob became Israel (Gen 35:10), etc.
If a human name contained the power and significance of a person, how much more significant was God’s name? To know God’s name is to know the nature of God. The name God revealed to Moses was "Yahweh," "the Lord." Invoking the name of a person made them present in some way. So, to know God’s name and to invoke it, made present the Lord – along with the Lord’s power and protection. God took the initiative and revealed the sacred name to Moses. To know and use the name of God is to experience the reality of God. What is the reality of this God of Moses and the Israelites? The subsequent verse spells it out: God is mercy and graciousness. God is slow to anger and rich in kindness and fidelity. This is the nature of the God we celebrate today – the God of the Hebrew scriptures and of the New Testament. We proclaimed this God in our Responsorial today.
"Blessed are you, O Lord, the God of our fathers, praiseworthy and exalted above all forever, and blessed is your holy and glorious name, praiseworthy and exalted above all for all ages"
Normally our Responsorial is taken from a Psalm. But today it is from Daniel (3:52-56). It is the canticle the three young men sang in the fiery furnace. They were being punished for refusing to worship the statue of the king. Instead they proclaimed the faith of their ancestors. The God whom we celebrate in our first reading ("merciful and gracious God, slow to anger and rich in kindness and fidelity) isn’t a God of abstraction or locked away in theological treatises. No, the three young men had a very concrete experience of their God: they were saved from imminent death by an angel God sent to protect them.
The young men refused to worship the image of power placed before them. Instead, they chose to be faithful to their God." For them and for us, their spiritual descendants, God is a faithful God who loves us, saves us and gives us breath each moment of the day.
We to try to keep faithful in whatever fiery furnace we find ourselves – when our trust in a loving God is put to the test. The three young men were saved, not by their own strength, but by the strength and greatness of their God – the God we worship today, whom Jesus defines quite clearly as our God of exceptional and surprising love. The God whom Moses met on Mount Sinai is the same God Jesus reveals to us. It is the God who has given us the life of Jesus as a concrete sign of God’s steadfast love for us.
Today we praise God in the Trinitarian formula in which we were baptized, "In the name of the Father and of the Son and of the Holy Spirit." Each time we enter church and bless ourselves with water we repeat that formula. At the close of our celebration we are again blessed in the name of God and sent into the world reminded of the reality of our God. We also remember that those words are only analogies. God can’t be confined in our hearts and minds by these words. But they do remind us of our God in whom we are in a parent-child relationship and whose creative Spirit continues to form us into disciples of Christ.
Any attempt to confine God to a formula or definition is doomed to failure. At the heart of this feast, we are reminded, our God is Mystery. We do not control or grasp that Mystery. John Shea ("The Spiritual Wisdom of the Gospels for Christian Preachers and Teachers: Year A") reminds us that "the essence of the Mystery is a self-giving love completely dedicated to human fulfillment. This is what drives everything" (page 112).
Shea goes on to say that God could not tolerate the sight of human suffering and perishing. So, Divine Love sent the Son into our world "to fill us with a life that does not end," Even though the world has sinned and turned away, God does not seek condemnation but our salvation. God passes judgment and chooses life and love for us.
Where are we in this divine economy? It is clear that we are not called into subservient service. We are not slaves always trying to please our God by sacrifice. If we are searching for a definition of God then we need go no further than the God scripture reveals to us today. The revelation today is not of a judging and punishing God. The essence of our God is grace, who continually gives self into our world.
It is hard to shake that earlier image from our imagination, it is so deeply ingrained there. For a lot of us our relationship with God has been based on rewards and punishment. But today, once again, scripture draws us away from worshiping false gods to true worship of our God of infinite love.
We don’t get a new definition or explanation of the Trinity today. Instead we hear proclaimed once again the true nature of God who "so loved the world." This is our God who sees us in chaos, worshiping false and fearsome gods and who, in Jesus, reaches out to save us. The gift of God’s love doesn’t come because we have earned it, but because of God’s grace. If our experience of human love has been based on achievement, appearance and hard work, then we won’t have a clue about today’s celebration. But if we have ever been surprised by love’s free gift, then we just might get some insight into today’s feast.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Phanxicô nói về vai trò của ngài trong lịch sử
Vũ Văn An
17:41 13/06/2014
Theo tin Catholic World News ngày 13 tháng 6, Đức Phanxicô vừa dành cho nhật báo Tây Ban Nha La Vanguardia một cuộc phỏng vấn, trong đó ngài lên án “ngẫu thần tiền bạc”, bênh vực thành tích của Đức Piô XII, phê phán các phong trào ly khai tại Âu Châu, và bác bỏ các lo âu đối với sự an toàn bản thân của ngài.
Đức Giáo Hoàng tiết lộ rằng lúc ngài khởi sự việc mời Tổng Thống Do Thái Shimon Peres và Chủ Tịch Palestine Mahmoud Abbas tới Vatican để cùng cầu nguyện với ngài, ai cũng tỏ vẻ hoài nghi. Nhưng ý tưởng này dần dần được nhiều người hỗ trợ và cuộc gặp gỡ đã có được một thành công có tính lịch sử.
Tuy nhiên, khi được hỏi về chỗ đứng của ngài trong lịch sử, Đức Giáo Hoàng lắc đầu cho hay “tôi chưa bao giờ nghĩ tới việc đó, nhưng tôi muốn: khi ai đó nhớ tới ai đó và nói: ngài là người tốt, ngài đã làm điều ngài có thể làm. Ngài không tệ lắm’ thế là tôi hài lòng rồi”.
Đức Phanxicô nhấn mạnh tới việc bách hại các Kitô hữu hiện nay. Ngài nói rằng việc bách hại này “mạnh hơn là trong các thế kỷ đầu của Giáo Hội”. Theo Đức Phanxicô, sở dĩ ngài ít nói tới việc bách hại này vì ngài không muốn làm mất lòng, nhưng ngài nhận định rằng “tại môt số nơi, người ta ngăn cấm không được có Thánh Kinh hay không được dạy giáo lý hoặc mang Thánh Giá”.
Về hệ thống kinh tế thế giới, Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng một hệ thống lành mạnh phải chú tâm tới nhu cầu con người nam nữ. Ngài cho rằng “Nhưng ta đã đặt tiền bạc ở tâm điểm, ông thần tiền bạc. Ta đã sa vào tội thờ ngẫu thần, ngẫu thần tiền bạc”.
Đức Phanxicô nói rằng điều “làm ngài ngứa ngáy” là khi nghe người ta chỉ trích Đức Piô XII đã dửng dưng đối với Nạn Diệt Chủng Do Thái. Ngài nói rằng các hồ sơ lịch sử sẽ cho thấy vị giáo hoàng thời chiến này đã cố gắng hết sức để che chở người Do Thái khỏi nạn diệt chủng của Quốc Xã. Đức GH cũng tin tưởng rằng khi văn khố Vatican cho mở các hồ sơ mật, người ta sẽ được thấy phạm vi to lớn trong các cố gắng của Đức Piô XII.
Nhận định về việc từ nhiệm của Đức GH Bênêđíctô XVI, Đức Phanxicô nói tới khả năng vị tiền nhiệm của ngài rất có thể là một trong nhiều “giáo hoàng hưu trí”. Ngài nhấn mạnh: cho tới gần đây, chưa hề có các giám mục hưu trí, nhưng nay thì giám mục hưu trí hiện diện khắp nơi trên thế giới. Đức Phanxicô cũng nhắc lại việc chính ngài cũng đã đệ đơn từ chức TGM Buenos Aires và đã sắp xếp để có được một chỗ ở với các linh mục về hưu, trước khi ngài được bầu làm giáo hoàng.
Quay qua vấn đề các phong trào đòi tự trị tại Âu Châu, Đức Phanxicô nhắc tới cảnh dã man do việc phân chia Yugoslavia gây ra. Ngài đề nghị: tại những nơi như Tô Cách Lan và Catalonia, điều khôn ngoan là nhìn các tham vọng ly khai với một chút hoài nghi, bán tín bán nghi.
