Ngày 22-05-2014
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Lời hứa
Lm Vũđình Tường
05:29 22/05/2014
Hứa là mong ước với quyết tâm thực hiện hay tránh không hành động trong tương lai. Tương lai có thể có giới hạn cũng có thể cả đời. Có thể hứa với chính mình cũng có thể hứa với người khác. Trong tôn giáo hứa là hứa giữa mình với Đấng Tối Cao vì thế được coi là giao ước cá nhân thực hiện với Thiên Chúa. Hôn nhân Thiên Chúa giáo trở thành bí tích vì hai người hứa với Thiên Chúa là sẽ trung thành sống đời sống lứa đôi trọn đời, sống tinh thần Phúc Âm là yêu thương tha thứ trong cuộc sống. Lời hứa quan trọng nhất có lẽ là lời hứa khi em bé lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Vì em còn nhỏ nên cha mẹ hứa thay em và khi khôn lớn mỗi lần tham dự thánh lễ Chúa Nhật hay lễ trọng chính em cùng với cộng đoàn lập lại lời tuyên hứa khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy qua kinh Tin Kính. Đây là lời hứa vừa mang tính cách cá nhân vừa mang tính cách cộng đoàn dân Chúa. Như thế không thể nói tôi còn nhỏ cha mẹ bồng đi rửa tội hứa thay tôi chứ bản thân tôi không hứa. Tất cả các lễ vọng Phục Sinh hàng năm chính cá nhân đó long trọng lập lại lời tuyên hứa khi nhận bí tích Thánh Tẩy.

Giữ tròn lời hứa với Thiên Chúa hay với tha nhân bảo vệ tư cách đứng đắn, tạo thêm uy tín của cá nhân đó. Thất hứa hậu quả sẽ là làm tổn thương danh dự chính mình và làm rạn nứt tình thân hữu cũng như chữ tín dầy công gầy dựng. Giữ trọn lời hứa khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy là dấu chỉ cho biết trong con người đó có nhiều ân sủng Chúa và tình yêu người đó dành cho Chúa phát xuất tự con tim chân thành. Thất hứa với Thiên Chúa là lạm dụng tình yêu Ngài dành cho. Bản chất của lạm dụng không bao giờ tốt.

Dường như con người khó có thể thực hiện được mọi lời hứa vì thế cần sự trợ giúp từ nguồn khác. Nguồn trợ giúp đắc lực nhất chính là Giáo Hội. Khi thất hứa và không còn cơ hội để hoàn thành điều đã hứa Giáo Hội giúp bằng cách thiết lập bí tích Hoà Giải để giao hoà giữa con người với Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ thất hứa cũng như không giận con người vì thế người cần hoà giải là con người chứ không phải Thiên Chúa. Là người có niềm tin, tự trọng, biết yêu quí sự thật nên khi thất hứa cần giao hoà để tái tạo những gì đã rạn nứt. Bí tích Giao Hoà không những tái tạo những gì đã đổ vỡ và còn làm cho con người trở nên trong sáng hơn khi xưa. Mỗi lần tham dự bí tích Giao Hoà con người đó được đánh bóng, sáng và tốt hơn một bậc bởi ân sủng Chúa có sức thanh tẩy, thánh hoá làm cho ta nên trong sáng, vững mạnh. Tự nhận mình yếu đuối và bất toàn giúp mình trở nên khiêm tốn, chân thành hơn. Giáo Hội giúp ta giao hoà với Thiên Chúa nhờ vào sự chết, hy sinh trên thập tự của Đức Kitô.

Sụ chết và sống lại của Đức Kitô bảo đảm cho chúng ta những gì Thiên Chúa hứa Ngài đều thực hiện cách tốt đẹp. Có những điều chúng ta hứa nhưng không có khả năng thực hiện. Bất cứ điều gì Thiên Chúa hứa Ngài đều thực hiện cách vẹn toàn. Cái chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô cho thấy Thiên Chúa hoàn tất tốt đẹp những gì Ngài hứa với các tổ phụ. Ngày nay Đức Kitô cũng hứa ban cho chúng ta món quà quí, món quà không thế lực nào có để cho. Món quà đó chính là Thánh Thần Chúa. Ngài hứa không để chúng ta mồ côi. Ngài hứa đi trước dọn chỗ cho chúng ta và sau khi dọn xong Ngài trở lại đón chúng ta để Ngài ở đâu chúng ta cũng ở đó với Ngài. Ngài hứa ban tình yêu cho chúng ta và Ngài ước mong chúng ta sống điều răn mới. Đó là hãy iêu thương nhau. Điều răn mới vừa là ân sủng vừa là án phạt. Là ân sủng vì sống trong yêu thương sẽ được hưởng phúc trường sinh. Án phạt đây chính là từ chối được yêu thương. Vì thế cuối ngày chúng ta cần tự xét đã sống tình iêu trong ngày như thế nào.

Khi tâm hồn mở rộng đón nhận hướng dẫn của Thánh Thần Chúa chúng ta tin rằng chúng ta được ân sủng Chúa hướng dẫn; trái lại chúng ta quyết tâm theo í riêng, làm ngơ hướng dẫn của Thánh Thần chúng ta lệ thuộc vào sức mạnh trần thế, không thuộc về Thiên Chúa và đó là dấu chỉ rõ ràng cho biết chúng ta không sống thực hiện điều hứa khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy.

Lm Vudinh Tuong
TiengChuong.org
 
Suy tư Tin Mừng Chúa nhật thứ sáu Phục Sinh năm A 25-5-2014
Mai Tá
19:25 22/05/2014
Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ sáu Phục Sinh năm A 25-5-2014

“Rằng thiếu tình yêu thì vô nghiã”
“cuộc đời sẽ chỉ là một nhánh sông khô.”
(Dẫn từ thơ của Cát Biển)

Ga 17: 1-11

Nhánh sông khô, đâu còn gọi là sông nữa. Mà, chỉ làm đám đất khô cằn, chẳng người tới lui. Đời nhà Đạo rày cũng thế, thiếu tình yêu tức đời vô nghĩa, chỉ là xác thể rất không hồn.
Trình-thuật thánh Gioan hôm nay cũng ghi về một ý-tưởng giống như thế. Phúc âm hôm nay làm nổi bật hai ý tưởng chủ chốt: Tình yêu và giới lệnh. Bằng vài lời ngắn gọn, Đức Kitô diễn đạt tương quan sẵn có giữa hai ý tưởng mang tính nghịch thường, tức: lý và tình. Thoạt nghe, người thính tai lắm cũng thấy có điều gì như không ổn khiến mọi người băn khoăn không ngớt. Băn khoăn, vì đã là người thì từ nhỏ đến lớn, ai mà chẳng có lúc nghĩ rằng: lề luật bao giờ cũng là kẻ thù không đội trời chung, với tình yêu. Nhiều người cứ tưởng: chỉ tự do và vui thú xác thịt mới là hoa quả đầu mùa của tình yêu vốn đâm hoa kết trái, suốt mọi mùa.
Tuy nhiên, trong một thoáng rất nhanh, liên tưởng đến người thân thương hoặc các dự án hấp dẫn mà ta bỏ công sức cũng như thời gian để cống hiến, mới thấy rằng: con người chẳng cần đến luật lệ mới có được cử chỉ hy sinh rộng lượng với người/việc mình yêu thích. Có đáp lại yêu cầu của lề luật bằng những tư thế “vượt không gian và thời gian” như nhiều người từng làm, chẳng vì luật lệ buộc ta phải làm thế, nhưng đúng hơn, vì đó là do tình yêu thúc đẩy.
Hôm nay, Đức Giêsu khuyên ta: hãy biết chấp hành giới lệnh của Ngài. Có như thế, ta mới chứng tỏ được mình đang có tương quan mật thiết với Ngài. Chấp hành, là cụm từ tiếng Việt dùng để diễn nghĩa động từ “oboedire” tiếng La tinh nhằm mô tả trạng thái “lắng nghe cho kỹ” để rồi chấp nhận và hành động như lời Ngài dạy. Đây, là cung cách nhẹ nhàng/hòa nhã nhất vốn dĩ giúp ta hiểu được lời mời gọi thiết tha của Đức Chúa. Càng nhẹ nhàng/hoà nhã chấp hành giới lệnh của Đức Chúa, ta càng ở vào tư thế sẵn sàng “lắng nghe cho kỹ” lời mời của Thánh Thần Chúa, ở đời thường.
Có điều là, giới lệnh nào là lệnh ta cần “lắng nghe” hơn cả? Quả thật, Chúa vẫn nói: “Toàn bộ giới lệnh và các ngôn sứ Thầy ban, có thể tóm tắt vào điều này: Hãy yêu thương Đức Chúa và người đồng loại như thương yêu chính mình”... Nếu người người thấy giới lệnh này mang tính cách “chung chung” chẳng diễn tả được bao nhiêu ý nghĩa của lời mời gọi, thì lời diễn giải của thánh Phaolô sẽ làm rõ nghĩa hơn. Giống như Đức Kitô, thánh Phaolô cũng từng diễn giải: giới lệnh của tình yêu, trước tiên, sẽ không thể hiện ở điều ta nói hay có cảm xúc này nọ, mà:bằng vào hành động ta làm. Với tín hữu Đức Kitô, tình yêu nhất định phải là chuyện có thực. Mỗi khi ta hiền hoà/nhẫn nại, đối xử tử tế và nhẹ nhàng hòa nhã với người khác, hoặc với nhau, là ta đã chấp hành giới lệnh của tình yêu rồi. Cũng vậy, khi ta biết thứ tha và tôn trọng sự thật, thì dù ở vào tình huống nào đi nữa, ta vẫn một lòng chung thủy với người khác, và với nhau. Và, chính đó là lúc ta chú ý “lắng nghe cho kỹ” giới lệnh của Đức Chúa, rồi.
Thánh Phaolô còn quả quyết: hoa trái đầu mùa, thành quả của tình yêu đích thực nơi tín hữu Đức Kitô, còn là: biết tự kềm chế chính mình. Hy sinh tự kềm chế, là giới lệnh của tình yêu đi vào hiện thực. Thế giới hôm nay, tiếp tục rao truyền huyền thoại rất không-tưởng, nhất là khi nhiều người lại bảo: cách duy nhất để đạt hạnh phúc dài lâu, là biết tỏ bày và phô trương cái hay/cái đẹp của con người. Phần đông chúng ta đều cho rằng: lập trường này không mấy thích hợp. Bởi, nếu mọi người đều bộc lộ cảm xúc hoặc phô trương xác thịt, kèm theo lòng dục hoặc những ham muốn được tâng bốc đến mức tối đa, thì thế giới này sẽ không còn đất sống cho loài người dung thân.
Thực tế ở đời, lắm lúc khiến ta nghĩ: điều hay/điều tốt không là thực hiện được những chuyện như thế. Thử lấy ví dụ: nếu tỏ ra bất mãn/nóng giận với bạn bè, chòm xóm hoặc nếu ta cứ dùng lời lẽ xấu xa để khích bác hoặc dùng vũ lực để khống chế người khác, thì rồi ra kết cuộc chẳng đi đến đâu. Chẳng giúp ích được ai. Cụ thể hơn, nếu người người cứ hành xử sai trái như lôi cuốn, dẫn dụ vợ/chồng người khác hòng để lợi dụng dục vọng, thì rồi ra cũng sẽ đi đến kết cuộc đau thương, sầu hận. Chém giết.
Tích cực hơn, ta nên đề cao cảnh giác/cảm thông với tình trạng nghèo/hèn trên thế giới, mà nhiều người đang buộc lòng phải hứng chịu. Nếu biết rằng, người nghèo đói bệnh tật đã hy sinh rất nhiều mới sống lây lất đôi ngày, đó chẳng phải vì họ không tài cán như ta, hoặc đã tước đoạt điều gì từ nơi ta, cả.
Tự kềm chế, là bạn đồng hành với tình yêu. Nó giúp ta có thời gian thích hợp để hành động cho hợp lý, hợp tình. Đường cong ngõ hẹp, thường dẫn đến hạnh phúc đích thật. Hạnh phúc thật chỉ có được, nếu con người biết tự kềm chế. Nhưng vấn đề, là: ta không dễ gì làm được việc này nếu không khổ công luyện tập. Luyện và tập có bài bản và thường xuyên, có thế mới mong đạt diễm phúc lướt thắng mọi đấu tranh nội tại. Có lướt thắng chính mình, mới khuất phục được người khác. Biết luyện tập kềm chế, chắc chắn rồi ra chính ta sẽ đảm trách cuộc sống, thay vì để cuộc sống đảm trách và kềm chế mình.
Cầu mong Tiệc thánh hôm nay, dấy lên một đổi thay, nơi ta. Cầu và mong, ta biết hy sinh nhiều. Biết tự lướt thắng chế ngự mọi ham muốn lớn/nhỏ. Có thế, ta mới thông đạt cánh cửa mở rộng đang trông chờ ta thực hiện giới lệnh của tình yêu mà Đức Kitô Phục sinh mời gọi.
Trong nguyện-cầu được như thế, cũng nên liên-tưởng đến lời thơ trên vẫn ngâm rằng:

“Ngày đó người nói với riêng tôi,
Rằng thiếu tình-yêu thì vô-nghĩa,
Cuộc đời sẽ chỉ là một nhánh sông khô.
Những bước chân lữ-hành tuyệt-vọng.
Và, đời khao-khát nụ hoa tình đẹp nhất.
(Cát Biển – Ngày Đó Người Trao Tôi)

Trao tôi hay trao người, những lời nói thầm riêng, ra như thế. Cũng là lời rất thật tình như trình-thuật thánh-sử vẫn còn ghi. Lời để ghi vào tâm-khảm của con người, sống ở đời, luôn cần đến tình-yêu để không còn trở thành nhánh sông khô, cạn nước, rất vô-dụng.

Lm Richard Leonard sj
Mai Tá lược dịch
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
21:11 22/05/2014
ĐỐI THOẠI VỚI BÙN [2]
N2T

Có người hỏi bùn:
- “So với sen, nó có ngoại hình đẹp đẽ, nó có hương vị thơm tho, nó có dáng điệu lộng lẫy. Từ xưa đến nay, người trong nước ngoài nước, bao nhiêu tao nhân mặc khách ngâm thơ làm nhạc tán tụng nó; bao nhiêu hoạ gia, nghệ nhân miêu tả nó; bao nhiêu người thưởng thức nó; bao nhiêu người yêu thích nó, còn anh, anh cái gì cũng không có…”
Bùn nói:
- “Anh nói sai rồi, tôi có trải qua toàn bộ sinh trưởng của sen, tôi đã chia sẻ mầm sống mới của nó; sự vui mừng, lo sợ, kinh ngạc trong thời gian thanh xuân của nó, tôi hiểu biết sự buồn khổ của nó; nơi sự thẹn thùng đãi phóng của nó, tôi chia sẻ những sự việc giấu trong lòng của nó; tài hoa nhất đời của nó, tôi mặc hưởng vinh dự và tiếng vỗ tay của nó; lúc sảng khoái thành thục, chúng tôi cùng hoan hô vui mừng được mùa. Nó đi thẳng một mạch đến khô tàn tử vong, tôi vẫn vì nó mà gánh vác trách nhiệm chăm bón thế hệ sau.
Anh biết không, tất cả cái mà các anh biết, bất quá chỉ là hình tượng bên ngoài của sen, mà tôi thì lại có đủ toàn bộ cuộc sống của nó”.

(Hạnh Lâm Tử)

Suy tư:
Con người ta có cái tật là hay ghen ghét, thấy ai hơn mình điều gì thì chịu không nỗi, tìm mọi cách để hạ bệ, để công kích mới hả dạ.
Có người xét bụng ta ra bụng người, mình không thích nhưng thường mượn lời người anh em chị em để nói xấu người khác.
Câu chuyện của bùn chỉ là một câu chuyện ngụ ngôn, nhưng có tính giáo dục cao.
Càng hiểu anh chị em, thì càng yêu mến anh chị em nhiều hơn; càng biết người anh em chị em có những khuyết điểm, thì càng thương yêu giúp đỡ nhiều hơn nữa.
Có người nói tôi rất hiểu bạn tôi và chẳng ai hiểu nó bằng tôi, nhưng lại thường hay chỉ trích nói xấu và luôn luôn không bằng lòng người bạn ấy của mình.
Trước khi nói mình hiểu người khác, thì nên hiểu mình trước đã.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch và viết suy tư

-------------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
21:14 22/05/2014
N2T

13. Nguyện vọng thần thánh vừa khiến chúng ta đạt tới khả năng hoàn mỹ, vừa giúp chúng ta giảm bớt những thống khổ gặp phải khi thực hành.

(Thánh Laurence Giustiniani)
--------------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Các nhận định và tình hình trước khi Đức Phanxicô tới Đất Thánh
Vũ Văn An
17:34 22/05/2014
Một trong những điều mới mẻ nhất của triều Giáo Hoàng Phanxicô là chiều kích huynh đệ và bằng hữu trong các liên hệ với các Giáo Hội Kitô Giáo, nhất là Chính Thống Giáo.

Thượng phụ Barthôlômêô

Lần đầu tiên trong lịch sử, Thượng Phụ Constantinople đã tới Rôma để gặp gỡ Giám Mục Rôma tại lễ đăng quang giáo hoàng của ngài. Vào vào tuần lễ cuối cùng của tháng Năm, Đức Thượng Phụ Barthôlômêô sẽ tham dự cuộc gặp gỡ hợp nhất do Đức GH Phanxicô tổ chức tại Giêrusalem.

Trong bối cảnh này, Thượng Phụ Constantinople đã mời Đức GH Phanxicô tới thăm Istanbul. Ngày 13 tháng Ba vừa qua, để hiểu rõ các phát triển này, Zenit đã phỏng vấn Thượng Phụ với các nội dung sau đây.

Được hỏi về diễn trình đại kết và ước muốn được thở bằng hai lá phổi theo kiểu nói của Đức Gioan Phaolô II, Thượng Phụ cho rằng hiện nay, hai “Giáo Hội chị em” của chúng ta đang gần gũi nhau hơn bao giờ hết, nhờ hai cuộc đối thoại “yêu thương” và “sự thật” nghĩa là nhờ những biện pháp hướng tới hòa giải và đối thoại thần học từng diễn ra trong các thập niên vừa qua. Nhưng dù thế, “chúng ta vẫn còn xa sự Hợp Nhất vốn có trong thiên niên kỷ đầu tiên của đời sống Giáo Hội”. Thượng phụ nhấn mạnh rằng “điều quan trọng nhất đối với chúng ta là luôn nhớ tới ước nguyện và lệnh truyền của Chúa ‘rằng các môn đệ Người phải hợp nhất và Giáo Hội Người phải là một’. Trong Thân Thể Chúa Kitô và đối với thế giới, quả là một gương mù khi các người theo Chúa Giêsu Kitô chia rẽ tại một thời điểm lịch sử trong đó, ta được mời gọi làm nhân chứng chung và hướng tới Lời Chúa duy nhất trước các thách đố của thời đại.

Về các mục đích khó đạt nhất đối với Giáo Hội tại Trung Đông, Thượng Phụ cho rằng các Giáo Hội Kitô Giáo phải cổ vũ hòa bình nơi có chiến tranh, cổ vũ yêu thương nới có hận thù và cổ vũ khoan dung nơi có kỳ thị. Nguyên tắc này áp dụng cho tín hữu các tôn giáo khác, và cũng áp dụng cho tình thế nguy kịch của các Kitô hữu tại vùng này. Họ rất quan ngại trước việc gia tăng bất ổn chính trị và bạo lực, đặc biệt tại Palestine, tại Ai Cập, tại Iraq và gần đây hơn, tại Syria. Họ cũng hết sức đau buồn trước sự dửng dưng không thể nào tha thứ được và trước cảnh bất động không thể nào biện minh được của các nhà cầm quyền dân sự và chính trị trong việc bảo vệ dân chúng và các công dân của họ nói chung.

Theo Thượng Phụ các nhà lãnh đạo Kytô Giáo phải bảo đảm tình liên đới vĩ đại và lòng trung tín đối với Tin Mừng tại Trung Đông và đồng thòi lên án hoàn toàn mọi hình thức bạo tàn và đổ máu. Ta cần nhấn mạnh rằng mọi nơi thờ phượng đều là đền thờ thánh thiêng của Thiên Chúa duy nhất hằng sống giống hệt như mọi con người nhân bản đều là đền thờ thánh thiêng của Thần Khí Thiên Chúa hằng sống.

