Ngày 16-05-2009
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy
LM. Trần Bình Trọng
03:29 16/05/2009
HÃY Ở LẠI TRONG TÌNH YÊU CỦA THẦY

Chúa Nhật 6 Phục Sinh, Năm B

Cv 10:25-26, 31-35, 44-48; 1Ga 4:7-10; Ga 15:9-17


Ðọc Thánh kinh Tân ước, người ta thấy Phúc âm theo thánh Gioan, người môn đệ được Chúa yêu, chứa đựng đầy dẫy từ ngữ yêu mến. Ðó là lý do tại sao, Phúc âm thánh Gioan được mệnh danh là Tin mừng yêu mến. Theo truyền thuyết kể lại thì khi về già, thánh Gioan chỉ giảng một câu vắn tắt: Hỡi đoàn con nhỏ, hãy thương yêu nhau. Lời giảng dạy đó được lặp đi lặp lại nhiều lần trong vòng một thời gian khá lâu. Ðiều đó làm giáo dân chán ngấy, tưởng rằng thánh nhân đã bị mất trí, nên xin ngài nói điều gì mới lạ hơn cho họ khỏi nhàm. Ðể trả lời, thánh Gioan nói là cứ tiếp tục giảng vể tình yêu mến bao lâu họ chưa biết thương yêu nhau. Thư thứ nhất của thánh Gioan có ghi: Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4:8). Và tình yêu của Thánh Thần Thiên Chúa xuống cả trên các dân ngoại nữa (Cv 10:45), chứ không phải chỉ hạn chế vào một dân tộc nào thôi.

Trong Phúc âm hôm nay, thánh Gioan ghi lại lời Ðức Giêsu bày tỏ lòng Người thương yêu nhân loại: Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy (Ga 15:9). Vậy ta thử xét coi Ðức Giêsu yêu mến loài người như thế nào. Và ta cũng chỉ bàn về lòng Ðức Giêsu yêu mến loài người theo như Phúc âm hôm nay ghi lại mà thôi. Nếu xét tất cả những việc Ðức Giêsu làm vì yêu mến loài người trong toàn bộ Phúc âm, thì không biết bao giờ ta mới nói hết. Chúa Giêsu đã yêu mến loài người bằng cách chấp nhận cuộc tử hình thập giá để chuộc tội loài người. Ðó là lời Chúa phán trong Phúc âm hôm nay: Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15:13). Thổ lộ cho ai về cảnh ngộ cá nhân hay gia đình, ngay cả những tâm tư và bí mật của đời mình là dấu chỉ mình tín nhiệm tính kín đáo của người đó, muốn gần gũi với người đó và muốn mở lòng để người đó đi vào đời mình. Ðó là cách thế Ðức Giêsu đã làm để trở nên bạn hữu với các tông đồ: Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thẩy đã cho anh em biết (Ga 15:15).

Bạn hữu nhất là bạn cùng ăn một mâm, cùng nằm một chiếu là người quan tâm đến ta, và ta quan tâm đến bạn. Bạn bè là người gắn bó với ta khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi yếu đau cũng như lúc mạnh khoẻ. Bạn bè là người ta có thể tin cậy. Bạn bè thường trung thành với nhau, giúp đỡ nhau, sống chết có nhau. Trong một xã hội phong kiến hay dưới một thể chế quân chủ, khi một người nhỏ tuổi hoặc cùng đinh mà gọi người lớn tuổi hay phú quí là bạn, có thể bị coi là chơi trèo, hỗn xược, vì cha ông ta dạy kính lão đắc thọ. Chúa Giêsu còn cao trọng hơn ta gấp bội phần, nhưng Người đã tự hạ mình xuống làm bạn với ta. Chúa bảo các tông đồ và qua các tông đồ, Chúa cũng bảo ta: Anh em là bạn hữu của Thầy (Ga 15:14). Vậy được gọi là bạn hữu với Chúa, là một ân huệ lớn lao dường bao! Ðiều thắc mắc ở đây là ta có thực sự tin rằng Ðức Giêsu là bạn với ta không? Ta có thể tin, vì Chúa nói như vậy. Tuy nhiên ta có cảm nghiệm được tình yêu và tình bạn với Chúa hay không lại là chuyện khác.

Có linh mục kia khi về Việt nam vào tiệm sách đạo thấy bầy bán vật kỉ niệm có lời Phúc âm hôm nay: Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy (Ga 15:9) được ghi trên tám mảnh trúc xinh xắn, nối vào nhau bằng mười bốn khúc trúc nhỏ xíu như tám nấc thang, trông khá mĩ thuật. Thấy đó chính là khẩu hiệu sống của đời mình, linh mục đương sự mua liền tại chỗ, đem về treo ở văn phòng để nhắc nhở mình. Vậy ở lại trong tình yêu của Chúa nghĩa là gì? Khi người ta nói đứa con đã mất nghĩa với cha mẹ, ta hiểu rằng đứa con đã xúc phạm đến cha mẹ và làm khổ tâm cha mẹ. Cũng vậy khi phạm tội, ta làm tổn thương đến tình yêu với Chúa. Ở lại trong tình yêu của Chúa là còn ơn nghĩa với Chúa. Ở lại trong tình yêu của Chúa là có được sự bình an trong tâm hồn. Trong một buổi nói chuyện với giới trẻ tại một giáo xứ kia, một linh mục hướng dẫn có cho giới trẻ thảo luận câu hỏi: Thế nào là hạnh phúc. Có một nhóm trả lời: Hạnh phúc là khi cảm thấy tâm hồn bình an. Ta thấy câu trả lời đó bao hàm tất cả ý nghĩa của hạnh phúc vì nếu không có bình an trong tâm hồn, thì dù có mọi sự khác cũng không có hạnh phúc.

Ở lại trong tình yêu của Chúa là giữ vững tình bằng hữu với Chúa. Cảm nghiệm ta có về tình bạn với Chúa giống như cảm nghiệm của hai người yêu đối với nhau. Hai người yêu luôn cảm thấy gần gũi nhau. Khi xa nhau, họ vẫn tưởng nhớ đến nhau, nhớ bóng dáng người yêu, ánh mắt của người yêu và cả tiếng thì thầm của người yêu. Nói cách khác, họ cách mặt mà không xa lòng. Cảm nghiệm của ta về tình yêu và tình bạn với Chúa cũng tương tự như vậy. Có được cảm nghiệm về tình yêu/ tình bạn với Chúa, ta sẽ cảm thấy sự hiện diện của Chúa trong ta, bên ta và xung quanh ta. Khi ăn uống, làm việc, giải trí và cả khi ngủ nghỉ, ta cũng cảm nghiệm sự diện diện của Chúa. Có được cảm nghiệm như vậy, ta không còn cảm thấy thiếu thốn chi trong lòng, không còn muốn đổi chác lấy gì khác, mà bị mất cảm nghiệm thần linh này. Ở lại trong tình yêu của Chúa là muốn được gần gũi với Chúa, muốn đặt niềm tin cậy phó thác vào Chúa, muốn Chúa làm chủ đời sống và làm lẽ sống cho cuộc đời.

Vậy làm thế nào để được ở lại trong tình yêu của Chúa? Trong Phúc âm hôm nay chính Chúa Giêsu dạy ta làm sao để được ở lại trong tình yêu Chúa: Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở trong tình yêu của Thầy (Ga 15:10). Tuân giữ các điều răn của Chúa là loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn là tội lỗi và các thứ tính mê nết xấu. Tuân giữ các điều răn của Chúa là tuân theo thánh ý Chúa, sống theo đường lối Phúc âm. Ðó là khởi điểm của mối liên hệ mật thiết với Chúa. Cảm nghiệm được thế nào là ở lại trong tình yêu và tình bạn với Chúa, ta sẽ cảm thấy vui sống đức tin. Nếu lỡ phạm tội làm mất sự bình an, ta lại ao ước muốn trở về sống trong tình yêu và tình bạn với Chúa.

Lời cầu nguyện: xin cho được ơn ở lại trong tình yêu Chúa:

Lậy Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể!
Con xin tạ ơn Chúa,
đã mời gọi con ở lại trong tình yêu Chúa
và cho con được làm bạn với Chúa.
Xin cho con cảm nghiệm được rằng,
thế nào là được sống trong tình yêu của Chúa
và tình bạn nghĩa thiết với Chúa. Amen.

 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:31 16/05/2009
VỘI VÀNG THẮNG

N2T


Thuyền trưởng trên chiếc tàu ngầm, nhất tâm muốn trắc nghiệm buồng máy của tàu, thế là ra lệnh cho tàu chạy với tốc độ nhanh nhất; sau đó hô lớn dừng ngay lập tức, mệnh lệnh của ông ta được chấp hành ngay lập tức.

Máy phát thanh công cộng trên thuyền truyền ra:

- “Lời nói của thuyền trưởng: buồng máy biểu hiện rất tốt, các anh vừa dùng 55.05 giây để dừng tàu ngầm.”

Không lâu sau đó, trong máy phát thanh xuất hiện một âm thanh khác:

- “Lời nói của người đầu bếp: tàu ngầm đã dừng ngay lại, nhưng thịt bò và khoai tây cần phải đi lại; tối nay các vị ăn thức ăn sống lạnh vậy.”

(Trích: Bài ca của loài ếch)

Suy tư:

Lệnh của thuyền trưởng thì đương nhiên thuộc cấp phải thi hành, nhưng lệnh vì việc chung mà đã suy nghĩ và đã bàn hỏi thì khác với lệnh hứng thú bất ngờ.

Có những bề trên vì có hứng bất ngờ nên ra lệnh cho người này làm việc này, người kia làm việc nọ, kết quả là gây xáo trộn trong cộng đoàn; có những bề trên vì để bày tỏ uy quyền của mình mà ra lệnh, nhưng người thi hành lại không cảm thấy vui vẻ thi hành, và do đó mà nảy sinh bè phái trong cộng đoàn và làm mất giá trị lời nói của mình trong cộng đoàn.

Thuyền trưởng đột ngột ra lệnh cho tàu chạy tốc độ nhanh nhất, và cũng đột ngột ra lệnh cho tàu thắng gấp lại là vì hứng thú bất ngờ, khiến cho nhà bếp phải la lên là phải ăn thức ăn sống, bởi vì để kiểm tra máy móc khi tàu đang làm nhiệm vụ thì không cần ngẫu hứng, nhưng phải kiềm chế tính nổi hứng bất thường của mình.

Có một vài người Ki-tô hữu cũng nổi hứng bất thường nên tuyên bố: ngày ngày đi lễ và nhất quyết phải đi xưng tội luôn, thế nhưng chỉ mới có mấy ngày mà cảm thấy mệt mỏi khi đi lễ, thấy cha sở là trốn không muốn xưng tội...

Ma quỷ rất thích những hạng người nổi hứng bất ngờ rồi tuyên bố hành động lung tung, bởi vì như thế là rất có lợi cho ma quỷ và là mẩm móng để tội lỗi phát sinh.
 
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:38 16/05/2009
CHỦ NHẬT 6 PHỤC SINH

Tin Mừng: Ga 15, 9-17.

“Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu.”


Bạn thân mến,

Bạn đã yêu và đã cảm nghiệm được tình yêu đẹp như thế nào rồi, tình yêu có thể làm cho bạn yêu đời và cũng có thể làm cho bạn chán đời. Nhưng tình yêu cao quý và đẹp nhất vẫn cứ là tình yêu hy sinh mạng sống cho người mình yêu.

Con người thời nay thường đòi hỏi tình yêu của người khác, đòi hỏi người khác phải vì mình mà cống hiến mọi sự, chứ không dám thực sự hy sinh cho tình yêu ấy, bởi vì tình yêu ấy không dựa trên nền tảng tình yêu của Thiên Chúa, mà chỉ đặt trên nền tảng xác thịt, vật chất và hưởng thụ mà thôi. Do đó mà thế gian vẫn mãi mãi không tìm thấy được hòa bình, không tìm thấy được sự cảm thông của nhau trong cuộc sống hằng ngày.

Chúa Giê-su đã chết trên thập giá, không phải chỉ yêu một người, nhưng là yêu cả nhân loại tội lỗi, Ngài hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu, và để các bạn hữu của Ngài được sự sống đời đời.

Mỗi ngày đọc báo hoặc coi tin tức trên đài truyền hình, bạn thấy rất nhiều tin tức “giật gân”, nào là giết chết người yêu của mình vì nàng muốn chia tay, nào là tạt a- xít vào vợ mình vì ghen tuông, nào là tự tử vì thất tình.v.v...Bạn và tôi cảm thấy đời thật chán ngán khi đọc những tin tức ấy, nhưng là người có đức tin, là môn đệ của Chúa Giê-su, chúng ta biết rằng tình yêu chân thật không bi quan yếm thế, cũng không phải là chiếm đoạt, nhưng là thông cảm, hy sinh và chân thành, bởi vì đó chính là tình yêu được thánh hóa bởi tình yêu hiến mạng sống của Chúa Giê-su.

Bạn thân mến,

Bạn và tôi mỗi người đều đã trãi nghiệm được tình yêu trong cuộc sống của mình, và nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình rất cao quý, và do đó chúng ta đều cố gắng yêu mến Thiên Chúa qua cuộc sống của mình. Nhưng có lúc nào bạn càm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa qua tình yêu của cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu và tha nhân chưa ? Bạn có lúc nào nghĩ rằng:

- Bạn yêu mến và chăm sóc quan tâm đến cha mẹ của mình là yêu mến Thiên Chúa không ?

- Bạn yêu mến và giúp đỡ anh chị em mình là yêu mến và giúp đỡ Thiên Chúa không ?

- Bạn yêu thương bà con và bạn hữu mình, và hy sinh cho họ là yêu thương và hy sinh cho Thiên Chúa không ?

Hy sinh mạng sống cho bạn hữu mình là điều khó khăn và ít xảy ra trong cuộc sống hôm nay, nhưng bạn và tôi có thể hy sinh danh dự, hy sinh vật chất, hy sinh thời giờ quý báu, hy sinh chịu đựng nhẫn nhục vì bạn hữu, thì chắc chắn –nhờ ơn Chúa- và tình yêu chân thành của mình đối với bạn hữu, mà chúng ta có thể làm được như lời dạy của Chúa Giê-su: không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu hiến mạng sống cho bạn hữu mình...

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.

---------------------------

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://360.yahoo.com/jmtaiby

jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:40 16/05/2009
N2T


16. Làm gì có loại thánh không trải qua chiến đấu mà được triều thiên chiến thắng.

(Thánh Jerome)
 
Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:43 16/05/2009
N2T


117. Từ xưa đến nay có người thành tựu đều hoàn toàn không phải vì tư chất cao, bởi vì có nhiều người tư chất kém, nhưng trải qua nổ lực học tập mà có thành tích rất tốt.

 
Phúc nào hơn được làm Bạn với Chúa
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
03:55 16/05/2009
Chúa Nhật VI Phục Sinh

Có người nói vui rằng Chúa Giêsu ở trên trời không có mẹ, không có anh em, không có bạn hữu. “Buồn quá”, nên Ngài đã tự nguyện nhập thể làm người để được làm con một người mẹ (Đức Maria), được làm anh em và đặc biệt là được làm bạn hữu với loài người. Nói thế cũng đúng phần nào nếu đặt trong bối cảnh của bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay: “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết”.

Quả vậy, Chúa Giêsu khi đến trần gian, Ngài không viết một tác phẩm nào, cũng không xây một ngôi nhà thờ nào. Nhưng Ngài đến để thiết lập một tương quan mới với con người, tương quan bằng hữu.

Dĩ nhiên tình bằng hữu của Chúa Giêsu đối với chúng ta vượt lên trên tất cả tình bạn tự nhiên của con người. Bởi vì tình bạn ấy được mặc cho một giá trị vô cùng cao quý nhờ cái chết hy hiến của Ngài trên thập giá: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu mình”.

Nhưng tại sao Chúa Giêsu lại đưa con người vào trong tương quan tình bạn, chứ không phải là một tương quan nào khác ?

Người ta nói rằng mọi thứ tình, kể cả tình yêu đôi lứa, khi phát triển đến mức hoàn hảo đều qui về tình bạn. Nếu đúng như vậy thì rõ ràng đây quả là một quà tặng, một diễm phúc lớn lao mà Thiên Chúa ân ban cho con người chúng ta. Không lớn lao sao được khi con người thân hèn phận mọn được cất nhắc lên địa vị ngang hàng với con Thiên Chúa. Không cao cả sao được khi kẻ thụ tạo yếu đuối tội lỗi được biết tất cả, tất cả chứ không phải chỉ 1/4 hay 1/2 những gì thâm sâu bí nhiệm của cõi thiên giới, như lời Chúa Giêsu quả quyết: “Tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho anh em biết”.

Từ đây, con người được được sống trong mối thân tình với Đấng hoá công, được trở nên đồng vai đồng vế với Con Thiên Chúa. Vì là bạn hữu mà ! Được gọi danh Giêsu một cách thân thiết, danh mà cả triều thần thiên quốc phải kính tôn; được tâm sự với Ngài một cách thân thương và cởi mở đến độ không còn khoảng cách nữa.

Trước hồng ân cao vời đó, chúng ta được mời gọi sống thế nào, nếu không phải là luôn mặc lấy tâm tình cảm tạ tri ân. Cảm tạ Chúa Cha vì Ngài đã đưa ta vào trong tương quan tình bạn với Ngài. Tri ân Chúa Con vì Ngài đã để lại cho ta một kiểu mẫu tình bạn tuyệt vời, tình của người “hiến mạng sống vì bạn hữu mình”.

Chuyện kể rằng: Nạn đói xảy ra trong vùng. Một người ăn xin bên góc đường bước đến bên đại văn hào Nga, Tolstoi, đang đi ngang qua đó. Tolstoi dừng lại, lấy tiền cho người ăn xin, nhưng không còn đồng nào. Ông nói với sự nuối tiếc: “Này người anh em, đừng giận tôi. Tôi chẳng mang theo gì”.

Mặt người ăn xin sáng lên và nói: “Ông gọi tôi là anh em, đó đã là món quà lớn nhất rồi”.

Chúa Giêsu không những gọi chúng ta là anh em, Ngài còn gọi chúng ta là bạn hữu, nghĩa là cho ta được trở nên ngang hàng với Ngài. Lẽ nào ta lại không có được tâm tình như người ăn xin trong câu chuyện trên ?

Chúng ta còn được gọi mời sống thế nào nữa, nếu không phải là sống tốt tương quan tình bạn với Chúa Giêsu và với anh em mình. Sống tốt tình bạn với Chúa Giêsu, qua việc ở lại trong tình yêu của Ngài, tức là giữ các giới răn. Đồng thời để cho Lời của Ngài ở lại trong ta, cụ thể là năng tâm sự với Ngài và lắng nghe Lời Ngài. Sống tốt tình bạn với anh em, qua việc nổ lực yêu thương anh em bằng chính tình yêu mà Chúa Giêsu đã dành cho ta. Được như vậy, chúng ta mới xứng đáng là bạn hữu đúng nghĩa của Chúa.
 
Tình yêu tột đỉnh
Hai Tê Miệt Vườn
04:22 16/05/2009
Tình yêu tột đỉnh
“Không có Tình thương nào cao cả hơn tình thương
của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình.” (Ga. 15,13)


Tình yêu đạt đến độ cao,
Khi anh cả dám hiến trao mạng mình.
Sẵn sàng chấp nhận hy sinh,
Chết cho kẻ khác vì tình vị tha.
Tình anh biển rộng bao la,
Cho thuyền lướt sóng đi xa muôn trùng.
Bởi anh luôn sống tín trung,
Con đường chân thiện, thủy chung nghĩa tình.
Dựng xây đời sống đệ huynh,
Ngày càng thắm thiết bằng tình của Cha.
Mọi người vui sống chan hòa,
An vui hạnh phúc thật là ấm êm.
Đồng hành nhịp bước đi lên,
Cùng nhau họp mặt ở trên Nước Trời.
Sau khi sống trọn kiếp người,
Trên nơi dương thế bằng đời yêu thương.

Cây cành kết hợp
“Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy,
thì người ấy sinh nhiều hoa trái.
Vì không có Thầy anh em chẳng làm được gì.” (Ga. 15,5)


Chính nhờ kết hợp với Thầy
Đời con nhận được tràn đầy tình yêu.
Xác hồn quả thật phong nhiêu,
Nguồn ơn cứu độ cùng nhiều đặc ân.
Và con như nhánh, như cành,
Trong cây Nho thật tốt lành của Cha.
Thế nên lắm trái nhiều hoa,
Vừa ngon lại ngọt sâu xa nghĩa tình.
Bởi nhờ có Chúa Thánh Linh,
Giúp con sống được đệ huynh với người.
Vậy là đem lại cho đời,
Bao điều tốt đẹp tuyệt vời thiện chân.
Chính đây cách thế góp phần,
Làm cho Nước Chúa lan dần mọi nơi.
Mọi người thẳng tiến về trời,
Muôn đời vui sống bên người Cha yêu.
 