Về các lo lắng đối với sự an tòa bản thân của ngài, Đức Giáo Hoàng không nhấn mạnh lắm, ngài bác bỏ các lo lắng về việc ngài từ chối không sử dụng giáo hoàng xa chắn đạn. Ngài bảo: “tôi biết chuyện gì có thể xẩy ra, nhưng xin phó thác trong tay Thiên Chúa”. Ngài cho hay ngài không thể chịu được cảnh phải du hành trong “cái hộp cá mòi” có vũ trang, và vừa cười vừa bảo: “ở cỡ tuổi của mình, tôi chả có chi để mất mát cả”.
Cuối cùng, Đức Phanxicô, người rất mê bóng đá, cho hay ngài rất thích Giải Bóng Đá Thế Giới, nhưng sẽ cố gắng không trở thành người ái mộ phe phái. Ngài bảo: “tôi tự hứa sẽ đứng trung lập”.
Đức Giáo Hoàng tiết lộ rằng lúc ngài khởi sự việc mời Tổng Thống Do Thái Shimon Peres và Chủ Tịch Palestine Mahmoud Abbas tới Vatican để cùng cầu nguyện với ngài, ai cũng tỏ vẻ hoài nghi. Nhưng ý tưởng này dần dần được nhiều người hỗ trợ và cuộc gặp gỡ đã có được một thành công có tính lịch sử.
Tuy nhiên, khi được hỏi về chỗ đứng của ngài trong lịch sử, Đức Giáo Hoàng lắc đầu cho hay “tôi chưa bao giờ nghĩ tới việc đó, nhưng tôi muốn: khi ai đó nhớ tới ai đó và nói: ngài là người tốt, ngài đã làm điều ngài có thể làm. Ngài không tệ lắm’ thế là tôi hài lòng rồi”.
Đức Phanxicô nhấn mạnh tới việc bách hại các Kitô hữu hiện nay. Ngài nói rằng việc bách hại này “mạnh hơn là trong các thế kỷ đầu của Giáo Hội”. Theo Đức Phanxicô, sở dĩ ngài ít nói tới việc bách hại này vì ngài không muốn làm mất lòng, nhưng ngài nhận định rằng “tại môt số nơi, người ta ngăn cấm không được có Thánh Kinh hay không được dạy giáo lý hoặc mang Thánh Giá”.
Về hệ thống kinh tế thế giới, Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng một hệ thống lành mạnh phải chú tâm tới nhu cầu con người nam nữ. Ngài cho rằng “Nhưng ta đã đặt tiền bạc ở tâm điểm, ông thần tiền bạc. Ta đã sa vào tội thờ ngẫu thần, ngẫu thần tiền bạc”.
Đức Phanxicô nói rằng điều “làm ngài ngứa ngáy” là khi nghe người ta chỉ trích Đức Piô XII đã dửng dưng đối với Nạn Diệt Chủng Do Thái. Ngài nói rằng các hồ sơ lịch sử sẽ cho thấy vị giáo hoàng thời chiến này đã cố gắng hết sức để che chở người Do Thái khỏi nạn diệt chủng của Quốc Xã. Đức GH cũng tin tưởng rằng khi văn khố Vatican cho mở các hồ sơ mật, người ta sẽ được thấy phạm vi to lớn trong các cố gắng của Đức Piô XII.
Nhận định về việc từ nhiệm của Đức GH Bênêđíctô XVI, Đức Phanxicô nói tới khả năng vị tiền nhiệm của ngài rất có thể là một trong nhiều “giáo hoàng hưu trí”. Ngài nhấn mạnh: cho tới gần đây, chưa hề có các giám mục hưu trí, nhưng nay thì giám mục hưu trí hiện diện khắp nơi trên thế giới. Đức Phanxicô cũng nhắc lại việc chính ngài cũng đã đệ đơn từ chức TGM Buenos Aires và đã sắp xếp để có được một chỗ ở với các linh mục về hưu, trước khi ngài được bầu làm giáo hoàng.
Quay qua vấn đề các phong trào đòi tự trị tại Âu Châu, Đức Phanxicô nhắc tới cảnh dã man do việc phân chia Yugoslavia gây ra. Ngài đề nghị: tại những nơi như Tô Cách Lan và Catalonia, điều khôn ngoan là nhìn các tham vọng ly khai với một chút hoài nghi, bán tín bán nghi.
Về các lo lắng đối với sự an tòa bản thân của ngài, Đức Giáo Hoàng không nhấn mạnh lắm, ngài bác bỏ các lo lắng về việc ngài từ chối không sử dụng giáo hoàng xa chắn đạn. Ngài bảo: “tôi biết chuyện gì có thể xẩy ra, nhưng xin phó thác trong tay Thiên Chúa”. Ngài cho hay ngài không thể chịu được cảnh phải du hành trong “cái hộp cá mòi” có vũ trang, và vừa cười vừa bảo: “ở cỡ tuổi của mình, tôi chả có chi để mất mát cả”.
Cuối cùng, Đức Phanxicô, người rất mê bóng đá, cho hay ngài rất thích Giải Bóng Đá Thế Giới, nhưng sẽ cố gắng không trở thành người ái mộ phe phái. Ngài bảo: “tôi tự hứa sẽ đứng trung lập”.
Top Stories
Six news Saints to be created on feast of Christ the King
Vatican Radio
09:01 13/06/2014
2014-06-13 Vatican - During mid morning prayer on Thursday in the Consistory Hall of the Apostolic Palace, Pope Francis gathered with the College of Cardinals to vote on the Canonisations of six Blesseds who will become Saints of the Church.
They include two Indians, Blessed Kuriakose Elias Chavara who was a priest and the founder of the Congregation of the Carmelites of Mary Immaculate and who is remembered for his solid leadership. He is also recognized for having saved the Church in Kerala from a schism in 1861. The other is Mother Eufrasia Eluvathingal of the Congregation of Mount Carmel, of the Congregation of the Sisters of the Mother of Carmel; who was born in 1877 in Kattur and became known as the “Praying Nun.”
The other Blesseds on the list are four Italians including one layman, Amato Ronconi, of the Third Order of St. Francis and who founded a hospital which is known today as the "Blessed Amato Ronconi Nursing Home.”
An Italian Bishop is also set to be made a Saint. Blessed Giovanni Antonio Farina was the bishop of Vicenza and the founder of the Institute of the Sisters of Saint Dorothy, Daughters of the Sacred Heart.
Blessed Nicola da Longobardi, a professed oblate of the Order of Minims, will also be canonized along with Ludovico da Casoria, professed priest of the Order of Friars Minor and founder of the Congregation of the Franciscan Sisters Elisabettine.
The Pope decreed during the course of the consistory that these Blesseds be inscribed in the roll call of Saints on the 23 November 2014, the Feast of Christ the King.
They include two Indians, Blessed Kuriakose Elias Chavara who was a priest and the founder of the Congregation of the Carmelites of Mary Immaculate and who is remembered for his solid leadership. He is also recognized for having saved the Church in Kerala from a schism in 1861. The other is Mother Eufrasia Eluvathingal of the Congregation of Mount Carmel, of the Congregation of the Sisters of the Mother of Carmel; who was born in 1877 in Kattur and became known as the “Praying Nun.”
The other Blesseds on the list are four Italians including one layman, Amato Ronconi, of the Third Order of St. Francis and who founded a hospital which is known today as the "Blessed Amato Ronconi Nursing Home.”
An Italian Bishop is also set to be made a Saint. Blessed Giovanni Antonio Farina was the bishop of Vicenza and the founder of the Institute of the Sisters of Saint Dorothy, Daughters of the Sacred Heart.
Blessed Nicola da Longobardi, a professed oblate of the Order of Minims, will also be canonized along with Ludovico da Casoria, professed priest of the Order of Friars Minor and founder of the Congregation of the Franciscan Sisters Elisabettine.
The Pope decreed during the course of the consistory that these Blesseds be inscribed in the roll call of Saints on the 23 November 2014, the Feast of Christ the King.
Iraq: Cardinal Sandri ''extreme concern'' for situation
Vatican Radio
09:02 13/06/2014
2014-06-13 Vatican - The Congregation for Eastern Churches has issued a press statement saying the Cardinal Prefect, Leonardo Sandri is following the unfolding of events in Iraq with extreme concern, and is united in prayer with the Chaldean Patriarch, Louis Sako, all the bishops, priests and lay faithful of Iraq.