Được hỏi về ý nghĩa lời mời Đức Phanxicô thăm Istanbul sau Giêrusalem, Thượng Phụ cho biết: khi được mời tham dự Thánh Lễ khai mạc sứ vụ của đức tân giáo hoàng Phanxicô tại Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô, lần đầu tiên trong lịch sử Thượng Phụ Constantinople tham dự lễ nhậm chức của một Hồng Y của Rôma, ngài đã mời Đức Thánh Cha viếng thăm Phanar (Tòa thượng phụ Constantinople tại Thổ Nhĩ Kỳ) đồng thời với việc tổ chức cuộc gặp gỡ hợp nhất tại Giêrusalem. Thượng phụ cho rằng lời mời này đã trở thành một tập quán không chính thức kể từ thời Đức GH Phaolô VI, được tiếp nối sau đó với việc bầu Đức Gioan Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI. Tuy nhiên, lời đề nghị mới nhất mà nếu Chúa muốn sẽ được thực hiện trong ít tháng nữa là để cử hành cuộc gặp gỡ lịch sử lịch sử giữa Thượng Phụ Đại Kết Athenagoras và Đức Giáo Hoàng Phaolô VI trên Núi Cây Dầu hồi tháng Giêng năm 1964; đó là lần đầu tiên Đức Giáo Hoàng của Rôma và Đức Thượng Phụ của Tân Rôma mặt đối mặt gặp nhau kể từ lúc xẩy ra điều gọi là cuộc “Ly Giáo Vĩ Đại” của năm 1054. Biến cố này dẫn tới việc năm 1965 “hai bên cùng bãi bỏ các vạ tuyệt thông lẫn nhau” và năm 1969, được tăng cường bởi các cuộc thăm viếng nhau hàng năm của các phái đoàn liên hệ. Những cuộc thăm viếng này cũng đã dẫn tới việc năm 1979 thiết lập ra một ủy ban quốc tế đối thoại tôn giáo giữa hai Giáo Hội. Thượng Phụ hết sức hy vọng và tha thiết cầu xin để cuộc gặp gỡ Đức GH Phanxicô sắp tới sẽ tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Giáo Hội Công Giáo Rôma và Giáo Hội Chính Thống.

Giáo sĩ Skorka

Trong cuộc họp báo tại Vatican ngày 15 tháng 5, Cha Lombardi chính thức thông báo Đức Phanxicô sẽ gặp Thượng Phụ Đại Kết Bartholômêô tại Bêlem vào chiều ngày 25 tháng 5. Cha cho biết thêm: “Đây sẽ là cuộc gặp gỡ tư riêng, nhưng rất quan trọng về phương diện lịch sử, tại cùng địa điểm nơi Đức Phaolô VI gặp Đức Athenagoras. Sẽ có tuyên bố chung tại đó và đây sẽ là lần đầu tiên trong 4 lần các vị gặp nhau”.

Cha cũng cho biết cuộc viếng thăm Đất Thánh lần này đặc biệt ở chỗ sẽ có buổi tôn kính Mộ Thánh chung lần đầu tiên của cả ba hệ phái lớn đang sử dụng và trông coi nơi này, được đại diện bởi Chính Thống Hy Lạp, Giáo Hội Ácmêni và Cơ Quan Trông Coi Đất Thánh (Dòng Phanxicô). Đức Phaolô VI và Đức Athenagoras có đọc kinh Lạy Cha chung, nhưng đọc riêng chứ không phải trong một cử hành công cộng và được trực tiếp truyền thanh.

Điều cũng đặc biệt nữa là giáo sĩ Abraham Skorka của Do Thái Giáo và Giáo Trưởng Hồi Giáo Omar Abbud sẽ tháp tùng Đức Phanxicô trong chuyến viếng thăm này. Hai vị đều là những người có mối liên hệ đối thoại và bằng hữu lâu năm với Đức Thánh Cha.

Rêng giáo sĩ Skorka, trước khi được mời tháp tùng Đức Phanxicô, trong một cuộc phỏng vấn của tờ Avvenire ngày 13 tháng 3, đã tuyên bố rằng “dù có hiện diện hay không, tôi cũng xác tín rằng chuyến đi này sẽ dẫn tới một thời đại mới trong cuộc đối thoại Do Thái Giáo và Kitô Giáo: thời đại tương cảm”.

Lúc còn là TGM Buenos Aires, Đức Phanxicô và giáo sĩ Skorka vốn từng cộng tác với nhau trong việc phát huy các mối liên hệ giữa Giáo Hội Công Giáo và cộng đồng Do Thái Giáo tại Á Căn Đình.

Giáo sĩ nói rằng: “mấy ngày sau khi được bầu, Đức Giáo Hoàng viết cho tôi hay rằng ngài muốn tiếp tục cuộc hành trình của chúng tôi. Và đó là điều chúng tôi đang cố gắng làm. Cho dù không được thường xuyên gặp nhau, đối với ngài, tình bằng hữu vẫn là một giá trị nền tảng. Ngài không nội tâm hóa được cái nền văn hóa vứt bỏ trong đó người ta thường bị sử dụng rồi bị vứt đi”.

Ông cho rằng liên hệ của Đức Phanxicô với dân tộc Do Thái vẫn tiếp tục đi theo đường lối của các vị tiền nhiệm, trong đó có Đức Phaolô VI, Đức Gioan Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI. Tuy nhiên, theo ông, Đức Phanxicô có cái đặc trưng của ngài: “Ngài là người có những ngôn từ đơn giản và cử chỉ sâu sắc”. Những cử chỉ này “đụng tới tâm hồn, bộc lộ ý nghĩa chân thực của những lời lẽ xem ra đơn giản. Các hành động này phá sập mọi bức tường”.

Được hỏi ông có tin rằng cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng sẽ góp phần vào nền hòa bình tại Đất Thánh hay không, giáo sĩ Skorka trả lời rằng ông xác tín Đức Phanxicô sẽ để lại một dấu ấn không thể xóa nhòa nơi người ta. Ông nói: “tôi không mong Đức Phanxicô sẽ vẫy chiếc đũa thần và mang được người Do Thái và người Palestine lại với nhau. Nhưng, các đặc sủng và đức khiêm nhường lớn lao của ngài có thể đem lại một sứ điệp hòa bình rất mạnh cho toàn vùng Trung Đông. Đây là một vùng chiến lược cho sự hòa hợp trên thế giới, như các tiên tri trong Thánh Kinh từng dạy chúng ta, từ Isaia tới Mikha”.

Suy nghĩ về tình bạn của ông với Đức Phanxicô, giáo sĩ Skorka cho biết điều phân biệt Đức Phanxicô hơn cả là khả năng hiến thân cho người khác của ngài, bất chấp tôn giáo, quốc tịch hay lý tưởng chính trị. Ông cho rằng Đức Phanxicô có tăng tiến kỹ năng lãnh đạo của ngài, nhưng con người thì vẫn thế. Người bạn thì vẫn thế, chỉ mặc thêm chiếc áo dòng trắng…

Tuyên bố chung Công Giáo và Chính Thống

Trong khi ấy, hãng tin CWN ngày 19 tháng 5, loan tin: Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ và chủ tịch Hội Nghị Các Giám Mục Qui Điển Chính Thống tại Hiệp Chúng Quốc Mỹ Châu vừa ra tuyên bố chung về cuộc gặp gỡ tại Giêrusalem sắp tới giữa Đức GH Phanxicô và TH Đại Kết Barthôlômêô I.

Đức TGM Joseph Kurtz (Công Giáo) và Đức TGM Demetrios (Chính Thống) tuyên bố rằng “50 năm trước đây, hồi tháng Giêng năm 1964, hai nhà lãnh đạo vĩ đại đã gặp nhau tại Giêrusalem. Đức GH Phaolô VI của Rôma và TP Đại Kết Athenagoras của Constantinople đạ gạt sang một bên hàng thế kỷ thù nghịch và đã ôm hôn nhau tại thành phố nơi Chúa Kitô chịu đóng đinh và sống lại từ cõi chết”.

Các ngài nói thêm: “các Giáo Hội chúng tôi càng ngày càng có khả năng cùng đồng thanh lên tiếng về những vấn đề cấp thiết mà xã hội chúng ta đang phải đương đầu. Chúng tôi cam kết gia tăng hợp tác trong các phạm vi này, trong đó có các lưỡng nan về xã hội, kinh tế, và đạo đức, và chúng tôi kêu gọi tín hữu của mình cầu nguyện cho sự thành công của cuộc gặp gỡ sắp tới giữa Đức GH Phanxicô và TP Đại Kết Barthôlômêô tại Giêrusalem vì vinh quang Thiên Chúa và vì sự phát huy Kitô Giáo trong thế giới bị thương tổn của ta”.

Khía cạnh thiêng liêng và khía cạnh chính trị

Ngày 16 tháng 4, một cuộc họp báo bất ngờ đã được tổ chức tại tòa thượng phụ La Tinh, trong đó, các nhà báo đã đặt nhiều câu hỏi cho thượng phụ Fouad Twal và vị đại diện của ngài tại Giêrusalem là Đức Cha Shomali về cuộc viếng thăm sắp tới của Đức Phanxicô. Cũng trong cuộc họp báo này, người ta thấy rõ khía cạnh thiêng liêng và khía cạnh chính trị là hai khía cạnh khó có thể tách biệt nhau trong chuyến viếng thăm này.

Thực vậy, thượng phụ Twal cho hay: các Kitô Hữu địa phương chia sẻ với dân tộc họ “cùng những khát vọng, cùng những đau khổ và cùng một niềm hy vọng, tức Hòa Bình cho mọi người”.

Về cuộc viếng thăm của Đức Phanxicô, thượng phụ cho hay “trước nhất, đây là một cuộc viếng thăm mục vụ, cuộc viếng thăm của một người hòa bình, đối thoại và cầu nguyện. Đức Thánh Cha đến đây để trước nhất kỷ niệm cuộc gặp gỡ đại kết năm 1964. Nhưng chiều kích chính trị của biến cố không thể nào tránh được, đó là chiều kích hòa bình, tự do và công lý”. Thượng Phụ quả có nhấn mạnh tới các vấn đề đặt ra bởi “cuộc chiếm đóng, bởi việc lui tới các nơi thánh, bởi việc phân rẽ các gia đình và quyền của mỗi người có được cuộc sống bình thường”.

"Chúng tôi hy vọng rất nhiều ở cuộc viếng thăm này. Chúng tôi hy vọng nhiều cho hòa bình và công lý trên Trái Đất này”. Thượng phụ đặc biệt nhắc tới sự cần thiết “phải thừa nhận biên giới” cho dân tộc Palestine. Các vấn đề quan trọng về qui chế cho Giêrusalem và về quyền hồi hương của người tị nạn cần được “giải đáp cụ thể”.

Tuy nhiên, riêng “đối với cộng đồng Kitô Giáo, chúng tôi cũng hy vọng họ không tự bằng lòng với các trình diễn chung quanh cuộc thăm viếng này, họ cần lắng nghe sứ điệp Đức Giáo Hoàng muốn để lại cho chúng tôi”.

Đức Cha Shomali thì nhấn mạnh rằng “Đức Thánh Cha đến đây không phải để giải quyết cuộc tranh chấp Do Thái- Palestine” mà tới đây như một người hành hương và cầu nguyện. Dĩ nhiên, “chiều kích chính trị không thể tách biệt khỏi chiều kích thiêng liêng. Nhưng không nên chờ mong quá những gì cuộc viếng thăm có thể làm”. Đức Cha Shomali cũng lưu ý rằng Đức Giáo Hoàng sẽ không chỉ nói bằng lời mà còn bằng cử chi của ngài nữa. “Lúc tới thăm trại tị nạn Dehesha (của Palestine) chẳng hạn, ngài sẽ đặt ngón tay lên vết thương của dân tộc Palestine hiện có tới 4 triệu người tứ tán khắp nơi. Khi tới thăm viện Yad Vashem (của Do Thái) ngài cũng sẽ đặt ngón tay lên vết thương của dân tộc Do Thái và lên vết thương của tất cả mọi dân tộc bị bách hại vì đức tin của mình”.

Không đại diện Chính Thống

Trong khi ấy, Catholic World News ngày 22 tháng 5 cho hay phát ngôn viên ngoại vụ của Giáo Hội Chính Thống Nga, TGM Hilarion, tuyên bố rằng vì Đức TP Barthôlômêô không tham khảo với các vị lãnh đạo Chính Thống Giáo khác trước khi dự trù gặp Đức Giáo Hoàng, nên ngài chỉ hành động nhân danh riêng ngài mà thôi, chứ không đại diện cho tín hữu Chính Thống Giáo hoàn cầu. Mặc dù Thượng Phụ của Constantinople, theo truyền thống, được thừa nhận là “vị đứng đầu của những vị ngang hàng” trong phẩm trật Chính Thống Giáo, nhưng Chính Thống Giáo Nga lý luận rằng ngài chỉ thừa hành tư cách tối cao ấy khi các thượng phụ Chính Thống khác minh nhiên cho phép ngài làm như vậy. Khi không có thừa ủy nhiệm này, TP Barthôlômêô chỉ đại diện chính Giáo Hội đặc thù của ngài mà thôi.

Biện pháp an ninh có thể khiến nhiều người không được thấy Đức Giáo Hoàng

Cũng Catholic World News ngày 22 tháng 5 cho hay: nhiều khách hành hương Kitô Giáo sẽ không được thấy Đức Giáo Hoàng Phanxicô khi ngài tới thăm Đất Thánh vì các biện pháp an ninh chặt chẽ và thiếu vé phép.

Đó là lời cảnh cáo của Đức Cha William Shomali, phụ tá của Thượng Phụ La Tinh của Giêrusalem. Ngài cho biết con số muốn có vé gặp Đức Phanxicô cao hơn hơn con số muốn gặp hai Đức Gioan Phaolô II và Bênêđíctô XVI trước đây. Nhưng phép được tham dự các biến cố công cộng hiện đang bị hạn chế vì lý do an ninh. Đức Cha cho rằng các giới chức an ninh Do Thái nhấn mạnh tới các biện pháp chặt chẽ này một phần vì Đức Thánh Cha từ khước không sử dụng xe bọc thép.

Các nhà tranh đấu Do Thái Giáo bị bắt giam tại nhà vì cuộc viếng thăm của Đức Phanxicô

Tin của Catholic World News cùng ngày cho biết các giới chức an ninh Do Thái đã giam tại gia 3 nhà tranh đấu Do Thái Giáo, vì cho rằng họ dự định phá hoại cuộc xuất hiện trước công chúng của Đức Giáo Hoàng khi ngài tới đây thăm viếng. Cảnh sát đã nhận được lệnh phải hạn chế những người này tại nơi họ cư trú trong suốt thời gian cuộc viếng thăm.

Người tị nạn hy vọng có thay đổi sau cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng

Bản tin của Catholic World News cũng cho biết niềm hy vọng của người tị nạn Palestine nhân chuyến viếng thăm của Đức Phanxicô. Trong ngày đầu tiên của chuyến viếng thăm này, Đức Phanxicô sẽ gặp người tị nạn tại Nhà Thờ La Tinh ở Bêtani, bên kia sông Giócđăng, khiến người tị nạn hy vọng rằng số phận họ sẽ thay đổi.

Wael Suleiman, giám đốc Caritas ở Giócđăng, nói với hãng tin Fides rằng “người tị nạn Syria và Iraq đang trông mong cuộc viếng thăm của Đức Phanxicô và tràn trề hy vọng cùng lo lắng: trong số người Iraq, có những người mang thân phận tị nạn đã hơn 20 năm. Mọi người đều mong thế giới nhớ đến họ và một điều gì đó sẽ thay đổi thực sự”.

Nên nhớ rằng 20,000 trong số ước chừng 1,300,000 người tị nạn Syria tại Giócđăng là Kitô hữu. Ông cho hay: “khó lòng các Kitô hữu có thể trở lại Syria khi chiến tranh kết thúc. Điều này có nghĩa tại một số thành phố, như Homs và Aleppo, nhiều khu Kitô Giáo sẽ vẫn trống không”.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Thư Tri Ân của Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam mừng 50 năm Tỉnh Dòng
Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, C.Ss.R. Bề trên Giám Tỉnh
15:16 22/05/2014
Kính gửi:
- Quý Đức Cha
- Quý Cha và quý Bề trên
- Anh chị em cộng tác viên DCCT và giáo dân

Sài Gòn ngày 01/05/2014

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Dòng Chúa Cứu Thế hiện diện tại Việt Nam như là một Tỉnh Dòng độc lập (27/5/1964 – 27/5/2014), với trọn tâm tình hiếu thảo và yêu mến, Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam chúng con xin kính dâng quý Đức Cha và toàn thể Hội Thánh Việt Nam những tâm tình yêu mến chân thành của chúng con.

TÂM TÌNH TẠ ƠN

Trong Hội Thánh, Thiên Chúa nhân hậu đã muốn cho gia đình Dòng Chúa Cứu Thế được khai sinh. Rồi tại nước Việt thân yêu, Người đã cho Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam được thiết lập và lớn lên, như một cây nho chính tay Người vun trồng và chăm sóc từ thuở ban đầu cho đến ngày nay, đồng thời cho cây nho này bén rễ sâu và lan rộng trên khắp mảnh đất Việt. Người là nguồn mạch của mọi ân huệ và sứ mạng mà Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam được ân ban từ năm 1925, và đặc biệt suốt 50 năm vừa qua trong tư cách một Tỉnh Dòng. Chúng con xin dâng lời tạ ơn Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu.

Năm mươi năm qua cũng là 50 năm Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam chịu ơn Hội Thánh, cách riêng là Hội Thánh Việt Nam. Những ân nghĩa sâu nặng không thể kể xiết! Chính Hội Thánh hoàn vũ, qua lời mời gọi của Thánh Bộ Truyền Giáo vào ngày 09/11/1924, đã sai phái Dòng Chúa Cứu Thế đến Việt Nam. Cũng chính Hội Thánh, qua các vị Chủ Chăn và Cộng đồng Dân Chúa Việt Nam, từ ngày 30/11/1925, đã mở rộng vòng tay đón nhận và yêu thương Dòng Chúa Cứu Thế tại mảnh đất Việt thân yêu này. Trong Hội Thánh, nhờ Hội Thánh, vâng phục Hội Thánh và cùng với Hội Thánh, Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam đã được đón nhận muôn vàn ân huệ của Thiên Chúa, và đã được góp phần thực hiện những công trình tông đồ phục vụ mầu nhiệm cứu độ chứa chan tại dải đất hình chữ S này. Chúng con xin tri ân Hội Thánh.

Giữa Hội Thánh và dân tộc Việt Nam, những anh chị em nghèo khổ là những vị ân nhân lớn nhất của Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam. Hơn lúc nào hết, chúng con ý thức một cách sâu sắc rằng Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam chỉ có một lý do để hiện hữu và hoạt động tông đồ, đó là phục vụ ý định của Thiên Chúa muốn cứu độ những con người nghèo khổ. Chúng con đã và đang cố gắng loan báo Tin Mừng cho người nghèo theo đặc sủng và sứ mạng của Dòng Thánh; nhưng đồng thời, những người nghèo, quả thực, cũng đã và đang loan báo Tin Mừng cứu độ cho chính chúng con một cách thật sự hữu hiệu. Vì thế, trong dịp mừng Kim Khánh này, chúng con xin được dâng lên tất cả những anh chị em nghèo khổ, nhất là những anh chị em Kitô hữu bị bỏ rơi và bị gạt ra bên lề, những lời cảm ơn chân thành.

TÂM TÌNH HIỆP THÔNG

Trong dịp kỷ niệm 50 năm Tỉnh Dòng, chúng con xin kính dâng quý Đức Cha và toàn thể Hội Thánh, nhất là những anh chị em nghèo khổ, tâm tình hiệp thông hiếu thảo của Tỉnh Dòng chúng con.

Mừng Kim Khánh là một cơ hội đặc biệt để chúng con ý thức một cách sâu xa hơn về sứ vụ thừa sai của chúng con trong Hội Thánh, như Hiến Pháp Dòng Chúa Cứu Thế đã xác định tại số 5: “Ưu tiên dành cho những hoàn cảnh cấp bách mục vụ và cho việc rao giảng trực tiếp Tin Mừng, đồng thời ưu tiên dành cho những người nghèo khổ, chính là lý do sinh tồn của Dòng trong Hội Thánh, và đó cũng là biểu chứng lòng trung thành với ơn gọi đã lãnh nhận.”

Trung thành với sứ mạng đó, trong chọn lựa tông đồ cho những thập niên đầu thế kỷ XXI này tại Việt Nam, Tỉnh Dòng chúng con đang dành ưu tiên dấn thân cho ba mũi nhọn thừa sai chính yếu sau đây:

(1) Loan báo Tin Mừng cho lương dân, đặc biệt cho anh chị em đồng bào các dân tộc thiểu số,
(2) Thực hiện các cuộc đại phúc và các hình thức rao giảng khác, trong nỗ lực góp phần canh tân đời sống Kitô hữu,
(3) Phục vụ ơn cứu độ toàn diện cho những anh chị em là nạn nhân của xã hội đương đại trong các lãnh vực khác nhau của đời sống.