Tình đáp tình
Anmai, CSsR
04:26 16/05/2009
CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH B (Cv 10, 25-26.34-35; 1 Ga 4,7-10; Ga 15, 9-170

Tình yêu ! Có quá đáng chăng khi gọi Tình yêu là mầu nhiệm. Được lắm chứ vì lẽ chẳng ai có thể định nghĩa được tình yêu. Chỉ có ai đang yêu mới hiểu tình yêu là gì. Tình yêu thật chỉ đáp trả lại bằng tình yêu thật chứ không phải là dục vọng, danh vọng và vật chất. Thậm chí tình yêu ấy có thể trả bằng một giá rất đắt đó chính là trả giá bằng mạng sống mình vì người mình yêu.

Nếu tình yêu chỉ dựa vào vật chất, danh vọng và dục tình thì đó không phải là tình yêu thật mà là một tình yêu giả tạo.

Định nghĩa của thánh Gioan Tông đồ thật đơn giản: Thiên Chúa là tình yêu ! Định nghĩa thế thôi chứ nào Gioan giải thích được vì lẽ tất cả những ngôn từ của con người dành cho tình yêu của Thiên Chúa chẳng bao giờ đủ cả vì lẽ tình yêu của Thiên Chúa quá lớn, vượt quá trí hiểu của con người.

Thánh Gioan vừa mới khẳng định cho chúng ta qua thư của Ngài về tình yêu Thiên Chúa:

Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau,
vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa.
Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra,
và người ấy biết Thiên Chúa.
Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa,
vì Thiên Chúa là tình yêu.
Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta
được biểu lộ như thế này:
Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian
để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống.
Tình yêu cốt ở điều này:
không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa,
nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta,
và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta
”. (1 Ga 4, 7-10)

Ta hãy gẫm suy tình yêu của Chúa
Tình Chúa ôi quá bao la
Ngay khi lúc ta còn là tội nhân
Thì Chúa, Chúa đã chết Ngài chết cho ta
Nay khi chúng ta được ơn giải oán
Nhờ máu nước của Ngài
…”

Thế đấy ! Tình yêu ấy nhiệm mầu, bao la đến độ linh mục nhạc sĩ Thành Tâm đã diễn ý của Thánh Phaolô tông đồ thành dòng nhạc đi vào lòng người.

Có gẫm, có suy cho đến ngất trí đi chăng nữa nhưng làm sao hiểu được tình yêu của Thiên Chúa dành cho những con người có tội và nhất là chính tôi đây là kẻ tội lỗi. Dẫu tôi đây yếu đuối, tội lỗi nhưng chẳng hiểu sao Thiên Chúa lại yêu tôi đến như vậy.

Tình yêu Thiên Chúa thật bao la, thật nhiệm mầu đối với cuộc đời Gioan để rồi trong toàn bộ tác phẩm Tin mừng thứ tư của mình, Thánh Gioan cứ xoáy đi xoáy lại về cái tình yêu nhiệm mầu mà Thiên Chúa dành cho Gioan, dành cho mọi người và dành cho chính bản thân tôi.

Mở đầu trang Tin mừng theo Thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe đấy chúng ta thấy mối tương quan giữa Chúa Cha với Đức Giê-su và, bên kia, mối tương quan giữa Đức Giê-su với các môn đệ được đối chiếu với nhau. Một bên, Chúa Cha yêu mến Đức Giê-su và Đức Giê-su yêu mến các môn đệ.

Đằng khác, các môn đệ hãy ở trong tình thương của Đức Giê-su, cũng như Đức Giê-su ở trong tình thương của Chúa Cha.

Như vậy, tình thương bắt nguồn từ Chúa Cha (1 Ga 4,8.16), từ Chúa Cha bước sang Đức Giê-su, để rồi từ Đức Giê-su bước sang các môn đệ. Và, ngược lại, tình thương ấy phải từ các môn đệ sang Đức Giê-su, để rồi từ Đức Giê-su trở về cùng Chúa Cha.

Điều kiện phải có để ở trong tình thương, là tuân giữ các điều răn: các môn đệ phải tuân giữ các điều Đức Giê-su dạy, cũng như Đức Giê-su đã tuân giữ các điều Chúa Cha dạy.

Điều răn của Thầy là gì ? Ga 15,12-14.15b cắt nghĩa Ga 15,9-10. Muốn ở trong tình thương, thì phải tuân giữ các điều răn Người dạy (15,10). Điều răn nào ? Thưa là tất cả (êntôlas), mà trước hết là điều răn “thương yêu nhau” (15,12). Hơn nữa, phải thương yêu nhau như Đức Giê-su đã yêu thương các môn đệ, nghĩa là yêu thương đến nỗi hy sinh mạng sống. Lắm khi, giá trị món quà nói lên kích thước của tình yêu: yêu nhiều, tặng nhiều, yêu ít, tặng ít. Mà, đối với con người, không gì quí hơn mạng sống. Nên hy sinh mạng sống là thương yêu vô cùng. Đúng là tình yêu mạnh hơn tử thần.

Cái chết của Đức Giê-su trên thập giá bắc hai nhịp cầu. Chết như vậy, Đức Giê-su nói lên một cách tuyệt đối rằng Người thương yêu Chúa Cha đến nỗi vâng lời Người mà tự nguyện chịu chết (4,34; 5,30; 6,38; 14,30). Đằng khác, chết như vậy, Đức Giê-su đồng thời cũng nói lên rằng Người thương yêu vô cùng những kẻ Người đã chọn làm bạn hữu (13,1.34). Tình yêu của Đức Giê-su là nền tảng và là tiêu chuẩn của điều luật yêu thương anh em (15,12).

Chính cái chết của Chúa Giêsu là đỉnh điểm của tình yêu tự hiến mà Ngài đã ban tặng cho con người. Thử hỏi trong cuộc đời, mấy ai dám chết như Thầy Chí Thánh Giêsu ? Chỉ những ai dám hy sinh ngay cả mạng sống của mình mới minh chứng tình yêu thật của mình.

Có đôi vợ chồng trẻ nọ, chồng là giảng viên Đại học, vợ là diễn viên và là người dạy thú của đoàn xiếc. Hai con người, hai nghề nghiệp và hai tính khí hoàn toàn khác nhau. Trước khi lấy nhau, hai người đã nghe không biết bao nhiêu người khuyên rằng:

- “Họ sẽ không bao giờ hạnh phúc bên nhau”.

Chồng thì ngồi nghế giảng viên Đại học, vợ suốt ngày cầm roi dạy cọp trong chuồng thú của đoàn xiếc, nhưng tình yêu đưa họ bay lên với những giấc mơ tuyệt đẹp. Người chồng giảng viên Đại học mặc dù thấy nghề dạy thú của vợ mình có một cái gì đó không xứng đáng lắm, nhất là mùi cọp lúc nào cũng hăng hắc toả ra từ thân thể của vợ, nhưng anh vẫn yêu vợ tha thiết. Cái mùi cọp thật khó chịu nhưng người diễn viên dạy thú thì không thể không cần đến cái mùi ấy. Chính cái mùi ấy mà bầy cọp dữ mới nhận ra cô và vâng lời ngoan ngoãn.

Cho đến một hôm, hai người giận nhau, tình trạng ấy kéo dài nhiều ngày. Cuối cùng, người vợ chủ động làm lành. Cô chọn một giải pháp rất bất ngờ đối với người chồng và cũng rất xa lạ đối với cô. Đó là tẩy sạch mùi cọp và thay vào đó mùi nước hoa thơm phức. Thế là họ đã làm hòa với nhau. Thế nhưng, một hậu quả thật bi đát đến với cô: Đêm hôm sau người vợ ấy chết!

Người nữ diễn viên dạy thú ấy đã chết dưới nanh vuốt của con cọp dữ mà chính cô đã thuần hoá. Nó không nhận ra cô nữa vì mùi cọp quen thuộc không còn mà chỉ có mùi nước hoa hồng xa lạ. Con cọp hốt hoảng trước mùi lạ lẫm đó và đã tự vệ bằng cách tấn công. Chỉ trong khoảnh khắc người nữ diễn viên dạy thú đã tan xác vì những móng vuốt sắc nhọn của con cọp mà cô đã hết lòng thương yêu.

Câu chuyện “Mùi cọp” trên đây như một ngụ ngôn về sự hy sinh chính mình cho tình yêu. Người vợ vì yêu thương chồng đã chấp nhận gột rửa chính mình và cuối cùng đành phải hy sinh mạng sống mình. Một tình yêu đích thực là dám quảng đại quên mình đi, dù phải hy sinh, để bảo vệ hạnh phúc cho người mình yêu.

Thật sự ra mà nói, không phải thử thách tình yêu một cách nghiệt ngã như hai vợ chồng trên đây là phải làm như vậy nhưng ngay trong đời sống thường ngày, chúng ta có thể diễn tả tình yêu thương ấy một cách hết sức dễ dàng. Chúng ta có thể thực thi giới luật yêu thương của Chúa mọi lúc và mọi nơi.

Bất cứ nơi đâu và lúc nào, chúng ta đều có thể sống cái tình yêu hay nói đúng hơn và đáp trả tình yêu được. Có khi chỉ là bớt một lời nói chanh chua, bớt đi một chút của ánh mắt tị hiềm, bớt đi cái thái độ hung hăng của ta đó chính là cử chỉ, thái độ của những người biết sống cách đáp tình.

Cái khó của cái có thể ở đây là liệu rằng chúng ta có cảm nhận được chúng ta yêu hay không mà thôi ? Chúa lúc nào cũng yêu ta còn ta lúc nào cũng quay lưng lại với Chúa. Anh chị em đồng loại yêu ta lắm đấy chứ nhưng với cái bản chất ích kỷ và con người nhỏ nhen đã làm cho chúng ta không nhận ra tình yêu. Không nhận ra thì làm sao chúng ta có thể đáp lại mối tình mà Thiên Chúa cũng như anh chị em đồng loại dành cho ta.

Xin Chúa Giêsu là vua của Tình yêu đến và ở lại với chúng ta, soi sáng cho chúng ta để chúng ta nhận ra rằng Chúa yêu chúng ta hơn chúng ta tưởng, anh chị em đồng loại yêu chúng ta hơn chúng ta biết để rồi khi ấy chúng ta cũng thay đổi lối sống, thay đổi cuộc đời là đáp trả tình yêu mà chúng ta đã nhận được từ Thiên Chúa, từ anh chị em đồng loại.
 
Chùm thơ tháng Năm Tàpao
Tuyết Mai Texas
04:39 16/05/2009
1. THÁNG NĂM, MÙA HẸN

Tháng Năm, như một lần đến hẹn.
Mùa Hoa về, thắm khắp sơn khê
Hoa trên phố núi, trên xóm vắng
Hoa rực trời hoa đẹp say mê!

Hoa dẫu đẹp muôn hương muôn sắc
Cũng thoáng mau sớm nở chiều tàn
Mẹ đẹp lắm hương tình ngây ngất
Đẹp thiên thu đẹp vượt thời gian

Muôn hoa dâng tiến Mẹ Thiên Đàng
Chúc tụng Mẹ, Nữ Vương tuyệt Mỹ

2. LÊN VỚI MẸ

Nôn nao lên với Mẹ,
Nhưng Mẹ ơi, chưa khỏe
Xin một chút cầm hơi
Rồi bắt đầu đếm bước

Bước sau theo bước trước
Từng giọt mồ hôi rơi
Chầm chậm tiến lên đồi
Sức nặng đời níu lại.

Đường Thiên Đàng xa ngái
Theo Mẹ con bước lên
Xin giúp con vững bền
Buông bỏ, lòng thanh thoát

Hướng tâm và khao khát
Lên với Mẹ trên cao
Nghe lời Mẹ ngọt ngào
Luôn yêu thương nâng đỡ.

3. DÂNG MẸ

Giờ hẹn Mẹ
Mùa Hoa Tháng Năm
rồi cũng đã đến
Đoàn con cái Mẹ đang quây quần
dưới chân Mẹ rất thánh, rất khoan nhân
Mẹ nhìn con vẫn ánh mắt ấy đã bao lần
Ánh mắt chứa chan tình yêu, ân phúc lộc

Tủi tủi mừng mừng con che mặt khóc
Mẹ ơi con biết Mẹ yêu con nhất trên đời
Mẹ muốn con về trong lòng Chúa Ba Ngôi
Trong ân sủng tình thương ơn tha thứ…

Dâng tiến Mẹ hương trầm đời cô lữ
Như lời kinh tha thiết muốn đăng trình
Cùng Mẹ bước lên cõi thánh thiện đẹp xinh
Xin đổi mới đời con nơi dương thế….

Kính dâng Mẹ ngàn hoa đời dâu bể
Cánh hoa mong manh sớm nở chiều tàn
Hoa cuộc người cũng vội chia tan
Chỉ có Mẹ, Hoa Thiên đàng vĩnh cửu…

Ngọn nến hồng sáng soi niềm vui mới
Niềm vui ơn cứu rỗi rạng ngời
Chúa Kitô nên ánh sáng tuyệt vời
Soi cho con bước về trong ánh sáng….

Lòng con dâng chút tình thơ ngây lắm
Mẹ yêu con, con yêu Mẹ dường bao
Dâng tiến Mẹ vũ khúc các vì sao
Chầu kính Mẹ Nữ Hoàng Thiên Quốc…

4. TỪ BIỆT MẸ

Con muốn ở lại đây, và ở mãi
nhưng điều ấy không đẹp lòng Mẹ đâu
Điều Mẹ muốn, là: con phải ra về
nhưng lòng con không hề xa cách Mẹ.

Con sẽ biến niềm thương nỗi nhớ
thành cuộc sống mới của con,
cuộc sống xứng đáng vẹn toàn
xứng đáng là con cái của Thiên Chúa.

Con sẽ biến bài ca tôn vinh Mẹ
thành cuộc sống yêu thương chan chứa
với mọi người,
như Mẹ đã thương con.
Con sẽ biến vũ khúc các vì sao
thành nhịp sống chứng nhân cho Thiên Chúa
giữa đời thường hỗn độn xôn xao

Lạy Mẹ Maria Mẹ Tàpao,
con phải về thôi, nhưng không xa Mẹ đâu.
Mẹ đang ở với mỗi chúng con trong mái ấm gia đình,
Mẹ đang ủi an nâng đỡ đời con luôn bước lên trong cuộc sống:

bước thăng hoa những ý nghĩ thấp hèn ích kỷ
thành cao thượng rộng lượng vô biên,
bước thăng hoa những ươn lười
thành siêng năng sốt sắng.
bước thăng hoa những buồn tủi thất vọng
thành tin tưởng hy vọng cậy trông
trong cuộc đời....

Mẹ Maria, con phải về thôi...
Nhưng con tin, khi con đã đến với Mẹ
Mẹ không ngần ngại, về với con...

Texas tháng 5-2009
 
5 Phút một Tuần với Thánh Phaolô: Bài 7 - Thánh Phaolô và Sự Tự Do
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
13:08 16/05/2009
“Vì tự do mà Ðức Kitô đã giải phóng chúng ta. Vậy, anh em hãy đứng vững, đừng để mình bị kiềm tỏa dưới ách nô lệ một lần nữa” (Gal 5:1). Những lời khích lệ này của Thánh Phaolô làm cho Thánh Tông Đồ có vẻ giống như một nhà cách mạng, và theo nhiều nghĩa, ngài thật sự là một nhà cách mạng! Quan niệm về tự do của Thánh Phaolô đưa chúng ta vào trọng tâm của sứ điệp thần học của ngài.

Trong khi vừa là một công dân Rôma kiêu hùng vừa là con cái Israel, Thánh Phaolô đã phải chống lại những áp bức về chính trị, nhưng quan niệm của ngài về tự do vượt trên mọi hệ thống chính trị. Đối với Thánh Phaolô, ách nô lệ hay sự áp bức cực độ không phải là do một bạo chúa hay một cơ cấu chính trị nào đó áp đặt. Nhưng có một ách nô lệ tàn bạo hơn nhiều đang kìm kẹp nhân loại là tội lỗi và sự chết. Động lực chết chóc này giữ chặt tất cả mọi người trong tay nó, bất chấp con người tưởng rằng mình tự do thế nào đi nữa.

Ở đây chúng ta gặp cái nhìn tôn giáo về thực tại của Thánh Phaolô, một cái nhìn ảnh hưởng sâu đậm bởi đức tin Do Thái của ngài và giáo huấn của Đức Kitô. Thiên Chúa đã dựng nên thế gian, kể cả loài người, hoàn toàn tốt lành, nhưng bởi tội của tổ tông chúng ta, sự dữ và sự chết giờ đây thống trị và ảnh hưởng đến mọi cơ cấu xã hội cùng khuynh hướng chọn lựa của con người. Trong Chương 7 của Thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Phaolô đã suy niệm về lời tự thán thời danh diễn tả tình trạng tuyệt vọng của những người tốt lành: “Tôi làm gì tôi cũng không hiểu. Vì tôi không làm điều tôi muốn, nhưng tôi lại làm toàn những điều tôi ghét. Vì tôi có thể muốn điều tốt, nhưng tôi lại không làm. Vì điều tốt tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều ác tôi không muốn, thì tôi lại làm…. Vì trong tận đáy lòng tôi, tôi vui thích trong luật của Thiên Chúa; nhưng tôi lại thấy một luật khác trong các chi thể của tôi giao chiến với luật của lý trí, và biến tôi thành tù nhân của luật tội lỗi, là luật vẫn ở sẵn trong các chi thể tôi. Khốn nạn thân tôi! Ai sẽ cứu tôi khỏi cái thân xác hay chết này?” (Rom 7:15-25).

Thánh Phaolô cũng thấy sự bất lực về luân lý này không những chỉ ảnh hưởng đến con người nhưng còn ảnh hưởng cả đến thế giới tạo vật là thến giới “rên siết” dưới quyền lực của tội lỗi và sự chết: “… vì tạo vật đã phải lệ thuộc vào sự hư ảo, không vì chúng muốn, nhưng vì ý của Ðấng làm cho chúng lệ thuộc, trong hy vọng. Vì chính tạo vật sẽ được giải thoát khỏi nô lệ của sự hư nát,….” (Rom 8:20-21).

Thánh Phaolô tin rằng nhân loại được thừa hưởng sự tốt lành và được Thiên Chúa tiền định cho sống, chứ không phải chết. Nhưng quyền lực của sự dữ đã làm tổn thương khả năng luân lý của con người cách trầm trọng và tận gốc, mà chỉ quyền năng của Thiên Chúa mới có thể giải phóng nhân loại khỏi sự kìm kẹp của quyền lực độc ác này. Đối với Thánh Phaolô điều ấy chính là điều Thiên Chúa đã làm qua cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Qua việc chịu đóng đinh cách thảm khốc của Người, Chúa Giêsu đã kinh nghiệm toàn lực sự chết, nhưng qua quyền năng của tình yêu Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã bẻ gẫy xiềng xích sự chết và sống lại trong một đời sống mới. Giờ đây các Kitô hữu cũng có thể đến được với cùng một quyền năng cứu độ tận gốc này qua bí tích Thánh Tẩy. Theo những lời thi vị của Thánh Phaolô thì trong bí tích Thánh Tẩy, người Kitô hữu “chết với Đức Kitô” và “sống lại với Người” trong một đời sống mới (Rom 6:1-4).

Việc làm này của Thiên Chúa trong Đức Chúa Giêsu Kitô là nền tảng và sự đảm bảo cho niềm hy vọng đời sống vĩnh cửu của chúng ta. Giờ đây thách đố về đạo đức dành cho người Kitô hữu là sống một đời tự do chân chính, không còn làm nô lệ những bản năng xấu xa của mình nhưng thật sự sống như con cái Thiên Chúa. Thánh Phaolô rất thực tế khi ngài ý thức rằng các Kitô hữu vẫn có thể phạm tội, nhưng nếu họ tiếp tục mở lòng ra với Thần Khí ban sự sống của Thiên Chúa ở trong họ, thì họ sẽ có khả năng sống một đời tự do, một cuộc đời được diễn tả bằng tình yêu.

CÁCH THỰC HÀNH TẠI GIA


Điểm để thảo luận: Quan điểm của Thánh Phaolô về đời sống vừa thực tế vừa đầy hy vọng. Thực tế bởi vì ngài nhận ra quyền lực của sự dữ và sự chết trong hầu hết những hàng tin tức ngày nay. Tuy nhiên, ngài cũng đầy hy vọng vì tin rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người tốt lành và tiền định cho họ một đời sống tự do được thể hiện trong tình yêu. Bạn thấy ai là một nhân chứng cho sự tự do mà Đức Kitô đã thắng cho chúng ta? Bạn làm nhân chứng thế nào?