The statement goes on to say that Catholic churches and schools are open to refugees of all religions, and assures the faithful of Iraq of the spiritual closeness and paternity of Pope Francis.
The statement goes on to say that Catholic churches and schools are open to refugees of all religions, and assures the faithful of Iraq of the spiritual closeness and paternity of Pope Francis.
Chine: Le cardinal Zen appelle les Hongkongais à décider de l’avenir de leurs institutions
Eglises d'Asie
09:39 13/06/2014
Hier, 12 juin, au micro d’une radio de Hongkong diffusée sur Internet, le cardinal Zen Ze-kiun, évêque émérite de Hongkong, a critiqué en des termes très vifs les autorités centrales chinoises pour avoir publié un Livre blanc réaffirmant le contrôle total de Pékin sur la Région administrative spéciale de Hongkong.
« Vous (le gouvernement communiste), vous pouvez me ligoter, m’enlever ou me décapiter, mais jamais vous ne ferez de moi un esclave », a affirmé le cardinal, enjoignant les Hongkongais « à ne pas succomber à la fatalité mais au contraire à défendre leur dignité propre ».
« Si vous vous inclinez, si vous mettez un genou à terre, alors tout sera fini », a-t-il déclaré, dans une mise en garde destinée à convaincre les Hongkongais de défendre la lettre et l’esprit de la formule ‘Un pays, deux systèmes’ qui sert à définir le particularisme de l’ancienne colonie britannique retournée en 1997 sous le drapeau chinois.
La publication, ce 10 juin, par le gouvernement chinois d’un ‘Livre blanc’ intitulé « Application de la politique ‘Un pays, deux systèmes’ dans la Région administrative spéciale de Hongkong », a mis la société civile hongkongaise en ébullition. On peut en effet lire dans ce document de soixante pages que « le haut degré d’autonomie dont jouit Hongkong » n’équivaut pas à « la pleine autonomie », ni à « un pouvoir décentralisé », mais est « sujet à autorisation de la part du gouvernement central ». Un peu plus loin, il est écrit que la Région administrative spéciale de Hongkong « ne jouit en rien d’un ‘pouvoir résiduel’ ».
De plus, là où les Hongkongais se plaisent à souligner qu’une des forces de leur territoire réside dans l’indépendance de son système juridique, le Livre blanc place les juges au rang des « administrateurs » que sont le chef de l’exécutif et la haute administration, toutes ces personnes étant tenues d’avoir « l’amour de la patrie » comme « pré-requis politique de base ». Une telle formulation ne laisse pas d’inquiéter les Hongkongais, les juristes notamment, étant entendu que, dans le système politique chinois, « l’amour de la Patrie » n’est pas séparable de « la fidélité au Parti ».
Bien que cela ne soit pas la première fois que la Chine exprime de telles vues, le moment où ce Livre blanc est publié ainsi que le choix de l’organe qui le publie (le Conseil pour les affaires d’Etat, c’est-à-dire le gouvernement central) indiquent que Pékin est déterminé à imprimer sa marque sur la vie politique hongkongaise.
Depuis des semaines, les milieux pro-démocratie mènent un débat intense pour que la promesse inscrite dans la Loi fondamentale, le texte qui fait office de Constitution à Hongkong, soit respectée, à savoir l’instauration pleine et entière du suffrage universel en 2017. A l’heure actuelle, seule une moitié des députés du Legco, le Parlement local, sont élus au suffrage universel et la procédure de nomination du chef de l’exécutif par un corps de 1 200 grands électeurs laisse le champ libre à Pékin pour choisir le dirigeant de la Région administrative spéciale.
Un mouvement de désobéissance civile, appelé « Occupy Central » (du nom du quartier d’affaires de Hongkong), menace de bloquer le centre-ville en juillet au cas où aucun élément de démocratie ne serait introduit dans cette procédure de désignation du chef de l’exécutif.
Du 20 au 22 juin, Occupy Central organisera un référendum non officiel, appelant les Hongkongais à se prononcer pour l’une des trois formules que les militants pro-démocratie ont préparées. En réponse, les éléments pro-chinois de Hongkong ont mis en garde contre le risque de « chaos » que faisait peser ce référendum fictif ; ils n’ont pas hésité à agiter le spectre d’une intervention militaire chinoise (une caserne de l’Armée populaire de libération jouxte le quartier de Central).
Dans ce contexte surchauffé, l’Eglise catholique locale a pris position. Rédigée par la Commission ‘Justice et Paix’ du diocèse de Hongkong, une brochure de 28 pages expliquant les enjeux du référendum des 20-22 juin a été distribuée dans toutes les paroisses. Lors de la prière organisée en marge du rassemblement géant pour le 25ème anniversaire de Tienanmen, de nombreux intervenants, dont le cardinal Zen, ont expliqué l’importance de cette consultation, soulignant qu’il ne fallait pas laisser passer ce moment de l’Histoire. Après ce sera trop tard, les jeux seront faits, ont-il déclaré en substance. Le 26 mai dernier, dans un article du Kung Kaopo, le journal en chinois du diocèse, l’évêque de Hongkong, le cardinal John Tong Hon, a écrit qu’un système démocratique de gouvernement était nécessaire au bien-être des Hongkongais ; selon lui, le référendum « peut donner une expression concrète de l’opinion publique ».
Pour le cardinal Zen, « le compromis n’est plus une option », les Hongkongais doivent s’exprimer démocratiquement et ne pas se laisser intimider par les pressions de Pékin (1). Afin d’encourager les habitants du territoire à aller voter les 20-22 juin, Mgr Zen a annoncé qu’il parcourrait à pied tout Hongkong. Samedi 14 juin, il débutera ainsi une marche de sept jours qui l’emmènera dans presque chacun des 18 districts du territoire. A l’âge de 82 ans, il a annoncé sa volonté de marcher douze heures par jour durant une semaine, malgré les fortes chaleurs et l’humidité élevée de l’été. Les catholiques sont invités à se joindre à lui, mais dans la limite de 30 personnes au maximum en même temps – ceci afin de ne pas dépasser le seuil au-delà duquel il est obligatoire de déclarer une manifestation sur la voie publique. « Notre principe d’action est de recourir à une approche non violente », a-t-il confié.
(1) Le Livre blanc met en garde contre « le petit nombre de personnes qui agissent en collusion avec les forces extérieures en vue d’interférer dans la mise en œuvre de la politique ‘Un pays, deux systèmes’ ». Rien ne permet de penser que Pékin vise ainsi le cardinal Zen ou les catholiques de manière générale, dont le lien avec le Saint-Siège peut les faire entrer dans la catégorie des personnes agissant en collusion avec des « forces extérieures ». Toutefois, un Livre bleu publié en mai dernier indiquait que Pékin comptait l’« infiltration religieuse en provenance de l’étranger » au nombre des quatre plus « sérieux défis » qui se posent à lui.
(Source: Eglises d'Asie, le 13 juin 2014)
« Vous (le gouvernement communiste), vous pouvez me ligoter, m’enlever ou me décapiter, mais jamais vous ne ferez de moi un esclave », a affirmé le cardinal, enjoignant les Hongkongais « à ne pas succomber à la fatalité mais au contraire à défendre leur dignité propre ».
« Si vous vous inclinez, si vous mettez un genou à terre, alors tout sera fini », a-t-il déclaré, dans une mise en garde destinée à convaincre les Hongkongais de défendre la lettre et l’esprit de la formule ‘Un pays, deux systèmes’ qui sert à définir le particularisme de l’ancienne colonie britannique retournée en 1997 sous le drapeau chinois.
La publication, ce 10 juin, par le gouvernement chinois d’un ‘Livre blanc’ intitulé « Application de la politique ‘Un pays, deux systèmes’ dans la Région administrative spéciale de Hongkong », a mis la société civile hongkongaise en ébullition. On peut en effet lire dans ce document de soixante pages que « le haut degré d’autonomie dont jouit Hongkong » n’équivaut pas à « la pleine autonomie », ni à « un pouvoir décentralisé », mais est « sujet à autorisation de la part du gouvernement central ». Un peu plus loin, il est écrit que la Région administrative spéciale de Hongkong « ne jouit en rien d’un ‘pouvoir résiduel’ ».