Chúng con dồn tất cả những nỗ lực của Tỉnh Dòng cho việc phục vụ ơn cứu chuộc chứa chan nơi Chúa Kitô Cứu Thế. “Tuy nhiên, kho tàng ấy, chúng con lại chứa đựng trong những bình sành, chứng tỏ quyền năng phi thường xuất phát từ Thiên Chúa” (2Cr 4,7). Do đó, dịp kỷ niệm 50 năm Tỉnh Dòng là một cơ hội đặc biệt để anh em linh mục – tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam chúng con một lần nữa ý thức về thân phận hèn yếu của bản thân và của cộng đoàn mình. Chúng con được trở nên những người phục vụ Tin Mừng, đó quả thực là do ân huệ nhưng không Thiên Chúa ban trong Chúa Kitô Cứu Thế, khi Người thi thố quyền năng cứu độ của Người. Tuy nhiên, trong 50 năm qua, đã nhiều lần chúng con không hoàn thành sứ mạng của mình. Vì thế, trong dịp mừng Kim Khánh này, chúng con xin chân thành dâng lời tạ lỗi với Thiên Chúa, với Hội Thánh và với anh chị em nghèo khổ.

Chính trong tâm tình hiệp thông và trong ý thức về sứ mạng cao cả và về thân phận yếu hèn, chúng con kính xin quý Đức Cha và toàn thể Gia đình Hội Thánh Việt Nam cầu nguyện và nâng đỡ Tỉnh Dòng, các tu viện, các cộng đoàn và từng anh em chúng con, trong công cuộc dấn thân – phục vụ Tin Mừng cứu độ.

Trọng kính quý Đức Cha và toàn thể Gia đình Hội Thánh Việt Nam,

Chúng con đang hàng ngày được trải nghiệm tình thương Thiên Chúa ân ban qua Hội Thánh và qua những anh chị em nghèo khổ - tất bạt. Khao khát tha thiết nhất của chúng con trong dịp kỷ niệm 50 năm Tỉnh Dòng, chính là được trung thành bước theo Chúa Kitô Cứu Thế, loan báo Tin Mừng cho người nghèo, như chính Người đã tự nói về mình: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19).

Chúng con kính xin quý Đức Cha và toàn thể Gia đình Hội Thánh Việt Nam cầu nguyện và chúc lành cho chúng con, cách riêng trong dịp kỷ niệm đặc biệt này.

Chúng con, một lần nữa, xin chân thành tri ân quý Đức Cha và toàn thể Hội Thánh.

Nguyện xin Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp tuôn tràn hồng ân trên quý Đức Cha và tất cả Hội Thánh Việt Nam chúng ta.

Trong Chúa Kitô Cứu Thế,
Thay mặt Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam,

Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, C.Ss.R.
Bề trên Giám Tỉnh

 
Tĩnh tâm của nhóm gia đình trẻ Giáo Xứ VN Paris
Đỗ Thục Hiền
07:55 22/05/2014
Tĩnh tâm về « Ơn gọi của người tín hữu trong đời sống gia đình » của nhóm Gia Đình Trẻ, GXVN Paris, ngày 18 /5/2014

Năm nay, nhóm Gia Đình Trẻ được cha Bùi Thiện Thảo đến chia sẻ sống “Năm Mời Gọi” trong ngày tỉnh tâm của nhóm, qua chủ đề “Ơn gọi của người tín hữu trong đời sống gia đình”. Tham dự buổi tỉnh tâm gồm có 19 người tham gia, trong đó có sự hiện diện của GS Trần Văn Cảnh.

Để sống Năm Mời Gọi, cha Thảo giải thích từ « Ơn gọi » là gì, để chúng ta hiểu đúng và sống đúng theo ý nghĩa của nó.

Ơn gọi trong tiếng La tinh có nghiã là lời gọi, tiếng gọi. Ơn gọi trong tiếng Pháp có nghĩa là tiếng Chúa gọi một người hay tiếng gọi cho một nghề nghiệp. Ơn gọi trong tiếng Việt chỉ tồn tại trong nhà đạo hay Công Giáo, và thường được hiểu ơn gọi dành cho tu sĩ.

1. Ơn gọi của người tín hữu

Nhưng thực ra, ơn gọi dành cho mọi người. Ơn gọi của người tín hữu là cách thức chúng ta sống để đáp trả theo khả năng năng vốn có của mình. Sống ơn gọi là thăng tiến mọi khả năng của mình. Người kitô hữu có niềm tin thì sẽ sống thánh thiện theo như Chúa muốn, làm ánh sáng và muối cho đời.

Ơn gọi là sự đáp trả và con người phải đáp trả mới sống ơn gọi được. Trong Cựu ước, Chúa gọi Adam, nhưng ông ta không đáp trả, còn các tiên tri đáp trả qua đức tin. Trong Tân ước, Chúa gọi các tông đồ cách trực tiếp. Rồi sau này, Chúa gọi các thánh trong cuộc đời của các ngài.

Khi chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội là chúng ta lãnh nhận ba chức năng tư tế, vương giả và ngôn sứ. Hiện nay, chúng ta đang ở trong một thế giới khủng hoảng về kinh tế, về đức tin. Lời gọi « anh em là muối cho đời » trở thành cấp bách. Vậy chúng ta hãy sống như Chúa Giêsu dạy : anh em hãy trở nên thánh thiện như Cha anh em ở trên trời.

Làm cách nào để nên thánh thiện ? Khi nghe đến thánh thiện, chúng ta hay nghĩ đến các thánh, nhưng hãy nhớ rằng các thánh đều trãi qua cuộc sống như chúng ta. Các ngài được gọi và sống khổ cực hơn chúng ta, các ngài có đời sống rất gương mẫu và thánh thiện. Trong Thánh Kinh, dân Do thái là dân riêng cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, mặc dù dân này nhiều lần phản bội chạy theo tà thần. Nhưng Chúa vẫn kiên nhẫn, trung thành với dân Do thái, chỉ vì yêu thương. Hôm nay chúng ta sống giữa hội thánh và hội thánh là hội của những người thánh thiện, những người chịu phép rửa. Chúng ta được mời gọi sống thánh thiện. Chúng ta được thánh hóa qua phép rửa.

Có nhiều con đường dẫn đến sự thánh thiện. Từ cuối thế kỷ 19, quan điểm của sự thánh thiện có thay đổi. Thánh Terêxa Hài Đồng Giêsu nên thánh qua con đường nhỏ bé của cuộc sống hằng ngày. Vậy ai cũng có thể trở nên thánh thiện.

Jacques Fesch là một tên cướp của giết người, nhưng khi ở trong nhà tù chờ án tử hình, ông đã không sợ chết và đã thay đổi hoàn toàn. Ông đã viết thư cho mẹ và vợ con nâng đỡ và nhắn nhủ họ tin tưởng vào Tình Yêu tuyệt đối của Thiên Chúa. Đây cũng là một gương cho những ai bước vào đường lầm than bế tắc, vẫn có thể ăn năn trở lại và được Chúa xót thương.

Vậy Chúa gọi tất cả chúng ta tham gia vào đời sống thánh thiện của Ngài. Mỗi ngươi đều được Chúa ban ơn đầy đủ và chúng ta phải đáp trả để sống thánh thiện. Có ơn gọi đi theo Chúa làm môn đệ, có ơn gọi sống giữa thế gian loan báo Tin mừng cho gia đình, cho cộng đoàn, cho xã hội. Chúa gọi mỗi người mỗi cách khác nhau, vậy chúng ta đáp trả cách khác nhau.

Chúa chọn lựa chúng ta hay chúng ta chọn lựa Chúa ? Tư tưởng của Chúa khác với tư tưởng của con người. Thiên Chúa chọn lựa chúng ta và cho ta thấy thánh ý Ngài. Loan báo tin mừng là phải chịu đau khổ, và đó là ý Chúa. Ý Chúa khác với ý ta, nhưng Chúa ban ơn giúp sức để ta vượt qua. Tất cả chúng ta đều được Chúa ban sức mạnh để làm chứng cho Chúa. Chúa ban ơn để sống ơn gọi của mình. Và đến lượt chúng ta nên hướng dẫn con cái chọn lựa một nghề nghiệp hợp với đức tin để làm chứng cho Chúa và phục vụ được nhiều (ví dụ như ngành y tế, giáo dục …). Trong mọi nghành nghề, Chúa đềm mời gọi chúng ta tìm kiếm Chúa trước, đừng quá lo cho ngày mai, đừng đem tiền bạc lên hàng đầu.

Đời sống thanh bần giúp chúng ta đạt đến sự thánh thiện. Chúa không cỗ vỏ cho sự nghèo khổ, nhưng dạy chúng ta đừng quá bận tâm gắn bó đến của cải vì kho tàng ở đâu thì lòng dạ ở đó.

2. Ơn gọi của người tín hữu trong đời sống gia đình

Mỗi tín hữu đều được mời gọi nên thánh. Không có ơn gọi thấp kém và sự cao quý lệ thuộc vào lối sống của chúng ta. Sau công đồng Vatican II, cái nhìn về ơn gọi có sự thay đổi, mọi ơn gọi đều cao quý như nhau. Ông bà Martin, thân sinh thánh Têrêxa Hài đồng, là gương mẫu trong đời sống gia đình. Trong Cựu ước, Adam và Evà được Chúa chúc phúc ngay từ đầu. Hôn nhân được Chúa chúc phúc nên hôn nhân cao hơn đời sống độc thân. Những người vô sinh là dấu hiệu chúc dữ trong Cựu ước, như Elizabét và Sara, chẳng hạn. Trong Tân ước, Chúa yêu thương Giáo Hội như vợ hiền. Tình yêu vợ chồng như là tình yêu của Thiên Chúa đối với Giáo Hội của Ngài. Ngôn sứ Hôsê đã phải yêu thương người vợ ngoại tình như thưở ban đầu, cũng qua hình ảnh đó mà ta thấy Chúa yêu dân Do Thái được ví như người vợ ngoại tình của Chúa.

Trươc tình yêu của Chúa, trước sự mời gọi nên thánh của chúng ta, chúng ta đáp trả bằng cách thực hành ba chức năng khi chúng ta chịu phép rửa.

Tư tế : không phải chỉ những người được phong chức tư tế mới có chức năng này, nhưng mọi tín hữu được tham gia vào chức tư tế của Chúa Giêsu. Khi rửa tội, chúng ta được gia nhập vào đời sống với Chúa Kitô. Chức tư tế giúp thánh hoá đời sống của mình qua thánh lễ, cầu nguyện. Thánh lễ là lễ tế của Chúa Giêsu. Cầu nguyện là cách thể hiện chức tư tế. Cầu nguyện trong gia đình, cầu nguyện ở mọi nơi. Cầu nguyện là lễ phẩm dâng lên Chúa những ơn lành cũng như đau khổ. Cách cầu nguyện cụ thể là giờ kinh trong gia đình, cầu nguyện cho người thân và cho tha nhân, cầu xin được Chúa biến đổi, thánh hoá. Cầu nguyện chuẩn bị tâm hồn cho những ngày lễ lớn để giúp con cháu lãnh nhậh bí tích cách vui tươi, thánh thiện. Tư tế là dâng lễ tế lên Chúa, cầu khẩn, đền tội thay cho người khác, cầu nguyện.

Vương giả : trong Cựu ước, vương giả là cai trị dân tốt, như vua Đavít đã làm. Ngày nay làm chủ chính mình là thực hiện chức năng vương giả. Không a dua, chạy theo bạn bè, ganh đua … Trong Tân ước, dụ ngôn chặt cánh tay làm việc bậy đi muốn nói lên cách thức làm chủ chính mình.

Ngôn sứ (tiên tri) : Trong Cựu ước, ngôn sứ có nghĩa là người thấy trước. Ngày nay, chúng ta làm chức năng ngôn sứ bằng cách nói Lời Chúa và nuôi dưỡng Lời Chúa. Loan báo Lời Chúa bằng nhiều cách, ví dụ viết vào blog của mình một câu Lời Chúa tâm niệm để chia sẽ và sống với lời đó. Ở công sở, chúng ta không cần nói mà cần sống để thể hiện đức tin. Giúp đỡ, thăm viếng đồng nghiệp là những cử chỉ cụ thể để sống chức năng ngôn sứ của Thiên Chúa. Trong gia đình thì chúng ta có rất nhiều cơ hội để thể hiện chức năng ngôn sứ, ví dụ giáo dục con cái đức tin. Nuôi dưỡng lời Chúa bằng cách đọc Kinh Thánh. Kinh nghiệm cho thấy, đọc Kinh Thánh nhiều thì lời Chúa thấm nhập vào chúng ta rồi sẽ ngăn chặn những hành động xấu và biến đổi dần tâm hồn chúng ta.

Sống tốt ba chức năng tư tế, vương giả và tiên tri là đạt đến Tình yêu viên mãn của Thiên Chúa trong đời sống gia đình hằng ngày.

Paris, ngày 18 tháng 05 năm 2014

Đỗ Thục Hiền
 
Hành trình thăm viếng tặng quà tại Bình Khánh
Giuse Khổng Hữu Nguồn
15:28 22/05/2014
HỐ NAI - Sáng thứ Năm 22/5/2014, Nhóm Bác ái Vũng Tầu do ông Vicente Nguyễn Đức Hải, Trưởng ban Caritas giáo xứ Nam Đồng, tổ chức đoàn khoảng 30 người đến thăm viếng và phát 100 phần quà, mỗi phần trị giá hơn 200 ngàn đồng cho các gia đình nghèo không phân biệt lương giáo trong Giáo xứ Bình Khánh hạt Xuân Lộc, Giáo phận Xuân Lộc.

Hình ảnh

Nhóm Bác ái là những người thiện nguyện từ các giáo xứ trong hạt Vũng Tầu, Giáo phận Bà Rịa. Họ thường xuyên tổ chức một năm khoảng 10 lần đi thăm viếng và phát quà cho những nơi khó khăn vùng sâu vùng xa, những nhà dưỡng lão, những trại cô nhi, không phân biệt lương giáo.

Đoàn phát quà cho bà con xong, kim đồng hồ chỉ gần 12 giờ trưa. Cha Đaminh Ngô Công Sứ, Quản hạt Xuân Lộc, dâng lễ mừng kim khánh linh mục của một cha trong giáo phận vừa xong, ngài tranh thủ đến Giáo xứ Bình Khánh ngay để kịp dùng cơm nhanh với đoàn và ngài cùng với đoàn tiếp tục hành trình đi thăm viếng một vài gia đình khó khăn lương giáo trong vùng.

Theo chân đoàn bằng xe Honda hai bánh do quý ông trùm sở tại chở đi, chúng tôi có dịp đi giữa rừng cây xanh biếc, um tùm, đường đi ngoằn ngoèo, đá ong gồ ghề. Đi gần 5 cây số đường rừng như vậy, cha con chúng tôi cũng tới được căn nhà xây mộc mạc đơn sơ của Ông Bà Năm Thống. Khi nghe ông trùm sở tại giới thiệu, Ông Bà Năm Thống mừng lắm.

Sau cái bắt tay xã giao, Cha Quản hạt ngỏ lời thăm hỏi, cầu chúc và tặng quà cho ông bà. Với tâm tình đơn sơ chân thành ông nói với quý cha bằng giọng Tầu lai “gia đình chúng tôi rất cảm ơn được hai cha và quý vị đến thăm cho quà, tôi cám ơn nhiều lắm”.

Chào Ông Bà Năm Thống, Cha con chúng tôi tiếp tục hành trình khoảng 5 cây số đường rừng nữa đến nhà ông Vòng A Dẹo, đến nơi, căn nhà vây lợp tôn lụp xụp cũ kỹ hiện ra trước mắt. Ông Vòng A Dẹo bị tàn tật, vợ mới chết, ông sống một mình không con cháu.

Thấy chúng tôi đến thăm, ông ngơ ngác nhìn mọi người, nhận quà xong rồi ông gật đầu vậy thôi. Chúng tôi hiểu ý, có lẽ vì ông là người Tầu lai nên không biết tiếng Việt chăng.

Chào ông Vòng A Dẹo, cha con chúng tôi trở lại Nhà Thờ Bình Khánh cũng là lúc kim đồng hồ chạy gần tới giờ thứ 14. Cha con chúng tôi ai cũng thấm mệt, mệt do trời nắng nóng, mồ hôi chảy ra ướt thẫm lưng áo.

Tạ ơn Chúa! Chúa đã ban cho chúng con có thêm một ngày mới để mến Chúa, yêu người.
 
Phỏng vấn Cha Bề trên Giám tỉnh Vinh Sơn Phạm Trung Thành
Maria Vũ Loan
15:15 22/05/2014
SAIGÒN - Nhân dịp Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam kỷ niệm 50 năm thành lập(1964 – 2014), chúng tôi đã có trao đổi với cha Bề trên Giám tỉnh Vinh Sơn Phạm Trung Thành.

- Chúng con kính chào Cha! Được biết ngày 27/5/2014 sắp tới đây, tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam sẽ hân hoan kỷ niệm mốc thời gian tỉnh Dòng được thành lập và hiện diện tại Việt nam, xin Cha cho biết vài nét sơ qua về việc Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế được thành lập như thế nào và bước đầu có những thuận lợi, khó khăn ra sao?

Cha Vinh Sơn Thành: - Năm 1925, ba nhà thừa sai đầu tiên từ Canada đến Việt Nam gồm 2 linh mục và 1 thầy trợ sĩ, các thừa sai này đến do lời thỉnh cầu của Giáo Hội Việt Nam, Thánh bộ Truyền giáo đề nghị Trung Ương DCCT. sai trực tiếp Tỉnh Dòng Thánh Anna ở Canada đến.

Các ngài đến Huế rồi ngay sau đó các thừa sai kế tiếp đến tiếp để lan tỏa ra Hà Nội (Thái Hà), Đà Lạt, Saigon, Nha Trang, … Tổng cộng Tỉnh Dòng Thánh Anna gởi đến 67 thừa sai. Các thừa sai nhanh chóng học tiếng Việt và đảm nhận ngay những công việc mục vụ tại VN, cách riêng công cuộc Đại Phúc.

Chiền tranh liên tục trên đất nước khiên gặp không ít khó khăn nhưng cũng lại là cơ hội để nhà dòng phát triển do phải di chuyển nhiều nơi. Một công việc rất quan trọng đã được các nhà thừa sai chú ý đó là tuyển chọn ơn gọi và đào tạo.

Cần nói rõ chúng tôi phát triển lần lượt từ một Sứ vụ (Mission), đến Miền (Region), rồi Phụ tỉnh (Vice province) và thành Tỉnh (Province)

- Sau 50 năm, Cha có nhận định gì về những thành quả mà tỉnh Dòng đã đạt được khi hiện diện trên quê hương đất nước Việt Nam về công cuộc loan báo Tin Mừng, hành trình truyền giáo và ơn gọi thánh hiến và những thành quả khác.

Cha Vinh Sơn Thành: - Dấn thân trong công cuộc loan báo Tin Mừng trên quê hương đất nước này, thành quả lớn nhất mà chúng tôi có được nhờ ơn Chúa đó là tình yêu thương mà Giáo Hội Việt Nam dành cho chúng tôi. Qua mọi khó khăn trong mọi tình huống, cuối cùng thì tình yêu ấy vẫn nổi lên một cách rõ rệt xuyên suốt lịch sử của Tỉnh Dòng.

Kế đến chúng tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn với Tỉnh Dòng Mẹ là Tỉnh Dòng Thánh Anna ở Quebec, Canada. Khi đến VN, dù đang gặp rất nhiều khó khăn ở quê nhà, nhưng Tỉnh Mẹ vẫn dành nhân tài vật lực một cách quảng đại cho chúng tôi. Một quyết định sáng suốt mà Tỉnh Mẹ đã thi hành mang lại thành quả lớn lao cho chúng tôi hôm nay đó là TỈnh mẹ đem sinh viên Canada đếnVN, tổ chức Họ viện thần học ngay tại VN để đào tạo chung hai sinh viên Canada và VN song song. Nhờ thế sĩ số của Tỉnh Dòng tăng nhanh và các thừa sai Canada không ngỡ ngàng khi thi hành mục vụ, xóa bỏ dược ngăn cách văn hóa và xây dựng vững mạnh tình huynh đệ trong nội bộ TỈnh Dòng.

50 năm qua cũng là thời gian ghi nhận về công cuộc truyền giáo, trong vòng trên dưới 50 năm, hoạt động thừa sai của Tỉnh Dòng nghiêng hẳn về lãnh vực truyền giáo, 50 năm của Tỉnh Dòng là quá trình hình thành các miền truyền giáo, Châu Ổ, Fyan, Pleiku, Cần Giờ, …

- Xin Cha cho biết về tình hình hoạt động hiện nay của Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam với những thuận lợi và khó khăn ạ?