LM Donald Senior, C.P.

từ: http://webelieveweb.com/catechist_development.cfm?cd_view=174

-----------------------------------------------------------------------------------------------

Cha Donald Senior, C.P. là Viện Trưởng Viện Đại Học Catholic Theological Union ở Chicago, đồng thới cũng là Giáo Sư về Tân Ước. Ngài thuộc dòng Passionist và thụ phong LM năm 1967. Ngài có bằng Tiến Sĩ về Tân Ước tại Đại Học Louvain, nuớc Bỉ, năm 1972. Năm 2001, ĐTC Gioan Phaolô II chỉ định ngài làm thành viên Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh, và ĐTC Bênêđictô XVI tái chỉ định ngài năm 2006. Bản Tiếng Anh của bài này được đăng trên webelieveweb.com.
 
Tình Yêu và Trách Nhiệm: Bài 1 - Nền Tảng của Tình Bạn
Phaolô Phạm Xuân Khôi
13:34 16/05/2009
Làm sao một linh mục độc thân có thể dạy về tình yêu, phái tính, và sự liên hệ nam nữ?

Đó là câu hỏi mà một linh mục người Ba Lan, Cha Karol Wojtyla, đã đề ra trong lời mở đầu của cuốn sách “Tình Yêu và Trách Nhiệm” mà Cha xuất bản năm 1960. Đây là cuốn sách nói về luân lý phái tính và là kết quả của nhiều năm sinh hoạt với giới trẻ của Cha ở đại học Krakow, 18 năm trước khi Cha trở thành Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Trong thời gian làm linh hướng cho nhiều thanh niên thiếu nữ và các cặp vợ chồng trẻ đang phải vật lộn giữa tình yêu và tính dục, Cha Wojtyla đã có thể rút từ họ nhiều kinh nghiệm về cá tính, quan hệ, và hôn nhân mà một giáo hữu trung bình không thể có được. Tình Yêu và Trách Nhiệm là kết quả của các kinh nghiệm mục vụ cũng như những suy tư thần học về tình yêu, phái tính và hôn nhân của Cha.

Một Đại Tác Phẩm

Sách Tình Yêu và Trách Nhiệm cung cấp cho chúng ta những hiểu biết về các liên hệ nam nữ thật sự có khả năng thay đổi cuộc đời, và rất cần thiết cho thời nay. Lớn lên trong thời Hậu Cách Mạng Tính Dục, giới trẻ ngày nay đói khát những tư tưởng khôn ngoan có thể hướng dẫn các em trong những quan hệ nam nữ. Dù là độc thân, đang hứa hôn hay đã lập gia đình, chúng ta không những sẽ tìm thấy trong sách Tình Yêu và Trách Nhiệm một cái nhìn hoàn toàn khác hẳn với cái nhìn của thế gian, nhưng cũng là một cái nhìn có ảnh hưởng tích cực đến cách chúng ta liên hệ với nhau.

Trong những bài ngắn này, chúng tôi có một mục đích khiêm tốn là làm cho những kiến thức trong tác phẩm triết học phức tạp này trở nên dễ hiểu đối với bạn đọc, và thêm vào đó những suy tư của riêng chúng tôi, với hy vọng giúp ích cho độc giả trong khi đọc về quan điểm của Đức Thánh Cha về tình yêu và phái tính, cùng áp dụng nó vào đời sống cá nhân của mình.

Nguyên Tắc Cá Nhân

Công tác chính của Đức Thánh Cha trong Tình Yêu và Trách Nhiệm là trình bày cái mà ngài gọi là “Nguyên Tắc Cá Nhân”. Nguyên tắc căn bản về các liên hệ giữa người với người là “một người không thể chỉ là phương tiện để người khác sử dụng để đạt được mục đích của họ” (trang 26). Nói cách khác, chúng ta đừng bao giờ đối xử với người khác như những dụng cụ để chúng ta đạt được mục đích của mình.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giải thích rằng con người có khả năng tự định đoạt chứ không chỉ hành động theo bản năng và nhu cầu như súc vật. Nhờ lý trí, con người biết tự mình suy nghĩ và chọn lựa cách hành động của mình, và xác định cho thế giới bên ngoài biết “nội tâm của mình” qua những chọn lựa của mình. Đối xử với người khác như một dụng cụ để đạt được mục đích riêng là xúc phạm đến nhân phẩm của người ấy như một người có quyền tự quyết (Xem trang 26-27).

Yêu Thương hay Sử Dụng?

Điều làm cho chúng ta khó mà sống được theo nguyên tắc này là tinh thần của thuyết vị lợi đang làn tràn khắp nơi trong xã hội hiện đại. Theo quan điểm của thuyết này thì việc hay nhất của một người là làm điều gì có lợi nhất cho mình. Và điều lợi nhất là làm cho tôi được sung sướng cùng thoải mái càng nhiều càng tốt bằng một nào cách đỡ khổ cực nhất. Người ta thừa nhận và nhấn mạnh rằng con người được hạnh phúc là nhờ khoái cảm. Cho nên tôi phải luôn theo đuổi những gì đem lại cho tôi sự thoải mái, lợi ích, bổng lộc, và tránh những gì làm tôi đau khổ, bất lợi hay thua thiệt.

Cái nhìn vị lợi này ảnh hưởng đến cách chúng ta liên hệ với nhau. Nếu mục đích chính của đời tôi là theo đuổi thú vui, thì tôi sẽ cân nhắc những chọn lựa dựa theo tiêu chuẩn là chúng làm cho tôi vui nhiều hay ít. Cho nên nhiều người thời nay, kể cả nhiều Kitô hữu tốt, đánh giá một mối liên hệ dựa theo tiêu chuẩn là người kia ích lợi cho tôi thế nào trong việc đạt được mục đích của tôi, hoặc tôi được “vui thú” bao nhiêu khi gần người ấy. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói rằng một khi chúng ta đồng ý với những thái độ vị lợi này, chúng ta bắt đầu coi người khác trong cuộc đời mình như những vật dụng được dùng để làm ta vui thích (trang 37).

Điều này giúp chúng ta hiểu tại sao ngày nay nhiều liên hệ bạn bè, “bồ bịch”, và ngay cả hôn nhân, quá mỏng dòn và rất dễ đổ vỡ. Nếu tôi đánh giá một người phụ nữ chỉ dựa theo việc nàng có lợi cho tôi hay tôi có tìm được những khoái cảm khi gần nàng hay không, thì liên hệ này không có nền tảng. Khi nào tôi cảm thấy không còn vui thú hay không còn có lợi khi gần nàng, hoặc tôi thấy một người phụ nữ khác có lợi cho tôi hay làm cho tôi thích thú hơn, thì nàng không còn giá trị gì đối với tôi. Quan niệm này quá khác biệt với nguyên tắc cá nhân và còn khác hẳn với sự liên hệ của tình yêu chung thủy.

Tình Yêu và Tình Bạn

Trong khi bàn về tình yêu, Đức Thánh Cha đã nói đến ba loại tình bạn. Theo Aristotle thì có ba loại tình bạn dựa theo ba thứ tình cảm nối kết con người với nhau.

Trước hết là tình bạn vị lợi, là lọai tình cảm dựa vào ích lợi hay việc dùng bạn bè trong sự liên hệ này. Mỗi người đều được một vài ích lợi nào đó từ tình bạn này, và mối lợi mà cả hai bên có đuợc từ liên hệ này là mối dây nối kết hai người. Thí dụ ông Công có một hãng xây cất ở Houston. Ông làm bạn với ông Đinh ở San Francisco vì ông Đinh bán cho ông Công một loại đinh đặc biệt với giá rẻ để xây nhà. Vì chuyện làm ăn, hai người thăm viếng nhau một năm hai ba lần, nói chuyện trên điện thoại và gửi điện thư cho nhau thường xuyên. Sau nhiều năm làm ăn với nhau, họ biết rõ gia đình cùng hoàn cảnh của nhau, và trở nên bạn thân. Nhưng điều làm hai người gắn bó với nhau chính là mối lợi mà họ nhận được từ tình bạn này.

Thứ hai là tình bạn dựa trên những niềm vui mà hai bên nhận được từ nhau. Một người coi bạn mình như người làm cho mình vui thích. Có thể hai người cùng thích một môn thể thao, một loại món ăn, một thứ âm nhạc, đi chơi cùng một nơi, hay thích đến cùng một hộp đêm…. Hai người có thể thật sự lo lắng và quan tâm cho nhau, nhưng điều nối kết hai người lại với nhau chính là niềm vui mà hai người nhận được khi gần gũi nhau.

Nền Tảng Mong Manh

Aristotle ghi nhận rằng tình bạn dựa trên ích lợi hay niềm vui là những tình bằng hữu căn bản, nhưng chưa hoàn toàn. Những tình bằng hữu ấy chưa hẳn đã là xấu, nhưng chúng rất mong manh và khó bền lâu được. Với thời gian, một người có thể đổi nghề và tình bạn không còn mang lại lợi ích cho nhau nữa. Thí dụ ông khi Công bỏ nghề xây cất, không còn mua đinh của ông Đinh nữa thì hai người sẽ bớt liên lạc với nhau, và tình bạn sẽ từ từ phai nhạt. Cũng thế, trong tình bạn vui chơi, nếu một người đổi sở thích hoặc di chuyển đi một nơi khác, hai người sẽ không còn gặp nhau thường xuyên, họ phải tìm bạn khác, và dần dần tình bạn cũng lạt đi. Đó là lý do tại sao tình bạn của giới trẻ thay đổi thường xuyên vì hoàn cảnh và sở thích của họ thay đội.

Tình Bạn Đoan Chính

Theo Aristotle, loại tình bạn thứ ba là tình bạn hoàn toàn nhất. Có thể được gọi là tình bạn đoan chính vì hai người kết bạn với nhau không phải vì tư lợi hay thú vui mà vì cùng theo đuổi một mục đích: “Một đời sống tốt lành”, một đời sống đạo hạnh trong nhân đức. Trong hai loại tình bạn kia, người nào cũng tìm một lợi ích nào đó cho mình, còn trong tình bạn đoan chính, hai người theo đuổi một điều gì ngoài mình, và vượt trên những tư lợi. Chính lợi ích cao thượng này nối kết họ lại với nhau trong tình bạn của họ. Cùng nhau cố gắng sống một cuộc đời tốt đẹp và khuyến khích nhau trên đường nhân đức, người bạn thật không để tâm đến việc mình được ích lợi gì qua tình bạn, mà để tâm đến điều gì tốt nhất cho bạn mình và cho việc cùng bạn theo đuổi một đời sống nhân đức.

Điều Gì Củng Cố hay Làm Hỏng Tình Bằng Hữu

Từ những nền tảng trên, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chỉ cho chúng ta một phương thức để giúp cho tình bạn của chúng ta khỏi rơi vào thuyết vị lợi. Ngài nói rằng chỉ có một cách duy nhất để con người không lợi dụng nhau là cùng nhau theo đuổi công ích, như trong tình bạn đoan chính. Khi một người thấy điều gì tốt cho tôi, và người ấy coi như điều ấy cũng tốt cho mình, “một mối liên hệ đặc biệt được thiết lập giữa tôi và người ấy: mối dây liên hệ về công ích và mục đích chung” (tr. 28). Mục đích chung này liên kết con người lại với nhau tận đáy lòng. Khi chúng ta không để ý đến công ích trong liên hệ với người khác, chúng ta không thể tránh khỏi việc dùng người khác như phương tiện phục vụ mục đích riêng của mình.

Đặc biệt là trong hôn nhân, thường chúng ta dễ theo ý riêng, bắt chồng (hay vợ) và con cái làm theo chương trình, ý muốn và dự tính của mình. Nhưng theo Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, thì tình bạn chân chính, đặc biệt là trong hôn nhân, phải đặt một mục đích chung lên trên, và mục đích chung bao gồm sự kết hợp giữa hai vợ chồng, việc vợ chồng phục vụ lẫn nhau và giúp nhau nên thánh, sinh sản và dạy dỗ con cái.

Sở thích và dự tính riêng của mỗi người phải lệ thuộc vào lợi ích chung này. Hai vợ chồng phải tùng phục và nhường nhịn nhau vì ích lợi của con cái. Phải cố gắng đừng để cho chủ nghĩa cá nhân ích kỷ xâm nhập vào hôn nhân. Hai vợ chồng phải cùng nhau hành động nhắm đến mục đích chung này, và phải tìm cách dùng thì giờ, nghị lực, và tài nguyên để đạt được các mục đích chung của hôn nhân.

Đức Thánh Cha giải thích rằng việc hai vợ chồng kết hợp với nhau trong công ích này bảo đảm rằng người này sẽ không bị người kia sử dụng hay bỏ rơi. “Khi hai người khác nhau cùng nhau chọn một mục đích chung cách ý thức, đìều này đặt họ ngang hàng với nhau, và tránh được việc một người phải phục tùng người kia. Cả hai… đều lệ thuộc vào điều tốt lành mà họ chọn làm mục tiêu chung” (tr. 28-29).

Không có một mục tiêu chung này, mối dây liên hệ của chúng ta sẽ rơi vào tình trạng một người sẽ lợi dụng người khác để thủ lợi hoặc tìm thú vui. Trong những bài kế tiếp, chúng tôi sẽ trình bày tầm quan trọng của những điểm nền tảng này trong việc phải xử sự ra sao với những sự thu hút về tình cảm và thể lý mà chúng ta thường gặp phải khi đương đầu với những người khác phái.

-----------------------------------------------

Viết theo bài Getting It Right: The Foundation of Friendship, Edward P.Sri từ báo Lay Witness Magazine, Jan/Feb 2005
 
Giới răn tình yêu
LM. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
14:43 16/05/2009

Giới răn tình yêu



Con người ai cũng có nhu cầu của trái tim khao khát hướng về tình yêu, về bình an và về hài hòa. Nhưng tại sao con đường đi đến đó lại luôn có nhiều vướng trở khó khăn, có nhiều trường hợp lại không sao đạt được? Tình yêu là gì?

Nếu cho rằng đó là một sức mạnh huyền nhiệm ẩn dấu nơi mỗi người, hay là những cảm gíac của trái tim của tầng thần kinh con người, thì đó cũng chỉ là những phần mảnh quan sát suy luận về tình yêu thôi, cho dù những điểm đó là phần căn bản nói về tình yêu.

Xưa nay trong nghệ thuật hội họa hay âm nhạc, trong văn chương thơ văn, người ta đã có rất nhiều sáng tác diễn tả nói về tình yêu. Nhưng dẫu vậy, cũng không sao nói lên hết ý nghĩa cùng định nghĩa tình yêu như thế nào.

Có bài thơ với âm điệu phổ nhạc nói về tình yêu như „trò chơi linh hoạt cùng rất họa hiếm!“

Có thể hiểu cùng diễn tả tình yêu như một trò chơi được không?

Tình yêu là nhu cầu cuộc sống con người, cùng thi vị. Nó linh hoạt, nhưng bảo là trò chơi thì e rằng không xứng hợp, cùng không kính trọng nhìn nhận đúng gía trị và vị trí của tình yêu.

Từ khi còn thơ bé đến khi thành người trưởng thành, ai cũng có kinh nghiệm về tình yêu. Nhưng hầu như không ai có thể nói vẽ diễn tả tình yêu như thế nào. Nếu có nói về tình yêu, chỉ nhiều khi vắn tắt: tình yêu êm đẹp trong sáng cùng sôi nổi, và cũng gần như mù lòa!

Vì tình yêu là tiếng nói của trái tim, cùng làm gì có hình hài mầu sắc, cho dù người ta thường lấy bông hoa hồng mầu đỏ thẫm làm biểu tượng diễn tả về tình yêu. Nhưng tình yêu có thể quan sát ngắm nhìn được bằng con mắt thường được.

Không nhìn thấy tình yêu. Nhưng em bé nhận ra tình yêu qua cử chỉ âu yếm, săn sóc của cha mẹ trao tặng cho em.

Đôi bạn nam nữ, vợ chồng cũng không nhìn thấy tình yêu của nhau. Nhưng qua nụ cười, ánh mắt lời nói cùng sự quan tâm cho nhau là tín hiệu hình ảnh tình yêu họ gửi cho nhau.

Sự liên đới trong nếp sống bác ái tình người với nhau là nhịp cầu diễn tả nói về tình yêu giữa con người, cho dù họ không nhìn thấy tình yêu.

Tình yêu được diễn tả cùng nhận ra qua việc làm đời sống cụ thể.

Chúa Giêsu trong ba năm rao giảng về tình yêu nước Thiên Chúa cho con người, Ngài cũng đã dùng việc bác ái tình người để nói về tình yêu. Ngài quan tâm đến lớp người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, những người bị bệnh tật sống trong nghèo đói thất vọng. Những lớp người đó là phụ nữ, trẻ con, người bị phong cùi, người bị bại liệt, người mù lòa, người bị coi là tội lỗi thuộc hàng thu thuế, bị xã hội thời đó khinh miệt coi thường bỏ rơi.

Sự quan tâm của Ngài là sống sát gần gũi con người, giúp họ thoát ra mặc cảm yếu kém bị chê bỏ, giúp phục hồi nhân phẩm danh dự làm người cho họ.

Sự quan tâm của Ngài là mang đến cho họ niềm vui mừng hy vọng, vì được sống trở lại trong cộng đồng xã hội con người.

Và sau cùng, chính Chính Chúa Giêsu đã hy sinh đời mình chịu khổ nhục hình chết trên cây thánh gía để cho linh hồn con người được cứu rỗi khỏi hình phạt tội lỗi.

Trước khi trở về trời, Chúa Giêsu đã trối lại cho các Tông đồ, cho Giáo Hội, cho mọi người tin theo Ngài:“ Anh em hãy yêu thương nhau“ ( Ga 15,12)

Giới răn tình yêu thương, mà Chúa Giêsu nhắn nhủ con người luôn cần phải duy trì phát triển, không nằm trong vòng giới hạn luật lệ nào. Nó ở ngay trong cuộc sống hằng ngày, như lời nói đầy thân thiện, tha thứ xây dựng hòa bình, như sự để ý quan tâm đến nhu cầu tinh thần của người khác…Tình yêu thể hiện trong mối tương quan đời sống xã hội con người giữa nhau.

Chính sức mạnh này là nền tảng của nước Thiên Chúa, nước tình yêu thương.

„ Chúng ta chưa nhìn thấy Thiên Chúa. Nhưng nếu Ngài ban cho Bạn, cho vạn vật nét đẹp mỹ miều, thì chính Ngài phải đẹp đến nỗi ta không thể tưởng tượng ra được.

Chúng ta chưa nghe thấy tiếng Thiên Chúa nói. Nhưng nếu Ngài ban cho Bạn, cho vạn vật âm thanh tiếng nói thanh thoát, thì tiếng nói Ngài phải phát tỏa đi âm thanh tốt dễ chịu lắm.

Chúng ta chưa khám phá ra Thiên Chúa. Nhưng nếu Ngài đã tạo dựng ra Bạn, nên vạn vật, thì Ngài phải là là Đấng nhân lành không sao thấu hiểu nổi.

Chúng ta chưa tìm ra chứng minh về Thiên Chúa. Nhưng nếu Ngài ban cho Bạn, cho vạn vật khả năng sức lực tình yêu, thì Ngài là Đấng tràn đầy yêu mến mà không gì có thể so sánh với.

Chúng ta chưa đụng chạm sờ vào Thiên Chúa. Nhưng nếu Ngài che chở gìn giữ Bạn và vạn vật trong vòng tay Ngài, thì Ngài luôn luôn phải là người cùng đồng hành với trong đời sống.“ ( Vô danh).
 
Yêu như Chúa yêu
+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
16:07 16/05/2009
Chúa Nhật VI Phục sinh (Ga 15, 9 – 17)

I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA

"Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn. Ðây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền. Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền cho các con điều này là các con hãy yêu mến nhau".

II. TẤM BÁNH CHIA SẺ

Yêu là một từ ngữ được sử dụng nhiều nhất, nhưng lại là một từ ngữ dễ gây hiểu lầm nhất. Vì người ta hiểu từ ngữ này theo những cách khác nhau. Có người hiểu yêu là những quan hệ thân xác. Có người hiểu yêu là quản lý chặt chẽ. Có người hiểu yêu thuộc lĩnh vực cảm tính. Để tránh những hiểu lầm, khi truyền cho ta yêu thương, Chúa Giêsu đã đưa ra một khuôn mẫu cho tình yêu. Khuôn mẫu đó là: yêu như Chúa yêu.

“Anh em hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em”. Không còn nhầm lẫn nào nữa. Muốn làm môn đệ Chúa, không phải yêu bằng bất cứ tình yêu nào, nhưng phải yêu như Chúa. Tình yêu của Chúa Giêsu không phải tự Người nghĩ ra, nhưng phát xuất từ Chúa Cha: “Như Cha đã yêu mến Thày thế nào, Thày cũng yêu mến anh em như thế”. Thế là đã rõ. Tất cả bắt nguồn từ cùng một tình yêu. Đức Chúa Cha là nguồn cội. Từ nguồn mạch ấy, tình yêu tràn ra, lan toả đến mọi người. Mọi tình yêu, muốn chân thực, phải qui chiếu về trái tim Chúa Cha.

Tình yêu của Chúa Cha như thế nào ? Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Chúa Giêsu đã nói nhiều về tình yêu Chúa Cha.