De plus, là où les Hongkongais se plaisent à souligner qu’une des forces de leur territoire réside dans l’indépendance de son système juridique, le Livre blanc place les juges au rang des « administrateurs » que sont le chef de l’exécutif et la haute administration, toutes ces personnes étant tenues d’avoir « l’amour de la patrie » comme « pré-requis politique de base ». Une telle formulation ne laisse pas d’inquiéter les Hongkongais, les juristes notamment, étant entendu que, dans le système politique chinois, « l’amour de la Patrie » n’est pas séparable de « la fidélité au Parti ».
Bien que cela ne soit pas la première fois que la Chine exprime de telles vues, le moment où ce Livre blanc est publié ainsi que le choix de l’organe qui le publie (le Conseil pour les affaires d’Etat, c’est-à-dire le gouvernement central) indiquent que Pékin est déterminé à imprimer sa marque sur la vie politique hongkongaise.
Depuis des semaines, les milieux pro-démocratie mènent un débat intense pour que la promesse inscrite dans la Loi fondamentale, le texte qui fait office de Constitution à Hongkong, soit respectée, à savoir l’instauration pleine et entière du suffrage universel en 2017. A l’heure actuelle, seule une moitié des députés du Legco, le Parlement local, sont élus au suffrage universel et la procédure de nomination du chef de l’exécutif par un corps de 1 200 grands électeurs laisse le champ libre à Pékin pour choisir le dirigeant de la Région administrative spéciale.
Un mouvement de désobéissance civile, appelé « Occupy Central » (du nom du quartier d’affaires de Hongkong), menace de bloquer le centre-ville en juillet au cas où aucun élément de démocratie ne serait introduit dans cette procédure de désignation du chef de l’exécutif.
Du 20 au 22 juin, Occupy Central organisera un référendum non officiel, appelant les Hongkongais à se prononcer pour l’une des trois formules que les militants pro-démocratie ont préparées. En réponse, les éléments pro-chinois de Hongkong ont mis en garde contre le risque de « chaos » que faisait peser ce référendum fictif ; ils n’ont pas hésité à agiter le spectre d’une intervention militaire chinoise (une caserne de l’Armée populaire de libération jouxte le quartier de Central).
Dans ce contexte surchauffé, l’Eglise catholique locale a pris position. Rédigée par la Commission ‘Justice et Paix’ du diocèse de Hongkong, une brochure de 28 pages expliquant les enjeux du référendum des 20-22 juin a été distribuée dans toutes les paroisses. Lors de la prière organisée en marge du rassemblement géant pour le 25ème anniversaire de Tienanmen, de nombreux intervenants, dont le cardinal Zen, ont expliqué l’importance de cette consultation, soulignant qu’il ne fallait pas laisser passer ce moment de l’Histoire. Après ce sera trop tard, les jeux seront faits, ont-il déclaré en substance. Le 26 mai dernier, dans un article du Kung Kaopo, le journal en chinois du diocèse, l’évêque de Hongkong, le cardinal John Tong Hon, a écrit qu’un système démocratique de gouvernement était nécessaire au bien-être des Hongkongais ; selon lui, le référendum « peut donner une expression concrète de l’opinion publique ».
Pour le cardinal Zen, « le compromis n’est plus une option », les Hongkongais doivent s’exprimer démocratiquement et ne pas se laisser intimider par les pressions de Pékin (1). Afin d’encourager les habitants du territoire à aller voter les 20-22 juin, Mgr Zen a annoncé qu’il parcourrait à pied tout Hongkong. Samedi 14 juin, il débutera ainsi une marche de sept jours qui l’emmènera dans presque chacun des 18 districts du territoire. A l’âge de 82 ans, il a annoncé sa volonté de marcher douze heures par jour durant une semaine, malgré les fortes chaleurs et l’humidité élevée de l’été. Les catholiques sont invités à se joindre à lui, mais dans la limite de 30 personnes au maximum en même temps – ceci afin de ne pas dépasser le seuil au-delà duquel il est obligatoire de déclarer une manifestation sur la voie publique. « Notre principe d’action est de recourir à une approche non violente », a-t-il confié.
(1) Le Livre blanc met en garde contre « le petit nombre de personnes qui agissent en collusion avec les forces extérieures en vue d’interférer dans la mise en œuvre de la politique ‘Un pays, deux systèmes’ ». Rien ne permet de penser que Pékin vise ainsi le cardinal Zen ou les catholiques de manière générale, dont le lien avec le Saint-Siège peut les faire entrer dans la catégorie des personnes agissant en collusion avec des « forces extérieures ». Toutefois, un Livre bleu publié en mai dernier indiquait que Pékin comptait l’« infiltration religieuse en provenance de l’étranger » au nombre des quatre plus « sérieux défis » qui se posent à lui.
(Source: Eglises d'Asie, le 13 juin 2014)
Tin Giáo Hội Việt Nam
Cộng đoàn Antôn Padua Mừng lễ Thánh Antôn Padua-Quan Thầy
Phạm Anh
07:53 13/06/2014
VINH - Sáng ngày 12 tháng 06 năm 2014, tại giáo họ Xuân Sơn giáo xứ Sơn La, cộng đoàn Antôn Padua đã long trọng mừng lễ Thánh Antôn-Bổn Mạng cộng đoàn. Chủ tế thánh lễ là cha Fx. Võ Thanh Tâm, nguyên Tổng Đại diện Tòa giám mục Xã Đoài cùng đồng tế với ngài có cha Gioan Nguyễn Hồng Pháp, giáo sư ĐCV Vinh-Thanh, cha Bề trên Antôn Hoàng Đức Luyến, Cha quản hạt Thuận Nghĩa, cha quản hạt Quy Chính, cha quản hạt Đông Tháp, quý cha cộng sự sáng lập cộng đoàn và quý cha trong giáo phận Vinh. Tham dự thánh lễ còn có quý tu sỹ nam nữ, quý thầy Đại chủng sinh, quý thân nhân, ân nhân, và đông đảo bà con các giáo xứ lân cận.
Hình ảnh
Sơ lược tiểu sử cộng đoàn Antôn Padua.
Cách đây hơn 2000 năm, tại căn phòng tiệc ly, nơi các tông đồ đang cầu nguyện cùng với Mẹ Maria. Chúa Giêsu hiện đến và trao ban Thánh Thần cho các tông đồ và sai các ông đi loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Đây là ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, và Giáo Hội Hoàn vũ được khai sinh từ đây. Cũng chính ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống cách đây 8 năm, tức là vào buổi tối ngày 15 tháng 05 năm 2007, tại căn liều trại dê của ông bà cụ Lợi Luận, một thánh lễ đánh dấu một sự kiện quan trọng đã diễn ra. Đó là thánh lễ khai sinh ra cộng đoàn Antôn Padua giáo phận Vinh.
Đêm đó, có ba linh mục với một số anh em có thiện chí ơn gọi, trong đó có ba anh em đã vào sống ở đây mấy tháng và chính nơi túp lều 2 gian để làm trại kia, lại thành nơi cho một thánh lễ khai sinh ra một hội dòng. Sau đó, một đêm lửa trại đã diễn ra giữa rừng cây heo hút, cô đơn nhưng đầy sự linh thiêng này. Và từ đó, đến cuối năm 2007 cộng đoàn đã có thêm 7 anh em có thiện chí đã tiếp tục vào đây sinh sống. Cũng trong năm 2007 này, cộng đoàn đã xây dựng được một ngôi nhà cấp 4 hai gian, với một gian làm nhà ở và gian còn lại làm nhà nguyện cho anh em, và một ngôi nhà sàn. Hiến Pháp cũng như Linh đạo và tôn chỉ của Hội dòng bắt đầu được soạn thảo. Thế là cộng đoàn được bắt đầu hình thành và xây dựng trong khó khăn và hi vọng.