Cha Vinh Sơn Thành: Trong các Công Hội Tỉnh gần đây, khoảng hơn 10 năm, chúng tôi xác định ba ưu tiên trong việc Tông đồ của Tỉnh Dòng :

(1)/ Loan báo Tin Mừng cho lương dân, đặc biệt cho anh chị em đồng bào các dân tộc thiểu số,
(2)/ Thực hiện các cuộc đại phúc và các hình thức rao giảng khác, trong nỗ lực góp phần canh tân đời sống Kitô hữu,
(3)/ Phục vụ ơn cứu độ toàn diện cho những anh chị em là nạn nhân của xã hội đương đại trong các lãnh vực khác nhau của đời sống.

Điều thuận lợi lớn nhất chúng tôi có là sự thống nhất ý chí của toàn Tỉnh Dòng, những chọn lựa trên luôn được xem xét và đánh giá cũng như cân nhắc tái chọn lựa.
Chúng tôi cũng nhận được đồng thuận và ủng hộ của rất nhiều thành phần trong cộng đoàn dân Chúa, những dồng thuận này được diễn tả dưới nhiều hình thức khác nhau.
Sống trong một đất nước tự do tôn giáo rất hạn hẹp, hơn nữa lại là một xã hội khủng hoảng toàn diện, chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn, nhất là khi chúng tôi chọn lựa ưu tiên số 3, nhưng chúng tôi xác tín ơn Chúa lớn lao hơn gấp bội những khó khăn đó.

- Dựa vào những thực tế mà Cha vừa trình bày (ở câu) trên, xin Cha cho biết đường hướng phát triển của Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế trong tương lai?

Cha Vinh Sơn Thành: Chúng tôi luôn nhắc nhau trung thành đặc sủng của Đấng sáng lập, noi gương ngài gắn bó với Chúa Giêsu (Thánh An Phong là Tiến sĩ Cầu nguyện), vì thế huấn luyện trường kỳ về đời sống thiêng liêng là chủ trương của chúng tôi.
Chúng tôi chú trọng đến việc tuyển mộ và đào tạo ơn gọi ở các sắc tộc thiểu số, chính anh em tu sĩ người thiểu số sẽ đầy mạnh công cuộc loan báo Tin Mừng cho sắc tộc của mình. Một dự tính vô cùng khó khăn và hứa hẹn nhiều chông gai.
Chúng tôi tiếp tục củng cố chí hướng của mình và lưu ý không rời xa đối tượng “nghèo và bị bỏ rơi hơn cả”

- Xin Cha cho biết chương trình mừng kỷ niệm tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế 50 năm tại Việt Nam.

Cha Vinh Sơn Thành:: - Chúng tôi chọn lựa cách mừng kỷ niệm đi vào chiều sâu tâm linh.
Trong nội bộ Tỉnh Dòng, chúng tôi thực hiện các công trình xây dựng đời sống thiêng liêng và củng cố tình huynh đệ như :

- Tĩnh tâm tháng của các cộng đoàn và thường huấn toàn tỉnh năm nay sẽ là suy nghĩ và học hỏi Hiến Pháp của Dòng.
- Sưu tập các kinh nghiệm thực tế các vùng truyền giáo trong suốt 60 năm qua.
- Thực hiện công trình sưu tập các hình ảnh gương mẫu của các anh em DCCT VN đã qua đời. chúng tôi gọi đó là những di sản của chúng tôi
- Hoàn thành bản dịch tiếng Việt các bộ lễ về Đức Mẹ.
- Phát hành sách Các giờ Kinh Phụng vụ của Tỉnh Dòng.
- Xây dựng một website về việc sùng kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
- Tổ chức ba Thánh lễ tạ ơn tại ba Giáo Tỉnh của Việt Nam.

- Trước nhịp sống của Giáo Hội trên quê hương đất nước Việt Nam, quí linh mục tu sĩ dòng Chúa Cứu Thế có những việc làm tích cực nào và trong một tâm tư thế nào?

Cha Vinh Sơn Thành: - Như đã trình bày ở trên, chúng tôi luôn chọn lựa trung tín với Đặc sủng của Đấng sáng lập, lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần qua các biến cố trên quê hương đất nước, và yêu mến trung thành với Giáo Hội quê hương.

Con xin cảm ơn Cha đã cho chúng con có dịp biết thêm về những hoạt động của chặng đường 50 của Tỉnh Dòng. Xin kính chúc Tỉnh Dòng tiếp tục gặt hái được nhiều thành công trong giai đoạn mới. Xin kính chào Cha.

Cha Vinh Sơn Thành: - Xin chân thành cám ơn Cô và mọi người.
 
Tuần lễ cầu nguyện cho Quê Hương Đất Nước tại GX Bến Hải Sàigòn
Philliphê Hà Tiến Đạt
15:28 22/05/2014
Giáo xứ Bến Hải, Sài Gòn -Tuần lễ cầu nguyện cho Quê Hương Đất Nước

Bến Hải, Sài Gòn: Đúng 19g30 thứ năm 22 tháng 5 năm 2014; đáp lời mời gọi của chủ chăn- Đức Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc mời gọi toàn tổng giáo phận tổ chức Cầu Nguyện cho Hòa Bình và Công Lý tại Quê hương VN, đặc biệt là tại Biển Đông qua việc bày tỏ, củng cố niềm tin vào Chúa Giêsu đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể nài nỉ lòng Chúa thương xót đến thân phận con dân Việt Nam và cách riêng cho toàn thể nhân loại. Khoảng năm trăm giáo dân nghe lời mời gọi của Đức Tổng giám mục giáo phận cùng cử hành Giờ Chầu Thánh Thể với các ngài hiệp nhất với các nhà thờ trong giáo phận và ngay tại nhà thờ Bến Hải do Cha chính xứ - chủ sự.

Xem Hình

Mở đầu lời dẫn giờ chầu hiệp thông với các nhà thờ giáo phận: trong thơ khẩn gởi tới các Giáo xứ Đức Tổng Giám Mục Phao- lô đã nhắc nhở:

- Tuần lễ cầu nguyện cho Quê Hương Đất nước (18/5 đến 25/5/2014).

- Mỗi giáo xứ cử hành thánh lễ " Cầu cho Hòa Bình và Công lý" Chầu Thánh Thể và lần chuỗi Mân Côi, để giáo dân có thể tham dự đông đảo.

- Xin anh chị em ăn chay, tiết giảm chi tiêu để góp phần nâng đỡ các nạn nhân của tàu quân sự TQ.

Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô thường chia sẻ về vấn đề hoà bình: “Hiện đang có rất nhiều xung đột trên thế giới làm cho tôi đau khổ và lo lắng, nhưng gần đây trái tim tôi đã đặc biệt đau nhói về những gì đang xảy ra…” Và ngài tha thiết mong muốn: “Đừng bao giờ gây ra chiến tranh nữa! Chúng ta muốn có một thế giới hòa bình. Chúng ta muốn trở thành những con người của hòa bình”.

Cụ thể, mọi người trong giáo xứ hôm nay đây hãy cùng nhau dâng lên Mẹ chuỗi Mân côi và phải khẩn cầu qua lòng từ mẫu của Đức Maria: “Chúng ta hãy xin Mẹ Maria giúp cho chúng ta đối phó với bạo lực, xung đột và chiến tranh, bằng sức mạnh của đối thoại, hòa giải và yêu thương. Mẹ là mẹ của chúng ta: Mẹ sẽ giúp chúng ta tìm thấy bình an, vì tất cả chúng ta: Việt Nam, Trung Hoa, Mỹ, Pháp, …đều là con cái của Mẹ!”

Giờ Chầu hôm nay còn là cơ hội để tất cả chúng ta hiệp nhất với Đức Tổng Giám Mục, các nhà thờ và với tất cả anh chị em tín hữu trên toàn Tổng Giáo phận trong cùng một đức tin, đức cậy và đức mến.

Và chúng ta còn cần nài nỉ Lòng Thương Xót của Chúa qua lòng sốt mến yêu Thánh Thể, mọi người hãy chạy đến qùy trước Thánh Thể, cùng xác tín niềm tin vào Bí tích Cực Thánh theo Giáo Lý Chung của Hội Thánh Công Giáo: hiệp thông với Đức Giáo Hoàng và toàn thể Hội Thánh, cùng với Mẹ Maria, Nữ Vương Hòa Bình, cộng đoàn chúng ta hãy tha thiết cầu xin Chúa ban hòa bình cho thế giới; xin cho mọi người, mọi dân tộc biết trân trọng quà tặng của Thiên Chúa, và luôn ý thức dấn thân kiến tạo một nền hòa bình chân chính và vững bền.

Lời suy tư và cầu nguyện chung trước Bí tích Thánh thể của Cha Chủ sự và cộng đoàn dân Chúa trong giây phút cực thánh này như áng hương trầm dâng lên Thiên Chúa Ba Ngôi mà Ngài đang hiện diện và sống hiệp thông với mọi con dân của Chúa, và nhờ Chúa Giêsu, Ngài nhắc nhở lời Đức Giáo Hoàng: “Tôi tha thiết mong muốn: “Đừng bao giờ gây ra chiến tranh nữa! Chúng ta muốn có một thế giới hòa bình. Chúng ta muốn trở thành những con người của hòa bình”. Chúng ta mỗi người hãy ra khỏi chính mình, bỏ cái tôi ích kỷ của mình, bỏ cái tự mãn của bản thân để chung sống cùng nhau trong bình an.

Đã 21g00, mọi người ra về trong niềm hân hoan yêu mến Thánh Thể, dường như tất cả mọi người đều nghe vẳng đâu đây lời nhắn nhủ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Nhân loại đang cần được xem thấy những cử chỉ hòa bình và được nghe thấy những tiếng nói của hy vọng và bình an!” Và ngài mời gọi: “Mọi người có thiện tâm có nhiệm vụ phải theo đuổi hòa bình.”…

Lạy Chúa, xin ban bình an cho chúng con.

Philliphê HÀ TIẾN ĐẠT
 
Ban Mục vụ Gia Đình TGP Saigòn phát động cuộc thi viết: ''Tâm Tình Tuổi Thơ''
Lm. Luy Nguyễn Anh Tuấn
17:01 22/05/2014
CHƯƠNG TRÌNH CHUYÊN ĐỀ GIÁO DỤC
PHÁT ĐỘNG CUỘC THI VIẾT
TÂM TÌNH TUỔI THƠ


Kính thưa quý vị và các bạn,

Trong bất cứ tôn giáo nào, cầu nguyện đều là yếu tố thiết yếu của đời sống tâm linh. Với người Công Giáo, cầu nguyện chính là thể hiện niềm tin, phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Thánh Augustino đã nói: “Sự
cầu nguyện là thành lũy lớn nhất của tâm hồn”. Thành lũy đó chất chứa “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Cv 13, 52). Thiếu đời sống cầu nguyện, người ta dễ đánh mất các giá trị tâm linh và tâm hồn con người sẽ trở nên cằn cỗi. Tuy nhiên, đời sống cầu nguyện phải được ươm trồng và nuôi dưỡng ngay từ tuổi thơ ngây trong trắng, để các em có một thói quen tâm tình với Chúa khi vui cũng như lúc buồn.

Ý thức được tầm quan trọng của việc cầu nguyện, nhất là đối với các em thiếu nhi, Chương trình Chuyên đề Giáo Dục, thuộc Ban Mục vụ Gia Đình Tổng Giáo phận TP.HCM, phát động Cuộc thi viết TÂM TÌNH TUỔI THƠ dành cho các em thiếu nhi từ 14 tuổi trở xuống, nhằm khuyến khích các em yêu mến đời sống cầu nguyện – một phương cách hữu ích trong việc nâng cao đời sống tâm linh và phát triển nhân cách.

Ước mong qua cuộc thi này, nhiều tâm tình ngây thơ hướng thượng được bộc lộ, nhiều nỗi lòng thơ trẻ được tỏ bày cách hồn nhiên nhất. Đây cũng là nguồn động viên cho các em vững bước tiến lên trong đời sống Đức tin.

THỂ LỆ CUỘC THI VIẾT: TÂM TÌNH TUỔI THƠ

v Cơ hội để các em thiếu nhi dưới 15 tuổi có tên trong quyển sách cầu nguyện “Tâm Tình Tuổi Thơ”, và được tham gia chuyến dã ngoại miễn phí do êkíp Linh hoạt viên chuyên nghiệp hướng dẫn

A. MỤC ĐÍCH – Ý NGHĨA

Chương trình Chuyên đề Giáo Dục, thuộc Trung tâm Mục vụ Tổng Giáo phận TP. HCM, tổ chức Cuộc thi “Tâm Tình Tuổi Thơ”, nhằm:
- Khuyến khích tăng trưởng đời sống Đức tin, để các em sống kết hợp với Chúa cách sâu đậm hơn. Ngoài ra, việc tham gia cuộc thi còn làm cho các em thành chất xúc tác, tạo cơ hội động viên cả nhà, cả cộng đoàn giáo xứ quan tâm đến cầu nguyện, như Chúa Giêsu dạy: “Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn” (Mt 26, 41).
- Góp phần phát triển khả năng viết văn và tư duy hướng thượng của các em thiếu nhi.
- Đóng góp vào số lượng sách cầu nguyện cho thiếu nhi và cổ vũ văn hóa đọc.

B. CHỦ ĐỀ

Các em có thể lựa chọn viết lời cầu nguyện cho một hay nhiều chủ đề sau. Các chủ đề này có thể gắn liền với đời sống hiện đại ngày nay. Sau đây là một vài gợi ý cho mỗi chủ đề. Ban Tổ chức khuyến khích các em chọn những đề tài mới lạ như: môi trường và xã hội.

- Thiên Chúa: Tâm tình tạ ơn và ngợi ca nào em muốn dâng lên Thiên Chúa?
• § Toàn năng, sáng tạo muôn loài
• § Tốt lành, gần gũi và nhân từ…

- Viết thư cho Chúa Hài Nhi: Tâm sự với Chúa về những lo lắng và mơ ước của em.

- Môi trường: Đất nước em, quê hương em có hiện diện trong lời nguyện cầu của em không?
• § Vẻ đẹp của cây cối, muôn vật…
• § Những điều kỳ diệu trong thiên nhiên: biển cả, vũ trụ, cầu vồng…
• § Nạn đốt rừng, cháy rừng, thiên tai, hạn hán, bão lụt…
• § Nạn xả rác, ô nhiễm không khí, tiếng ồn, bụi bặm…

- Nhà trường: Em cầu nguyện điều gì cho ngôi trường thân yêu của mình?
• § Sự tận tâm của thầy cô, lòng tốt của bạn bè
• § Việc học hành, các kỳ thi, các kỳ kiểm tra…
• § Cầu nguyện trước giờ đi học
• § Cầu nguyện khi tan học
• § Nạn quay cóp bài, gian lận trong thi cử
• § Bạn bè gây gổ, đánh nhau
• § Nạn bắt nạt trong trường học…

- Xã hội: Em ước ao điều tốt đẹp nào cho người khác và thế giới ngày nay?
• § Hòa bình thế giới
• § Các sự kiện lớn như: World Cup, Đại hội thể thao, Giờ trái đất…
• § Các bạn mồ côi, khuyết tật
• § Các bạn không có điều kiện tới trường
• § Game online, Facebook…

- Gia đình: Em có lời cầu nguyện đặc biệt nào cho gia đình em?
• § Không khí gia đình sum vầy, yêu thương
• § Gia đình có thêm em bé
• § Cha mẹ lo lắng, buồn phiền, không vui
• § Cha mẹ bị bệnh
• § Cha mẹ đi làm xa
• § Cha mẹ uống rượu, hút thuốc
• § Cha mẹ cãi nhau, bỏ đi…

- Bản thân: Em tạ ơn hay cầu xin Chúa giúp em điều gì?
• § Tạ ơn Chúa vì em được đi học, có sức khỏe, niềm vui…
• § Tạ ơn Chúa vì làm được điều tốt…
• § Cầu nguyện đầu ngày, cầu nguyện cuối ngày
• § Khi bị bệnh, khi phạm lỗi lầm
• § Sợ hãi, bị bỏ rơi…

C. THỂ LỆ CUỘC THI

1. Đối tượng tham dự: Tất cả các em thiếu nhi trong và ngoài nước; không phân biệt tôn giáo, giới tính; từ 15 tuổi trở xuống.

2. Quy định về bài thi:
- Không giới hạn số lượng bài tham dự.
- Bài dự thi chưa đăng báo, in sách hay tham gia các cuộc thi khác.
• § Thể loại thơ: tối đa 16 câu.
• § Thể loại văn xuôi: dài không quá 200 từ.

- Phía trên bài dự thi ghi đầy đủ các thông tin sau: Họ tên; tên thánh, giáo xứ, giáo phận (nếu là người Công Giáo); giới tính, ngày tháng năm sinh, dân tộc, tình trạng đặc biệt (trẻ có hoàn cảnh khó khăn, trẻ mồ côi,…), số điện thoại, địa chỉ gia đình.

- Bài viết trung thực, rõ ràng, sạch sẽ, viết tay hay đánh máy trên một mặt giấy. Phong bì cần dán tem và ghi rõ: Bài dự thi “Tâm Tình Tuổi Thơ”. Có thể gửi attach file với định dạng. doc (word), qua email: tamtinhtuoitho@gmail.com. Chúng tôi sẽ hồi âm tất cả email gửi đến.

- Đối với các giáo xứ: Có thể gửi chung tất cả các bài dự thi hợp lệ của các em trong một phong bì. Xin ghi rõ thông tin người gửi. Để hỗ trợ Ban Tổ chức và các em gửi bài kịp thời hạn, xin các anh chị Giáo lý viên gom bài, đánh máy và gửi file về cho Ban Tổ chức.

3. Nơi nhận bài thi:

tamtinhtuoitho@gmail.com hoặc
Chương trình Chuyên đề Giáo Dục, số 6 bis Tôn Đức Thắng, P. Bến Nghé, Quận 1, TP. HCM.
(Người liên hệ: Chị Sóc Nâu – 090.369.4858)

4. Thời gian nhận bài: Từ ngày 20-05-2014 đến ngày 15-08-2014 (theo dấu bưu điện) và 31-08-2014 (nếu gửi qua email).

5. Lưu ý:
- Ban Tổ chức được quyền lựa chọn, biên tập và đăng tải các bài dự thi.
- Mỗi bài dự thi sẽ được nhập hồ sơ theo lần gởi đầu tiên, mọi chỉnh sửa về sau đều không được chấp nhận.
- Bài dự thi ghi không đầy đủ các nội dung trên sẽ bị loại.

D. GIẢI THƯỞNG

Ban Tổ chức sẽ trao giải tại Trung tâm Mục vụ Tổng Giáo phận TP. HCM. Mỗi thể loại (thơ/văn) có cơ cấu giải thưởng như sau:

Giải cá nhân:
• § 1 giải Nhất: 2.500.000đ
• § 2 giải Nhì, mỗi giải: 1.500.000đ
• § 3 giải Ba, mỗi giải: 500.000đ
• § 5 giải Khuyến khích, mỗi giải: 300.000đ

Ngoài ra, còn có các giải phụ (mỗi giải 200.000đ) dành cho các thí sinh:

• § Nhỏ tuổi nhất
• § Người dân tộc
• § Người khuyết tật, mồ côi
• § Người ngoài Công Giáo

Giải tập thể:
• § Tặng giáo xứ có số thí sinh gửi bài dự thi đông nhất: 1.000.000đ
• § Tặng giáo xứ có thí sinh đoạt giải Nhất: 1.000.000đ
• § Tặng giáo xứ có thí sinh đoạt giải Nhì, mỗi giải: 700.000đ
• § Tặng giáo xứ có thí sinh đoạt giải Ba, mỗi giải: 500.000đ

Các tác giả có bài in trong sách “Tâm Tình Tuổi Thơ” sẽ được nhận sách tặng và được tham gia chuyến dã ngoại miễn phí do êkíp Linh hoạt viên chuyên nghiệp hướng dẫn.

Các bài thi lọt qua vòng sơ khảo và kết quả cuộc thi sẽ được đăng trên Website Chương trình Chuyên đề Giáo Dục từ ngày 15-09-2014

Ban Tổ chức rất mong quý Đức Cha, quý Cha, quý Tu sĩ, quý Hội đoàn, Ban Truyền thông Giáo phận, Ban Quản trị các Website, quý Phụ huynh và các anh chị Giáo lý viên, phổ biến rộng rãi cuộc thi đầy ý nghĩa này; cũng như xin quý vị cầu nguyện, khuyến khích, động viên, tạo điều kiện thuận lợi, để đông đảo các em thiếu nhi tham gia dự thi. Ban Tổ chức rất mong nhận được những bài dự thi giàu tâm tình và đa diện của các em thiếu nhi từ khắp mọi miền đất nước và trên thế giới. Nguyện xin Chúa Giêsu Phục Sinh ban bình an và niềm vui cho quý vị cùng gia quyến.