Trước hết tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát. Khác với tình yêu bình thường của con người chỉ yêu những người yêu mình, thù ghét những người ghét mình, chỉ yêu những người dễ yêu, ghét những người dễ ghét, chỉ giới hạn tình yêu vào một số người thân quen. Tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát. Tình yêu ấy lan tới tất cả mọi người không phân biệt tốt xấu. Tình yêu ấy không loại trừ một ai dù lành dù dữ. Thế nên “ Người cho mặt trời mọc lên soi kẻ lành cũng như người dữ. Và cho mưa rơi xuống trên cả người công chính lẫn kẻ gian ác” (Mt 5, 45). Tình yêu ấy lan cả tới súc vật cỏ cây: “ Hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, thế mà Cha trên trời vẫn nuôi chúng. Hãy xem bông huệ ngoài đồng. Chúng không dệt không may, thế mà Cha trên trời mặc cho chúng bộ áo đẹp hơn cả áo vua Salomon” (Lc 12, 24.27).

Tình yêu Chúa Cha là một tình yêu hi sinh. Vì yêu thương, Đức Chúa Cha đã dựng nên con người. Vì yêu thương, Người đã nhận con người làm con, cho hưởng hạnh phúc với Người. Nhưng loài người vô tình không những không yêu mến mà còn muốn chống lại Thiên chúa. Vì thế, loài người đã bị phạt. Nhưng Đức Chúa Cha vẫn yêu thương loài người, nên đã có kế hoạch cứu độ loài người. Chính ở điểm này ta nhận biết tình yêu vô cùng tha thiết của Đức Chúa Cha. Không những Ngài không giận ghét loài người, không tự ái vì bị loài người xúc phạm, mà còn bày tỏ một tình yêu thương mãnh liệt không ai dám ngờ tới. Tình yêu thương mãnh liệt ấy đã thúc đầy Ngài hi sinh Con Một yêu dấu để chuộc tội cho loài người. Vì yêu thương Chúa Cha đã hi sinh tất cả những gì có thể để cứu chuộc loài người.

Tinh yêu Chúa Cha là một tình yêu tha thứ. Tha thứ là dấu hiệu của tình yêu. Khi yêu, người ta sẵn sàng tha thứ. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu nói nhiều về tình yêu tha thứ của Đức Chúa Cha. Cảm động nhất là dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu. Tóm tắt như sau: Người Cha có hai con trai. Đứa út xin Cha chia gia tài cho nó. Được rồi, nó cầm tiền, bỏ nhà ra đi, ăn chơi phung phí. Khi nó tiêu hết tiền thì vùng ấy xảy ra nạn đói. Đói bụng nó phải đi chăn lợn. Nó muốn ăn cám lợn mà chủ không cho. Bấy giờ nó hối hận và nghĩ: ở nhà cha mình các đầy tớ còn được ăn no, còn mình ở đây phải chết đói. Thế rồi, nó chỗi dậy, trở về nhà. Cha nó ngày nào cũng ra đầu ngõ chờ mong con trở về. Khi thấy nó về, ông chạy lại ôm lấy nó mà hôn lấy hôn để, rồi ông gọi gia nhân mang áo đẹp, nhẫn, giầy ra cho cậu và ra lệnh mở tiệc ăn mừng (cf Lc 15). Người cha ấy là hình ảnh Đức Chúa Cha.Thật kỳ diệu tình yêu Người. Người quên hết tất cả những lỗi lầm của ta. Người yêu ta trước khi ta yêu Người. Người tha thứ cho ta trước khi ta xin lỗi Người.

Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy noi theo tình yêu của Chúa Cha. Biết đối xử với nhau như Chúa Cha đối xử với chúng ta. Hãy yêu thương hết mọi người không loại trừ một ai. Nhất là hãy yêu thương những người bé nhỏ, cùng khổ, bất hạnh. Hãy biết tha thứ những lỗi lầm của người khác. Tha thứ không phải chỉ một lần mà tha thứ rất nhiều lần. Và hãy dám hi sinh, chấp nhận chịu thiệt thòi vì tình yêu. Yêu như Chúa yêu. Đó mới là tình yêu đích thực. Chỉ có tình yêu bắt nguồn từ Chúa mới bền vững và đem lại hạnh phúc cho nhân loại.

Lạy Cha, xin cho con hiểu được tình yêu của Cha. Xin cho con trở nên giống Cha, biết yêu thương bằng tình yêu của Cha. Amen

III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU

1- Từ trước đến nay, bạn hiểu tình yêu thế nào?

2- Mỗi khi nghĩ đến Đức Chúa Cha, bạn nghĩ đến đặc tính nào của Người: yêu thương, quyền năng, thưởng phạt công minh....?

3- Đối với bạn, yêu thương người khác dễ hay khó ?

4- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Chúa Cha.
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Cuộc tông du Đất Thánh (12)
Vũ Văn An
03:20 16/05/2009
Khuyến khích ở lại Nơi Nhập Thể

Hôm nay 14 tháng Năm, Đức Thánh Cha tới thăm Nadarét, tỏ tình liên đới với các Kitô hữu của thành phố này.

Năm ngoái, Trung Tâm Truyền Thông Công Giáo tại Đất Thánh cho biết Kitô hữu chỉ chiếm 2% dân số của Do Thái và các Lãnh Thổ Palestine. Dù con số có cao hơn tại Nadarét, nơi có đến 30% dân là người Kitô Giáo, song con số này cũng đã thay đổi đáng kể từ năm 1946, lúc Kitô hữu chiếm tới 60%, theo số liệu của Viện Amnon Ramon tại Giêrusalem chuyên nghiên cứu về Do Thái Học.

Đức Thánh Cha ghi nhận việc nhiều Kitô hữu phải bỏ xứ ra đi vì hy vọng sẽ kiếm được sự an ổn lớn hơn và một viễn ảnh tươi đẹp hơn. Nhưng ngài khuyên các Kitô hữu còn lại hãy noi gương Đức Mẹ “sống ẩn dật tại Nadarét, dù chẳng có bao nhiêu so với sự giầu có hay ảnh hưởng của thế gian”. Ngài thúc giục họ “tin tưởng vào lòng trung thành với Chúa Kitô và ở lại đây, tại lãnh thổ mà Người đã thánh hóa bằng chính sự hiện diện của Người. Điều thiết yếu là chúng con phải nên một với nhau, để Giáo Hội tại Đất Thánh được người ta nhìn nhận một cách rõ ràng như là dấu chỉ và dụng cụ cho sự hiệp thông với Thiên Chúa và cho việc hợp nhất của toàn thể nhân loại”.

Nhập thể

Việc cử hành Kinh Chiều (Vespers) là biến cố công cộng sau cùng trong ngày Đức Giáo Hoàng có mặt tại Nadarét. Các biến cố trước đó là Thánh Lễ ngoài trời tại Đồi Vực Thẳm (Mount of Precipice), cuộc gặp gỡ với Thủ Tướng Do Thái Benjamin Netanyahu và cuộc gặp gỡ liên tôn tại hội trường đền thờ Truyền Tin.

Đền thờ này gồm một hang đá, nguyên thủy vốn là một phần của nhà Đức Mẹ, nơi Thiên Thần Gabriel hiện ra yêu cầu ngài trở thành mẹ Chúa Giêsu. Đức Giáo Hoàng cầu nguyện trước một bàn thờ có bảng đá ghi hàng chữ: "Verbum caro hic carnum est" [và Ngôi Lời thành nhục thân tại đây]. Ngài phát biểu: “quả hết sức cảm động đối với tôi” được hiện diện tại nơi Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Đức Thánh Cha quả quyết: “Sự diệu kỳ của Nhập Thể tiếp tục thách thức ta mở rộng tầm hiểu đối với các khả thể bất tận của quyền năng Thiên Chúa, của tình yêu Người dành cho ta, của ý nguyện Người muốn kếp hợp với ta”.

Ngài nói thêm: “Mọi ca đoàn thiên thần đều chú mục vào địa điểm này” chờ đợi sự thuận tình của Đức Mẹ, một sự thuận tình sẽ “phát khởi một chương mới và dứt khoát trong lịch sử thế giới”. Đức GH cho hay: suy nghĩ về điều đó đem lại cho ta hy vọng, hy vọng rằng Thiên Chúa sẽ tiếp tục đi vào lịch sử của ta, và với một quyền lực sáng tạo, sẽ hành động để hoàn thành được các mục tiêu mà theo tính toán của con người không tài nào có thể thực hiện được. Đức GH khuyên mọi người “đón mời Ngôi Lời Thiên Chúa vào trái tim ta, giúp ta biết đền đáp tình yêu của Người và biết dùng tình yêu vươn tới người khác”.

Sau Kinh Chiều, Đức GH trở lại Giêrusalem, nơi ngài sẽ kết thúc chuyến tông du vào ngày Thứ Sáu.

Nền tảng xã hội

Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI gợi ý rằng hòa bình tại Trung Đông sẽ được bàn tay các trẻ em mang lại, vì các em khi noi gương Chúa Giêsu Hài Đồng sẽ dạy cha mẹ biết yêu thương. Đó là lời Đức Giáo Hoàng phát biểu khi cử hành Thánh Lễ lớn nhất trong thời gian tông du tại Nadarét. Khoảng 50,000 tín hữu đã tham dự Thánh Lễ tại Đồi Vực Thẳm, nơi, theo truyền thuyết, những người dân đầy giận dữ của Nadarét định liệng Chúa Giêsu xuống vực thẳm (Xem Lc 4:29).

Vì giáo hội địa phương tại Đất Thánh đang mừng năm gia đình, nên Đức Giáo Hoàng đã tập chú sứ điệp của ngài vào gia đình và vai trò chủ chốt của gia đình trong xã hội. Ngài khởi đầu bài giảng bằng cách nhắc mọi người nhớ rằng gia đình “trong kế hoạch của Thiên Chúa, vốn đặt căn bản trên lòng trung thành suốt đời của một người đàn ông và một người đàn bà, được giao ước hôn nhân thánh hiến và chấp nhận hồng phúc chuyển giao sự sống mới của Thiên Chúa”.

Theo Đức Thánh Cha, con người thời ta cần phải tái biến chân lý căn bản trên thành của mình biết là chừng nào, một chân lý vốn làm nền cho xã hội, và chứng tá của các cặp vợ chồng quan yếu biết bao nhiêu đối với việc đào tạo lương tâm lành mạnh và xây dựng văn minh tình yêu.

Những người kiến tạo hòa bình

Nhắc đến Chúa Giêsu Hài Đồng và trích dẫn hiến chế “Vui Mừng và Hy Vọng”, Đức Bênêđíctô XVI tiếp tục xem sét sứ mệnh đặc thù đang thách thức các trẻ em tại Trung Đông. Ngài gợi ý rằng các em có thể đóng một vai trò chủ yếu trong vùng.

Ngài bảo: “Công Đồng Vatican II dạy rằng trẻ em có một vai rò đặc biệt trong việc lớn mạnh về đàng thánh thiện của cha mẹ chúng. Cha xin các con suy nghĩ về điều ấy, và hãy để gương sáng của Chúa Giêsu hướng dẫn các con, không những trong việc trọng kính cha mẹ các con, mà còn phải giúp các ngài khám phá đầy đủ hơn mối tình yêu từng đem lại cho đời sống ta ý nghĩa thâm sâu nhất của nó”.

Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh: “Trong Gia Đình Thánh Gia tại Nadarét, chính Chúa Giêsu dạy Đức Mẹ và Thánh Giuse về sự vĩ đại của tình yêu Thiên Chúa, vốn là Cha trên trời của Người, và là nguồn tối hậu của mọi tình yêu, là vị Cha mà từ Người mọi gia đình trên trời và dưới đất nhận tên”.

Đức Giáo Hoàng mời gọi mọi người: “Các bạn thân mến, trong Lời Nguyện Mở Đầu Thánh Lễ hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa Cha ‘giúp chúng ta sống như Thánh Gia, kết hợp nên một trong trọng kính và thương yêu’. Tại đây, chúng ta hãy tái khẳng định cam kết của ta làm chất men khởi động lòng trọng kính và tình yêu trên khắp thế giới”.

Phụ nữ

Và đây là lần thứ hai trong chuyến tông du Đất Thánh, Đức GH dành chủ đề trong bài nói của ngài để bênh vực phụ nữ. Lần đầu nói tới chủ đề đó là trong Thánh Lễ ngoài trời ở Amman, thủ đô Giođăng.

Nhắc đến Đức Maria, người mẹ của Thánh Gia, Đức GH cho hay: “Nadarét nhắc ta nhớ đến nhu cầu phải nhìn nhận và tôn trọng phẩm giá Chúa ban và vai trò thích đáng của phụ nữ, cũng như các đặc sủng và tài năng của họ. Bất kể là bà mẹ trong gia đình, là sự hiện diện chủ yếu trong lực lượng lao động, hay trong ơn gọi đặc thù theo chân Chúa trong ba lời khuyên phúc âm tức lời khuyên khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời, người phụ nữ đều có một vai trò không thể miễn chước trong việc tạo ra ‘cái sinh thái nhân bản’ mà thế giới chúng ta, mà mảnh đất này, hết sức cần đến một cách khẩn thiết: một môi trường trong đó trẻ em học biết yêu thương và trân quí người khác, biết trung thực và tôn trọng mọi người, biết thực hành các nhân đức xót thương và tha thứ”.

Tuy nhiên, Đức Giáo Hoàng cũng có một sứ điệp đặc thù gửi các đấng mày râu. Ngài nói: “Ở đây nữa, chúng ta cũng nghĩ tới Thánh Giuse, người công chính mà Thiên Chúa đã muốn đặt đứng đầu gia hộ của Người. Noi gương mạnh mẽ và đầy tình cha con của Thánh Giuse, Chúa Giêsu đã học được các nhân đức nam nhi về lòng đạo đức, lòng trung tín với lời mình nói, sự liêm chính và cần mẫn làm ăn. Nơi người thợ mộc Nadarét, Người thấy rõ uy quyền, một khi đem ra phục vụ tình yêu, thì vô cùng hữu hiệu xiết bao so với thứ quyền lực chỉ tìm cách thống trị. Thế giới chúng ta cần xiết bao gương sáng, sự hướng dẫn và sức mạnh thầm lặng của những người đàn ông như Thánh Giuse!”.

Hợp phẩm giá

Chú giải bài đọc sách Sirach trong Thánh Lễ, Đức GH cho rằng bài đọc này trình bày gia đình như một trường học, một trường học “huấn luyện cho các học viên của mình biết thực hành các nhân đức dành cho sự hạnh phúc chân chính và thành đạt lâu bền”.

Đức Giáo hoàng nói hêm: “Trong gia đình, mỗi người, bất luận là người trẻ nhất hay là người già nhất, đều được trân qúy vì chính họ, chứ không bị coi chỉ là phương tiện đạt một mục tiêu khác”. Theo Đức Giáo Hoàng, đó chính là “vai trò chủ yếu” của gia đình trong xã hội. Và về phương diện này, “nhà nước có bổn phận hỗ trợ gia đình trong sứ mệnh giáo dục của họ, bảo vệ định chế gia đình và các quyền cố hữu của định chế ấy, và bảo đảm để các gia đình có thể sống và triển nở trong các điều kiện hợp phẩm giá”.

Đức Giáo Hoàng cùng các nhà lãnh đạo tôn giáo kêu gọi hòa bình

Đức GH Bênêđíctô XVI, hôm 14 tháng Năm, nhân tới Galilê, đã gặp gỡ các nhà lãnh đạo tôn giáo thuộc nhiều truyền thống, cam đoan với họ: Giáo Hội Công Giáo nhất quyết cổ vũ hòa bình và cùng nhau thăng tiến xã hội.

Cuộc gặp gỡ này xẩy ra tại Đền Thờ Truyền Tin, với sự hiện diện của các nhà lãnh đạo Kitô Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo và Druze, để đối thoại và cầu nguyện. Trong bài nói truyện, Đức Giáo Hoàng quả quyết với các nhà lãnh đạo này rằng mọi truyền thống tôn giáo đều có chung xác tín này: “Hòa bình là hồng ân của Thiên Chúa”. Tuy nhiên, ngài nói thêm: “không thể đạt được nền hòa bình ấy, nếu không có cố gắng của con người”.

Ngài cho biết: “hòa bình lâu bền phát sinh từ việc thừa nhận rằng thế giới tựu chung không phải của riêng chúng ta, nhưng đúng hơn là một chân trời, nơi ta được mời gọi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa và hợp tác vào việc hướng dẫn thế giới và lịch sử dưới sự linh hứng của Người”.

Theo ngài, “ta không thể làm bất cứ điều gì mình muốn với thế giới, nhưng được mời gọi đồng dạng các chọn lựa của ta với lề luật mà Đấng Tạo Hóa đã khắc ghi vào vũ trụ, và mô phỏng các hành động của ta theo sự tốt lành của Thiên Chúa, sự tốt lành từng thấm nhiễm trọn bộ lãnh vực tạo dựng”.

Đức Bênêđíctô XVI nói rằng Galilê là vùng đất “nổi tiếng về tính đa phức tôn giáo và sắc tộc” và là quê hương của một dân tộc “biết rõ các cố gắng cần phải có để sống một cuộc chung sống hòa hợp”. Ngài nói với các nhà lãnh đạo tôn giáo rằng: “các truyền thống tôn giáo dị biệt của chúng ta có một tiềm năng mạnh mẽ trong việc cổ vũ một nền văn hóa hoà bình, nhất là qua việc giảng dạy các giá trị thiêng liêng sâu sắc hơn của nhân tính chung của chúng ta”.

Một trách vụ cao qúi

Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng tương lai nhân loại sẽ được khuôn định bằng việc “lên khuôn trái tim người trẻ”. Ngài quả quyết: “Các Kitô hữu sẵn sàng tham gia với người Do Thái Giáo, Hồi Giáo và Druze, và người thuộc các tôn giáo khác trong ước nguyện bảo vệ trẻ em khỏi chủ nghĩa cuồng tín và bạo lực trong khi chuẩn bị cho chúng trở thành người kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn”.

Đức Giáo Hoàng khuyến khích các thính giả của ngài “tiếp tục thể hiện việc tôn trọng lẫn nhau trong khi cố gắng làm dịu các căng thẳng liên quan tới các nơi thờ phượng, nhờ thế đảm bảo được một môi trường thanh thản cho việc cầu nguyện và suy niệm tại đây và khắp vùng Galilê”.

Ngài bảo đảm việc Giáo Hội Công Giáo cương quyết dấn thân tham gia với các truyền thống khác trong “trách vụ cao qúi” làm đẹp xã hội hơn, và nhờ thế làm chứng nhân “cho các giá trị tôn giáo và tâm linh vốn nâng đỡ cuộc sống công cộng’. Ngài cam đoan: Giáo Hội Công Giáo sẽ “tìm cách đảm bảo rằng ánh sáng chân lý, hòa bình và sự thiện sẽ tiếp tục tỏa chiếu rạng rỡ từ Galilê và sẽ hướng dẫn người khắp mặt địa cầu tìm kiếm tất cả những gì cổ vũ cho sự hợp nhất của gia đình nhân loại”.

Cùng nhau cầu nguyện

Sau bài diễn văn của Đức Giáo Hoàng, môt đại biểu Do Thái đã hướng dẫn một buổi cầu nguyện được mọi đại biểu các tôn giáo bạn tham gia, trong đó ông hát to: “Shalom! Salaam! Lạy Chúa, xin ban bình an cho chúng con. Dona Nobis Pacem!”. Các nhà lãnh đạo trên khán đài nắm tay nhau giữa tiếng vỗ tay của cử tọa.

Trước đó, trong thánh lễ tại Đồi Vực Thẳm, Đức Giáo Hoàng nhìn nhận có những căng thẳng trong mấy năm gần đây tại khu vực này, từng gây thiệt hại cho các mối liên hệ giữa các cộng đồng Kitô Giáo và Hồi Giáo. Ngài kêu gọi hai cộng đồng “sửa chữa lại sự thiệt hại đã xẩy ra và cố gắng xây những cây cầu để tìm ra đường dẫn tới việc chung sống hòa bình”. Ngài tuyên bố rằng “mọi người hãy từ khước sức mạnh tàn phá của thù hận và thiên kiến, từng giết chết bao linh hồn người ta trước khi giết thân xác họ”.

Đức Giáo Hoàng và Thủ Tướng Do Thái nói truyện hòa bình

Dù chính sách của Tòa Thánh về Trung Đông khác với chính sách của Thủ Tướng Do Thái, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI vẫn đã gặp nhà lãnh đạo này ngày hôm nay, 14 tháng Năm, để thảo luận cách làm thế nào đẩy mạnh diễn trình hòa bình.

Ông Benjamin Netanyahu đã gặp Đức Giáo Hoàng để nói truyện riêng trong vòng 15 phút tại tu viện Phanxicô ở Nadarét. Cha Federico Lombardi, giám đốc văn phòng báo chí Tòa Thánh, tường trình rằng cuộc thảo luận “tập trung vào việc làm thế nào để diễn trình hòa bình được đẩy mạnh”.