Bước sang năm 2008, cộng đoàn tiếp tục bước lên trong những khó khăn. Trước hết là sự hình thành bộ khung nhân sự của cộng đoàn. Từ bộ khung này, các công việc của cộng đoàn dần được ổn định. Ngày 13 tháng 06 năm 2008, thánh lễ mừng kính Thánh Antôn Padua – Quan Thầy của cộng đoàn đã được tổ chức tại nhà nguyện của cộng đoàn với sự đồng tế của 3 cha: cha Antôn Trần Đình Văn, cha Giuse Trần Văn Phúc và cha Phêrô Trần Đình Lai. Đó cũng là ngày lễ mừng Quan Thầy đầu tiên của cộng đoàn.
Ngày 04 tháng 09 năm 2008, lễ khai giảng năm học đầu tiên của cộng đoàn đã được tổ chức nơi căn nhà sàn. Kể từ đây, anh em được đào tạo về tri thức cần thiết cho một người tu sĩ Antôn trưởng thành.
Bước sang năm 2009, số lượng ơn gọi xin gia nhập cộng đoàn đã hơn 30 anh em. Họ đến từ các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa. Với sự phát triển nhanh chóng về số lượng ơn gọi như vậy, nên Cha Bề trên, các cha cộng sự và anh em họp đã quyết định và xây thêm một căn nhà cấp bốn 5 gian nối liền với phòng học bây giờ để có nơi cho anh em sum họp, ngủ nghỉ. Việc xây dựng ở đây rất khó khăn vì bị sự nhòm ngó của lâm trường và chính quyền. May thay, ơn Chúa và Thánh Antôn, cùng với sự cộng tác tích cực của anh em và nhiều người, mọi chuyện đã diễn ra êm xuôi, tốt đẹp.
Bên cạnh với việc xây dựng cơ sở vật chất, Cha Bề trên và các cha cộng sự cũng chú trọng xây dựng đời sống tâm linh cho anh em: các ngài đã dâng thánh lễ Chúa Nhật và các ngày thường cho anh em, tổ chức các cuộc tĩnh tâm vào Mùa Chay, mùa Vọng. Các ngài cũng luôn đồng hành hướng dẫn anh em trong đời sống tu đức, nhân bản để giúp anh em sống theo Linh Đạo của Hội dòng.
Ngày 13 tháng 06 năm 2009, Thánh lễ mừng bổn mạng và tiếp nhận 9 ứng sinh vào nhà Tập khóa I đã diễn ra một cách long trọng và sốt sắng tại sân cộng đoàn. Chủ tế trong thánh lễ là Cha Bề trên Antôn Hoàng Đức Luyến, cùng các cha cộng sự đã đồng tế với ngài. Và với sự tham dự của đông đảo quý ân nhân, thân nhân và bà con giáo dân. Từ đây, cộng đoàn đã có những anh em tập sống theo Linh đạo và Hiến Pháp của Hội dòng. Chính những anh em này là những viên đá đầu tiên xây dựng nền móng cho cộng đoàn Antôn.
Ngày 04 tháng 04 năm 2010, Đức Giám Mục giáo phận, Phaolô Maria Cao Đình Thuyên đã chấp thuận cho cộng đoàn được hoạt động tại giáo phận Vinh.
Vào ngày 13 tháng 06 năm 2012, 7 tập sinh đầu tiên được tuyên khấn lần đầu, đánh dấu bước tiến vững chắc trong tương lai.
Từ năm khi hình thành đến nay, cộng đoàn đã có những bước thăng tiến trong mọi mặt: về tri thức, ơn gọi, xây dựng cơ sở vật chất, khả năng phục vụ.
Hiện tại cộng đoàn chúng con đã có 57 anh em. Trong đó có 13 người khấn tạm, 26 tập sinh, 7 thỉnh sinh, 11 đệ tử.
3 anh em đang đi học thần học tại các học viện Sài Gòn, 1 anh du học Australia, 2 anh đang học nhạc viện Huế, 2 anh đang học tại Đại học Y khoa Vinh.
Với khát vọng đáp lại lời mời gọi của Chúa Thánh Thần và noi gương Thánh Antôn để theo sát Chúa Kitô, anh em Antôn sẽ hoàn toàn tận hiến cho Thiên Chúa yêu thương qua việc tuyên khấn ba lời khuyên Phúc Âm. Và lời khấn đặc sủng của Hội dòng là Khiêm nhường.
Với lời khấn Khiết tịnh, các anh em cam kết sống độc thân vì Nước trời.
Lời khấn Vâng phục, anh em sát tế ý riêng như Chúa Kitô, vâng phục các Bề trên hợp pháp để thi hành thánh ý Chúa Cha.
Với lời khấn Khó nghèo, anh em không tự do sử dụng và định đoạt những của cải vật chất để dấn thân phục vụ Nước Trời.
Với lời khấn khiêm nhường, anh em khiêm nhường phục vụ trong tin yêu. Đây là một đặc sủng nội bật của Cộng đoàn Antôn.
Đặc sủng của Hội dòng
Đặc sủng Dòng đã được thể hiện qua 4 chiều kích: đạo đức nhân bản, đời sống cộng đoàn, tri thức và khả năng phục vụ. 4 chiều kích này làm nên căn tính của người Antôn. Do đó, không thể tách rời mà hoà quyện và liên kết chặt chẽ với nhau.
Người Antôn phải là người có đạo đức nhân bản. Vì chính qua đời sống nhân đức của mình người Antôn đem Chúa đến cho mọi người.
- Tri thức: Người Antôn phải có tinh thần cầu tiến, phải học hành để có thể trở nên những nhà giảng thuyết đích thực, phục vụ cho lý tưởng cứu độ các linh hồn và cho việc dấn thân cho công việc phục vụ.
- Đời sống chung: Là môi trường nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và là nguồn trợ lực cho đời sống nhân bản và đời sống phục vụ.
- Khả năng phục vụ: Sứ vụ truyền giảng của người Antôn là sự thông chia những gì mình đã kín múc từ đời sống cầu nguyện, qua việc học hỏi và nuôi dưỡng nơi đời sống cộng đoàn.
Tất cả 4 chiều kích này hỗ trợ, bổ túc, liên kết với nhau để thống nhất và làm bật lên nét đặc sủng của Dòng là: " Khiêm nhường Phục vụ và rao giảng Lời Chúa".
Chia sẻ trong thánh lễ, cha Fx đã giảng dãi cho mọi người hiểu về sự giảng thuyết tài ba của Thánh Antôn và ngài là một vị thánh hay làm phép lạ. Thánh Antôn là một người rất giỏi nhưng lại rất khiêm nhường. Chính điều này đã làm cho ngài trở thành một nhà giảng thuyết lừng danh. Sự khiêm nhường luôn làm đẹp lòng Thiên Chúa và được mọi người yêu mến và cảm phục. Ngài luôn yêu mến tha nhân đặc biệt là những người đau khổ. Chính vị vậy, ngài luôn là vị cầu bầu linh nghiệm cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa.
Cha cũng chia sẻ với cộng đoàn phụng vụ về những khó khăn của Cha Bề trên, các cha cộng sự và anh em cộng đoàn Antôn.
Cha mời gọi mọi người bằng lời cầu nguyện, bằng tinh thần vật chất hay bằng cách này, cách khác để giúp đỡ Cha Bề trên và anh em cộng đoàn để cộng đoàn Antôn Padua ngày một phát triển cộng tác vào cộng việc phục vụ giáo phận và Giáo Hội.
Kết thúc thánh lễ, Thầy trưởng cộng đoàn đã gửi lời cám ơn đến Cha Bề trên, các cha cộng sự, quý cha, và quý ân nhân, quý thân nhân, bà con giáo dân trong các giáo xứ đã giúp đỡ và nâng đỡ cộng đoàn bằng lời cầu nguyện, bằng sự động viên về tinh thần cũng như vật chất để anh em có niềm tin mà vững bước theo chân Chúa và Thánh Antôn.
Sau thánh lễ, mọi người đã cùng lưu lại dự buổi hoan tiệc cùng cộng.
Hình ảnh
Sơ lược tiểu sử cộng đoàn Antôn Padua.