Saigòn ngày 19 tháng 05 năm 2014

BAN TỔ CHỨC CUỘC THI
Lm. Luy Nguyễn Anh Tuấn,
Trưởng ban Mục vụ Gia Đình Tổng Giáo phận Saigòn
Thư ký Ủy ban Mục vụ Gia Đình trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Ơn cứu-chuộc nơi Ngài chan chứa!
Mai Tá
19:24 22/05/2014
Ơn cứu-chuộc nơi Ngài chan chứa!
_____________________________________________________________________________
Lm Kevin O’Shea, CSsR



Chương Ba: Ơn Cứu-Chuộc
và các truyền-thống trong Đạo
(bài 16)


Phần 2:Ơn Cứu Chuộc và lập-trường thánh Ansêmô:
ta suy thêm

Nghiên-cứu lập-trường tư-tưởng của thánh Ansêmô khi ta bàn về Ơn Cứu-chuộc, thiết tưởng cũng nên thêm một giòng chảy suy-tư như sau:

Thánh Ansêmô, là người từng viết lên một số lời nguyện-cầu để anh em trong Dòng mình sử-dụng. Nói đúng hơn: đây là những giòng chảy suy-tư/chiêm-niệm được thánh-nhân nghĩ ra là để tặng một vị nữ-lưu cao tuổi từng lui về sống ẩn-dật ở Brionne, gần bên Đan-viện Bec. Suy-tư/chiêm-niệm, là tư-tưởng-làm-nền rất cần thiết giúp ta hiểu rõ hơn đời sống khắc-kỷ của các Đan-viện. Có suy-tư/chiêm-niệm, ta mới hiểu rõ lập-trường thần-học của thánh Ansêmô, đặc biệt là khi thánh-nhân viết nên cuốn Cur Deus Homo, cuối đời mình. Tư-tưởng của thánh Ansêmô, có đọc theo hướng nguyện-cầu/chiêm-niệm, ta mới hiểu rõ tư-tưởng của ông hơn, về Ơn Cứu-Chuộc. Và từ đó, ta sẽ nhận ra rằng: tư-tưởng của ông ít khắc-nghiệt hơn là nhiều người vẫn cứ tưởng.

Thời đào tạo, thánh Ansêmô cũng giống như các thày Dòng khắc-kỷ khác, tức: cũng được hướng-dẫn đi vào cuộc sống có trải-nghiệm tính khắc-kỷ, khổ tu có ăn năn hối lỗi và hãi sợ. Và, trên hết mọi sự, thánh Ansêmô lại vẫn là thày Dòng khắc-kỷ/khổ tu. Thời thánh-nhân, sống đời chiêm-niệm/khắc-kỷ bao giờ cũng chịu ảnh-hưởng từ cuộc sống khó khăn, tự hãm mình/phạt xác do thánh Phêrô Đamianô, đấng sáng-lập Dòng Biển Đức, là người chuyên đặt nặng những tâm tình đền-bù các lỗi-tội mình phạm, đến như thế.

Cũng trong chiều hướng tương-tự, Đan-viện Bec. của thánh Ansêmô, lại cũng chủ-trương sống đời nhiệm-nhặt như Dòng khổ-tu do thánh Phêrô Đamianô lập nên. Nhưng, các thày Dòng nói ở đây thường có thói quen sử-dụng ngôn-từ rất mạnh về Thiên-Chúa. Và mạnh-bạo hơn, vẫn là ngôn-từ diễn-tả “kẻ phạm lỗi” như đầu mối cho mọi phạt xác, rất đền-bù.

Thế nên, thánh Ansêmô đã viết ngay vào đường gân thớ thịt của mình, một câu nói để đời, từng nổi tiếng: “Tôi vẫn lo cho cuộc sống của riêng tôi, cũng rất nhiều!” Là thày tu thuộc Dòng chủ-trương có hành-xử “phạt xác”/hãm mình, thánh Ansêmô từng được dạy: hãy biết sợ sự phán-xét của Thiên-Chúa, hồi chung cuộc. Dù có thế, biện-chứng này lại đề ra một kết-cuộc xác-chứng rằng: Thiên-Chúa, bằng vào lòng thương xót vô bờ của Ngài, hẳn Ngài cũng sẽ không quên sót những người lỗi phạm, bao giờ hết.

Mặt khác, thánh Phêrô Đamianô và truyền-thống Giáo-hội thời đó, lại cứ quan-niệm rằng: nỗi đau thể-xác --trong công-cuộc đền-bù mọi lỗi tội-- vẫn tạo ra một số tội lỗi này/khác. Ở đây, thánh Ansêmô lại khám-phá thêm hai vấn-đề căn-bản:

Thứ nhất, thánh-nhân thấy rất rõ, rằng: quả thật, một số những đau-khổ về xác-thể có giới-hạn nằm trong các tội dù rất nhỏ của người phạm lỗi. Và, việc đền-bù tội/lỗi không hạn-chế, có thể lại cũng “kiến-tạo” ra chính tội lỗi. Đây là chốt điểm cho thấy Đức Kitô cũng từng được vời đến, ở trong đó. Nhưng, Ngài lại có khả-năng thực-hiện thứ gì đó có giá-trị vô-hạn-định, chứ không chỉ như người phàm, thôi.

Thứ hai nữa, thánh Ansêmô lại nhận ra rằng: việc hãm mình/phạt xác thật ra không là chuyện đền-bù tội/lỗi chút nào hết. Những gì tội/lỗi làm nên cớ sự, đều được lấy đi là vì sự vinh-quang danh-dự của Thiên-Chúa. Người phạm lỗi, không hề khiến Chúa phải công-nhận chỗ đứng đích-thực của Ngài, trong vũ-trụ. Thánh Ansêmô không nhìn vinh-quang danh-dự của Thiên-Chúa như đồng hàng với thể-chế phong-kiến mà ông từng hiểu biết rất rõ. Thánh-nhân không tính-toán “tổng-số” những gì do lỗi/tội rút mất đi khỏi Thiên-Chúa, theo kiểu hệt như thể-chế phong-kiến. Thánh-nhân cũng không đánh-giá những gì con người làm ngõ hầu “kiến-tạo” nên tội/lỗi, theo nghĩa của niềm vinh-dự bị xúc-phạm, hệt như chế-độ phong kiến từng nghĩ ra.

Thánh Ansêmô thấy rằng: tất cả các điều như thế phải hiểu theo nghĩa “tuyên-dương” chúc tụng một vinh-dự. Vinh-dự dâng lên Chúa, phải được tặng ban dâng lên Chúa bằng các bài “vãn” được cát tiếng vang ca là để tung-hô Chúa trong và bởi toàn-thể vũ-trụ, là như thế. Đó là đoản-khúc chúc-tụng từ vũ-trụ. Người phàm xác thịt cũng được mời gọi, để công-nhận điều này và để dâng lên Chúa một cách có ý-thức.

Tuy nhiên, tội và lỗi làm gián-đoạn bài ca chúc tụng này. Nói cách khác, nó làm mất đi hình-dạng của lời ca chúc-tụng Ngài vẫn có. Nó đưa vào âm-nhạc, một giai-điệu nghe rất chõi. Nên, muốn được Thiên-Chúa lắng nghe, chắc chắn cần chỉnh-sửa cho nhiều, nhưng không bằng phương-cách đền-bù tội lỗi hoặc hành-động phạt xác, hãm mình. Mà, bằng vào tái-tạo bài ca chúc-tụng Chúa; và đặt ở nơi đó, tầm-kích mới mẻ mà trước đó chưa ai từng thấy. Và, bài ca chúc tụng còn đẹp đẽ tuyệt-vời hơn mọi tầm-kích lỗi/tội rất xấu xa.

Theo thánh-nhân, thì bậc phàm nhân/tục tử chúng ta, không có được những cái “ắt-và-đủ” để được thế. Vậy nên, phải đưa nhiều giai-điệu mới mẻ vào trong âm-nhạc. Và các giai-điệu mới, phải được tụng-ca bằng tiếng-giọng mới khác, mới được. Bản thân con người, không tạo được giai-điệu mới mẻ này, vì chỉ có các tiếng/giọng cũ/xưa của mình, tức: không còn hay đẹp nữa, sau khi đã phạm phải các lỗi/tội do mình gây ra.

Thành thử, những gì con người nợ Chúa còn nhiều hơn những gì mình sở-đắc Và, nhạc-bản mới mẻ này phải được người ca-sĩ cất lên bằng tiếng/giọng riêng của họ. Mà, vũ-trụ lại chẳng có được tiếng/giọng nào giống như thế. Đây chính là điểm tới được Đức Giêsu dấn thân bước vào. Ngài đã làm thứ gì đó, rất mới mẻ. Và, Ngài làm bằng phương-cách cũng rất mới, gồm tất cả những tiếng/giọng giống như thế, trong nhạc-bản này.

Thánh Ansêmô và nền thần-học thời đó, lại cũng nói: Đức Giêsu không định-hướng chính mình Ngài vào sự chết. Bởi, Ngài chẳng hề mắc tội tổ-tông, nào hết. Ngài đã mặc vào hình-hài của Ngài đặc-tính bất-tử; và Ngài cũng không đòi hỏi có được sự sống vững chắc mà không bao giờ phải chết. Điều này, theo thần-học thời đó, đã xuất khỏi sự tự-do của Ngài thoát khỏi tội tổ-tông --trong khi đó, thì bản-thân nhân-loại qua tư-cách riêng của mình, lại không định-hướng vào nỗi chết, nếu con người không phạm phải lỗi lầm nào.

Đức Giêsu không bao giờ phạm phải những lỗi cùng tội; và tự bản-chất, Ngài không buộc phải chết đi, như người phàm. Nhưng, bằng vào ý-chí tự-do của Ngài, Đức Giêsu lại chuốc lấy tính dễ chết để rồi chấp-nhận cái chết như một thực-thể. Thế nên, Ngài có thể dâng lên Cha Ngài, không phải một thực-tại thể-lý rất dễ chết, mà là chính ý-định tư-riêng của Ngài, dù không cần. Đây là sự thể hoàn-toàn mới mẻ. Và, Đức Giêsu dâng điều đó lên Chúa Cha bằng tình thương-yêu duy chỉ mình Ngài mới có, do Cha ban qua tư-cách Người Con của Cha. Dâng lên Cha như thế, là sự dâng-tiến mà trước đó không ai làm được; và không ai có thể tái-lập thêm một lần nữa. Đó là sự việc có một không hai, rất duy-nhất. Sự việc này nâng-nhấc nền âm-nhạc của vũ-trụ, bởi âm-nhạc công-nhận cả hoàn-vũ có cả sự sống và nỗi chết, tuỳ-thuộc vào chính nó. Và, cũng tuỳ thuộc vào Thiên-Chúa theo cung-cách rất mới.

Thánh Ansêmô lại nhận ra rằng: khổ đau thân xác, đặc biệt trong công-cuộc đền-bù tội lỗi, tự nó không có giá-trị gì trong tiến-trình yêu-thương này hết. Thánh-nhân cũng công-nhận rằng: vẫn có tầm-kích “giáng phạt” (cả trường-hợp được giảm khinh) trong công-cuộc “đền-bù tội lỗi” như thế. Đây không là việc thiện-nguyện hoặc tự ý, nhưng là sự đòi buộc phải như thế. Thành thử, thánh Ansêmô không thấy Đức Giêsu lại có thể làm điều ấy, theo ý-nghĩa như thế.

Thánh Ansêmô cũng nhận ra rằng: việc cân-đong-đo-đếm “tổng số” của việc đền-bù mọi lỗi tội như nếu đã xảy ra vượt quá lập-trường này là không có giá trị gì hết. Theo thánh Ansêmô, những gì mà tội lỗi từng lấy ra khỏi Thiên-Chúa, vượt trị-giá và mọi toan tính “cân đo đong đếm”. Vượt cả mọi đền-bù nào khác. Đây là điều không thấy có nơi lập-trường của thánh Phêrô Đamianô và của chủ-thuyết khắc-kỷ/khổ hạnh mà đấng thánh lập dòng khổ tu đã định-dạng cho chính mình với vết thương lòng khổ-nhục của Đức Giêsu. Và, thánh Phêrô Đamianô coi đó như sự trừng phạt được tiến-hành theo bước trước, chứ không là sự hài-lòng/mãn nguyện theo cung-cách của thánh Ansêmô nghĩ ra. Thánh Ansêmô thì lại không thấy những gì Đức Giêsu thực-hiện, lại được hiểu theo nghĩa này.

Nay, thì sự việc như thế, đã ràng buộc Thiên-Chúa vào với Đức Giêsu. Thiên-Chúa, bằng vào sự công-chính của Ngài, lẽ đáng phải tưởng-thưởng Đức Giêsu; nhưng thật sự, thì Ngài đã có tất cả những thứ đó. Và, Thiên Chúa không thể làm việc đó cho Đức Giêsu cách trực-tiếp được. Thành thử ra, Thiên-Chúa phải tặng ban phần thưởng đó cho những ai được Đức Giêsu đề-nghị. Đó là chúng ta. Tức: những kẻ kế-thừa sự công-nhận và phần-thưởng do sự công-chính mà Thiên-Chúa ban cho Ngài . Và đó, là nhạc-bản để toàn-thể vũ-trụ chúc-tụng ngợi ca Ngài.

Phần thưởng nói trên, là phần sẻ san/tham-gia do ta góp phần vào nhạc-bản chúc tụng mới mẻ, khi ta dâng lên Thiên-Chúa tính-chất dễ-chết của ta, cũng như nỗi chết rất thực, mà ta từng cảm-nghiệm như nhạc-bản tụng ca của vũ-trụ...

Bằng lời lẽ tượng-trưng, ta được phép ca vang cùng với Đức GIêsu như yêu cầu hát thêm lần nữa Bài Ca rất tuyệt-diệu của Ngài...

Tác-giả Gerald Sloyan lại đã viết:

“Học-thuyết của thánh Ansêmô, chẳng mang chút sắc-màu nào của chế-độ phong-kiến, như nhiều người quả quyết. Bởi, với thánh-nhân, những lỗi và tội phản chống Chúa, không làm cho vinh-dự của người hiệp-sĩ hoặc nhà quý-tộc bị tổn-thương. Và, điều này thuộc một trật-tự riêng-rẽ, độc-nhất. Và, không ai giống như Chúa. Cũng chẳng học-thuyết nào lại được tạo ra như một giao-dịch thương-mại, bởi không có số tiền nào được trang trải hoặc thu nhận vào đó cả. Cuộc sống con người được tặng ban, là do Đấng trở-thành-Thiên-Chúa-và-người-phàm cùng một trật. Thiên-Chúa thấy rằng của lễ dâng-tiến Ngài rất thích-hợp nên Ngài đã chấp-nhận.”

Ở đây, ta cũng nên nhận chân ra rằng: cũng không cần phải quản-cai các bước tiến-triển trong suy-tư/chiêm niệm đến như thế. Bởi lẽ, một điều thấy rất rõ, là: ta đang đối phó với các lý-lẽ thích-hợp, cho thật đẹp. Đó, cũng là phương-cách phù-hợp để cứu xét tất cả những gì diễn-tiến nơi vấn-đề ta đặt ra.

Thánh Ansêmô, thật ra, đã chuyển từ loại-hình suy-tư dựa trên sự hãi sợ và phán-xét rất chung-cuộc sang một mẫu mã suy-nghĩ về sự thanh cao đẹp-đẽ và thương-yêu. Với thánh-nhân, đỉnh cao và biểu-tượng cho tình thương-yêu ấy là Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập-tự. Khi ấy, thánh-nhân lại đã suy-tư về ý-nghĩa của “bổn-phận” để chiêm-niệm về sự cao cả nơi tình thương-yêu có cho đi vì hy-sinh của Đức Giêsu Kitô. Và từ đó, thánh Ansêmôn chúc tụng và cảm tạ Chúa vì Ngài đã thành-tựu được sự hài-hoà giữa vũ-trụ và công-cuộc cứu-chuộc loài người chúng ta.

Chính vì thế, nên thánh Ansêmô đã đúc-kết, cất-chưng và thực sự thay-đổi truyền-thống mình từng đưa ra. Và đặc-biệt hơn cả, là truyền-thống khắc-kỷ của vị thánh lập Dòng Biển Đức, tức thánh Phêrô Đamianô. Và từ đó, thánh Ansêmô lại đi vào trạng-thái tập-trung cũng rất mới vào việc miên-man chiêm-ngắm cùng với động-thái bừng bừng lửa mến với tình thương-yêu cảm-kích hướng về diện mạo của Đức Chúa chịu đóng đinh. Và theo tôi, thì: điều này còn ở lại mãi với chủ-thuyết khắc-kỷ thực-thụ của Đạo Chúa. Nay, cũng nên hết lòng cảm tạ thánh Ansêmô, của ta.

Thật ra, thì cốt lõi nơi thị-kiến của thánh Ansêmô, là thế này: Không món nợ nào, ta có thể trang trải cho Đức Kitô hết, bởi lẽ cũng chẳng có gì qua đó ta có thể trang trải những gì ta thiếu nợ. Niềm hãi sợ và hậu quả của nó không là thành phần của nhạc bản tụng ca tung hô ta nói đến. Và, nó cũng chẳng có phần nào hết trong việc xoá bỏ mọi ràng buộc của ta với Chúa. Chỉ duy nhất có mỗi sự việc khả dĩ trở thành vấn-đề là tình thương-yêu và nỗi niềm quan-tâm lưu ý, thôi. Ta có thể nói về sự hạn-chế không để bật lên thành tiếng khóc, nhưng đó là tiếng khóc của sự cảm kích, tựa hồ như khi ta nhìn vào diện-mạo của Đấng chịu đóng đinh trên thập-giá.

Thật ra, cũng phải công-nhận rằng kinh-nghiệm của thánh Ansêmô tô lên sắc màu cho ý-nghĩa của sự việc “trở thành thày Dòng” vào tuổi trung-niên hoặc sau đó. Cũng trong chiều-hướng có ý-nghĩa mới này, lại thấy có việc thực-hiện ăn năn hối tiếc đậm sâu khác của đời chiêm niệm và khắc kỷ. Và đây được coi như nền tảng cho bất cứ ý-nghĩa nào của Ơn Cứu Chuộc.

Khác-biệt chính nơi phần giải-thích của thánh Ansêmô gồm các yếu-tố sau đây:

1. Không giống như tư-tưởng của thánh Đamianô chuyên đặt nặng vào sự trừng phạt và đền bù tội lỗi, thánh Ansêmô chủ trương chúc tụng/ngợi ca.
2. Bằng chúc tụng/ngợi ca, Đức Giêsu dâng nỗi chết đối lại sự bất-tử.
3. Ra như thế, vì đó là sự tiến-dâng lên Thiên-Chúa-là-Cha một trải-nghiệm về sự vô quyền/bất lực.
4. Tính vô quyền/bất lực của Đức Giêsu được thấy rõ nơi Đấng chịu đóng đinh trên thập-tự
5. Chiêm-ngắm Chúa chịu đóng đinh là trọng tâm của sự tháp-nhập vào bài chúc tụng/ngợi ca sự cao cả của Thiên Chúa.

Sau thời thánh Ansêmô, lại thấy có sự trở về chầm chậm vào với cung-cách mang tính Đamianô nhiều hơn. Ngôn-ngữ mà thánh Ansêmô sử dụng thật rõ ràng theo ý-nghĩa của riêng ông, nhưng vẫn có đôi chút tối-nghĩa tiềm ẩn ở trong đó cho những ai không có được trải-nghiệm như thánh Ansêmô từng có. Các ngài lại sử-dụng tự-vựng như: “chỉnh sửa, mãn nguyện, ăn năn sám hối vv... theo nghĩa đen thể-chất, nhiều hơn nữa.

Thánh Tôma Akinô là người trì-hoãn truyền thống này nên ông lại tương-đối-hoá truyền-thống này đối với các lập-trường khác. Và, ông còn giản-lược bất cứ đòi hỏi nào “cần” có để trở-thành “lý lẽ thích-hợp”... Thánh Tôma cũng lại nói đến việc ăn năn hối cải như một điều-kiện để trừng-phạt mà ta không thể làm giảm nhẹ nghĩa đen nhiều hơn nữa, trong giới-hạn của thứ cổ-ngữ xa vời thời đó là tiếng La-tinh. Và từ đó, thánh Tôma lại liệt-kê một danh-sách gồm đủ các loại ngôn-từ như thế làm một, và có thể là điều tiên quyết, tức “động-lực” của sự kiện Nhập Thể. Đây là loại-hình đặc trưng của thánh Tôma Akinô trong việc trì-hoãn ngôn-ngữ của truyền-thống đáng tôn-kính, và rồi ông đã tạo lại ý-nghĩa của ngôn-ngữ ấy.