Ông Netanyahu vốn không ủng hộ ý niệm về một nhà nước Palestine độc lập tại Trung Đông. Về phần mình, Đức Bênêđíctô XVI từng tuyên bố với Chủ Tịch Thẩm Quyền Quốc Gia Palestine, Mahmoud Abbas, vào hôm Thứ Tư rằng “Tòa Thánh ủng hộ quyền của nhân dân ngài có một quê hương Palestine tự chủ trên mảnh đất tổ tiên, sống an toàn và hoà bình với các lân bang, bên trong các biên giới được quốc tế công nhận”.

Tuy nhiên, trên đài truyền hình Do Thái, ông Netanyahu cho biết ông hài lòng với cuộc thăm viếng. Ông cho biết ông có yêu cầu Đức Giáo Hoàng ủng hộ tình thế với Iran. Tổng thống Iran là Mahmoud Ahmadinejad vốn kêu gọi phải kết liễu Nhà Nước Do Thái.

Ủy Ban Song Phương Làm Việc Thường Trực giữa Tòa Thánh và Do Thái cũng gặp nhau vào khoảng 20 phút để tiếp nối các cuộc thảo luận của họ về Hiệp Ước Căn Bản năm 1993.
 
Luật sư xác nhận: Kẻ bắn ĐGH Gioan Phaolô II muốn trở thành người Công Giáo
Nguyễn Long Thao
03:26 16/05/2009
ANKARA 15/05/09- Nguồn tin của hãng thông tấn AFP loan tin Mehmet Ali Agca, người đã bắn ĐGH Gioan Phaolô II tại quảng trường thánh Phêrô vào năm 1981 đã xin Tòa Thánh cho phép ông ta được rửa tội tại Vatican một khi ông ta mãn hạn tù tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Trả lời phỏng vấn của hãng thông tấn Pháp AFP, ông Haci Ali Ozhan, luật sư của Ali Agca nói: “ Thân chủ của ông muốn được gặp ĐGH và được rửa tội tại đây một khi mãn hạn tù”.

Luật sư Ozhan nói tiếp: “Qua trung gian người bạn ở Ý, chúng tôi đã chuyển đệ thỉnh cầu tới Tòa Thánh và được biết Tòa Thánh đã nhận được văn thư thỉnh cầu.”

Trong một lá thư được tuần san Diva e Donna ở Ý công bố tháng qua, Agca nói rằng ông ta đã bỏ đạo Hồi và theo đạo Công Giáo từ năm 2007. Quyết định này đã được ông báo cho Tòa Thánh biết nhưng không nhận được lời phúc đáp nào.

Luật sư Ozhan cũng cho biết thêm thân chủ của ông muốn làm phim tài liệu tại Vatican, nhưng không nói rõ đó là phim gì.

Năm nay Agca 51 tuổi ở tù tại Thổ Nhĩ Kỳ từ năm 2000, sau khi đã ngồi tù ở Ý Đại Lợi 19 năm vì đã ám sát ĐGH Gioan Phaolô II.

Trước khi bắn ĐGH vào ngày 13 tháng 5 năm 1981, Agca đã đào thoát khỏi Thổ Nhĩ Kỳ vì tội giết một ký giả và 2 tội đánh cướp có vũ khí.

Động lực nào khiến Agca bắn ĐGH thì tới nay vẫn còn là một bí mật. Chính Agca nói ông ta bắn ĐGH là theo sự sắp đặt của thần thánh. Ông vẫn nổi tiếng vì các câu chuyện tiền hậu bất nhất của ông ta.

Điểm nổi bật trong vụ án Agca là vào năm 1983 ĐGH Gioan Phaolô II đã vào tù thăm Agca và tuyên bố tha thứ cho Agca.

Theo báo chí Thổ Nhĩ Kỳ, sớm nhất Agca sẽ được tự do nào ngày 18 tháng Giêng năm 2010, nhưng báo cũng dự đoán đến năm 2014 chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ mới thả Ali Agca.

Tưởng cũng nên nói thêm, để trở thành người Công Giáo, Agca không chỉ đơn thuần đưa ra lời tuyên bố là đủ, phải trải qua một tiến trình dài trước khi chính thức được nhận lãnh bí tích rửa tội.
 
Đức Thánh Cha kêu gọi Kitô hữu và người Hồi giáo vượt thắng chia rẽ, xây dựng văn hóa hòa bình
John Bosco Nguyễn Hoàng Thương
14:46 16/05/2009
Nazareth (AsiaNews) – Trong huấn từ tiếp kiến các vị lãnh đạo tôn giáo của Galilê, Đức Thánh Cha đã cầu mong cho các tôn giáo hiện diện ở Thánh Địa, nhất là Kitô giáo và Hồi giáo, vượt thắng mọi chia rẽ hiện tại và cùng nhau thăng tiến một 'nền văn hóa của hòa bình'. Khi chủ sự Kinh Chiều ở bên trên Vương cung Thánh đường Truyền Tin Nazareth, ngài cho hay rằng các Kitô hữu được giao nhiệm vụ cụ thể để thực hiện điều tương tự.

Cuộc gặp gỡ đầu tiên kết thúc bằng việc cầu nguyện chung cho hòa bình, bằng cử chỉ mang tính biểu tượng, trong vòng tròn Đức Thánh Cha Bêneđictô XVI nắm tay Giáo sĩ Do Thái David Rosen và một Thầy cả Hồi giáo từ Galilê, cầu nguyện với họ khi một giáo sĩ Do Thái khác bên trong vòng tròn bắt đầu bài hát "Salaam, Shalom", nghĩa là hòa bình theo tiếng Ả Rập và tiếng Do Thái.

Tiến triển trong tiến trình hòa bình cũng là một chủ đề thảo luận trong cuộc hội kiến 15 phút với Thủ Tướng Israel ở Tu viện Phanxicô Nazareth. Cha Federico Lombardi, Giám đốc văn phòng báo chí Tòa Thánh Vatican sau đó tuyên bố về cuộc gặp này cho hay "đặt trọng tâm vào việc làm thế nào tiến trình hòa bình có thể được cải thiện".

Sau khi Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI hội kiến với lãnh đạo Israel, một đoàn đại biểu sáu thành viên Israel và đoàn đại biểu Tòa Thánh Vatican do Đức Hồng y Quốc Vụ Khanh Tarcisio Bertone dẫn đầu đã thảo luận 20 phút về các đàm phán hiện nay liên quan đến thỏa ước kinh tế và tài chính giữa Israel và Tòa Thánh. Một trong những vấn đề hai bên đã thảo luận là visa cho các giáo sĩ Công Giáo ở Israel hôm nay, khi mà Bộ Nội Vụ Israel từ chối một đề nghị của Vatican về 500 visa nhập cảnh làm việc cho các linh mục từ các nước Ả rập.

Trong mối quan hệ liên tôn ở Nazareth, có một phản hồi đặc biệt. Tại đây, vào cuối thế kỷ vừa qua, thầy cả Hồi giáo của đền thờ a-din Shihab, Nizam Sakhafa, đã đệ đơn và ban đầu có được giấy phép xây dựng một đền thờ lớn mới ngay kế bên Vương cung Thánh đường Truyền Tin. Các Kitô hữu xem điều này như là sự khiêu khích và tổ chức phản đối, cuộc phản đối chỉ chấm dứt vào năm 2001, khi mà chính phủ chặn đứng yêu cầu này.

Liên quan đến Phong trào Hồi giáo Israel, một phong trào Hồi giáo cực đoan, một thầy cả đã tổ chức phản đối chống lại việc Đức Thánh Cha viếng thăm thị trấn Nazareth, bằng việc cầm cờ và giơ cao áp phích. Theo nhật báo Israel Yedioth Ahronoth, cảnh sát đã ra lệnh cho vị thầy cả này ra khỏi thị trấn. Tuy nhiên các phản đối cũng đã đạt được một điều: An ninh Israel ngăn chặn không cho Đức Thánh Cha dùng Xe Giáo Hoàng (popemobile) qua thị trấn, làm cho Thị Trưởng Ramiz Jaraisy phản ứng giận dữ.

Lời kêu gọi mang ý nghĩa cân bằng về đối thoại của Đức Thánh Cha đã bị bị một số nhóm bàn tán. Phong trào Hamas của Palestine, thông qua một đại diện ở hội đồng lập pháp Palestine, Ahmad Bahar, đã cáo buộc Đức Thánh Cha không để ý đến đau khổ của người Palestine khi ngài có cuộc gặp gỡ với cha mẹ của binh sĩ Gilad Shalit, người vẫn còn bị tổ chức Hamas bắt giữ làm con tin, trong khi đó lại không băn khoăn để gặp gỡ các cha mẹ của những tù nhân bị bắt giữ ở Israel.

Trên quan điểm về đối thoại, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI cho hay: "Galilê, một vùng đất nổi tiếng về đa dạng chủng tộc và tôn giáo, là nhà cho người biết có những nỗ lực cần thiết để sống trong hòa hợp để cùng tồn tại. Các truyền thống tôn giáo khác biệt chúng ta tiềm tàng khả năng mạnh mẽ để thăng tiến một nền văn hóa của hòa bình, nhất là thông qua việc giảng dạy và rao giảng các giá trị tinh thần sâu sắc hơn của nhân loại chúng ta. Bằng cách tạc nên những con tim của giới trẻ, chúng ta tạo nên tương lai của chính nhân loại. Các Kitô hữu sẵn sàng hiệp cùng người Do Thái giáo, người Hồi giáo, người Druze, và những người thuộc các tôn giáo khác mong muốn bảo vệ trẻ em thoát khỏi cuồng tín và bạo lực, trong khi chuẩn bị cho chúng trở thành những nhà kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn". Điều này xuất phát từ thực tế "chẳng những không là hậu quả của số phận không lối thoát, mà thế giới còn được định bởi Thiên Chúa và chứng tỏ vinh quang rạng ngời của Ngài".

Thật vậy "Trung tâm điểm của tất cả các truyền thống tôn giáo là xác tín rằng chính hòa bình là quà tặng của Thiên Chúa, nhưng nó không thể đạt được mà không có nỗ lực của con người. Hòa bình bền vững xuất phát từ sự công nhận rằng thế giới không phải là cùng đích của bản thân chúng ta, nhưng là chân trời mà chúng ta được mời gọi dự phần vào tình yêu Thiên Chúa và cộng tác vào việc dẫn dắt thế giới và lịch sử dưới sự linh hứng của Ngài. Chúng ta không thể làm bất cứ điều gì để chúng ta hài lòng với thế giới; thay vào đó, chúng ta được kêu gọi thích nghi với những chọn lựa của chúng ta đối với những luật lệ tinh tế chưa được nhận ra vốn được Đấng Sáng Tạo khắc ghi cho vạn vật và khuôn mẫu hành động của chúng ta sau khi lòng nhân từ Thiên Chúa được tràn ngập khắp vương quốc thụ tạo".

Đức Giáo Hoàng kết thúc ngày viếng thăm Nazareth bằng cuộc tiếp kiến các giám mục, linh mục, nam nữ tu sĩ và giáo dân Công Giáo. Ngài khuyến khích họ không chỉ để ở lại mảnh đất này, mà còn phải hoàn thành vai trò của mình, trở thành người mang hòa bình. Ngài cho hay: "Như Đức Maria, anh chị em có phần để đóng vai trò trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, bằng cách đem Chúa Kitô vào thế giới, bằng cách làm chứng cho Ngài và loan báo thông điệp hòa bình và hiệp nhất của Ngài".
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Lễ mừng Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ nhân dịp mừng thọ 100 tuổi, 75 năm Linh mục, 50 năm Giám Mục
PV Giáo Phận Long Xuyên
00:14 16/05/2009
LỄ MỪNG THƯỢNG THỌ ĐỨC CHA MICAE NGUYỄN KHẮC NGỮ 75 NĂM LINH MỤC VÀ 50 NĂM GIÁM MỤC

NHẬT KÝ

Những ngày chuẩn bị

Giáo phận Long Xuyên rất vui mừng vì Đức cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ, giám mục tiên khởi, đạt đến tuổi đời 100 vào ngày 2/2/2009 vừa qua.

Để đánh dấu ngày trọng đại có một không hai này, giáo phận đã chính thức mời các Đức Giám mục Việt Nam, các dòng tu, các linh mục có liên hệ với Đức cha Micae, cũng như thân nhân, linh tông của ngài, các anh em cựu chủng sinh Long Xuyên, trong và ngoài nước về tham dự thánh lễ tạ ơn lúc 9g30 sáng ngày 14 tháng 5 năm 2009.

Dĩ nhiên, không thể vắng mặt các linh muc, tu sĩ và giáo dân giáo phận Long Xuyên. Toàn thể giáo phận đã được báo tin về ngày lễ tạ ơn này, và đã làm tuần 7 ngày cầu nguyện cho Đức cha Micae.



Ngoài ra, để mừng Đức cha Micae, giáo phận Long Xuyên đã cho in cuốn TỰ THUẬT cuả thánh Augustinô do ĐC Micae dịch thuật, một cuốn VIẾT VỀ CHA để tỏ bày tâm tình của những người con giáo phận đối với ĐC già thân yêu, đáng kính. Hơn nữa, mỗi gia đình giáo dân trong giáo phận được tặng một tấm ảnh của ngài, để nhớ và cầu nguyện cho ngài.

Tất cả các công việc trên phần nào biểu lộ tấm lòng biết ơn, yêu mến của toàn thể giáo phận đối với vị cha già đáng kính mà tuổi đã tròn trăm.

Ngày 12 tháng 5 năm 2009

Một ngày đẹp trời! Không mưa! Buổi sáng trời trong xanh, khí hậu mát mẻ, vài ngọn gió nhè nhẹ đung đưa những lá cây dừa kiểng.

Toà giám mục được tin cha Nguyễn Văn Khấn, ấm tử của ĐC Micae Ngữ, sẽ tới Long Xuyên vào sáng Thứ Ba hôm nay.

Khoảng 10g00 đã thấy cha có mặt tại sân Toà Giám Mục, đang nói chuyện với Bác Sáu Vận rất vui vẻ. Ngài là con người năng động, vui tươi, nói cười tự nhiên. Sau 16 năm gặp lại, ngài vẫn khoẻ mạnh, đẹp người dù tuổi đời đã là 78.



Khi được hỏi Đức cha già Micae có nhận ra ngài lúc đến chào không, ngài trả lời: “Mình đến lúc sơ Hợi (sơ trông nom Đức cha) đi vắng, nên cứ bước vào, không nói gì để thử xem ngài có nhận ra không. Nhưng thật không ngờ, vừa thấy mặt ngài đã nói: ‘Nó mập quá…”

Đến khoảng 14g00, cha Đỗ Thanh Hà từ Sàigòn về tới. Ngài đã về một lần, nhưng là 14 năm trước. Ngài đến chào ĐC Giuse Trần Xuân Tiếu và GB. Bùi Tuần. Kế đó, cha Hà và cha Khấn rủ nhau đi thăm các cha nhà hưu Cần Xây và cha FX. Lê Ngọc Triêu đang hưu tại nhà riêng ở giáo xứ Năng Gù.

Các ngài gặp nhau, tay bắt mặt mừng, nói chuyện rôm rả, vì có những cha đã không gặp nhau từ năm 1975 tới nay.

Ngày 13 tháng 5 năm 2009

Buổi sáng vẫn là công tác chuẩn bị: bàn ghế, rạp che nơi đặt các bàn ăn, dán bảng chỉ dẫn các nơi cần. Chăng biểu ngữ hình ĐC Micae, khẩu hiệu và những câu về năm thánh Phaolô, v.v.



Buổi chiều, tất cả các thầy và dự tu làm công tác tiếp tân đều sẵn sàng, mặc đồng phục màu nâu nhạt, bảng tên, nón mầu xanh đậm, tay đeo băng trật tự, rải đều khắp sân Toà Giám Mục, và nhất là tại cổng. Một số thầy và cha phụ trách đưa đón từ Toà giám mục đến khách sạn cũng sẵn sàng. Bốn chiếc xe đưa đón đã đậu tại sân Toà giám mục ngay sau cơm trưa.

- Khoảng 15g00, phái đoàn ĐC Giuse Hoàng Văn Tiệm, giáo phận Bùi Chu là những người đầu tiên đặt chân đến Long Xuyên. Có ba cha tháp tùng ĐC cùng đi dự lễ. Sau nghi thức đón tiếp đơn giản, các ngài được đưa ra nghỉ tại khách sạn Đông Xuyên, rất gần nhà thờ chánh toà, mà cũng không xa Toà giám mục.

- 16g05 phái đoàn Đức Tổng Giám Mục Hà Nội đến cùng với các Đức cha Lạng Sơn, Bắc Ninh và Đức cha phụ tá tổng giáo phận Huế. Đi cùng đoàn còn có một số cha tháp tùng các Đức cha.

- 19g40, Đức cha Võ Đức Minh, giám mục phó giáo phận Nha Trang đến Long Xuyên bằng xe hơi từ Nha Trang. Ngài dùng cơm tối và ra khách sạn nghỉ ngơi.

- Khoảng 20g00, phái đoàn Đức cha Vũ Văn Thiên Hải Phòng tới Toà Giám mục sau khi đã về kênh Thày Ký, cách Long Xuyên gần 40km thăm cha cố Hưng, đang nghỉ hưu tại đó.

Một ngày đón khách dài, nhưng vui, rất vui, vì được hân hạnh đón tiếp các Đức cha và các cha từ Bắc chí Nam. Đây là một trong những dịp hiếm hoi của giáo phận Long Xuyên. Cơ hội thứ nhất, cách nay đã 10 năm, vào dịp phong chức Giám mục cho ĐC Giuse Trần Xuân Tiếu và ĐC Giuse Ngô Quang Kiệt.

Ngày 14 tháng 5 năm 2009

Cuối cùng, ngày chính lễ mong đợi đã đến. Nhà thờ chánh toà được trang hoàng đơn sơ, nhưng rất đẹp. Hàng chữ “Giáo phận Long Xuyên hân hoan mừng thượng thọ Đức cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ” nổi bật trên mặt gió nhà thờ.



Đường đi giữa nhà thờ được trải thảm. Cung thánh được trang hoàng đẹp đẽ với những bông hoa được cắm đầy nghệ thuật và đặt tại những vị trí làm nổi bật cung thánh. Một bục cao được đóng và trải thảm đỏ cho 21 giám mục và đức đan viện phụ đan viện Châu Sơn.

- 9g10, phái đoàn Đức Hồng Y GB. Phạm Minh Mẫn tới nơi, cùng đi theo đoàn có hai Đức cha phụ tá: Giuse Vũ Duy Thống và Phêrô Nguyễn Văn Khảm. Ngoài ra còn có cha Hồ Hiếu Xuân tháp tùng các Đức cha.

Sau đó, ĐHY và các Đức cha sang nhà xứ nhà thờ chánh toà chúc mừng ĐC Micae. Bầu khí thấm đẫm tình nghĩa chân thành giữa các Giám mục với nhau và với bậc lão thành đi trước.

- Đúng 9g30, đoàn đồng tế tiến vào nhà thờ giữa hai hàng danh dự do các thiếu nhi nhà thờ chánh toà nối tay nhau qua những băng vải dài màu thiên thanh.

Trước khi thánh lễ bắt đầu, Đức cha giáo phận Long Xuyên hân hoan đại diện giáo phận ngỏ lời chào mừng ĐHY, Đức Tổng Kiệt, các Đức cha, các cha, tu sĩ nam nữ, thân nhân và linh tông của Đức cha Micae Ngữ, cũng như các cựu chủng sinh Long Xuyên, đại diện các giáo xứ giáo họ trong giáo phận và quan khách. Sau đó, ngài giới thiệu từng giám mục với cộng đoàn trong nhà thờ.

Tất cả có 18 giám mục hiện diện: ĐHY tổng giám mục và hai đức cha phụ tá, Đức Tổng Kiệt, Đức cha Bùi Chu, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Hưng Hoá, Thanh Hoá, Hải Phòng; Đức cha phụ tá tổng giáo phận Huế, Đức cha phó Nha Trang, đặc biệt, có sự hiện diện của Đức cha rất mới, đó là Đức cha Vinh-sơn Nguyễn Văn Bản, giám mục giáo phận Ban Mê Thuột, mới thụ phong hôm 12/5. Ngoài ra, còn có các Đức cha Bà Rịa- Vũng Tàu, Phú Cường, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ. Đức cha phó Cần Thơ dẫn theo một phái đoàn hùng hậu với đông đảo các cha giáo phận để đến chúc mừng ĐC Micae. Ngoài ra, ngài còn giới thiệu Đức Viện Phụ Đức của đan viện Châu Sơn, Đơn Dương.

Tiếp theo, cha Phêrô Lê Văn Kim, tổng đại diện giáo phận, đọc lời chúc mừng ĐC Micae và tặng hoa.

Thánh lễ bắt đầu với nghi thức sám hối. Trước nghi thức này, ĐHY chủ tế đã đại diện các giám mục chúc mừng ĐC Micae và giáo phận Long Xuyên.