Cách đây hơn 2000 năm, tại căn phòng tiệc ly, nơi các tông đồ đang cầu nguyện cùng với Mẹ Maria. Chúa Giêsu hiện đến và trao ban Thánh Thần cho các tông đồ và sai các ông đi loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Đây là ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, và Giáo Hội Hoàn vũ được khai sinh từ đây. Cũng chính ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống cách đây 8 năm, tức là vào buổi tối ngày 15 tháng 05 năm 2007, tại căn liều trại dê của ông bà cụ Lợi Luận, một thánh lễ đánh dấu một sự kiện quan trọng đã diễn ra. Đó là thánh lễ khai sinh ra cộng đoàn Antôn Padua giáo phận Vinh.
Đêm đó, có ba linh mục với một số anh em có thiện chí ơn gọi, trong đó có ba anh em đã vào sống ở đây mấy tháng và chính nơi túp lều 2 gian để làm trại kia, lại thành nơi cho một thánh lễ khai sinh ra một hội dòng. Sau đó, một đêm lửa trại đã diễn ra giữa rừng cây heo hút, cô đơn nhưng đầy sự linh thiêng này. Và từ đó, đến cuối năm 2007 cộng đoàn đã có thêm 7 anh em có thiện chí đã tiếp tục vào đây sinh sống. Cũng trong năm 2007 này, cộng đoàn đã xây dựng được một ngôi nhà cấp 4 hai gian, với một gian làm nhà ở và gian còn lại làm nhà nguyện cho anh em, và một ngôi nhà sàn. Hiến Pháp cũng như Linh đạo và tôn chỉ của Hội dòng bắt đầu được soạn thảo. Thế là cộng đoàn được bắt đầu hình thành và xây dựng trong khó khăn và hi vọng.
Bước sang năm 2008, cộng đoàn tiếp tục bước lên trong những khó khăn. Trước hết là sự hình thành bộ khung nhân sự của cộng đoàn. Từ bộ khung này, các công việc của cộng đoàn dần được ổn định. Ngày 13 tháng 06 năm 2008, thánh lễ mừng kính Thánh Antôn Padua – Quan Thầy của cộng đoàn đã được tổ chức tại nhà nguyện của cộng đoàn với sự đồng tế của 3 cha: cha Antôn Trần Đình Văn, cha Giuse Trần Văn Phúc và cha Phêrô Trần Đình Lai. Đó cũng là ngày lễ mừng Quan Thầy đầu tiên của cộng đoàn.
Ngày 04 tháng 09 năm 2008, lễ khai giảng năm học đầu tiên của cộng đoàn đã được tổ chức nơi căn nhà sàn. Kể từ đây, anh em được đào tạo về tri thức cần thiết cho một người tu sĩ Antôn trưởng thành.
Bước sang năm 2009, số lượng ơn gọi xin gia nhập cộng đoàn đã hơn 30 anh em. Họ đến từ các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa. Với sự phát triển nhanh chóng về số lượng ơn gọi như vậy, nên Cha Bề trên, các cha cộng sự và anh em họp đã quyết định và xây thêm một căn nhà cấp bốn 5 gian nối liền với phòng học bây giờ để có nơi cho anh em sum họp, ngủ nghỉ. Việc xây dựng ở đây rất khó khăn vì bị sự nhòm ngó của lâm trường và chính quyền. May thay, ơn Chúa và Thánh Antôn, cùng với sự cộng tác tích cực của anh em và nhiều người, mọi chuyện đã diễn ra êm xuôi, tốt đẹp.
Bên cạnh với việc xây dựng cơ sở vật chất, Cha Bề trên và các cha cộng sự cũng chú trọng xây dựng đời sống tâm linh cho anh em: các ngài đã dâng thánh lễ Chúa Nhật và các ngày thường cho anh em, tổ chức các cuộc tĩnh tâm vào Mùa Chay, mùa Vọng. Các ngài cũng luôn đồng hành hướng dẫn anh em trong đời sống tu đức, nhân bản để giúp anh em sống theo Linh Đạo của Hội dòng.
Ngày 13 tháng 06 năm 2009, Thánh lễ mừng bổn mạng và tiếp nhận 9 ứng sinh vào nhà Tập khóa I đã diễn ra một cách long trọng và sốt sắng tại sân cộng đoàn. Chủ tế trong thánh lễ là Cha Bề trên Antôn Hoàng Đức Luyến, cùng các cha cộng sự đã đồng tế với ngài. Và với sự tham dự của đông đảo quý ân nhân, thân nhân và bà con giáo dân. Từ đây, cộng đoàn đã có những anh em tập sống theo Linh đạo và Hiến Pháp của Hội dòng. Chính những anh em này là những viên đá đầu tiên xây dựng nền móng cho cộng đoàn Antôn.
Ngày 04 tháng 04 năm 2010, Đức Giám Mục giáo phận, Phaolô Maria Cao Đình Thuyên đã chấp thuận cho cộng đoàn được hoạt động tại giáo phận Vinh.
Vào ngày 13 tháng 06 năm 2012, 7 tập sinh đầu tiên được tuyên khấn lần đầu, đánh dấu bước tiến vững chắc trong tương lai.
Từ năm khi hình thành đến nay, cộng đoàn đã có những bước thăng tiến trong mọi mặt: về tri thức, ơn gọi, xây dựng cơ sở vật chất, khả năng phục vụ.
Hiện tại cộng đoàn chúng con đã có 57 anh em. Trong đó có 13 người khấn tạm, 26 tập sinh, 7 thỉnh sinh, 11 đệ tử.
3 anh em đang đi học thần học tại các học viện Sài Gòn, 1 anh du học Australia, 2 anh đang học nhạc viện Huế, 2 anh đang học tại Đại học Y khoa Vinh.
Với khát vọng đáp lại lời mời gọi của Chúa Thánh Thần và noi gương Thánh Antôn để theo sát Chúa Kitô, anh em Antôn sẽ hoàn toàn tận hiến cho Thiên Chúa yêu thương qua việc tuyên khấn ba lời khuyên Phúc Âm. Và lời khấn đặc sủng của Hội dòng là Khiêm nhường.
Với lời khấn Khiết tịnh, các anh em cam kết sống độc thân vì Nước trời.
Lời khấn Vâng phục, anh em sát tế ý riêng như Chúa Kitô, vâng phục các Bề trên hợp pháp để thi hành thánh ý Chúa Cha.
Với lời khấn Khó nghèo, anh em không tự do sử dụng và định đoạt những của cải vật chất để dấn thân phục vụ Nước Trời.
Với lời khấn khiêm nhường, anh em khiêm nhường phục vụ trong tin yêu. Đây là một đặc sủng nội bật của Cộng đoàn Antôn.
Đặc sủng của Hội dòng
Đặc sủng Dòng đã được thể hiện qua 4 chiều kích: đạo đức nhân bản, đời sống cộng đoàn, tri thức và khả năng phục vụ. 4 chiều kích này làm nên căn tính của người Antôn. Do đó, không thể tách rời mà hoà quyện và liên kết chặt chẽ với nhau.
Người Antôn phải là người có đạo đức nhân bản. Vì chính qua đời sống nhân đức của mình người Antôn đem Chúa đến cho mọi người.
- Tri thức: Người Antôn phải có tinh thần cầu tiến, phải học hành để có thể trở nên những nhà giảng thuyết đích thực, phục vụ cho lý tưởng cứu độ các linh hồn và cho việc dấn thân cho công việc phục vụ.
- Đời sống chung: Là môi trường nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và là nguồn trợ lực cho đời sống nhân bản và đời sống phục vụ.
- Khả năng phục vụ: Sứ vụ truyền giảng của người Antôn là sự thông chia những gì mình đã kín múc từ đời sống cầu nguyện, qua việc học hỏi và nuôi dưỡng nơi đời sống cộng đoàn.
Tất cả 4 chiều kích này hỗ trợ, bổ túc, liên kết với nhau để thống nhất và làm bật lên nét đặc sủng của Dòng là: " Khiêm nhường Phục vụ và rao giảng Lời Chúa".