Các thế-kỷ vừa qua, lại thấy có đòi hỏi Hội thánh của ta hãy quay trở về với lập-trường tư-tưởng của thánh Ansêmô, sau một thời-gian dài xa cách, tách rời.

----------------- (còn tiếp)
__________________________________
Lm Kevin O’Shea, CSsR - Mai Tá lược dịch
 
Văn Hóa
Một vài suy nghĩ về chân dung “Người Mục Tử Nhân Lành” trong thời đại hôm nay
Jos. Đồng Lạc
08:03 22/05/2014
Một vài suy nghĩ về chân dung “Người Mục Tử Nhân Lành” trong thời đại hôm nay

Chúng ta đang sống trong một xã hội phát triển với những tiến bộ của khoa học kỷ thuật. Đời sống con người không ngừng được cải thiện và nhu cầu cuộc sống ngày càng cao. Đó là những yếu tố tích cực cho từng cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội. Tuy nhiên, song song với đà phát triển xã hội là sự thoái bộ đến mức báo động của nền đạo đức luân lý. Điều này khiến bao nhà giáo dục, nhà chức trách tâm huyết trên thế giới nói chung và Giáo Hội Chúa Kitô nói riêng phải băn khoăn, trăn trở. Một câu hỏi khẩn thiết đặt ra là làm thế nào để cải thiện tình hình và ai mới là người dám xả thân vì lợi ích của cộng đồng? Chắc sẽ có nhiều câu trả lời cho vấn nạn này. Riêng với người Kitô hữu, có lẽ đa phần sẽ trả lời rằng, phải có linh mục, người đại diện Chúa Kitô ở trần gian để “ nhập thế” và hướng đạo cho muôn người. Linh mục được xem như “ vị mục tử nhân lành” chăn dắt đoàn chiên của Chúa. Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn sau: “ thật Thầy bảo thật các con: Ai không qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng cảu anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ” ( Ga10, 1-5 ).

Để trở thành mục tử, trước hết, linh mục phải là người “ đi qua cửa mà vào đàn chiên”, nghĩa là, thiên chức linh mục phải là hoa quả của một đời dâng hiến hoàn toàn tự nguyện chứ không bị gượng ép. Linh mục tự nguyện đáp lại tiếng “xin vâng” trước Giáo Hội khi lãnh tác vụ linh mục và từ đó trở thành “mục tử” trong cánh đồng truyền giáo. Khi đã quyết định tận hiến đời mình để phụng sự Chúa, linh mục không ngừng nổ lực để đảm đương sứ vụ của mình, theo lời dạy của Thầy Chí Thánh: “ Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” ( Mt 16, 24 ). Và từ đó, cuộc đời linh mục gắn chặt với từng con chiên và cả đàn chiên.

Trước hết, là chủ chăn thì phải làm sao để chiên có thể nghe tiếng của mình. Vậy, tiếng nói của linh mục được thể hiện ở phương diện nào đây? Đó là lời dạy đức tin. Linh mục giúp dân nhận ra tiếng Chúa, nhận ra Chúa là một Thiên Chúa gần gũi, cùng đồng hành với con chiên và sẵn sàng nghe tiếng khẩn cầu của chúng. Tiếng nói của linh mục phải là tiếng nói yêu thương, xoa dịu những đau buồn của người dân, trút đi gắng nặng âu lo cho họ. Như nai rừng tìm về nguồn nước, giáo dân cũng khát Chúa Trời, khát lời Chúa. Vì thế, giáo dân sẽ buồn biết bao khi không nhận được nơi linh mục một lời dạy đức tin, một lời động viên ủi an khi thất vọng, một niềm vui trong chốn u sầu. Lời nói của linh mục phải khiêm nhường và dễ thương. Muốn thế linh mục phải gắn kết đời mình với đấng khởi nguồn yêu thương là Thiên Chúa, là tình yêu để kín múc tình yêu của Người. Giáo dân sẽ rất tinh ý và nhận ra đâu là tiếng nói của Chúa, đâu là tiếng nói nặng tính phàm tục. Giáo dân hiện nay không còn phải là những người dân ngu muội, thất học nhưng là những tú tài, những cử nhân, những tiến sĩ, bác sĩ…Vì thế, lời nói của linh mục phải có trọng lượng, của một nguơi có học vấn thực sự chứ không đơn thuần là những lời kinh hạt ê a suốt ngày. Cho nên, linh mục phải không ngừng nâng cao kiến thức đạo đời, phải thức thời, phải nắp bắt mọi thông tin, mọi chuyển đổi của thời đại để hướng dẫn cho giáo dân của mình, phải lo trau truốt bài giảng, giảng phải hay thì giáo dân đi lễ mới nhiều…

Linh mục còn phải là người biết yêu, tức là hiểu được tâm tình, sở thích, của đối tượng mình yêu là giáo dân. Trong dụ ngôn, Chúa đã đưa ra những động từ rất dễ thương như gọi tên từng con và dẫn chúng ra. Gọi tên từng con có nghĩa là biết hết từng đối tượng như người già cả, kẻ ốm đau, thanh niên nam nữ, trẻ con, người giàu sang, kẻ cùng quẩn…Điều này quả thực chẳng dễ chút nào, bởi vì có những giáo xứ đông tới hàng nghìn giáo dân thì làm sao linh mục biết được từng con chiên một. Tuy nhiên, Biết ở đây không nhất thiết phải là biết tên từng cá nhân, gia đình nhưng biết tâm tư nguyện vọng của con chiên của từng giới. Cho nên, trong công tác mục vụ, linh mục phải linh động và đánh vào những điểm “nhấn” của từng vấn đề thích nghi với mọi giới, ví dụ: với giới trẻ linh mục cần tìm những hình thức hoạt động sôi nổi thể hiện tính trẻ trung và khuyến khích chúng tìm lý tưởng đích thực cho cuộc sống; với người già cả, nên dùng những phương pháp thiên về chiêm niệm, nguyện ngắm; với trẻ em thì những hình thức khơi lòng hiếu động như làm việc bác ái, thi đua làm việc lành… Linh mục cần tìm ra những khuyết điểm của giáo dân để bổ cứu và phát hiện những ưu điểm để khuyến khích, động viên. Một điều quan trọng nữa là linh mục phải nắm bắt được đặc trưng mục vụ của các vùng miền để đáp ứng cho thích hợp, ví dụ: không thể đem phương pháp mục vụ cho miền núi mà áp dụng cho đồng bằng, thành thị. Làm thế, chẳng khác nào xây nhà trên cát. Nếu linh mục cứ khăng khăng một phương pháp cổ hũ của mình cho mọi vùng miền thì không thể đáp ứng được với thời đại tân tiến như hôm nay. Việc đọc kinh cầu nguyện lâu giờ thậm chí suốt buổi chỉ có thể áp dụng được cho vùng quê, vùng sâu vùng xa, nơi đó người dân nhàn cư rãnh rang, nhưng không thể áp dụng cho giáo dân thành thị, cố đô, nơi người ta đang sống trong mọt xã hội xô bồ, chạy đua với thời gian, giờ giấc hành chính… Như thế, linh mục trở nên nguời của muôn người, “ làm dâu trăm họ” và hướng dẫn họ đi trong đường chân lý. Linh mục không còn chỉ biết sống cho riêng mình nữa; không còn trong biên giới của ích kỷ cá nhân mà vươn tới biên giới của muôn người, để sống cùng, sống với và sống vì con chiên.Tình yêu thương của linh mục giành cho con chiên không được vị kỷ hay thiên lệch. Linh mục sẵn sàng từ bỏ tình riêng để trao ban tình chung; linh mục khước từ những tình cảm vấn vương của gia đình để dang rộng cánh tay tới gia đình lớn hơn là Giáo Hội, nơi đó, muôn người là anh em. Hy sinh là dấu chỉ của tình yêu. Người tông đồ của Chúa phải biết yêu: yêu các linh hồn, không phải vì mình nhưng vì Chúa. Do đó, người tông đồ cần phải biết từ bỏ mình trong mọi sự để chỉ tìm lợi ích cho con chiên. Tình yêu của chủ chăn còn phải đượcthể hiện sống động bằng các cử chỉ bên ngoài như hỏi han, thăm nom con chiên, chia sẽ vui buồn với nó. Ngôn ngử của linh mục phải là ngôn ngử của bác ái. Chúng ta đã từng nghe tới tấm gương kiên trung của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, một “ mục tử nhân lành” của Giáo Hội Việt Nam chúng ta. Trong mười luật sống của ngài, chúng ta đọc thấy luật thứ 9 rằng: “ Tôi chỉ nói một thứ ngôn ngữ duy nhất và mặc một thứ trang phục: Bác Ai”. Ngài kể rằng: Tôi bị bắt giam trong một thời gian dài suốt 13 năm. Có hai tên cận vệ canh chừng tôi nhưng chẳng bao giờ nói với tôi một lời, chỉ “ có” và “ không”. Nhưng cuối cùng, họ trở thành anh em của tôi chẳng phải vì tôi cho họ cái gì trị giá bằng vật chất, nhưng tôi đã cho họ tình yêu của Chúa Kitô. Tôi đã cười với họ, đã dạy ngoại ngữ cho họ, đã coi họ là bạn tôi, là anh em tôi. Thiết tưởng, không riêng gì Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, mỗi linh mục cũng phải biết sống bác ái yêu thương như Chúa đã yêu thương. Tình yêu của linh mục phải giống như tình yêu của Chúa: yêu đến độ chịu chết và chết trên thập giá.

Để dẫn dắt đoàn chiên tới cánh đồng, tới nguồn suối mát, linh mục ( người chăn dắt các linh hồn) phải đi bước trước. Trong việc đạo đức, linh mục phải là tấm gương sống động về đời sống cầu nguyện. Linh mục phải tự nhận thức và giúp giáo dân nhận thức rằng đời sống cầu nguyện quá ư quan trọng:

“Nếu không thở bạn sẽ chết

Nhưng nếu không cầu nguyện,

Cuộc sống bạn chỉ trống rỗng vật vờ như các xác không hồn”

( Soren Kier Kegard )

Dù trong hoạt động nào, dù trong việc đạo đức nào, linh mục cũng phải chỉ cho giáo dân một điều, một điều duy nhất mà thôi đó là Thiên Chúa, một Thiên Chúa vô cùng yêu thương ta, đã tạo dựng nên ta và cứu ta bằng giá máu Con Của Ngài. Thật nguy hiểm khi giáo dân chỉ thấy được vẻ oai vệ của vị linh mục, chỉ thấy dược cái uy vì “ thét ra lửa” của ngài mà không thấy được khuôn mặt khả ái của Chúa. Linh mục ý thức sâu xa rằng mình là sứ giả của Chúa, mọi thành công của mình là của Chúa. Và, khi danh của mình lớn lên thì danh Chúa bị nhỏ lại; khi tiếng nói hống hách của mình ngự trị thì tiếng nói yêu thương của Chúa bị tắt lịm đi. Linh mục phải sống một đời đạo đức thực sự chứ không phải chỉ với hình thức bề ngoài. Khi nói về linh mục, có người cho rằng: nếu linh mục mà thực sự thánh thiện thì giáo dân đạo đức; khi linh mục kha khá thì giáo dân bình thường. Vậy khi đời sống đạo đức linh mục bình thường thì đời sống giáo dân thế nào đây? Đó là một câu hỏi đang chất vấn mọi “ mục tử” của Chúa và những ai đang tiếp bước trên con đường này.

Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thời đại phát triển, đời sống vật chất đầy đủ, nhiều phương tiện thông tin liên lạc hiện đại phục vụ hữu hiệu cho cuộc sống con người. Tuy nhiên, nhiều người, đặc biệt giới trẻ đang lâm vào con đường tội lỗi: xem phim ảnh xấu, quan hệ nam nữ bất chính diễn ra tràn lan, tình trạng nạo phá thai đầy dẫy. Đối với họ, quan niệm về tội lỗi xem ra bị lu mờ đi nhiều. Linh mục phải tìm hiểu sâu xa nơi bản thân, ý thức về sự dữ nặng nề do tội lỗi gây nên để hướng dẫn người dân tránh xa, đồng thời phải có thái độ khoan dung với họ. Linh mục phải mặc lấy con người yêu thương, tha thứ của Chúa Giêsu: yêu thương hết mình, yêu thương vô vị lợi và yêu thương đến chết. Sống trong một xã hội đầy dẫy những bất công, hận thù, chiến tranh, loạn lạc, linh mục phải là nguời dũng mãnh trong đức tin, người trấn an giáo dân của mình trong mọi cảnh huống nghiệt ngã của cuộc sống, như Chúa Giêsu đã nói: “ các con đừng sợ vì Thầy đã chiến thắng thế gian”.

Ngoài ra, linh mục không ngừng nâng cao kiến thức để thích ứng với mọi thời đại. Nhờ thế, đạo Chúa không ngừng được mở mang và “nhập thế” mọi nơi, mọi lúc. Có như thế người dân sẽ vững tin trong đời sống đạo vì có vị chủ chăn đáng kính, đáng tin của mình. Họ sẽ không nghe theo tiếng của người lạ vì họ đã có linh mục, người đại diện Chúa cho họ biết họ sẽ được sự sống viên mãn : “ Ai theo Thầy sẽ có sự sống đời đời”. Thế nhưng có những lúc linh mục trở thành người lạ của dân, đó là khi ngài không còn nói tiếng nói của Thiên Chúa nhưng là tiếng nói của con người, của lòng ích kỷ, của cường quyền, của kiêu căng hống hách. Thật đáng thương cho đoàn chiên nào có một vị mục tử như thế. Lũ sói sẽ đến và đoàn chiên sẽ tan tác. Nếu linh mục trở nên người lạ thì sự hiện diện của ngài sẽ mãi mãi là tiếng thở dài nức nở của con chiên mình.

Cánh đồng truyền giáo đang trải ra mênh mông trước mắt chúng ta, nhiều uẩn khúc, chông gai đang chờ. Giáo Hội đang ngày đêm kêu gọi và cổ võ những bước chân tận hién cho công cuộc loan báo Tin Mừng. Chúng ta hãy biết quảng đại đáp lại tiếng Chúa mời gọi để lên đường, hầu mang lại nhiều hoa trái. Và, khi đã lê đường, chúng ta không ngại đau khổ, chông gai vì đã có Chúa đồng hành với chúng ta, vì sức mạnh thập giá và phục sinh của Chúa Kitô bao giờ cũng lớn hơn tất cả mọi sự dữ mà con người có thể sợ và phải sợ: “ Anh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối không diệt được ánh sáng”. Mong sao các linh mục mãi mãi là những “mục tử nhân lành” của Chúa để dẫn dắt đoàn chiên Chúa tới cánh đồng đầy hoa thơm cỏ lạ, đầy gió mát trăng thanh, đầy suối mát sông dài , đầy hạnh phúc là nước thiên đàng mai sau.

Jos. Đồng Lạc
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Chim Sẻ Vườn Nhà
Thérésa Nguyễn
21:41 22/05/2014
CHIM SẺ VƯỜN NHÀ
Ảnh của Thérésa Nguyễn
Em như chim sẻ ngoài song,
Vô tư chi lạ để lòng ta mơ.
(Trích thơ của Nguyễn Phan Nhật Nam)
 
VietCatholic TV
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 17/05 – 22/05/2014 - Bức Tường Than Khóc của Giêrusalem
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
11:09 22/05/2014
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Buổi triều yết chung thứ Tư 21 tháng 5

Trong buổi triều yết chung hôm thứ Tư 21 tháng 5 trước hàng mấy chục ngàn tín hữu và khách hành hương, Đức Thánh Cha đã đề cập đến Ơn Khôn Ngoan trong loạt bài nói về Bẩy ơn Chúa Thánh Thần.

Ngài nói:

Anh chị em thân mến : Tiếp tục loạt bài giáo lý của chúng ta về bảy ơn của Chúa Thánh Thần, giờ đây chúng ta xem xét đến ân sủng tri thức. Thông qua ân sủng siêu nhiên này, chúng ta có thể nhìn tất cả mọi người, và thế giới xung quanh chúng ta, dưới ánh sáng kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Trong một nghĩa nào đó, chúng ta thấy vẻ đẹp , sự hài hòa và sự tốt lành của tất cả kỳ công sáng tạo với con mắt của Thiên Chúa là Đấng đã tạo thành trời đất. Từ cuộc sống của Thánh Phanxicô thành Assisi và rất nhiều vị thánh khác, chúng ta thấy rõ rằng ơn khôn ngoan làm phát sinh sự chiêm ngưỡng với lòng biết ơn thế giới tự nhiên và sự khen ngợi vui mừng Đấng Tạo Hóa. Ơn sủng siêu nhiên này dẫn chúng ta đến sự tôn trọng kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa và sự quản lý khôn ngoan các nguồn tài nguyên thiên nhiên hầu mưu ích cho toàn thể gia đình nhân loại. Nó cũng khiến tầm nhìn của chúng ta có thể vươn xa hơn những thực tại trần thế, để thấy rằng trật tự, giá trị và vẻ đẹp của thiên nhiên là những dấu chỉ hướng về Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch và là chung cuộc của mọi thứ. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta lớn lên trong sự hiểu biết để chúng ta có thể cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa đang hướng dẫn thế giới, và biết đáp lại với lòng biết ơn và sự ngợi khen Chúa vì sự tốt lành và tình yêu vô hạn của Ngài .

2. Họp báo về chuyến viếng thăm Thánh Địa của Đức Thánh Cha


Sáng 15 tháng Năm, phòng Báo Chí Tòa Thánh đã có cuộc họp báo liên quan đến chuyến thăm Thánh Địa của Đức Thánh Cha bắt đầu vào thứ Bẩy 24 tháng Năm tới đây.

Thứ Bẩy 24 tháng 5


Lúc 8:15 sáng thứ Bẩy 24 tháng 5, Đức Thánh Cha sẽ khởi hành từ phi trường Fiumicino để bay đi Amman thủ đô của Jordan nơi Quốc vương Abdullah và Hoàng hậu Rania sẽ chào đón ngài tại phi trường Hoàng Hậu Alia lúc 13h.

Cuộc tiếp kiến chính thức sẽ diễn ra tại cung điện Hoàng gia lúc 13:45. Một giờ sau đó, Đức Thánh Cha sẽ đọc một diễn từ trước các nhà lãnh đạo chính trị và dân sự của Jordan.

Lúc 16h, ngài sẽ cử hành thánh lễ tại sân vận động quốc tế của thủ đô Amman. Cha Federico Lombardi cho biết:

"Tại Jordan có rất nhiều người tị nạn từ rất nhiều quốc gia như Syria , Iraq và Palestine, vì vậy chắc chắn tất cả các nhóm này sẽ có đại diện trong số những người được Rước Lễ đầu tiên."

Lúc 19h, Đức Thánh Cha đến Bethany để viếng thăm sông Jordan nơi Chúa Giêsu đã được Thánh Gioan Tiền Hô rửa tội. Nơi đây cũng sẽ diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Đức Thánh Cha với những người tị nạn và những người trẻ khuyết tật.

Điều thú vị là trong phái đoàn của Vatican sẽ có hai người không phải là các viên chức tại Vatican. Cha Giám Đốc phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết:

“Phái đoàn của Đức Giáo Hoàng sẽ bao gồm Rabbi Skorka và ông Omar Ahmed Abboud là Tổng thư ký của Viện Đối thoại Liên tôn Á Căn Đình. Đức Thánh Cha quen biết cả hai vị này từ thời ngài là Tổng Giám Mục Buenos Aires. "

Ngày Chúa Nhật 25 tháng 5

Sáng Chúa Nhật, sau nghi lễ tiễn biệt tại phi trường Hoàng Hậu Alia diễn ra lúc 8:15, Đức Thánh Cha sẽ đáp trực thăng tới Bethlehem trong phần đất của Palestine. Tại đó, sau cuộc gặp gỡ với Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas vào lúc 9:30 tại dinh Tổng Thống, Đức Thánh Cha sẽ đọc một diễn từ trước các nhà lãnh đạo chính trị và dân sự của Palestine lúc 10h và lúc 11h ngài chủ sự một thánh lễ tại Quảng trường Máng Cỏ.

Lúc 13:30 ngài sẽ ăn trưa với một số gia đình người Palestine tại tu viện Casa Nova của dòng anh em hèn mọn.

Sau khi ăn trưa, lúc 15h ngài sẽ đến thăm hang đá Giáng sinh, nơi Ngôi Hai xuống thế làm người và thăm các trẻ em đến từ các trại tị nạn Deheisheh, Aida và Beit Jibrin tại trung tâm sinh hoạt của trại tị nạn Deheisheh.

Lúc 16:00, ngài sẽ đáp máy bay trực thăng đến phi trường quốc tế Ben Gurion của thủ đô Tel Aviv.