Sau bài Phúc Âm là bài giảng của Đức Tổng Kiệt, một bài giàng hết sức cảm động, nêu bật tình yêu thương đến quên mình của ĐC Micae.

Thánh lễ tiếp tục cho đến phút cuối trong bầu khí trang nghiêm, thinh lặng và cầu nguyện rất sốt sắng.

Một điều đáng mừng là hai Đức cha: Micae Nguyễn Khắc Ngữ và GB. Bùi Tuần, mặc dù sức khoẻ yếu do tuổi tác cao, nhưng các ngài đã tham dự từ đầu đến cuối.

Sau thánh lễ, ĐHY, các Đức cha, các cha, tu sĩ và quan khách về Toà Giám Mục dùng cơm trong bầu khí vui tươi, thân mật.

Một buổi lễ đã qua đi. Một tiệc mừng đã trôi vào dĩ vãng, Nhưng vẫn ghi đậm nét thân tình, hiệp nhất, yêu thương giữa các giám mục, linh mục, tu sĩ, cựu chủng sinh và toàn thể anh chị em giáo dân.

Xin Chúa luôn tiếp tục thi ân cho ĐC Micae của chúng con, cho các giám mục, linh mục, tu sĩ và toàn thể cộng đoàn dân Chúa.

Ghi nhanh từ Nhà Thờ Chánh Tòa Long Xuyên, Việt Nam (http://gplongxuyen.net)

14 tháng 5 năm 2009
 
Thắm đẫm ân tình:Thánh lễ Tạ Ơn tại nhà thờ chính Tòa Long Xuyên
Bùi Văn Khiết Tâm
00:24 16/05/2009
Thắm đẫm ân tình: Ghi nhanh Thánh Lễ Tạ Ơn tại nhà thờ Chính toà Long Xuyên

thứ năm, 14.05.2009

Mừng kỷ niệm:

Đại thọ bách niên,

• Ngọc khánh Linh mục,

• Kim khánh Giám mục


Đức cha MICAE NGUYỄN KHẮC NGỮ

Giám mục tiên khởi giáo phận Long Xuyên

Tiền đường nhà thờ Chính toà Long Xuyên sáng 14.05.2009 rực rỡ cờ, hoa với hàng biểu ngữ gắn dưới chân tượng Đức Mẹ Hoà Bình: “Giáo phận Long Xuyên hân hoan mừng thượng thọ Đức cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ”.

Ngay từ sáng sớm, đúng hơn, từ những tháng trước- hàng trăm ngàn trái tim con cái của mẹ giáo phận Long Xuyên hướng về giáo phận thân yêu, nơi có vị cha già khả ái, vị mục tử với bề dày phục vụ: 75 năm tác vụ linh mục, 50 năm trong tác vụ giám mục và gần suốt một nửa thế kỷ gắn bó với giáo phận Long Xuyên từ ngày được Toà thánh thiết lập vào ngày 24.11.1960

Dòng người đổ về từ khắp mọi miền đất nước và cả hải ngoại; thuộc đủ mọi thành phẩn trong Giáo Hội: Đức Hồng Y, Tổng Giám mục giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh: Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn; Đức Tổng Giám mục Hà Nội: Giuse Ngô Quang Kiệt; Đức cha Bắc Ninh: Cosma Hoàng Văn Đạt; Đức cha Bùi Chu: Giuse Hoàng Văn Tiệm; Đức cha Hải Phòng: Giuse Vũ Văn Thiên; Đức cha Hưng Hoá: Antôn Vũ Huy Chương; Đức cha Lạng Sơn: Giuse Đặng Đức Ngân; Đức cha Thanh Hoá - Phát Diệm: Giuse Nguyễn Chí Linh; Đức cha phụ tá Huế: Fx. Lê Văn Hồng; Đức cha Ban Mê Thuột: Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản; Đức cha phó Nha Trang: Giuse Võ Đức Minh; Đức cha Bà Rịa Vũng Tàu: Tôma Nguyễn Văn Trâm; Đức cha phó Cần Thơ: Stêphanô Tri Bửu Thiên; Đức cha Mỹ Tho: Phaolô Bùi Văn Đọc; Đức cha Phú Cường: Phêrô Trần Đình Tứ; Đức cha Vĩnh Long: Tôma Nguyễn Văn Tân; Hai Đức cha phụ tá giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh: Giuse Vũ Duy Thống, Phêrô Nguyễn Văn Khảm; Đức Đan viện phụ Châu Sơn; đặc biệt phải kể đến ba Đức cha: Micae Nguyễn Khắc Ngữ, Gioan Baotixita Bùi Tuần và Giuse Trần Xuân Tiếu.



Ngoài ra, có các cha đại diện các Toà Giám mục Xuân Lộc, Lạng Sơn, Thái Bình… Bề trên các dòng nữ với đủ mọi mầu tu phục, các thầy đại chủng viện Cần Thơ phụ trách hát trong Thánh Lễ, các tu sinh, các đại diện giáo dân trong các giáo xứ, các linh mục trong giáo phận, các linh mục trong nước như Cần Thơ, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Thành phố Hồ Chí Minh, Xuân Lộc… và hải ngoại: cha nghĩa tử của Đức cha Micae: Giuse Nguyễn Văn Khấn; cha Tôma Đỗ Thanh Hà, cha Giuse Nguyễn Việt Hưng, cha Thiên Định…

Đúng 9 giờ, hàng danh dự của giáo xứ Chính toà với chiếc mũ trắng ghi hàng chữ: “Mừng 100 tuổi Đức Giám mục Micae” đón Đức Hồng Y, các Đức Giám mục, các cha và quý khách xa gần đến tham dự Thánh Lễ.

Thánh Lễ đồng tế khởi đầu bằng cuộc rước long trọng lúc 9g30 với các Đức Giám mục, hơn 300 linh mục và hàng ngàn giáo dân từ khắp nơi, trong đó có các cựu chủng sinh Long Xuyên.

Đức cha Giuse Trần Xuân Tiếu chào mừng và giới thiệu với cộng đoàn dân Chúa Đức Hồng Y, Đức Tổng Giám mục, các Giám mục… Ngài đặc biệt nhắc đến hai cây đại thụ của giáo phận là Đức cha cố Micae và Đức cha cố Gioan Baotixita.

Sau đó, đại diện cho mọi thành phẩn dân Chúa Long Xuyên, cha tổng đại diện Phêrô Lê Văn Kim chúc mừng Đức cha Micae. Ngài nói: “Đức cha Micae là bóng mát che phủ cho nhiều thế hệ Giám mục, linh mục…; là linh hồn của giáo phận…; luôn có những chỉ dẫn khôn ngoan như: Hãy luôn làm đúng nhưng đừng đụng”.

Đức Hồng Y Gioan B. Phạm Minh Mẫn chủ sự Thánh Lễ đã khơi lên tâm tình tạ ơn. Ngài nói: “Đức cha Micae là món quà hết sức quý giá của Hội đồng Giám mục Việt Nam, là một vị mục tử như lòng Chúa mong ước… Chúng ta đến đây cùng với tâm tình tạ ơn, là trách nhiệm hiệp thông trong Giáo Hội. Nhờ tinh thần hiệp thông mới có sức mạnh thiêng liêng để loan báo Tin Mừng”.

Chia sẻ bài Tin Mừng theo thánh Gioan 15,9-17, Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt đã nói: “Tình yêu thương đích thực không được thụ động, mang nhiều cảm tính, đi tìm bản thân nhưng phải tích cực, cụ thể và quên mình vì tha nhân. Chúa Giêsu đã mời gọi tất cả chúng ta hãy kiến tạo một bầu trời yêu thương, tràn lan trong chúng ta và vũ trụ.

Đức cha Micae là người đã thực hiện Lời Chúa khi không ngừng quên bản thân mình vì Chúa, vì Giáo Hội và vì tha nhân.

Ngài đã từ bỏ của cải để làm cho giáo phận Long Xuyên trở nên giàu có về nhân sự, cơ sở vật chất… gia tài quý giá nhất ngài có là chiếc máy đánh chữ cũ kỹ.

Ngài đã từ bỏ gia đình, không quan tâm đến gia đình phần xác nhưng lại biết rõ tên từng chủng sinh, nhất là yêu thương các linh mục. Chẳng hạn khi nghe tin cha Giuse Vũ Đăng Trình đau nặng và qua đời, ngài nói: “Tôi xin Chúa cho tôi được chết thay cha Trình, nhưng Chúa đã không nhận lời”

Ngài đã từ bỏ quyền hành, nên bản thân luôn tìm dịp rút lui. Và cơ hội đã đến là ngày 30.04.1975, sau khi phong chức Giám mục cho Đức cha Gioan B. Bùi Tuần, ngài đã âm thầm lui vào bóng tối để cầu nguyện.

Ngài cũng đã quên mình bằng việc từ bỏ những ảnh hưởng để chỉ vun đắp uy tín cho người khác. Có lần có người xin ý kiến về một vấn đề, ngài nói: “Giáo phận chỉ có một đầu mà thôi”.

Thánh lễ diễn tiến trong tâm tình sốt sắng và kết thúc lúc 11g cùng ngày. Sau đó, mỗi người tham dự nhận được một gói quà gồm 2 tập sách lưu hành nội bộ: “Viết về cha” và “Tự Thuật”.

Sau đó, mọi người tham dự bữa tiệc liên hoan trong tinh thần đoàn kết, thấm đẫm tình yêu trong đại gia đình con cái Chúa.

Bầu trời Long Xuyên hôm nay dường như cao hơn, xanh hơn và đẹp hơn mọi ngày.
 
Bài chào mừng quan khách của ĐGM Trần Xuân Tiếu trong thánh lễ Tạ Ơn sinh nhật thứ 100 của ĐC Micae Nguyễn Khắc Ngữ
+GM. Trần Xuân Tiếu
03:15 16/05/2009
BÀI CHÀO MỪNG QUAN KHÁCH CỦA ĐỨC CHA GIUSE TRẦN XUÂN TIẾU TRONG THÁNH LỄ TẠ ƠN

100 năm ngày sinh, 50 giám mục, 75 năm linh mục của ĐỨC CHA MICAE NGUYỄN KHẮC NGỮ Giám Mục tiên khởi Giáo Phận Long Xuyên

ngày 14.5.2009

Kính thưa ĐHY Gioan Baotixita, TGM giáo phận TPHCM,

Kính thưa quý Đức Tổng, quý Đức Cha, quý Viện Phụ, Quý cha Tổng Đại Diện, quý cha Đại Diện Giám Mục, quý Bề Trên Dòng, quý cha, quý tu sĩ, quý anh em cựu chủng sinh, quý khách và bà con giáo dân.

Ở trước mặt chúng ta lúc này, có hai cụ già rất thân thương, tuy thân hình mảnh khảnh, gầy gò yếu ớt, nhưng lại là hai cây cột trụ vững chắc của giáo phận Long Xuyên, đó là Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ và Đức Cha Cố Gioan Baotixita Bùi Tuần. Cộng đoàn chúng ta sở dĩ có mặt ở đây hôm nay là để cùng với giáo phận Long Xuyên Tạ Ơn Chúa vì Chúa đã ban cho Đức Cha Cố sống suốt 100 năm mà vẫn còn tỉnh táo sáng suốt, rồi được làm môn đệ Chúa Kitô suốt 75 năm trong chức linh mục và 50 năm giám mục. Đây quả là ơn huệ hiếm hoi Chúa ban, không những cho riêng Ngài, cho giáo phận Long Xuyên mà còn cho cả Giáo Hội Việt Nam nữa. Trong niềm vui chứa chan này, con xin được phép thay mặt Đức Cha Cố Micae, Đức Cha Cố Gioan Baotixita, các linh mục, các tu sĩ nam nữ, các chủng sinh trong và ngoài nước, cùng toàn thể giáo dân giáo phận Long Xuyên, xin dâng lên ĐHY, quý Đức Tổng, quý Đức Cha, quý Đan Viện Phụ, quý Cha Tổng Đại Diện các giáo phận, quý Bề Trên Dòng, quý cha, quý tu sĩ, quý anh em cựu chủng sinh và quý khách lời chào trân trọng và lời cám ơn chân thành của chúng con.

Chúng con biết quý Đức Cha vừa mới đi dự lễ tấn phong giám mục của Đức Cha Vinxentê giáo phận Ban Mê Thuột về, nên rất mệt mỏi vì đường xa ngàn dặm, thời tiết nắng nóng thất thường, nhưng quý Đức Cha đã cố gắng có mặt ở đây để chia sẻ niềm vui với Đức Cha cố Micae và với giáo phận chúng con. Chúng con xin hết lòng cám ơn về tình hiệp thông huynh đệ rất đáng quý này.

Giờ đây, con xin phép được giới thiệu các vị chủ chăn trong HĐGMVN đang hiện diện trong buổi lễ long trọng này, đểû cộng đồng Dân Chúa Long Xuyên được biết và tỏ lòng quý mến đối với các Đấng:

1/ Trước tiên, vị chủ toạ thánh lễ Tạ Ơn hôm nay là: - ĐHY Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám Mục tổng giáo phận TP HCM.

2/ Vị giảng lễ hôm nay và là người con ưu tú xuất thân từ giáo phận Long Xuyên:

3/ Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt, TGM giáo phận Hà Nội, Tổng thư Ký HĐGMVN,

4/ Đức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm, giám mục giáo phận Bùi Chu,

5/ Đức Cha Antôn Vũ Huy Chương, giám mục giáo phận Hưng Hoá,

6/ Đức Cha Giuse Nguyễn chí Linh, giám mục giáo phận Thanh Hoá, giám quản giáo phận Phát Diệm, Phó chủ tịch HĐGMVN,

7/ Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên, giám mục giáo phận Hải Phòng.

8/ Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân, giám mục giáo phận Lạng Sơn,

9/ Đức Cha Cosma Hoàng văn Đạt, giám mục giáo phận Bắc Ninh,

10/ Đức Cha.FX Lê Văn Hồng, giám mục Phụ tá tổng giáo phận Huế,

11/ Đức Cha Giuse Võ Đức Minh, giám mục Phó giáo phận Nha Trang, Phó tổng thư Ký HĐGMVN,

12/ Đức Cha Tôma Nguyễn Văn Trâm, giám mục giáo phận Bà Rịa Vũng Tầu,

13/ Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ, giám mục giáo phận Phú Cường,

14/ Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, giám mục giáo phận Mỹ Tho,

15/ Đức Cha Tôma Nguyễn Văn Tân, giám mục giáo phận Vĩnh Long,

16/ Đức Cha Stêphanô Tri Bửu Thiên, giám mục Phó giáo phận Cần Thơ,

17/ Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống, giám mục Phụ Tá tổng giáo phận TP HCM

18/ Đức Cha Phêrô Nguyễn văn Khảm, giám mục phụ tá tổng giáo phận TP HCM.

(ĐTGM Ngô Quang Kiệt, Đức Cha Thống, Đức Cha Khảm đều là học trò của Đức Cha cố Micae và Đức Cha Cố Gioan Baotixita.)

19/ Đức Cha Vinxentê Nguyễn Văn Bản, giám mục giáo phận Ban Mê Thuột, vừa mới được tấn phong ngày 12.5 vừa qua. Xin chúc mừng Đức Tân GM.

20/ Đức Đan Viện Phụ Efrem Trịnh văn Đức, Đan Viện Châu Sơn, Đơn Dương.

Tiếp đến, trong số các vị khách quý hôm nay, có các cha Tổng Đại diện các giáo phận, có cha Đại Diện Đức Cha Xuân Lộc, có các bề trên dòng, có các linh mục của nhiều giáo phận, các tu sĩ, các nghĩa tử, các học trò cũ, các con cháu thân bằng quyến thuộc từ hải ngoại cũng như từ mọi miền Đất Nước về. Xin hết lòng cám ơn đã đến hiệp thông với chúng con.

Một lần nữa chúng con xin hết lòng cám ơn ĐHY, quý Đức Tổng, quý Đức Cha, quý cha Tổng Đại Diện, Đại Diện các giám mục, quý Viện Phụ, quý cha, quý tu sĩ, quý anh em cựu chủng sinh, quý bà con cô bác xa gần đã đến chia vui với giáo phận, và cầu nguyện cho Đức Cha Cố và cho giáo phận chúng con. Xin tiếp tục cầu nguyện cho Đức Cha Cố và cho giáo phận chúng con.

Xin đa tạ.

+ GIUSE TRẦN XUÂN TIẾU

GIÁM MỤC GIÁO PHẬN LONG XUYÊN
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Việt Nam giữa các cường quốc
Luật sư Lê Quốc Quân
03:15 16/05/2009
VIỆT NAM GIỮA CÁC CƯỜNG QUỐC

Hai mươi năm hòa bình hình thức

Nước ta coi như hòa bình từ 1989.

Đó là lúc những đoàn xe tăng cuối cùng của Việt Nam do Liên Xô sản xuất lũ lượt rời khỏi đất nước chùa Tháp sau một thời gian chiếm đóng dài hơn thời gian quân đội Mỹ tham chiến ở Miền Nam Việt Nam.

Bắt đầu hòa bình là lúc Đảng cộng sản đối mặt với sự khủng hoảng đến tột độ. Viễn cảnh tan rã của đế chế cộng sản lớn nhất hành tinh áp lực mạnh mẽ lên toàn bộ Việt Nam. Khi đó quan hệ với Trung Quốc và Mỹ vẫn căng như dây đàn. Trong Bộ chính trị, kẻ thì hồi hộp người thì lo sợ.

Thế nhưng, những người cộng sản vẫn ngoan cố một cách khéo léo, hạ bệ Trần Xuân Bách, tiếp tục cầm lái con thuyền Việt Nam thêm 20 năm nữa sau khi người anh cả là Liên Xô tan rã.

Nguồn cảm hứng cho việc tiếp tục độc tài cầm lái là sự đi lên đầy bành trướng của một đàn anh cộng sản khác “Núi liền núi, sông liền sông” .

Khá lên, người đàn anh này thè “lưỡi bò” liếm sạch “mặt tiền” thằng em.

Lịch sử luôn có những khúc quanh của nó ! Hai mươi năm, không dài so với một đời người, ngắn so với một chế độ và chỉ là một tiếng thở dài của tự tình dân tộc Việt Nam.

Trong chiến tranh, máu của các chiến binh Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc đã thấm vào đất Việt Nam ta nên bây giờ đây ta sống ở hiện tại, để hoạch định chiến lược trong tương lai, ta phải hiểu quá khứ, hiểu rằng dân tộc chúng ta bị xô đẩy quẩn quanh giữa các cường quốc.

Qúa khứ chiến tranh và hội đàm mua bán !

Qúa khứ của Việt Nam chúng ta là một quá khứ chiến tranh. Suốt gần 500 năm qua, kể từ thời Hậu Lê năm 1527 và nhà Mạc cướp ngôi năm 1540, đất nước chúng ta chiến tranh liên miên.

Đầu tiên là cuộc chiến Nam Bắc triều, đến Trịnh Nguyễn phân ranh. Hết phân ranh là Tây sơn-Nhà Nguyễn. Rồi chiến tranh chống Pháp, hết pháp là Mỹ, sau chia cắt là cuộc chiến Campuchia, kết thúc bằng một cuộc chiến biên giới với Trung Quốc vào năm 1979.

Kẻ đô hộ chúng ta hơn 1000 năm trước lại là kẻ thù sau cùng với chúng ta - những người đồng chí Cộng sản. Cuộc vãi đạn dã man vào hải quân của Việt Nam ở Trường sa năm 1988 là bằng chứng tươi mới nhất về chiến tranh với Trung Cộng.

Trước đó, Trung Quốc và Mỹ đã một lần mặc cả về Việt Nam. Ngày 21/2/1972 - Nixon và Mao gặp nhau mừng rỡ, nâng ly rượu Mao Đài sóng sánh, quân nhạc cử bài: “Hoa kỳ mỹ lệ” . Họ tuyên bố: “Cầu hữu nghị Mỹ Trung đã được bắc, tương lại thế giới giờ nằm trong tay hai nước chúng ta”.

Sau hội đàm, Trung Quốc chiêu đãi trọng thể với hơn 800 quan khách. Ngày 27 tháng 2 năm 1972 Tuyên cáo chung Trung – Mỹ được ký tại Thượng Hải. Sau đó 11 tháng, Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết. Mỹ bỏ Nam Việt Nam, Trung Quốc bỏ bắc Việt. Hai thằng lớn ngoảnh mặt đi.

Nhưng Liên xô thì không. Họ say mê “mở mang chủa nghĩa” , tiến đánh sang tận Afganistan. Họ tiếp tục viện trợ, giúp đỡ Bắc Việt Nam thống nhất một cách chân thành trong niềm tin tôn giáo cộng sản.

Sau đó, họ tiếp tục gửi quân và chuyển vũ khí để đánh Khơ Me đỏ và xuống cả vùng Đông Nam Á (nếu có thể). Nhưng Trung Quốc biết rõ âm mưu. Cùng là Cộng sản, nhưng Khơ Me Cộng sản chống Xô viết cộng sản nên Trung Quốc coi họ là lực lượng thích hợp để chống Việt Nam.