Chia sẻ trong thánh lễ, cha Fx đã giảng dãi cho mọi người hiểu về sự giảng thuyết tài ba của Thánh Antôn và ngài là một vị thánh hay làm phép lạ. Thánh Antôn là một người rất giỏi nhưng lại rất khiêm nhường. Chính điều này đã làm cho ngài trở thành một nhà giảng thuyết lừng danh. Sự khiêm nhường luôn làm đẹp lòng Thiên Chúa và được mọi người yêu mến và cảm phục. Ngài luôn yêu mến tha nhân đặc biệt là những người đau khổ. Chính vị vậy, ngài luôn là vị cầu bầu linh nghiệm cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa.
Cha cũng chia sẻ với cộng đoàn phụng vụ về những khó khăn của Cha Bề trên, các cha cộng sự và anh em cộng đoàn Antôn.
Cha mời gọi mọi người bằng lời cầu nguyện, bằng tinh thần vật chất hay bằng cách này, cách khác để giúp đỡ Cha Bề trên và anh em cộng đoàn để cộng đoàn Antôn Padua ngày một phát triển cộng tác vào cộng việc phục vụ giáo phận và Giáo Hội.
Kết thúc thánh lễ, Thầy trưởng cộng đoàn đã gửi lời cám ơn đến Cha Bề trên, các cha cộng sự, quý cha, và quý ân nhân, quý thân nhân, bà con giáo dân trong các giáo xứ đã giúp đỡ và nâng đỡ cộng đoàn bằng lời cầu nguyện, bằng sự động viên về tinh thần cũng như vật chất để anh em có niềm tin mà vững bước theo chân Chúa và Thánh Antôn.
Sau thánh lễ, mọi người đã cùng lưu lại dự buổi hoan tiệc cùng cộng.
Thông Báo
Dòng Thánh Thể VN : Thư Tuyển Sinh
GB. Trịnh Xuân Cường, SSS
09:29 13/06/2014
DÒNG THÁNH THỂ
TỈNH DÒNG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VN
THƯ TUYỂN SINH
Kính gởi:
Quý Cha, Quý Tu sĩ nam nữ, Quý Phụ huynh và các Bạn trẻ.
Để đón nhận những ơn gọi mới đợt II niên khóa 2013–2014, Ban Tuyển Sinh Dòng Thánh Thể xin gởi đến Quý Cha, Quý Tu sĩ, Quý Phụ huynh và các Bạn trẻ thông báo về việc tuyển sinh.
Sau đây là những thông tin liên hệ.
I. ĐIỀU KIỆN DỰ THI
- Các bạn nam có ước muốn tìm hiểu và dấn thân trong đời sống tu trì.
-Tốt nghiệp PTTH hoặc đang ôn thi vào ĐH, CĐ: Tuổi từ 18 đến 22.
-Đã TN hoặc đang học ĐH hoặc CĐ (hệ chính quy): Tuổi không quá 28.
-Những bạn trẻ chọn theo ơn gọi tu huynh: Tốt nghiệp PTTH, tuổi không qúa 40.
II. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂN GHI DANH
1/ Thời gian: Bắt đầu từ ngày ra thông báo đến hết ngày 30/06/2014.
2/ Địa điểm:
-GP. Tp. HCM (GX. Khiết Tâm- Thủ Đức)
ĐC: 15b khu phố 4 – P. Bình Chiểu – Q. Thủ Đức – TP. Hồ Chí Minh.
ĐT: (08)3.729.0026. LH Cha Phêrô Cung (090.906.9070); Cha GB. Cường (090.867.7856).
-GP. Xuân Lộc (GX. Hải Dương, Biên Hòa- ĐN)
ĐC: Khu phố 6 – P. Hố Nai – TP. Biên Hòa.
ĐT: (0613). 881.296. Liên hệ Cha Giuse Vinh ( 0122.726.2621)
(0613). 881.054. Liên hệ Cha Giuse Bình ( 098.833.0430)
-Miền Bắc
Xin liên hệ Cha Giuse Thịnh ( 0313.676.850); Cha Giuse Công ( 090.318.0608)
-Những trường hợp ở xa
Các bạn có thể ghi danh qua số đt: 090.867.7856 (Cha GB. Cường) hoặc qua địa chỉ email: johnbmt99@yahoo.com
III. THỂ LỆ GHI DANH
- Chỉ cần đang ký họ tên người dự thi với những điều kiện ghi ở trên.
- Mọi thủ tục giấy tờ sẽ bổ sung sau khi được tuyển nhận.
IV. THI TUYỂN
-Địa điểm: NHÀ TỈNH DÒNG (Sau nhà thờ GX. Khiết Tâm
ĐC: 15b Khu phố 4 – P. Bình Chiểu – Q. Thủ Đức – TP. Hồ Chí Minh.
-Thời gian: Lúc 8g30 Chúa Nhật, ngày 06/07/2014.
-Môn thi:
(1) Giáo lý (Giáo lý căn bản – sách giáo lý tóm lược)
(2) Việt văn (Văn nghị luận trình độ PTTH)
(3) Ngoại ngữ (Anh hoặc Pháp ngữ, trình độ lớp 12, tương đương chứng chỉ A+.
Chúc các bạn trẻ tìm được niềm vui và hạnh phúc trong lý tưởng phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân nơi Dòng Thánh Thể.
TM. Ban Ttuyển Sinh
Tu sĩ. đặc trách
GB. TRỊNH XUÂN CƯỜNG, SSS
TỈNH DÒNG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VN
THƯ TUYỂN SINH
Kính gởi:
Quý Cha, Quý Tu sĩ nam nữ, Quý Phụ huynh và các Bạn trẻ.
Để đón nhận những ơn gọi mới đợt II niên khóa 2013–2014, Ban Tuyển Sinh Dòng Thánh Thể xin gởi đến Quý Cha, Quý Tu sĩ, Quý Phụ huynh và các Bạn trẻ thông báo về việc tuyển sinh.
Sau đây là những thông tin liên hệ.
I. ĐIỀU KIỆN DỰ THI
- Các bạn nam có ước muốn tìm hiểu và dấn thân trong đời sống tu trì.
-Tốt nghiệp PTTH hoặc đang ôn thi vào ĐH, CĐ: Tuổi từ 18 đến 22.
-Đã TN hoặc đang học ĐH hoặc CĐ (hệ chính quy): Tuổi không quá 28.
-Những bạn trẻ chọn theo ơn gọi tu huynh: Tốt nghiệp PTTH, tuổi không qúa 40.
II. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂN GHI DANH
1/ Thời gian: Bắt đầu từ ngày ra thông báo đến hết ngày 30/06/2014.
2/ Địa điểm:
-GP. Tp. HCM (GX. Khiết Tâm- Thủ Đức)
ĐC: 15b khu phố 4 – P. Bình Chiểu – Q. Thủ Đức – TP. Hồ Chí Minh.
ĐT: (08)3.729.0026. LH Cha Phêrô Cung (090.906.9070); Cha GB. Cường (090.867.7856).
-GP. Xuân Lộc (GX. Hải Dương, Biên Hòa- ĐN)
ĐC: Khu phố 6 – P. Hố Nai – TP. Biên Hòa.
ĐT: (0613). 881.296. Liên hệ Cha Giuse Vinh ( 0122.726.2621)
(0613). 881.054. Liên hệ Cha Giuse Bình ( 098.833.0430)
-Miền Bắc
Xin liên hệ Cha Giuse Thịnh ( 0313.676.850); Cha Giuse Công ( 090.318.0608)
-Những trường hợp ở xa
Các bạn có thể ghi danh qua số đt: 090.867.7856 (Cha GB. Cường) hoặc qua địa chỉ email: johnbmt99@yahoo.com
III. THỂ LỆ GHI DANH
- Chỉ cần đang ký họ tên người dự thi với những điều kiện ghi ở trên.
- Mọi thủ tục giấy tờ sẽ bổ sung sau khi được tuyển nhận.
IV. THI TUYỂN
-Địa điểm: NHÀ TỈNH DÒNG (Sau nhà thờ GX. Khiết Tâm
ĐC: 15b Khu phố 4 – P. Bình Chiểu – Q. Thủ Đức – TP. Hồ Chí Minh.
-Thời gian: Lúc 8g30 Chúa Nhật, ngày 06/07/2014.
-Môn thi:
(1) Giáo lý (Giáo lý căn bản – sách giáo lý tóm lược)
(2) Việt văn (Văn nghị luận trình độ PTTH)
(3) Ngoại ngữ (Anh hoặc Pháp ngữ, trình độ lớp 12, tương đương chứng chỉ A+.