Sau nghi thức chào đón của các nhà lãnh đạo Do Thái, lúc 17:15, Đức Thánh Cha sẽ bay ngược trở lại Jerusalem. Nửa giờ sau đó, trực thăng sẽ hạ cánh tại núi Scopus.

Lúc 18:15, Đức Thánh Cha sẽ có cuộc gặp gỡ với Đức Thượng Phụ Đại Kết thành Constantinope tại dinh Sứ Thần Tòa Thánh ở Jerusalem. Nơi đây, hai vị sẽ ký kết một tuyên bố chung.

Lúc 19h tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Mộ Đức Thánh Cha sẽ có cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo Công Giáo và Chính Thống Giáo, nhân kỷ niệm 50 năm cuộc gặp gỡ diễn ra năm 1964 giữa Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục và Đức Thượng Phụ Athenagoras.

Cha Federico Lombardi lưu ý cá ký giả chi tiết sau:

"Lúc đó, Đức Phaolô Đệ Lục và Đức Thượng Phụ cùng đọc kinh 'Lạy Cha' với nhau, nhưng không công khai. Lần này, việc cầu nguyện chung này được thực hiện công khai và nó sẽ được phát sóng quốc tế. Đó sẽ là một thời điểm đại kết với biểu tượng phi thường. "

Lúc 20h15, ngài sẽ dùng bữa tối tại Tòa Thượng Phụ Công Giáo Nghi Lễ La Tinh.

Thứ Hai 26 tháng 5


Lúc 8:15, sáng thứ Hai, Đức Thánh Cha sẽ đến thăm vị đại giáo trưởng Hồi Giáo của Jerusalem tại đền thờ Hồi giáo Jerusalem. Sau đó, Đức Thánh Cha sẽ tới thăm Bức tường Than Khóc và viện bảo tàng Yad Vashem. Ngài cũng sẽ gặp gỡ với hai đại giáo trưởng sĩ của Israel, Tổng thống Shimon Peres và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu.

Lúc 15:30, Đức Thánh Cha sẽ có cuộc gặp gỡ lần thứ hai với Đức Thượng Phụ Đại Kết thành Constantinope tại núi Cây Dầu.

Lúc 16h, Đức Giáo Hoàng sẽ gặp gỡ với các linh mục, các tu sĩ nam nữ tại nhà thờ Giệtsimani ở núi Cây Dầu. Ngài sẽ chủ lễ tại nhà Tiệc Ly vào lúc 17:20.

Lúc 19:30 ngài sẽ khởi hành đi Tel Aviv nơi sẽ diễn ra buổi lễ tiễn biệt của nhà nước Do Thái tại phi trường quốc tế Ben Gurion của thủ đô Tel Aviv vào lúc 20h.

Sau đó, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ bay trở lại Rôma.

Dự kiến máy bay sẽ hạ cánh lúc 11 giờ đêm hôm đó.

5. Bức tường than khóc

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Nhân chuyến viếng thăm Thánh Địa của Đức Thánh Cha Phanxicô, chúng tôi xin kính mời quý vị và anh chị em thăm viếng một kỳ quan của Giêrusalem là Bức Tường Than Khóc hay cũng gọi là Bức Tường Phía Tây.

Ba ngàn năm trước Chúa Giáng Sinh, Giêrusalem chỉ là vùng đất nhỏ bé. Người Canaan đã đến đó sinh sống, đồng hoá sắc dân bản địa. Vua Đa Vít đã quyết định chọn Giêrusalem là thủ đô và khoảng năm 1000 trước Chúa Giáng Sinh, con ông, là vua Salomon đã cho kiến thiết một Đền thờ Giêrusalem vĩ đại nhất thời bấy giờ.

Đến năm 586, trước Chúa Giáng Sinh, đền thờ do vua Solomon xây bị đế quốc Babylon phá huỷ. Đến năm 19 trước khi Chúa Giáng Sinh, vua Herôđê xây lại hết sức nguy nga đồ sộ.

Khi đế quốc La Mã dẹp vụ nổi loạn của người Do Thái vào năm 70 sau Chúa Giáng Sinh thì ngôi đền đã bị phá hủy chỉ còn lại một bức tường phía Tây vẫn còn tồn tại đến ngày hôm nay. Sở dĩ bức tường này có tên là Than Khóc là vì nơi đây chính là nơi mà người Do Thái thường tới cầu nguyện và than khóc cho thân phận lạc loài, lưu vong mất nước của họ từ cả ngàn năm về trước.

Theo dòng lịch sử, Giêrusalem đã bị phá hủy ít nhất hai lần, bị bao vây 23 lần, bị tấn công 52 lần, và bị chiếm và tái chiếm lại 44 lần.

Bức tường than khóc dài 57 thước tọa lạc tại khu vực Núi Đền làm bằng đá vôi cao 20 thước và gồm có 45 phiến đá rất lớn, trung bình mỗi phiến nặng từ 2 đến 3 tấn và có phiến lớn nhất nặng hàng trăm tấn. Cho đến nay các nhà khảo cổ vẫn chưa tìm ra được kỹ thuật của cổ nhân làm thế nào để di chuyển những phiến đá đó và ráp thành những bức tường tại ngôi đền thờ.

Phía sau bức tường là thành cổ Giêrusalem được chia thành các khu là khu Armenia, khu Kitô Giáo, khu Do Thái Giáo, và khu Hồi giáo. Thành cổ đã trở thành một di sản thế giới vào năm 1981. Hiện tại Giêrusalem đã phát triển vượt xa ranh giới thành phố cổ.

Hàng ngày, đông đảo người Do Thái Giáo đến cầu nguyện trước bức tường. Những người có điều gì ước muốn thì viết một bức thư rồi gắn vào một kẽ trong bức tường. Hàng ngày có hàng ngàn người tới viết “ thỉnh nguyện thư” tại bức tường này. Các lá thư đó đều được thu góp lại và đem đi chôn cất tại núi Cây Dầu.

6. Chuyến viếng thăm Thánh Địa của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II


Cuộc thăm viếng năm 2000 của Đức Gioan Phaolô II được chào đón như một ánh sáng mới trên mối liên hệ giữa Tòa Thánh và Do Thái và được truyền thông thế giới chào đón như một bước đột phá trong nền ngoại giao quốc tế. Không như cuộc viếng thăm của Đức Phaolô VI, cuộc viếng thăm này có tính chính thức. Ngoài việc viếng thăm các nơi thánh, Đức Gioan Phaolô II còn viếng Bức Tường Than Khóc và viện bảo tàng Yad Vashem tưởng niệm biến cố Diệt Chủng, vốn được coi như chủ yếu đối với Do Thái Giáo.

Và hành vi đặt lời cầu nguyện của ngài tại Bức Tường Than Khóc vào ngày 26 tháng Ba năm 2000 đã được người Do Thái đặc biệt lưu ý. Lời Cầu Nguyện ấy như sau:

“Lạy Thiên Chúa của cha ông chúng con,

Chúa đã chọn Ápraham và dòng dõi ngài

để đem Danh Chúa tới mọi dân tộc:

Chúng con rất buồn

Vì tác phong của những người

Trong dòng lịch sử

Đã khiến những con cái này của Chúa phải chịu đau khổ,

Và trong khi xin Chúa tha thứ

Chúng con muốn theo đuổi tình huynh đệ chân thực

với Dân Giao Ước”.

7. Chuyến viếng thăm Thánh Địa của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16

Chín năm sau, người kế vị Đức Gioan Phaolô II cũng tới thăm chính thức Do Thái. Cuộc viếng thăm của Đức Bênêđíctô XVI cũng để lại nhiều ấn tượng sâu sắc cả về tôn giáo lẫn chính trị. Tuy nhiên, người Do Thái vẫn lưu ý hơn cả tới lời cầu nguyện ngài đặt vào một hốc đá khác của cùng Bức Tường Than Khóc vào ngày 12 tháng Năm, 2009:

“Lạy Thiên Chúa của mọi thời đại,

Trong cuộc thăm viếng Giêrusalem, “Kinh Thành Hòa Bình” của con,

Quê hương thiêng liêng của người Do Thái, của người Công Giáo cũng như của người Hồi Giáo,

Con mang tới trước Ngài các niềm vui, niềm hy vọng và hoài mong,

Các thử thách, đau khổ và đớn đau của mọi người dân của Ngài trên khắp thế giới.

Lạy Thiên Chúa của Ápraham, của Ixaác và của Giacóp,

Xin lắng nghe tiếng kêu than của người sầu khổ, người sợ sệt, người bị tước đoạt;

Xin ban bình an của Ngài xuống cho Đất Thánh này, xuống Trung Đông này, xuống toàn thể gia đình nhân loại;

Xin hãy đánh động tâm hồn tất cả những ai kêu cầu Thánh Danh Ngài,

Để họ biết khiêm hạ bước theo con đường công lý và cảm thương.

‘Chúa nhân hậu với những ai chờ mong Người,

Với linh hồn biết tìm kiếm Người!’” (Ac 3:25).

Qua lời nguyện này, Đức Bênêđíctô XVI muốn nhắc mọi người nhớ tới nét đặc thù và nét phổ quát của hành trình cứu rỗi: “hành trình cứu rỗi này khởi đầu với việc tuyển chọn một con người, tức Ápraham và một dân tộc, tức Israel, nhưng mục tiêu của nó là đại đồng, phổ quát, tức là ơn cứu rỗi cho mọi dân tộc”. Bởi thế mà ngài khởi đầu lời cầu nguyện tại Bức Tường Than khóc không phải với Chúa của Ápraham mà là với “Thiên Chúa của mọi thời đại”.

8. Đức Thánh Cha tiếp kiến 112 Giám Mục Mễ Tây Cơ

Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi thăng tiến tinh thần hòa hợp tại Mễ Tây Cơ trước làn sóng bạo lực đang lan tràn tại nước này.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bài huấn dụ trao cho 112 Giám Mục Mễ Tây Cơ buổi tiếp kiến sáng 19-5-2014, nhân dịp các vị về Roma hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Đức Thánh Cha nhận định rằng: “Trong tình trạng hiện nay, nhiều bạo lực đang gây đau thương cho xã hội Mễ Tây Cơ, đặc biệt là người trẻ. Tình trạng ấy là một lời kêu gọi mới mẻ hãy canh tân tinh thần hòa hợp qua nền văn hóa gặp gỡ, đối thoại và hòa bình. Chắc chắn các vị mục tử không có nhiệm vụ phải mang lại những giải pháp chuyên môn hoặc các biện pháp chính trị, vượt ra ngoài lãnh vực mục vụ, nhưng các vị không thể ngưng loan báo cho mọi người Tin Mừng, theo đó Thiên Chúa, theo lượng từ bi của Ngài, đã làm người và trở nên người nghèo (Xc 2 Cr 8,9); Chúa đã chịu đau khổ với người khổ đau, để cứu vớt chúng ta”.

Đức Thánh Cha khích lệ những cố gắng của các Giám Mục Mễ Tây Cơ trong việc giúp đỡ những người túng thiếu, thất nghiệp hoặc những người phải làm việc trong những điều kiện không xứng đáng với con người, những người không được hưởng các dịch vụ xã hội, những người di cư tìm kiến những điều kiện sống tốt đẹp hơn, các nông dân nghèo.

Đức Thánh Cha cũng viết: “Tôi biết mối quan tâm lo lắng của anh em đối với các nạn nhân của tệ nạn buôn bán ma túy và các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, và quyết tâm bảo vệ các quyền con người cũng như sự phát triển toàn diện con người. Tất cả những điều đó biểu lộ mối liên hệ sâu xa giữa việc loan báo Tin Mừng và sự tìm kiếm thiện ích của người khác (Evang. gaudium 178), chắc chắn mang lại uy tín cho Giáo Hội và tầm quan trọng cho tiếng nói của các mục tử của Hội Thánh”. Cũng trong bài huấn dụ, Đức Thánh Cha đề cao vai trò của giáo dân trong sứ mạng của Giáo Hội: giáo dân kín múc sức mạnh từ Lời Chúa, các bí tích và việc cầu nguyện, sống đức tin giữa lòng gia đình, trường học, xí nghiệp, phong trào nhân dân, công đoàn, đảng phái và cả trong chính phủ, làm chứng về niềm vui Phúc Âm”.

Đức Thánh Cha mời gọi các Giám Mục Mễ Tây Cơ tăng cường việc mục vụ giới trẻ, đặc biệt ngài viết: “Tôi khích lệ anh em tăng cường việc mục vụ gia đình, là giá trị quí giá nhất trong các dân tộc chúng ta, để, đứng trước nền văn hóa chết chóc hạ giá con người, gia đình biến thành những người cổ võ nền văn hóa tôn trọng sự sống trong mọi giai đoạn, từ lúc mới thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên”.

Đức Thánh Cha không quên mời gọi các Giám Mục quan tâm đến các linh mục, tăng cường việc thường huấn cho các vị, thăng tiến mục vụ ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến, và đẩy mạnh việc tìm đến những người đã xa lìa Giáo Hội.

112 Giám Mục thuộc 91 giáo phận Mễ Tây Cơ chia thành 9 nhóm về Roma thăm Tòa Thánh trong khoảng thời gian từ 12 đến 31-5 tới đây. Trong những ngày tới, Đức Thánh Cha tiếp tục gặp các nhóm thuộc Hội Đồng Giám Mục nước này.

9. Buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng


Trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng với hơn 50 ngàn tín hữu trưa Chúa Nhật 19 tháng 5 tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cổ võ cách thức giải quyết các xung đột trong cộng đoàn Giáo Hội.

Ngài đã quảng diễn đoạn sách Tông Đồ Công Vụ, đọc trong thánh lễ Chúa Nhật thứ 5 mùa Phục Sinh năm A nói đến những căng thẳng trong cộng đoàn Kitô và quyết định của các Tông Đồ chuyên lo việc cầu nguyện và sứ vụ Lời Chúa và thiết lập các phó tế để chăm sóc cộng đoàn về vật chất. Từ đó, Đức Thánh Cha rút ra bài học để giải quyết các vấn đề trong cộng đoàn Giáo Hội.

Ngài nói:

Anh chị em thân mến, chào anh chị em

Hôm nay bài đọc trích từ Sách Tông Đồ Công Vụ cho chúng ta thấy cả trong Giáo Hội sơ khai cũng xảy ra những căng thẳng và bất hòa. Trong cuộc sống, có những xung đột, vấn đề là ta đối phó với chúng như thế nào. Cho đến lúc bấy giờ sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô được dễ dàng nhờ sự kiện các tín hữu thuộc về một chủng tộc và văn hóa duy nhất, văn hóa Do thái. Nhưng khi Kitô giáo, do thánh ý Chúa Giêsu, được mở ra cho tất cả mọi dân tộc, mở ra đối với môi trường văn hóa Hy Lạp, thì sự đồng nhất không còn nữa và nảy sinh những khó khăn đầu tiên. Khi đấy có những người bất mãn, trách móc, và có những tiếng đồn về sự thiên vị và không được đối xử đồng đều. Điều này cũng xảy ra trong các giáo xứ của chúng ta. Sự giúp đỡ của cộng đoàn dành cho những người túng thiếu - các góa phụ, cô nhi và người nghèo nói chung, dường như ưu đãi các tín hữu Kitô gốc Do thái so với những người khác.

Bấy giờ, trước xung đột ấy các Tông Đồ đối phó với tình thế: các vị triệu tập một cuộc họp mở rộng cho các môn đệ, cùng nhau thảo luận vấn đề. Thực vậy các vấn đề được giải quyết không phải bằng cách làm bộ như thể chúng không hề hiện hữu! Và thật là đẹp cuộc đối chất thẳng thắn giữa các mục tử và các tín hữu khác. Vì thế họ đi đến sự phân chia nhiệm vụ. Các tông đồ đưa ra một đề nghị được mọi người chấp nhận: các vị chuyên chăm việc cầu nguyện và sứ vụ Lời Chúa, trong khi 7 người, các phó tế, sẽ lo việc phục vụ bàn ăn cho người nghèo. 7 người này không được chọn vì là chuyên gia, nhưng vì họ là những ngừơi lương thiện và có tiếng tốt, đầy Thánh Linh và khôn ngoan; họ được bổ nhiệm công tác phục vụ nhờ sự đặt tay của các Tông Đồ.

Và thế là từ sự bất mãn ấy, từ sự kêu trách đó, từ những tiếng đồn về sự thiên vị và đối xử không đồng đều, người ta đi đến một giải pháp. Qua sự đối chiếu, thảo luận và cầu nguyện, các xung đột trong Giáo Hội được giải quyết. Đối chiếu, thảo luận và cầu nguyện. Với xác tín rằng những sự nói hành nói xấu, ghen tương, phân bì không bao giờ có thể đưa chúng ta đến sự hòa hợp, thuận hòa hoặc an bình. Trong những trường hợp như thế, chính Thánh Linh giúp đạt tới thỏa thuận và điều này làm cho chúng ta hiểu rằng khi chúng ta để cho Thánh Linh hướng dẫn, Ngài sẽ dẫn chúng ta đến sự hòa hợp, hiệp nhất và tôn trọng các năng khiếu và tài năng khác nhau? Anh chị em có hiểu rõ không? Không nói hành nói xấu, không ghen tương, không phân bì.

Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Linh, để chúng ta biết quí chuộng nhau và ngày càng đồng qui sâu xa hơn trong đức tin và tình bác ái, giữ cho con tim được cởi mở đối với các nhu cầu của anh chị em.

10. Lễ phong chân phước Giám Mục Anton Durcovici

Hôm thứ Bẩy 17 tháng 5, tại thành phố Iasi bên Rumani, Đức Hồng Y Angelo Amato, Tổng Trưởng Bộ Phong Thánh đã thay mặt Đức Thánh Cha phong chân phước cho Đức Giám Mục Anton Durcovici, theo sau sắc lệnh được Đức Thánh Cha chuẩn y hôm 31/10 năm ngoái.

Trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trưa Chúa Nhật 18 tháng 5, sau khi ban phép lành cho các tín hữu, Đức Thánh Cha đã đề cập đến biến cố này.

Ngài nói:

Anh chị em thân mến,

“Hôm 17 tháng 5, tại thành phố Iasi bên Rumani, Đức Giám Mục Anton Durcovici tử đạo đã được phong chân phước. Ngài là một mục tử nhiệt thành và can đảm, bị chế độ cộng sản Rumani bách hại và chết trong tù năm 1951 vì đói khát. Cùng với các tín hữu tại Iasi và toàn thể Rumani, chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa!”

Đức Cha Antôn Durcovici sinh năm 1888 tại Altenburg bên Áo. Năm lên 6 tuổi, cậu Anton di cư sang Rumani với mẹ và anh. Thầy Anton gia nhập chủng viện tại Bucarest, rồi được gửi sang Roma theo học, đậu tiến sĩ triết học, thần học và giáo luật, thụ phong linh mục năm 1910 và năm 1947 cha được Tòa Thánh bổ làm Giám Mục giáo phận Iasi.

Dưới thời cộng sản ở Rumani, ngài đã phải chịu những đau khổ kinh khủng trong 2 năm tù ngục ở một trại tập trung bên Moldavia thời thế chiến thứ I, vì gốc gác tại Áo.

Trong những năm chế độ cộng sản Rumani bách hại Giáo Hội, mặc dù nhiều lần bị nhà nước hăm dọa, nhưng Đức Cha Durcovici vẫn tận tụy thi hành sứ vụ mục tử, viếng thăm các giáo xứ và loan báo Tin Mừng. Ngài bị bắt năm 1949 và giam tại nhà tù nghiêm ngặt ở Sighet và chết rũ tù tại đây ngày 10-5 năm 1951 lúc mới được 63 tuổi. Sáng sớm hôm sau, tài xế của nhà tù chở thi hài trần trụi của Đức Cha và quẳng xuống một huyệt chung tại nghĩa trang Do thái, gần nhà tù.

11. Đức Thánh Cha mở lại các buổi tiếp kiến sau khi bị cảm

Trong buổi họp báo sáng thứ Sáu 16 tháng 5, cha Federico Lombardi, giám đốc phòng Báo chí Tòa Thánh nói Đức Thánh Cha bị cảm nhẹ nên sau khi cử hành thánh lễ tại nhà nguyện Santa Marta, ngài đã phải hủy bỏ các cuộc tiếp kiến trong ngày để nghỉ ngơi và chuẩn bị cho chuyến thăm Thánh Địa bắt đầu từ ngày 24 tháng 5 tới đây.

Tuy nhiên, sáng thứ Bẩy, 17 tháng 5, Đức Thánh Cha đã mở lại một loạt các cuộc tiếp kiến mà ngài đã hoãn lại hôm trước đó.