Khơ Me đỏ tuyên bố thẳng thừng chỉ có chủ nghĩa cộng sản của mình mới thực còn tất cả là Cộng sản đểu. Để rồi những người theo chủ thuyết cộng sản lại giã nhau tóe lửa. Mìn nổ, máu đỏ ngập những bàn chân “tình nguyện quân” Việt Nam.

Nhưng khi Liên xô tan rã, đẩy Việt Nam đến sự hoang mang. Họ tự phải hỏi Chủ nghĩa cộng sản là cái gì đây và là ai đây. Là máu, đấu tố và chiến tranh ?. Là Nga, Trung Quốc, Mỹ hay Nhật..?.

Thực tế là không có ! Chỉ có quyền lợi quốc gia và tổ quốc trên hết.

Ảnh hưởng của Mỹ - Trung hôm nay

Hai mươi năm sau ngày hòa bình hình thức, dù cho người ta dựng cột mốc, đăng ký lãnh hải hay xây vành đai giới tuyến thì cũng không ngăn nổi sức tấn công của biên giới mềm trong xu hướng toàn cầu hóa như vũ bão hiện nay.

Nạn nhân mãn ở Trung Quốc buộc họ phải mở rộng không gian sống xuống phía Nam và thế mạnh của một cường quốc đòi buộc người Mỹ phải hiện diện nhiều nơi ngoài Mỹ.

Đô la với hình Washington tràn ngập các các gia đình Việt Nam. Thậm chí người dân có thể dùng Đô La mua hàng gia dụng giá rẻ của Trung Quốc ở chợ.

Ở Hà Nội, Sài Gòn Trung tâm dạy học tiếng Trung đông nghẹt người, những giáo viên trẻ viết chữ Hán giản lược nhanh đến mức khó tả, dạy những bài hát tiếng Trung nói về tình yêu nồng nàn theo điệu hip hop, rất đi vào tâm hồn lớp trẻ.

Hàng hóa mang hình chữ Tàu ngập tràn từ ngõ nhỏ đến siêu thị lớn. Giọng oang oang của người Trung Quốc vang khắp nơi, len lỏi lên tận vùng tây nguyên nơi họ vừa tìm được một nơi mà chắc chắn có thể bắt rễ để sống lâu dài.

Những ngành nghề chất lượng lao động cao như tư vấn, ngân hàng, tài chính, đào tạo, IT ở Việt Nam đã, đang và sẽ dần dần do các doanh nghiệp Mỹ hoặc có nguồn vốn từ Mỹ xâm nhập và thâu tóm.

Những ngành nghề đơn giản như gia công hàng hóa, mua bán máy nông cụ, hàng hóa giá rẻ, vật dụng tiêu dùng phục vụ người thu nhập thấp ở Việt Nam sẽ dần dần do các Công ty Trung Quốc làm chủ.

Hôm nay ngôi nhà Hợp chủng quốc Hoa Kỳ có cơ hội đón hàng chục ngàn thanh niên Việt Nam sang học tập. Hơn hai triệu người Việt tiếp tục gửi tiền về cho gia đình thường dân ở Việt Nam, nhiều triệu USD của các quan chức đang chảy ngược lại.

Hôm nay Việt Nam là đích đến của các nông dân Trung Quốc, đặc biệt là các tỉnh lân cận, họ mở nhà hàng, tích cóp từng đồng, mở mang dây chuyền và hỗ trợ phát triển cho cộng đồng riêng họ ở Việt Nam. Còn quan chức Việt Nam mang cả tài nguyên quốc gia làm quà triều cống thường niên.

Chỉ có con đường dân chủ hóa đất nước !

Buồn vì chịu ảnh hưởng của các nước lớn nhưng chúng ta không được xúc động một cách thiếu logic. Toàn cầu hóa là tất yếu và việc dịch chuyển lao động quốc tế là chuyện bình thường. Quan trọng là chúng ta phải mạnh lên.

Tôi đã từng đề cập về 8 chữ: “Liên Mỹ - Hòa Hoa- Dân tộc –Dân chủ” . Theo tôi, đó chính là kế sách hay nhất cho Việt Nam trong thế kỷ này, cả đối nội và đối ngoại. Bắt đầu từ trong ra ngoài, từ việc việc dân chủ hóa đất nước.

Chỉ có tự do, dân chủ mới thực sự giải phóng chúng ta, mới đem đến cho Việt Nam một sức sống mới, liên kết được sức mạnh người Việt, quyến rũ được người Mỹ về những giá trị mà họ đang lớn tiếng bảo vệ.

Chỉ có dân chủ, tự do báo chí, lắng nghe ý kiến của Nhân dân mới có đối sách thích hợp với Trung Quốc, mới không để những nhà lãnh đạo phản động đi đêm ký tắt những Hiệp ước quan trọng rồi loay hoay như gà mắc tóc.

Chỉ có dân chủ hóa, những người Việt Nam trên khắp thế giới mới tự tin rằng Việt Nam là trên hết chứ không phải là “chủ nghĩa Cộng sản” hay CNXH, không còn “thế lực thù địch”. Họ mới cùng chung tay xây dựng một Việt Nam mới trong thái bình và thịnh trị.

Chỉ có thực thi dân chủ dựa trên một ý thức dân tộc thì Việt Nam mới thực sự là nơi an toàn, thu hút chất xám, phát triển toàn diện, trở thành người tình của thế giới, người yêu của các cường quốc trong tà áo dài thướt tha.

Khi đó chúng ta mới thực sự mạnh lên. Nhân dân không phải bỏ ra 1,8 tỷ USD cho 6 tàu ngầm hạng Kilo, 500 triệu USD cho 12 “con” SU-30MK và còn nhiều hơn thế, để mua tàu ngầm, máy bay, vũ trang quân đội, chuẩn bị chiến tranh, gồng mình như con choi choi giữa những cường quốc hiếu chiến mạnh hơn hàng trăm lần.
 
Gặp gỡ phái đoàn của Uỷ ban tự do tôn giáo của Hoa Kỳ
Luật sư Lê Quốc Quân
03:25 16/05/2009
HÀ NỘI - Đời người ta có được “chín tháng mười ngày” hoài thai. Tôi có “ba tháng mười ngày” trong tù mà tôi thường nói vui là ở “quê ngoại”. 100 ngày để trả nợ cho “tư tưởng dân chủ có từ năm 20 tuổi” như nhận xét của an ninh thì cũng quả là ngắn.

Phái đoàn tư do Tôn giáo Hoa Kỳ gặp luật sư Quân
Theo An ninh thì những điều tôi “Học tập ở NED liên quan mật thiết với bảy tổ chức đảng phái chỉ là cái ngọn” còn cái gốc là “theo đạo” . Một trong những cơ quan mà tôi bị coi là có quan hệ mật thiết chính là - Ủy ban tự do tôn giáo quốc tế của Hoa Kỳ.

Uỷ Ban tự do tôn giáo của Hoa Kỳ là một cơ quan độc lập, lưỡng Đảng, thành lập vào năm 1998 theo Đạo luật IRFA (Luật công 105-292 ) để giám sát tình hình tự do tôn giáo ở hải ngoại. Hồi còn học ở NED, tôi đã một số lần đến thăm Ủy ban, và còn đóng vai trò là phiên dịch cho Đoàn trong một vài cuộc gặp với người Việt.

Để tìm hiểu tình hình tự do tôn giáo, Uỷ ban tự do tôn giáo quốc tế của Hoa Kỳ có các đoàn đi thăm và đánh giá về tình hình tự do của các nước mà họ cho là có vi phạm về tự do tôn giáo.

Khi tôi rời “quê ngoại” khoảng 100 ngày thì Đoàn tự do tôn giáo của Hoa Kỳ đến thăm tôi và đó cũng là lần đầu tiên Đoàn được phép đến thị sát về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Đó là vào tháng 10 năm 2007. Lần đó Đoàn đã đến thăm tôi tại văn phòng riêng trong khi hàng chục công an với sự hộ tống của cả xe cảnh sát dàn cảnh thị uy bên ngoài. Tôi cảm giác người ta xù lên vì nghĩ rằng có gì đó thật nguy hiểm.

Trong đoàn có người bạn là Scott Flipse – có tìm hiểu và biết rành rẽ về Việt Nam, Ông đã làm đề tài Tiến sỹ về “Di tản nội địa ở Việt Nam sau hiệp đinh Geneva năm 1954”.

Ngay khi xuống xe ông đã ôm tôi thật chặt ngay phía ngoài văn phòng. Tôi ghé sát tai mà nói rằng “họ đang quan sát chúng ta đó” , cậu ấy bảo: “càng tốt Việt Nam và Mỹ là bạn mà”.

Lần đó cuộc gặp diễn ra trong vòng một giờ với những tình cảm thực sự chân thành. Họ quan tâm đến thời gian tôi ở trong tù, đời sống gia đình và những khó khăn tôi gặp phải và hỏi liệu có thể giúp đỡ gì được cho tôi không.

Lần này là lần thứ 2 tôi có buổi gặp gỡ với phái Đoàn về cuộc hẹn ở khách sạn Metropole – Khách sạn lâu đời nhất ở Hà Nội được xây dựng từ năm 1901. Hôm nay trời mưa, tôi đi taxi và có vẻ chỉ có 1 chiếc xe máy nhẹ nhàng đi theo với hai người giữ một khoảng cách khá xa.

Luật sư Quân với Phó đoàn Ông Michael Cromartie
Lần này Đoàn đã đến vào Việt Nam 11 và sẽ rời VN vào ngày 22 tháng 5, 2009. Đoàn do Phó Chủ tịch là Ông Michael Cromartie – người được Tổng thống Bush bổ nhiệm - làm trưởng đoàn.

Đoàn đã gặp gỡ nhiều giới khác nhau, trong đó có Bộ Trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm và Ban Tôn giáo của Chính Phủ trong đó Chính phủ “vẫn đọc bài diễn văn lần trước”.

Đoàn cũng đã thăm gặp Nhà báo Nguyễn Khắc Toàn, Bác Sỹ Phạm Hồng Sơn.

Đêm qua Đoàn cũng đã đến thăm giáo xứ Thái Hà, gặp gỡ các Cha và toàn bộ 8 nạn nhân bị xét xử trong vụ tranh chấp đất đai tại giáo xứ. Đoàn đã lắng nghe nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động tôn giáo ở Việt Nam nói chung, Thái Hà nói riêng.

Trong một tiếng rưỡi đồng hồ, Đoàn cũng cho biết là hôm qua Đoàn đã đến thăm nhà tù Ba Sao, Thăm cha Nguyễn Văn Lý và Luật sư Nguyễn Văn Đài. Cha Lý vui và nói nhiều vì Ngài bị biệt giam, không có người nói chuyện trong suốt một thời gian dài.

Luật sư Đài trông khỏe mạnh. Cả hai đều có kinh thánh để đọc và một “tờ báo của đảng”. Lúc ra về, tôi gặp chị Khánh ở sảnh của Khách sạn. Đoàn rất bận và cũng có những quan tâm rất cụ thể cho từng người.

Đoàn cũng dự định vào thăm Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Luật sư Lê Trần Luật và một số lãnh đạo tôn giáo khác ở Miền Nam để tìm hiểu kỹ hơn về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Một thành viên của Đoàn đã nhận xét rằng: Cha Lý và Hòa Thượng Thích Quảng Độ thì bị buộc tội vì những vấn đề về chính trị nhưng khi gặp Ban Tôn giáo chính phủ thì những vị mặc áo Linh Mục và Hòa Thượng đều đứng lên nói những vấn đề hoàn toàn chính trị, ca ngợi những thành tựu của Chính Phủ.

Tôi cho rằng không có một sự phân biệt rõ ràng giữa tôn giáo và chính trị. Khi người dân bị hạn chế về Quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và quyền tự do báo chí thì điều đó vẫn là một sự hạn chế của tự do tôn giáo. Tôn giáo gắn chặt với các sinh hoạt nhóm cộng đồng và là một phần quan trọng của xã hội dân sự.

Tôi cho rằng một xã hội dân chủ hơn là điều đảm bảo tốt nhất cho Nhân quyền và tự do tôn giáo và việc để cho Đoàn vào Việt Nam là một điều tốt đẹp.

Theo một thành viên trong Đoàn thì Chính phủ của Tổng Thống Obama rất quan tâm đến tình hình Tôn giáo, dân chủ và Nhân quyền nói chung, đặc biệt đất nước Việt Nam nhỏ bé vốn có nhiều duyên nợ với Hoa Kỳ, lại ở một vùng ông Obama rất thân thiết.

Có một kỷ niệm vui là Tiến Sỹ Scott Flipse – người mà con gái tôi gọi thân mật là “Bác Scott” . Hôm nay Scot tặng “Thái Hà” một bộ quần áo trẻ sơ sinh, Scot mua ở Mỹ và khi mở ra mới biết ở nhãn ghi là “Made In Vietnam” .

Hóa ra có nhiều đồ đang dùng tại Mỹ thực ra đã được làm ở Việt Nam và đang quay trở lại Việt Nam bằng đường “tiểu ngạch”. Hy vọng là giá trị về tự do tôn giáo và nhân quyền – như tôi cảm nhận được ở Mỹ - sẽ sớm thành hiện thực trên quê hương Việt Nam yêu dấu của chúng ta qua những con người và phái đoàn cụ thể có tình yêu với nhân dân Việt Nam.
 
Dựng lại Gia Tài Của Mẹ
Trần Doãn
04:46 16/05/2009
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ một bọn lai căng
Gia tài của mẹ một lũ bội tình.


Trong vô vàn vô số những người trí thức, tài giỏi, có nhân cách đáng quý, sống tại VNCH trước đây nhưng lại quá ngây thơ nên bị CSVN đánh lừa bằng chiêu bài độc lập dân tộc và bình đẳng xã hội có nhạc sỹ thiên tài Trịnh Công Sơn. Ông là một món quà vô cùng quý giá mà bỗng dưng CSVN được hưởng cũng như nữ tài tử lừng danh Jane Fonda, người đã từng tuyên bố tại trường đại học tiểu bang Michigan (Michigan State University) vào năm 1970: Tôi nghĩ rằng nếu quý vị hiểu được chủ nghĩa cộng sản, quý vị sẽ quỳ gối xuống cầu nguyện để một ngày kia quý vị cũng sẽ trở thành những người cộng sản.

Không những thế, vào năm 1972 khi CSVN lâm vào giai đoạn khó khăn nhất, tưởng chừng như sắp phải đầu hàng đến nơi, Jane lại tới Hà Nội và ngồi vào một ổ súng phòng không của bộ đội Bắc Việt để tuyên truyền không công, đẩy phong trào phản chiến ở Mỹ lên tới đỉnh điểm khiến cho chính phủ Mỹ phải tìm cách rút khỏi VN. Năm 1988 Jane tuyên bố sẽ phải mãi mãi mang theo cho tới khi xuống mồ sự ân hận ray rứt về việc làm nhẹ dạ và ngu xuẩn đó. Dù CSVN có mời chào cách mấy Jane Fonda không bao giờ dám quay lại VN thêm một lần thứ hai sau khi chứng kiến những thảm cảnh mà những người CS chiến thắng đã gây ra cho dân tộc VN.

Trịnh Công Sơn thuộc hàng ngũ những người ăn cơm quốc gia thờ ma CS. Trong lúc Miền Nam Tự Do oằn mình chống trả sự xâm lăng hung tợn của Cộng sản Bắc Việt ông vẫn ung dung tự do sáng tác những ca khúc làm nản chỉ cuộc chiến đấu vì chính nghĩa như Tình ca người mất trí.

Tôi có người yêu chết trận Plei-me
Tôi có người yêu ở chiến khu D
Chết trận Đồng Xoài, chết ngoài Hà Nội
Chết vội vàng dọc theo biên giới.
Tôi có người yêu chết trận Chu-prong
Tôi có người yêu bỏ xác trôi sông
Chết ngoài ruộng đồng, chết rừng mịt mùng
Chết lạnh lùng mình cháy như than.


Oái ăm thay những con người ngây thơ đã góp phần không nhỏ làm nên chiến thắng cho CS không thể ngờ được cách những người CS chiến thắng ngạo mạn đã đối xử với họ: thẳng tay vắt chanh bỏ vỏ. Trịnh Công Sơn đã phải về Huế ẩn mình một năm (1975-1976). Ông rất sợ hãi khi thấy những khẩu hiệu và những cuộc mít-tinh đấu tố ông trên đường phố. Chỉ nhờ sự can thiệp trực tiếp của ông Võ Văn Kiệt TCS mới về lại được Sài-Gòn để viết thêm một số ca khúc như Em ở nông trường em ra biên giới (1981), tuyên truyền cho những mảnh đời đầy đọa thanh niên xung phong, thực chất chỉ là dân công tải đạn trong cuộc chiến tại Kampuchia (1979-1989) và một dạng lao động nô lệ:

Xa nông trường ra biên giới
Có đôi khi đi không trở lại
Nhưng trong lòng nghe tiếng nói
Những gian nan sẽ đo lòng người
Từ biên giới xa chốn em sương mù
Rừng sâu tìm những lối mòn qua
Từng khi nắng mưa lán đêm nằm nhớ
Màu đất trời quen quá chốn quê nhà.


Một điểm son của Trịnh Công Sơn là ông không hề viết một ca khúc nào tôn vinh Hồ Chí Minh theo cách vô cùng trơ trẽn lố bịch, tự biến mình thành nhỏ nhoi ti tiện như một bụi đất của một thụ tạo đứng trước đấng tạo hóa vĩ đại trong bài Dấu chân phía trước của Phạm Minh Tuấn:

Khi tôi còn là hạt bụi, Người đã lên tầu đi xa
Khi quê hương còn chìm nổi, Người đã lên tầu đi xa
Để tôi - được là Việt Nam
Cho tôi có cả cuộc đời, cho tôi có cả cuộc đời.


Họa sỹ Trịnh Cung, người bạn thân thiết nhất của Trịnh Công Sơn, cho biết sau năm 1975 rượu, thuốc lá, phụ nữ và xu nịnh là một loại ma tuý tổng hợp nhấn chìm TCS được nguỵ danh dưới khẩu hiệu “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” (http://damau.org/archives/5055).

Tai hại nhất là TCS lại muốn vào đảng CS. Điều này sẽ làm tiêu tan danh tiếng và sự nghiệp âm nhạc của ông. Ngay chính những người CS cũng chẳng dại gì mà kết nạp ông vào cái đảng mafia đó vì họ muốn giữ lại lòng ngưỡng mộ của quần chúng dành cho ông.

Trịnh Cung cũng cho biết TCS bị CSVN ghét cay ghét đắng vì bản nhạc Gia tài của mẹ (1965) vì ông gọi cuộc chiến VN là một cuộc nội chiến giữa miền Bắc CS và miền Nam Tự Do, trong khi CSVN nhất mực khăng khăng đó là cuộc chiến chống Mỹ cứu nước. Chiến thắng của CS là chiến thắng Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ và hùng mạnh nhất thế giới, mới tôn vinh được thiên tài đỉnh cao trí tuệ loài người của đảng ta.

Nhưng hiện nay đứng trước nguy cơ CSVN phản bội dân tộc, bấu víu vào Tầu cộng để vơ vét thêm được ngày nào hay ngày ấy trước khi bỏ chạy, dẫn tới nguy cơ mất nước, đứng trước thảm cảnh văn hóa gian dối lai căng mất gốc, kích động hận thù giai cấp mà CS gây nên cho dân tộc, và khi đảng mafia CSVN đã hiện nguyên hình là một lũ bội tình, vong ơn bội nghĩa với toàn dân và với tổ tiên, thì Gia Tài Của Mẹ của Trịnh Công Sơn lại mang một ý nghĩa thời sự mới, một lời hiệu triệu Diên Hồng, một dạng Bình Ngô Đại Cáo, lên án bọn Việt-Tầu Cộng, để chúng ta, con dân Đất Việt có thể bỏ qua những dị biệt nhỏ bé cùng chung sức dựng lại Gia Tài Của Mẹ Việt Nam.

Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ một bọn lai căng
Gia tài của mẹ một lũ bội tình.

Dạy cho con tiếng nói thật thà
Mẹ mong con chớ quên màu da
Con chớ quên màu da nước Việt xưa
Mẹ trông con mau bước về nhà
Mẹ mong con lũ con đường xa
Ôi lũ con cùng cha quên hận thù.
 
Chuyện khó tin, nhưng có thật: Một linh mục ở Hà Nam bị công an cắn bị thương!
Phóng viên Hà Nội
08:22 16/05/2009
HÀ NAM - Cha Giuse Trần Bình Trọng bị công an cắn bị thương. Sự kiện kỳ quái vô tình chúng tôi mới được biết này diễn ra như sau:

Ngày 28/4/2009 cha Giuse Trần Bình Trọng đến giáo họ Trung Tín, xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam để thăm mục vụ nơi này.