Chúc các bạn trẻ tìm được niềm vui và hạnh phúc trong lý tưởng phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân nơi Dòng Thánh Thể.
TM. Ban Ttuyển Sinh
Tu sĩ. đặc trách
GB. TRỊNH XUÂN CƯỜNG, SSS
![]() |
Văn Hóa
Father's Day: Ngày Hiền Phụ
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
09:41 13/06/2014
Cha hiền trung nghĩa sắt son
Yêu thương chớm nở, đưa con vào đời
Tình cha núi thái cao vời,
Mở đường dẫn lối, gọi mời sống chung.
Tình yêu ân lộc bao dung,
Nêu gương công đức, anh hùng lập thân.
Ngày đêm sáng tối chuyên cần.
Thức khuya dậy sớm, vạn lần gắng công.
Dù cho mưa nắng gió giông,
Đường xa muôn nẻo, mắt trông hướng về.
Cuộc đời gian khó chẳng nề,
Gia đình mái ấm, lời thề trung kiên.
Về nhà có một nàng tiên,
Ngôn từ nhỏ nhẹ, vợ hiền dấu yêu.
Cùng nhau sát cánh sớm chiều,
Nuôi đàn con lớn, đạt nhiều ước mơ.
Lòng cha thầm kín mong chờ,
Công thành danh toại, nương nhờ tấm thân.
Ơn cha nghĩa mẹ bội phần,
Đền ơn đáp nghĩa, cho cân mối tình.
CÔNG CHA.
Công cha biển rộng non cao,
Trải qua gian khó, biết bao nhọc nhằn
Nắng trưa mảnh đất khô cằn
Thân gầy cuốc xới, in hằn vết nhăn.
Hoa mầu ruộng lúa cầm canh,
Cố công vun xới, đất lành trổ hoa.
Quê cha đất tổ hiền hòa,
Chung tay gầy dựng, xóm nhà đông vui.
Làng trên xóm dưới tới lui,
Giao thân kết nghĩa, nên xui họ hàng.
Cháu con kết bạn trong làng,
Gia tăng nhân số, vẻ vang dõi dòng.
Dân làng khuôn mẫu gia phong,
Trai thanh nữ tú, nối dòng phát huy.
Kẻ trên người dưới phụ tùy,
Nêu gương thảo hiếu, bái quỳ kính tôn.
Ơn ban Thượng Đế càn khôn,
Nối dòng thể xác, linh hồn Chúa ban.
Trọn tình thờ Chúa khấn van,
Công cha đền đáp, an khang một đời.
LÒNG CHA.
Mừng ngày Hiền Phụ phúc ban,
Vòng tay ấp ủ, muôn vàn yêu thương.
Bên cha từng bước tựa nương
Dìu qua muôn lối, dẫn đường con đi.
Có cha con khỏi lo chi,
Tình cha nhân ái, khắc ghi cõi lòng.
Cuộc đời phấn đấu long đong,
Thương con yêu dấu, cầu mong tháng ngày.
Yêu thương ấp ủ hôm nay,
Mai sau đỗ đạt, nở mày mẹ cha.
Thương trường lữ thứ bôn ba,
Học khôn khọc khéo, vị tha với người.
Tình yêu đắp đổi sống đời,
Từ bi hỉ xả, gọi mời thẳng ngay.
Con ơi ghi nhớ lời này,
Sống tròn tứ đức, sớm ngày thành nhân.
Công cha vẹn nghĩa chuyên cần,
Mong con khôn lớn, đỡ đần tộc gia.
Gia đình hạnh phúc ơn cha,
Chu toàn thiên chức, cả nhà mừng vui.
ƠN CHA.
Ân thiêng phúc đức tuôn tràn,
Tình yêu định mệnh, trao ban vào đời.
Nhiệm mầu sự sống cao vời,
Ơn trên Tạo Hóa, gọi mời cưu mang.
Làm người nhận biết ân ban,
Thiên tài phú bẩm, chứa chan ân tình.
Hồn thiêng thân xác kết tinh,
Cha con đồng dạng, đồng hình như nhau.
Cuộc đời kết nối trước sau,
Hậu sinh khả ái, hãy mau đáp lời.
Ơn cha cao trọng tuyệt vời,
Cố công đền đáp, con ơi, đừng chờ.
Thời gian thấp thoáng mây mờ,
Trải qua năm tháng, tới giờ ra đi.
Ngược dòng suối cạn còn chi,
Vào mùa báo hiếu, có gì dâng cha.
Tâm tình gói chút hương hoa,
Tri ân công đức, ơn cha đong đầy.
Tình cha ân nghĩa cao dầy,
Mừng ngày Hiền Phụ, vui vầy chúc khen.
ĐỜI CHA.
Cha ơi, hai chữ dấu yêu,
Kết lời giao ước, cao siêu mối tình.
Duyên trao kết hợp thân mình,
Tuổi đời trai tráng, an bình phúc thay.
Lo toan cuộc sống hôm nay,
Bôn ba vất vả, nhiều ngày lắng lo.
Trọn bề gia đạo ấm no,
Lập thân gia thất, đắn đo sống còn.
Thời gian nước chảy đá mòn
Cha già đáng kính, đàn con quây quần.
Ngày qua tháng lại đơn thuần,
Kiệt mòn sức lực, xin tuân luật Trời.
Thân tàn sức kém tạm thời,
Tuổi già yếu bệnh, gẫm đời xá chi.
Đàn con lũ cháu sầu bi,
Chia xa vĩnh viễn, cha đi một mình.
Cầu xin nguyện giúp lời kinh,
Mong nơi chín suối, trọn tình thế nhân.
Ông bà tiên tổ thân nhân,
Chúa ban phúc lộc, hưởng phần phúc vinh.
YÊU CHA.
Ơn cha cây cội nước nguồn,
Xuôi dòng nước chảy, suối tuôn dạt dào.
Bao la ân lộc gởi trao,
Bóng cây cổ thụ, biết bao ân tình.
Đàn con núp bóng an bình,
Dầu cho mưa nắng, gia đình sống vui.
Cuộc đời cay đắng ngọt bùi,
Bước đường ngang dọc, tiến lùi dấn thân.
Gian nan khổ ải thế trần,
Vai mang gánh nặng, vạn lần khó khăn.
Tính tình cương trực tự căn.
Trung kiên nhẫn nại, dậy răn điều lành.
Con ơi cố gắng thực hành,
Vượt qua gian khó, danh thành đức cao.
Con đừng lãng phí ơn trao,
Vững tâm tiến bước, công lao sẽ thành.
Tâm an trí sáng lòng thanh,
Giữ lòng trung hiếu, rạng danh giống nòi.
Học khôn khám phá tìm tòi,
Lời cha ghi nhớ, gương soi cho đời.
PHẬN ĐỜI.
Cha ơi, sao lỡ bỏ con,
Tuổi còn non dại, héo hon mong chờ.
Tình yêu tan biến dại khờ,
Ngả theo tình lỡ, con thơ mẹ hiền,
Đâu còn cuộc sống điền viên,
Cha xa mái ấm, gây phiền đau thương.
Mẹ con quảng gánh náu nương,
Nuôi con lao khó, bước đường đơn côi,
Lang thang ngày tháng nổi trôi,
Thân trao phận lỡ, lứa đôi chia lìa.
Khác nào gẫy gánh phân chia,
Tình yêu xa cách, mộ bia tạc lòng.
Cha ơi, sao lỡ xa con,
Mẹ hiền sầu khổ, sắt son một đời.
Xót xa số phận cuộc đời,
Cha thời mất sớm, lệ rơi sầu buồn.
Đàn con nước mắt mưa tuôn,
Con côi mẹ góa, nhớ luôn mối tình.
Cha Hiền chung thủy bóng hình,
Dù cho chia cách, chữ tình khắc ghi.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Ánh Sáng Từ Trời
Dominic Đức Nguyễn
21:33 13/06/2014
![]() |
Ảnh của Dominic Đức Nguyễn
Thầy là ánh sáng cho thế gian.
(Ga 9, 5)