Từ 9 giờ rưỡi sáng, Đức Thánh Cha đã tiếp Đức Hồng Y Marc Ouellet, Tổng trưởng Bộ Giám Mục, rồi gặp chung trong hơn 1 tiếng rưỡi đồng hồ 22 Giám Mục Mêhicô nhân dịp các vị về Roma hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Sau đó, lúc quá 12 giờ trưa, ngài gặp 5 ngàn thành viên thuộc Hiệp Hội những người thợ thầm lặng của Thập Giá - các trung tâm thiện nguyện giúp người đau khổ. Hiện diện tại buổi tiếp kiến ở Đại thính đường Phaolô 6 ở Nội thành Vatican cũng có 350 anh chị em bệnh nhân ngồi trên ghế lăn.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, Đức Thánh Cha giải thích Lời Chúa Giêsu trong mối phúc thật: “Phúc cho những người khóc lóc vì họ sẽ được an ủi” (Mt 5,4). Qua lời ngôn sứ này, Chúa Giêsu nói đến một tình thế trong đời sống trần thế mà mọi người gặp phải.

Đức Thánh Cha nói: “Khi khẳng định 'Phúc cho người khóc lóc', Chúa Giêsu không có ý gọi một hoàn cảnh bất lợi và nặng nề trong cuộc sống là điều hạnh phúc. Đau khổ tự nó không phải là một giá trị, nhưng là một thực tại mà Chúa Giêsu dạy chúng ta sống với một thái độ đúng đắn. Thực vậy có những cách thức đúng và cách sai trái khi sống đau khổ. Một thái độ sai trái là sống đau khổ một cách thụ động, chịu đau khổ trong thái độ ù lì cam chịu. Cả thái độ nổi loạn cũng là sai trái. Chúa Giêsu dạy chúng ta sống đau khổ bằng cách chấp nhận thực tại cuộc sống với niềm tín thác và hy vọng, đặt tình yêu Thiên Chúa và tha nhân cả trong đau khổ và tình yêu biến đổi mọi sự”.

Đức Thánh Cha nhắc đến giáo huấn của chân phước linh mục Luigi Novarese, người sáng lập “Hiệp hội những người Thợ thầm lặng của Thập giá và Trung tâm thiện nguyện đau khổ”. Cha dạy các bệnh nhân và những người khuyết tật đề cao giá trị đau khổ của họ giữa lòng một hoạt động tông đồ được thi hành trong lòng tin và yêu mến tha nhân. Cha thường nói: “Các bệnh nhân phải cảm thấy mình là tác giả chính việc tông đồ của mình”. Một bệnh nhân, một người khuyết tật có thể trở thành trợ lực và ánh sáng cho những người đau khổ khác, và nhờ đó biến đổi môi trường mình đang sống”.

Và Đức Thánh Cha kết luận rằng: “Với đoàn sủng này, anh chị em là một món quà đối với Giáo Hội. Những đau khổ của anh chị em, như những vết thương của Chúa Giêsu, một đàng là cớ vấp phạm đối với đức tin, nhưng đàng khác, đó là một sự kiểm chứng đức tin, một dấu hiệu chứng tỏ Thiên Chúa là Tình Thương, Người trung thành và từ bi, là Đấng an ủi. Hiệp với Chúa Kitô Phục Sinh, anh chị em là những người tích cực hoạt động cho công trình cứu độ và loan báo Tin Mừng” (Christifideles laici 54)

12. Đức Giáo Hoàng nói với các tân Đại sứ đến trình ủy nhiệm thư: Thật là vô lý khi vừa thúc đẩy hòa bình, vừa cổ vũ việc bán vũ khí

Đức Giáo Hoàng chào đón bảy vị tân đại sứ cạnh Tòa Thánh. Đó là các đại sứ đến từ Thụy Sĩ, Liberia, Ethiopia, Sudan, Jamaica, Nam Phi và Ấn Độ.

Đức Giáo Hoàng nói rằng trước khi nói đến các cuộc đàm phán hòa bình, việc mua bán vũ khí phải dừng lại.

Ngài nói:

"Thật là vô lý khi vừa tham gia vào các cuộc đàm phán hòa bình và thương lượng, nhưng đồng thời lại thúc đẩy hay cho phép việc buôn bán vũ khí."

Đức Thánh Cha cũng bày tỏ quan ngại về tình hình người tị nạn, và thêm rằng nhân quyền không phải là điều chỉ nói xuông mà thôi, nhưng cần được bảo vệ.

Ngài nói:

“Hiện tượng buộc phải di cư gắn liền với các cuộc xung đột và chiến tranh, và do đó, vấn đề gia tăng vũ khí mà tôi đã trình bày ở phần trước có liên quan tới. Chúng là những thương tích trong một thế giới mà chúng ta đang sống, ở đó Thiên Chúa mời gọi chúng ta phải chịu trách nhiệm về anh chị em mình, để không còn ai bị tổn thương về nhân phẩm. Chúng ta cũng có thể nhận ra rằng sẽ là một sự phỉ báng khi công nhận nhân quyền nhưng đồng thời bỏ qua hoặc không chịu trách nhiệm về những con người khi ngăn cản họ rời bỏ những vùng đất của họ, để họ chết mà không được ra đi hay không nhận được sự hợp tác quốc tế.”

“Thưa quý vị, hôm nay Tòa Thánh nói lên điều này đến quý vị và Chính phủ của quý vị để hô hào một quyết tâm đẩy mạnh hợp tác trên các mặt trận và trong tất cả các con đường dẫn đến công lý và hòa bình, trên cơ sở công nhận quyền con người.”

13. Thông qua các tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Gia Đình

Ủy ban Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới đã có phiên khoáng đại trong hai ngày 13 và 14 tháng Năm để thông qua các tài liệu làm việc cho cuộc họp tháng Mười của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về gia đình.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ toạ cuộc họp ngày 13 tháng Năm. Trong những phiên họp các thành viên của Hội đồng đã xem xét các tài liệu làm việc, được gọi là laboris Instrumentum, và xem xét những sửa đổi cần thiết. Các vị cũng thảo luận về những đề xuất thay đổi trong hoạt động của Thượng Hội Đồng.

Thượng Hội Đồng Giám Mục sẽ nhóm phiên bất thường vào tháng Mười, để thảo luận về những thách thức mục vụ của gia đình trong bối cảnh truyền giáo. Cuộc họp thường kỳ tiếp theo của Thượng Hội Đồng, dự kiến năm 2015, sẽ được dành cho cùng một chủ đề .

Tham gia vào các cuộc họp trong tuần này có Đức Hồng Y Lorenzo Baldisseri , Tổng thư ký của Thượng Hội Đồng ; Đức Hồng Y Peter Erdo, là vị tổng tường trình cho các cuộc họp tháng mười; Hồng Y Andre Vingt -Trois của Paris và Đức Hồng Y Raymund Damasceno Assis của Aparecida, Brazil, là những vị sẽ chủ toạ các cuộc họp của Thượng Hội Đồng.

14. Đức Thánh Cha gặp gỡ Thống đốc Tân Tây Lan

Hôm thứ Năm 15 tháng 5, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp thống đốc Tân Tây Lan là ông Jerry Mateparae tại Điện Tông Tòa của Vatican.

Trong cuộc họp, hai vị đã nói về vai trò của Giáo Hội Công Giáo tại Tân Tây Lan và trao đổi về các vấn đề quốc tế như các sứ vụ gìn giữ hòa bình và các chương trình khác nhau.

Vị thống đốc đã tặng Đức Giáo Hoàng một hòn đá san hô rất biểu tượng.

Thống đốc Jerry Mateparae của Tân Tây Lan nói:

"Đây là một hòn đá san hô. Nó thể hiện hòa bình và sự hiểu biết. Những điều đó được viết ở đây."

Đức Thánh Cha Phanxicô đã tặng lại cho thống đốc một cây bút.

Thống đốc nói:

"Con sẽ sử dụng cho các tài liệu quan trọng. Cảm ơn Đức Thánh Cha"

Sau cuộc họp vị thống đốc đã mời Đức Giáo Hoàng Phanxicô đến thăm Tân Tây Lan.

"Chúng con sẽ rất vinh dự nếu Đức Thánh Cha đến thăm chúng con trong một chương trình tông du thế giới. Con sẽ thông báo cho tất cả mọi người mà con gặp gỡ."

15. Đức Thánh Cha nói: Phải dừng ngay những cảnh chết người hàng loạt này

Vào cuối buổi tiếp kiến chung hôm thứ Tư 14 tháng 5, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cầu nguyện cho những người thợ mỏ đã chết ở Thổ Nhĩ Kỳ và những người nhập cư bị chết đuối ở Địa Trung Hải.

Tại thành phố Soma của Thổ Nhĩ Kỳ, một vụ nổ xảy ra ở hầm mỏ đã giết chết hơn 200 công nhân. Hàng trăm người khác vẫn còn bị mắc kẹt trong mỏ.

Trong một bi kịch khác, một nhóm người nhập cư đã bị chết đuối dọc theo Địa Trung Hải khi họ cố gắng vượt biển đến châu Âu.

Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến:

"Tôi xin anh chị em cầu nguyện cho những người thợ mỏ đã chết ngày hôm qua tại thành phố Soma, Thổ Nhĩ Kỳ. Và cầu nguyện cho cả những người vẫn còn đang bị mắc kẹt trong hầm mỏ. Xin Chúa chào đón họ trong nhà của Ngài và xin Ngài an ủi gia đình họ.

Chúng ta cũng cầu nguyện cho những người gần đây bị thiệt mạng dọc theo Địa Trung Hải. Chúng ta hãy cầu nguyện để quyền con người được coi là tối thượg, và các cơ quan chức năng có thể làm việc cùng nhau để ngăn chặn những vụ chết người hàng loạt đáng xấu hổ này. "

16. Bị kết tội bỏ Hồi Giáo sang Kitô Giáo, một phụ nữ Sudan bị kết án treo cổ

Hôm 16 tháng 5, một tòa án Sudan đã đưa ra một phán quyết tàn bạo là treo cổ một người phụ nữ đang mang thai vì phạm tội bỏ Hồi giáo để gia nhập Kitô Giáo.

Cô Meriam Yehya Ibrahim, 27 tuổi, có cha là một người Hồi Giáo và mẹ là một tín hữu Kitô. Trước tòa, Meriam luôn kiên quyết cho rằng mình theo đạo mẹ và đã là một Kitô hữu từ nhỏ.

Cô nói: "Tôi là một Kitô hữu, và tôi chưa bao giờ phạm tội bội giáo"

Tuy nhiên, luật lệ Hồi Giáo buộc con cái của người Hồi Giáo phải theo Hồi Giáo.

Những thân nhân họ nội của cô đã tố cáo cô ra trước tòa vì cô đã kết hôn với một Kitô hữu. Luật lệ Hồi Giáo không cho phép một người phụ nữ kết hôn với một Kitô hữu nên tòa đã truyền đánh Meriam 100 hèo vì tội ngoại tình và truyền cho cô trong ba ngày, tức là đến ngày 15 tháng 5, phải tuyên bố trở lại đạo Hồi nếu không sẽ bị tử hình.

Hết hạn định này, Meriam đã bị đưa ra trước tòa. Cô khảng khái cự tuyệt không theo đạo Hồi.

Trong phán quyết sau cùng, thẩm phán nói:

"Chúng tôi đã cho cô ba ngày để suy nghĩ, nhưng vì cô kiên quyết không trở về Hồi giáo, tôi kết án cô bị treo cổ."

Meriam Yehya Ibrahim, mới 27 tuổi mỉm cười đón nhận phúc tử đạo.

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra thông cáo nói chính phủ Mỹ "quan ngại sâu sắc" trước phán quyết này.

Trong khi đó Ahmed Bilal Osman, Bộ trưởng Bộ văn hóa thông tin của Sudan , nói với Agence France-Presse rằng "không chỉ Sudan. Ở Saudi Arabia, và tất cả các quốc gia Hồi giáo khác, không một người Hồi giáo nào được phép cải đạo"

17. Khúc quanh bi đát của Luật Chống Phạm Thượng tại Pakistan

Cảnh sát Pakistan đòi truy tố đến 68 luật sư Hồi giáo vì cho rằng đã phạm thượng chống lại người bạn đồng hành của Muhammad, là người sáng lập đạo Hồi.

BBC cho biết cảnh sát đưa ra cáo buộc này sau khi "một số luật sư chế nhạo một sĩ quan cảnh sát là người cùng tên với khalip thứ hai của Muhammad, là Omar."

Cha Emmanuel Yousaf, giám đốc Ủy ban Công lý và Hòa bình của Hội đồng Giám mục Pakistan cho biết: "Cáo buộc buồn cười này cho thấy Luật Chống Phạm Thượng tại Pakistan dễ dàng bị lạm dụng để giải quyết những vấn đề cá nhân. Nhưng trong trường hợp này, tôi tin rằng, chỉ trong vòng hai hoặc ba ngày, với sự can thiệp của các chính trị gia, những tranh chấp trong nội bộ Hồi giáo như thế này sẽ được vượt qua mà không có chuyện gì sất. Nếu nó liên quan đến người Kitô hữu thì khác: lập tức sẽ có bạo loạn, rồi những vụ giết người hoặc các cuộc tấn công hàng loạt. Nạn nhân, thậm chí không có khả năng được biện hộ cho chính mình".

Những người Hồi Giáo Pakistan đã sử dụng Luật Chống Phạm Thượng như là một khí cụ sắc bén và nham hiểm để đàn áp thiểu số Kitô hữu tại đây.

18. Các Giám Mục chất vấn Daniel Ortega, Kitô hữu được mời gọi sám hối

Dòng máu cộng sản với não trạng thù ghét Kitô Giáo vẫn tuôn chảy trong Daniel Ortega. Những ai bỏ phiếu cho con người này cần phải sám hối. Các Giám Mục Nicaragua đã cho biết như trên trước thềm cuộc chất vấn tổng thống Daniel Ortega về những chính sách nham hiểm nhằm đàn áp Giáo Hội Công Giáo nước này.

Daniel Ortega, là một lãnh tụ cộng sản trong phong trào Mác Sandinista đã lật đổ chế độ độc tài của tướng Anastasio Somoza Debayle, và đã cai trị Nicaragua từ năm 1979 cho đến năm 1990 khi trào lưu cộng sản bị lật nhào trên quy mô toàn thế giới.

Trong những năm sau đó, Daniel Ortega đã diễn nhiều vở kịch hay: tuyên bố sám hối vì tội lỗi với Giáo Hội Công Giáo, đi nhà thờ, tham dự các nghi lễ tưởng niệm. Nhờ khả năng diễn xuất quá thành công, nhờ những khó khăn trong buổi đầu chuyển từ thời cộng sản sang kinh tế thị trường tự do, Ortega lại dần dần lấy lại được uy tín và giành được thắng lợi trong các cuộc bầu cử tổng thống năm 2006 và 2011.

Ngồi vững trở lại trên quyền lực, Daniel Ortega lại bắt đầu những chiến dịch đàn áp Giáo Hội một cách tinh vi và nham hiểm hơn.

Vì thế, tất cả các Giám Mục nước này cùng với Đức Tổng Giám Mục Fortunatus Nwachukwu là sứ thần Tòa Thánh tại đây đã yêu cầu được gặp và chất vấn Daniel Ortega vào ngày 21 tháng 5.

Nicaragua có 5.8 triệu dân trong đó gần 60% dân số là người Công Giáo.

Các giám mục đã tuyên bố ba ngày cầu nguyện và sám hối để chuẩn bị cho cuộc họp: ngày 15 tháng 5 chầu Thánh Thể và dâng Thánh Lễ; Ngày 17, cầu nguyện cùng Đức Trinh Nữ Maria; ngày 18 Thánh Lễ cầu cho sự thành công của cuộc đối thoại.

Vào ngày 21, ngày các Giám Mục chất vấn Ortega, tất cả các nhà thờ trên toàn quốc phải mở cửa suốt ngày để các tín hữu chầu Mình Thánh Chúa.

19. Đức Thánh Cha tiếp thủ tướng Ba Lan

Ba tuần sau lễ phong thánh cho Đức Gioan Phaolô Đệ Nhị, Thủ tướng Donald Tusk của Ba Lan đã trở lại Vatican. Ông đã gặp Đức Giáo Hoàng Phanxicô vào sáng thứ Hai tại Điện Tông Tòa.

Trong cuộc họp kéo dài 15 phút, hai nhà lãnh đạo đã thảo luận về tác động của lễ phong thánh đối với người dân Ba Lan, cũng như chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng nhân Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2016 tại Krakow.

Thủ tướng đã tặng Đức Giáo Hoàng một bộ trà, cũng như một giỏ các loại thực phẩm truyền thống của Ba Lan. Đáp lại, Đức Giáo Hoàng đã tặng thủ tướng một cây bút.

Vị đứng đầu chính phủ Ba Lan sang Ý để đánh dấu kỷ niệm lần thứ 70 trận đánh Montecassino, dẫn đến việc đồng minh giải phóng Rôma vào năm 1944.

20. Giải thoát 5 gia đình Kitô hữu Pakistan bị bắt cóc làm nô lệ cho người Hồi Giáo trong 25 năm

Trong bản tin đánh đi hôm 15 tháng Năm, thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc cho biết 5 gia đình Kitô hữu bị bắt cóc và bị buộc làm nô lệ lao động cho một chủ lò gạch, đã được trả tự do nhờ sự can thiệp của các thừa phát lại và cảnh sát.

Báo cáo của Trung tâm hỗ trợ pháp lý miễn phí cho các Kitô hữu Pakistan, trình lên Tòa án tối cao Lahore, thay mặt cho năm gia đình Kitô giáo đã kết thúc thành công.

Các gia đình đã bị bắt giữ bởi hai chủ lò gạch, tại làng Ahmed Nagar và làng Dera, trong bang Punjab. Các thừa phát lại đã đến đồn cảnh sát địa phương, và sau nhiều lần thuyết phục , cảnh sát đã can thiệp và các Kitô hữu đã được giải thoát.

Sau khi được trả tự do, các gia đình đã nói về những đau khổ của họ: họ là nạn nhân của lao động cưỡng bức và bị đối xử như nô lệ trong hơn 25 năm. Một trong những phụ nữ , Safia Bibi , bắt đầu làm việc tại lò cùng với chồng, là Anwar Masih , ngay sau khi đám cưới của cô. Cô đã có chín người con và khi các em đủ tuổi, các em cũng bị buộc làm việc trong cùng một chỗ. Họ sống trong một căn nhà lá sập xệ trong các nhà máy sản xuất phức tạp, không có nhà vệ sinh. Họ phải làm việc không lương và nếu họ cố gắng trốn họ bị đánh đập và tra tấn, và bị bỏ đói trong nhiều ngày. Vào năm 2013 , chồng Safia qua đời do bệnh tật và yếu đuối, và không có bác sĩ chăm sóc. Những đứa con của bà đã không thể tham dự đám tang của ông bởi vì họ bị buộc phải làm việc. Họ cũng không được phép tham dự các buổi cầu nguyện trong nhà thờ hoặc ăn mừng Giáng sinh và các ngày lễ Kitô giáo khác.

Nasir Saeed, giám đốc Trung tâm hỗ trợ pháp lý miễn phí cho các Kitô hữu Pakistan cho biết: "Thật buồn khi thấy rằng ngay cả trong thế kỷ 21, chế độ nô lệ vẫn tiếp tục tồn tại ở Pakistan khi các tín hữu Kitô bị coi là công dân hạng hai và bị buộc phải làm nô lệ cho người Hồi Giáo”.

21. Đức Thánh Cha tiếp quốc vương Bahrain

Trang phục trong một chiếc áo choàng màu trắng với một thanh kiếm nhét vào dây thắt lưng của mình, Vua nước Bahrain đã gặp Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Điện Tông Tòa của Vatican.

Đức Giáo Hoàng và vua Hamad bin Isa Al Khalifa, đã gặp nhau trong một cuộc họp kéo dài 27 phút, trong đó hai vị đã nói về hòa bình và ổn định ở Trung Đông và những đóng góp của các Kitô hữu trong cả nước. 10 phần trăm dân số Bahrain là các tín hữu Kitô.

Nhà vua đã tặng cho Đức Giáo Hoàng một mô hình dài 90 cm của một nhà thờ sẽ được xây dựng tại Bahrain, mà theo nhà vua, sẽ là nhà thờ lớn nhất tại bán đảo Ả Rập. Ông cũng nói thêm rằng nhà thờ được xây gần hai đền Hồi giáo, một hiện đại và một cổ xưa.

Đức Giáo Hoàng đã tặng cho quốc vương một huy chương của thiên sứ của hòa bình.

Đức Thánh Cha nói:

“Đây là Thiên thần đánh bại ma quỷ . "

Vào cuối cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha, nhà vua đã có một cuộc họp với Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh là Đức Hồng Y Pietro Parolin .