Cánh tay Cha Trọng bị công an "xực"!
Khi thăm xong, lúc trở ra có một viên công an xã, mặc thường phục, xông ra sinh sự lấy chìa khoá xe và yêu cầu ngài về UBND xã “làm việc”.

Mặc dù cha Giuse Trần Bình Trọng đã nói mình là linh mục thăm nhà thờ, viên công an này vẫn yêu cầu ngài về UBND xã “làm việc”, trong khi bản thân viên công an này thì không mặc quân phục và không xuất trình thẻ CA.

Trong khi đang nói chuyện, viên công an kia lập tức rút chìa khoá xe máy của ngài. Ngài nói không được trấn xe, cứ trả chìa khoá xe, còn về UBND thì ngài không ngại.

Ngài nói và đưa tay giữ lấy chìa khoá xe. Tức thì viên công an này “xực” cha một miếng vào tay khiến cha bị thương.

Ngay sau đó, viên CA này gọi điện thoại cho Trưởng CA xã đến. Khi “làm việc” ở UBND xã, Cha Giuse nói với các cán bộ ở đây rằng ngài có quyền thăm viếng nhà thờ Trung Tín vì đây là giáo xứ ngài phụ trách.

Viên CA kia còn đổ tội cho cha Trọng giằng điện thoại của anh ta cho nên anh ta mới tấn công.

Ngài cũng trách CA địa phương làm việc không nghiêm túc: Không mang quân phục, không xuất trình thẻ khi yêu cầu ngài về xã, lấy chìa khoá xe máy của ngài, khi ngài bảo vệ thì tấn công ngài.

Viên trưởng CA xã nói rằng “xin cụ thông cảm”, vì khu vực của viên công an kia phụ trách có nhiều SIDA nghiện hút tập trung, cho nên thấy khách lạ đến là giữ xe. Viên trưởng CA cũng nói lần sau nếu ngài đi thăm nhà thờ trong xã thì ngài phải báo trước cho CA biết trước.

Ngày 15/5/2009 khi chúng tôi biết sự kiện này và tới thăm ngài, thì vết thương ở tay ngài vẫn chưa lành sau ba tuần bị cắn. (Xem hình chụp). Xem ra miếng “võ mồm” của anh CA xã Đọi Sơn thuộc loại khá!

Cũng trong ngày 15/5/2009, chúng tôi gặp bà Phó Chủ tịch và 3 cán bộ thuộc MTTQ, Ban Dân vận và CA huyện Duy Tiên, đang hiện diện ở nhà thờ Bút Đông để giải quyết chuyện xây dựng và đất đai ở nhà thờ Đồng Bào. Một cha trong đoàn chúng tôi hỏi: “Bà PCT có biết một CA viên trong huyện bà cắn cha không? Bà cười nói rằng: “Không bao giờ có”.

Chúng tôi muốn đến gặp các cán bộ xã Đọi Sơn để tìm hiểu thêm sự kiện. Nhưng Văn phòng cho biết các cán bộ xã đã đi nghỉ mát và đến tuần tới mới về. CA viên Bùi Duy Hiển- người đã cắn cha cũng đã đi nghỉ mát cùng đoàn.

Được biết chính quyền huyện Duy Tiên vốn “nổi tiếng” về sự đối xử hà khắc và bạo ngược đối với người Công giáo trong những thập niên vừa qua khiến nhiều người Công giáo nay hãy còn sợ hãi.

Bản thân nhà thờ họ Trung Tín hiện nay ‘được” chính quyền quản lý từ năm 1960. Bên trong có người dùng làm nơi ở hiện nay trở thành nơi tập trung của dân hiện hút

(Ai muốn tham khảo thêm xin hỏi trực tiếpUBND xã Đọi Sơn và huyện Duy Tiên,
và quý vị lãnh đạo dưới đây – Thông tin này được lấy từ trang mạng của tỉnh Hà Nam:
http://www.hanam.gov.vn/index.asp?newsID=202&language=tiengviet)
UBND xã Đọi Sơn: 03513 838 219- 03513 838 705

Ủy ban Nhân dân huyện Duy Tiên và các cán bộ chủ chốt của huyện

I. THÔNG TIN VỀ UBND HUYỆN DUY TIÊN

1. Thông tin về cơ quan
Tên cơ quan: Ủy ban nhân dân huyện Duy Tiên

Địa chỉ: Thị trấn Hòa Mạc, huyện Duy Tiên, Hà Nam.
Điện thoại: 0351.830013; Fax: 0351.832280

II. THÔNG TIN VỀ LÃNH ĐẠO HĐND - UBND HUYỆN

1. Ông Chu Tiến Hiệp - Chủ tịch HĐND huyện
- Sinh ngày: 28 tháng 7 năm 1949
- Trình độ chuyên môn: Đại học Nông nghiệp
- Trình độ lý luận chính trị: Cao cấp
- Địa chỉ nhà riêng: Đọi Sơn - Duy Tiên - Hà Nam
- Số điện thoại cơ quan: 0351.830.020
Di động: 0913289277. NR: 0351.838.459

2. Ông Phạm Tư Lành - TUV - Chủ tịch UBND huyện
- Sinh ngày: 06 tháng 01 năm 1960
- Trình độ chuyên môn: Đại học Xây dựng
- Trình độ lý luận chính trị: Cao cấp
- Trình độ quản lý hành chính nhà nước: Cử nhân
- Địa chỉ nhà riêng: phố Khánh Hoà - Thị trấn Hoà Mạc
- Số điện thoại cơ quan: 0351.830.121
Di động: 0913.386.800 NR: 0351.830.267

3. Ông Phạm Hồng Thanh - Phó Chủ tịch HĐND huyện
- Sinh ngày: 23 tháng 12 năm 1966
- Trình độ chuyên môn: Đại học Thủy Lợi
- Trình độ lý luận chính trị: Cao cấp
- Trình độ quản lý hành chính nhà nước: Cử nhân
- Địa chỉ nhà riêng: Thôn Trì Xá - xã Châu Giang
- Số điện thoại: Cơ quan 0351.830.123
Di động: 0913.289.480

4. Ông Nguyễn Đức Vượng - Phó Chủ tịch T.T UBND huyện
- Sinh ngày: 19 tháng 2 năm 1965
- Trình độ chuyên môn: Đại học Công đoàn, Đại học Luật
- Trình độ lý luận chính trị: Cao cấp
- Địa chỉ nhà riêng: 104 Thịnh Hoà - thị trấn Hoà Mạc
- Số điện thoại: Cơ quan 0351.830.120
Di động: 0915.016.458 NR: 0351.830.969

5. Bà Nguyễn Thị Tâm - Phó Chủ tịch UBND huyện
- Sinh ngày: 03 tháng 2 năm 1955
- Trình độ chuyên môn: Đại học Luật
- Trình độ lý luận chính trị: Cao cấp
- Địa chỉ nhà riêng: phố Khánh Hoà - Hoà Mạc
- Số điện thoại: Cơ quan 0351.831.589
Di động: 0913.027.712 NR: 0351.830.764

 
Giám mục bị tù
LM Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, ofm
16:23 16/05/2009
Một làn gió mới

Tại lễ tấn phong cha Vinh-sơn Nguyễn Văn Bản làm giám mục Ban Mê Thuột, người giảng lễ là đức cha Phê-rô Nguyễn Văn Khảm, giám mục phụ tá Sàigòn. Đọc bài giảng của ngài, tôi có cảm giác được một làn gió nhẹ thoảng qua giữa lúc trời oi bức. Thật ra những điều đức cha Khảm nói không mới. Cái mới là những điều đó lại do một giám mục nói ra, trong một cuộc lễ đặc biệt long trọng, với sự hiện diện của 20 giám mục, hơn 700 linh mục và tu sĩ, với trên 4.000 giáo dân. Xin ghi lại sau đây một vài cảm nghĩ.

Giám mục mù

Đức cha Khảm nói: … mỗi người –kể cả giám mục và linh mục– … có những lúc sống trong tình trạng mù loà và mất tự do. Như vừa nói ở trên, ý tưởng này không mới, và trong hoàn cảnh cụ thể của xã hội và Giáo Hội Việt Nam, nhiều người đã nói rồi. Còn phía các giám mục, thật ra trong thâm tâm, các ngài cũng nghĩ vậy thôi. Cái mới là có một giám mục không chỉ nghĩ, nhưng đã nói, và nói công khai. Thiết tưởng đây là cách gián tiếp trả lời cho những ai đã từng than phiền, đã từng trách móc: tại sao đối diện với bao nhiêu vấn đề nhức nhối, bao nhiêu chuyện động trời trong xã hội mà các giám mục cứ nhắm mắt làm ngơ. Nay đã có được một câu trả lời.

Giám mục thành tù nhân

Hiện tại các giám mục của chúng ta có khá nhiều tự do (dĩ nhiên còn phải xin phép, nhưng dễ được phép hơn xưa rất nhiều). Ví dụ tự do xây cất, tự do truyền chức linh mục, tự do tổ chức tĩnh tâm mỗi tháng hay mỗi năm, tự do đi ra nước ngoài… Nhưng ai cũng biết đó là những thứ tự do có điều kiện, theo một thứ luật bất thành văn. Có gì đâu: bánh ít đi, bánh quy lại. Nói chuyện thiêng liêng, chuyện trên trời, thì cứ thoải mái. Còn chuyện dưới đất, chuyện xã hội, thì phải coi chừng. Có nói thì cũng chỉ nói xa nói gần, nói cách chung chung, vô thưởng vô phạt. Nhất là những đề tài nhạy cảm thì chớ có dại mà xía vô: chuyện bất công, chuyện tham nhũng, chuyện dân oan… Các tín hữu Công Giáo cứ mỏi mắt dài cổ chờ một tiếng nói từ phía các giám mục mà không hề thấy. Nay thì đức cha Khảm đã cho chúng ta chìa khoá của mầu nhiệm. Đức cha Khảm nói: bản thân giám mục… cũng có thể… bị giam giữ trong những ngục thất vô hình. Các giám mục của chúng ta không được tự do như chúng ta mong muốn đâu. Bao nhiêu “ân huệ” Nhà Nước rộng tay ban phát là bấy nhiêu sợi dây thừng trói buộc các ngài.

Người dám chặt sợi dây thừng

Như mọi người đều biết: vị giám mục đầu tiên cả gan chặt đứt sợi dây thừng vừa nói là đức cha Giu-se Ngô Quang Kiệt, Tổng Giám mục Hà Nội, qua việc phản bác cơ chế xin-cho theo nội dung lá thư ngỏ của HĐGM/VN năm 2002 gửi lãnh đạo các cơ quan lập pháp của Nhà Nước Việt Nam. Vào thời điểm 2002, rất ít ai biết đến nội dung lá thư ngỏ này. Nhưng 5 năm sau, đích xác là ngày 20-09.2007 tại trụ sở UBND Tp Hà Nội, khi đức Tổng Kiệt công khai phản bác cơ chế xin-cho với những ví dụ cụ thể, và thông tin đó được loan đi rộng rãi trên toàn thế giới, thì ngay tức khắc, ngài đã một thân một mình lãnh một đòn chí tử từ chính quyền Hà Nội.

Tù nhân được tự do lại bắt người khác bỏ tù

Khi đề cập đến bối cảnh xã hội, đức cha Khảm nói: có những người bị giam giữ trong nhà tù với hàng rào kẽm gai vây bọc, và chỉ mong được tự do. Nhưng khi đã được tự do rồi, thì chính họ lại dựng lên những nhà tù khác để giam giữ đồng loại của mình và để bảo vệ cái gọi là tự do của mình. Lời khẳng định này chỉ mang tính nguyên tắc, thế nhưng bất cứ ai sống trên đất nước Việt Nam mà không thấy những ví dụ rất ư cụ thể kể từ năm 1945 ngoài miền Bắc và từ năm 1975 trên cả nước Việt Nam ? Và nhận định mang tính nguyên tắc này có thể áp dụng cho nhiều phạm vi khác. Chẳng hạn có những người xuất thân là bần cố nông từ nhiều đời liên tiếp, nhưng khi đuổi được thực dân bóc lột rồi, triệt tiêu hết các đồng mình của mình rồi, thâu tóm hết quyền lực trong tay rồi, thì tha hồ vơ vét, cướp cả đất đai của những người nghèo thấp cổ bé họng.

Kết luận

Chẳng phải bài giảng của đức cha Khảm đã giải toả được mọi thắc mắc, giải quyết được mọi vấn đề: ta không có quyền đòi ngài làm phép lạ. Thế nhưng theo thiển ý, lời lẽ của ngài cho ta có lý do để hy vọng, như vừa ghi nhận trên đây. Trong những năm qua, ta thấy xuất hiện trong hàng ngũ giám mục những khuôn mặt tương đối trẻ, dám ăn dám nói, có khi dám làm. Tiếp theo sau đức Tổng Kiệt không chịu đi xin ơn, nhưng nhất quyết đi đòi quyền, đến lượt đức cha Tân không muốn câm, nay đức cha Khảm không muốn mù, đức cha Bản không muốn què, cương quyết “bước đi trong Thần Khí” có vẻ như từ lòng Giáo Hội Việt Nam đang bừng lên một khí thế mới, dưới sự thúc đẩy của Thần Khí: “Dậy mà đi!”

Sài-gòn, ngày 17 tháng 05 năm 2009

pascaltinh@gmail.com
 
Chuyện xứ người - Chuyện xứ ta
Xavie Phanxico
16:45 16/05/2009
Trong những câu chuyện về hậu trường chính trị, thế giới càng thêm khâm phục tính minh bạch của luật pháp Hoa Kỳ. Vào một ngày đầu tuần, Thẩm phán Samuel B.Kent, 59 tuổi của bang Texas đã bị kết án 33 tháng tù vì lừa dối cơ quan điều tra trong vụ ông bị kiện quấy rối tình dục nhân viên văn phòng của mình.

Tuy ông Samuel Kent được Tổng thống Bush cha bổ nhiệm làm thẩm phán suốt đời từ năm 1990, đến nay đã có thâm niên gần 2 thập kỷ. Nhưng tháng 2 năm nay, thẩm phán Kent đã dùng thủ đoạn lừa dối, ngăn cản phiên tòa xét xử hành vi dâm ô của ông, phủ nhận mọi cáo buộc của hai nạn nhân từ năm 2007 là cô thư ký riêng Donna Wilkinson và nữ chánh văn phòng Cathy McBroom. Sau cuộc điều tra, Hội đồng Thẩm phán đã quyết định đình chỉ nhiệm vụ và cắt lương thẩm phán của ông Kent trong 4 tháng.

Thẩm phán Kent thừa nhận đã dùng thủ đoạn, cố tình lừa dối Hội dồng Thẩm phán, ngăn cản phiên toà xét xử hành vi dâm ô của ông, để đánh đổi lấy thoả thuận của toà án huỷ bỏ 5 tội danh quấy rối tình dục, khiêu dâm, cưỡng bức, xúc phạm thân thể nạn nhân. Vì vậy ông chỉ bị kết án tội lừa dối cơ quan điều tra chống lại toà án. Theo chủ toạ phiên toà, Chánh án Roger Vinson, nói việc làm của Thẩm phán Kent là "Một vết nhơ làm hoen ố ngành tư pháp".

Về mức án 33 tháng tù của bị cáo, giáo sư Arthur Hellman Khoa luật Trường Dại học Pittsburgh, nói: "Tội lừa dối đồng nghiệp cũng nghiêm trọng không kém tội quấy rối tình dục. Đối với một thẩm phán liên bang, thừa nhận chống lại luật pháp là phản bội lời thề vô cùng nghiêm trọng". Ông yêu cầu Quốc Hội Mỹ phải có hình thức trừng phạt nghiêm khắc hơn.

Trong khi, báo cáo của Việt Nam về nhân quyền trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc vào chiều ngày 8/5/2009, tại Geneva có nhiều điểm tự phê và các cam kết cải tổ nói: chất lượng của việc thực hiện pháp luật còn thấp nhưng hứa rằng việc thực hiện các tiêu chí nhân quyền quốc tế là ưu tiên của chính quyền.

Thì trước đó chưa đầy hai tháng, một luật sư hoạt động cho nhân quyền ở Việt Nam nói văn phòng của ông vừa bị Sở Tư pháp tỉnh Ninh Thuận đình chỉ hoạt động. Ông Lê Trần Luật, tham gia bào chữa cho các bị can thuộc Giáo xử Thái Hà, nói với BBC rằng sự việc xảy ra ngày 24.3. Đoàn Thanh Tra Sở Tư Pháp tỉnh Ninh Thuận đã đến văn phòng Luật sư Pháp quyền và ghi hai biên bản xử phạt hành chính.

Ông Luật nói: "Theo họ, sai phạm thứ nhất là chi nhánh của tôi ở tỉnh Long An khi giải thể đã không báo cáo. Tôi nói đã báo rồi, họ bảo là chưa nhận được công văn thì xem như chưa báo."

"Vi phạm thứ hai, tôi có một chi nhánh nữa ở TP. HCM, khi đó đã bổ nhiệm một trưởng chi nhánh. Anh này sau đó thì bị kỷ luật không được làm luật sư. Tôi đã tìm người thay, nhưng không tìm được nên giải thể văn phòng."

Luật sư Luật giải thích tiếp: "Nhưng họ nói tôi vi phạm luật vì trong thời gian chưa chấm dứt chi nhánh mà đã kiếm người. Kết quả họ tước vĩnh viễn giấy chứng nhận đăng ký hoạt động của tôi, nghĩa là tôi không còn được thành lập văn phòng riêng."

Ông Luật cáo buộc việc đóng cửa văn phòng là để "ngăn cản hỗ trợ vấn đề nhân quyền, dân chủ và gửi thông điệp cho các luật sư khác là hãy liệu mà làm." (Nguồn BBC)

Ai cũng biết, vai trò của luật sư ảnh hưởng quan trọng thế nào đối với kết quả phán quyết cuối cùng của một phiên tòa. Luật sư, người biện hộ, bảo vệ cho thân chủ của mình trước những lời lẽ buộc tội của Công tố viên. Trong phạm vi nghề nghiệp của mình, người luật sư có quyền điều tra, thu thập và lưu trữ thông tin, chứng cứ và được phép bảo mật những thông tin ấy, được phép từ chối cung cấp các thông tin ngay cả với cơ quan điều tra nếu anh xét thấy những thông tin ấy có khả năng làm ảnh hưởng đến kết quả bảo vệ cho thân chủ. Vậy mà trong một quốc gia được coi là đang xây dựng một nhà nước pháp quyền như Việt nam lại có cái kiểu đàn áp giới luật sư, một hành động phỉ báng pháp luật trắng trợn thể hiện một hành vi hèn hạ của một giới cầm quyền bất chính. Hết xin xỏ, dụ dỗ dọa nạt để lấy thông tin từ luật sư Lê Trần Luật không xong, lại dở trò chiếm đoạt, cưỡng chế để lấy đi các thông tin nghề nghiệp của luật sư. Quá là bỉ ổi. (Nguồn danchuausa.net)

Mới đây, trong phần kết luận của bản phúc trình về nhân quyền, tổng kết phiên báo cáo của Việt Nam tại Geneva, người ta được biết Việt Nam chấp nhận 93 đề nghị từ 60 phái đoàn ở Geneva. Nhưng cũng có nhiều đề nghị nhân quyền bị Việt Nam bác bỏ:

Nhìn qua các điều khoản mà chính quyền cộng sản Việt Nam bác bỏ, mới hiểu được nỗi bức xúc của ông Trần Xuân Sơn, Chủ tịch Hội người Việt Quốc gia Lausanne, ông nói: "Chúng tôi nhân dịp này muốn đóng góp tiếng nói với thế giới rằng Việt Nam không tôn trọng nhân quyền như những gì nhà nước công bố."

Báo cáo của những người chỉ trích nói Việt Nam vẫn dùng biện pháp như giam những người chống đối vào trại tâm thần, hay trại cải tạo và cấm nhiều tổ chức bất tuân đảng CS hoạt động.

Và theo họ thì việc trấn áp này không chỉ áp dụng với các tổ chức của người Việt mà các nhóm như người Thượng hay Khmer Krom cũng lên tiếng phê phán chính phủ Việt Nam về nhân quyền.

Và còn đúng hơn với một nhận định dưới đây: "Luật Việt Nam đôi khi được dùng để hình sự hóa việc bày tỏ quan điểm chính trị hòa bình và hạn chế tự do lập hội." (Đoàn Canada-Nguồn BBC), cũng có nghĩa là vi phạm nhân quyền vậy.

Vấn đề nhân quyền ở Việt Nam sở dĩ còn lâu mới được thực hiện, vì những người cộng sản vẫn muốn giữ mãi thế độc tôn.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Giữa Trời
Lê Ngọc Minh
14:20 16/05/2009

GIỮA TRỜI



Ảnh của Lê Ngọc Minh

Trên trời, dưới đất, giữa là ta

Cùng mang một nhiệm mầu không sắc

Bồng lai ngay giữa chốn ta bà.

(Trích thơ của Nguyễn Tấn Hưng)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền