Ngày 05-04-2008
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Chúa Kitô, Thánh Thể và hành trình Emmau của chúng ta
Lm Thomas Trần Ngọc Túy, OP.
02:16 05/04/2008
CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH A

Lc:24,13-35.


Thưa quí vị.

Mỗi con ngừơi đều có một câu truyện đời mình để mà kể. Nhưng kể được rành rẽ, chúng ta phải làm chủ về mọi mặt: sáng tối, vui buồn, tốt xấu, ngọt ngào, đắng cay. Tuy nhiên về mặt tích cực dễ kể hơn, còn mặt tiêu cực thật khó nói, trừ phi có những người biết lắng nghe và thông cảm. Nhiều trường hợp quá đau xót khiến đương sự phát triển bệnh tâm lý. Những ai giầu kinh nghiệm về cuộc sống biết rõ điều này. Câu truyện sau đây có thể minh họa chút ít.

Một người đàn ông trung niên phỏng 35 tuổi, ăn vận lịch sự, tay sách một chiếc vali còn tương đối mới, bước vào một khách sạn ở Luân Đôn. Ông hỏi thuê một căn phòng nhỏ, nói là trú ngụ vài ngày. Cô tiếp viên hỏi tên tuổi để ghi vào sổ. Lạ lùng người đàn ông đỏ mặt bối rối. Cô thơ ký ngạc nhiên hỏi lại:“Xin cho cháu biết quí danh?” Người khách ngơ ngác:“Cô thông cảm, tôi không nhớ rõ?” Cô gái trẻ càng sửng sốt hơn:“Vậy làm sao cháu ghi số phòng cho ông?” Người đàn ông ấp úng:“Cô làm ơn thông cảm, ghi là Jeanne Brown đựơc không?”. “Nhưng thưa ông, đó là tên phụ nữ”. Rồi cô gái giúp đỡ người khách lục lọi các túi áo, mở cả vali nữa, nhưng chẳng tìm thấy chi hết. Ông ta không nhớ tên mình là gì, từ thành phố nào tới, quá khứ của ông hòan tòan bị xóa bỏ. Ông đang mặc bệnh mất trí nhớ (amnesia).

Người ta đưa người khách lạ vào nhà thương. Một bác sĩ tâm lý cố gắng chữa trị cho ông. Sau những tuần lễ kiên nhẫn và với kỹ thuật tinh tế, người bác sĩ đã thành công mở lại quá khứ cho người đàn ông. Ông là một đứa trẻ mồ côi, được một gia đình tốt bụng đưa về nuôi. Lớn lên ông kết hôn với một thiếu nữ xinh đẹp, con nhà thượng lưu giầu có. Cô ta chẳng cần đến đồng lương còm cõi của người chồng làm nghề ống nước. Dân hàng xóm láng giềng giầu có khinh thường vợ chồng ông. Dần dà người vợ cũng chán anh chồng thuộc tầng lớp hạ lưu. Ông ta phát triển căn bệnh tự ti mặc cảm, cố quên đi những bất hạnh của mình. Cuối cùng hai vợ chồng lâm vào khủng hỏang. Cô ta có nhân tình mới, và người đàn ông cũng kiếm được nhân ngãi trẻ đẹp hơn, tuy thuộc tầng lớp tiện dân. Vừa khi hai vợ chồng bàn tính ly dị thì người vợ ngã bệnh nặng. Người chồng âu lo, cố quên đi tất cả. Đó là con đường duy nhất ông ta có thể làm để đối phó với hòan cảnh. Hậu quả bi thảm là ông mất trí nhớ.

Câu truyện điển hình này là của mỗi người chúng ta. Có những linh hồn chịu đựng quá nhiều buồn đau hoặc lo lắng và cảm thấy hòan tòan bị bỏ rơi, thất vọng nếu không có người khác biết tới. Nghe chuyện của chúng ta là nghe cuộc đời chúng ta đã trải qua. Từ chối nghe là từ chối chính chúng ta. Lắng nghe là người ta đã chia sớt nỗi khổ tâm của kẻ khác và chữa lành về phần tâm lý. Mỗi người đều có một câu truyện để nói, nếu không gặp tri âm thì kể như chúng ta đã chôn quá khứ vào nấm mồ.

Hai môn đệ đi làng Emmaus của Phúc âm hôm nay cũng rơi vào trường hợp này. Họ đang bị dầy vò vì cuộc vỡ mộng quá lớn. Biến cố thày chết làm cho họ hòan tòan thất vọng. Chính miệng họ đã thố lộ điều đó:“Chúng tôi đã những hy vọng, người sẽ cứu vớt Israel”. Hy vọng của họ là dân tộc được giải phóng, tôn giáo được tự do và bản thân được vinh hoa phú quí với địa vị cao. Nhưng lúc này thì tan nát tất cả. Thày đã chết và mọi hy vọng được chôn chặt trong mồ cùng với thày. Chẳng còn chi để mà tin tưởng. Vỡ mộng và hổ thẹn đầy ắp với tâm trí họ, họ thầm thì to nhỏ về biến cố trên đường trở về làng cũ Emmaus, bây giờ là El Qubeiba, chừng 10 cây số đông bắc Giêrusalem.

Đúng là Phúc âm có câu truyện để kể, hai môn đệ vỡ mộng có câu chuyện để nói và câu truyện làm cho họ rối lòng. Một khách lạ tế nhị áp sát họ lắng nghe. Tâm lý thường tình cho hay dốc bầu tâm sự cho người lạ dễ dàng biết bao! Bạn chẳng cần ý tứ, dè dặt. Kiểu như người ta đi xa về tha hồ mà khoác lác, chẳng ai có khả năng kiểm chứng thật hay bịa. Phần người lạ cũng rất tế nhị, ông lắng nghe, đi sâu vào chi tiết câu truyện và giải thích ý nghĩa Kinh thánh cho họ. Ông tạo cho họ bầu khí thuận lợi để họ bộc bạch tâm can, những đau buồn, những thất vọng.

Rồi người khách lạ làm chi? Ông cũng kể câu truyện đời ông cho họ nghe. Đời của ông chứ không phải của người khác. Đối với hai môn đệ thập tự là một thất bại hòan tòan, một cản trở không thể vượt qua. Nhưng đối khách lạ không nhất thiết phải như vậy, rồi ông giải thích cho họ, bắt đầu từ Môsê và các ngôn sứ, những nội dung mà họ đã từng học tập, nhưng không hiểu:“ Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào vinh quang của Người sao?”. Vị khách lạ chỉ dẫn cho họ hay khổ giá không hẳn là kết thúc của một giấc mơ, nhưng là khởi điểm của một thực tại mới. Ông giúp đỡ hai môn đệ tìm ra ý nghĩa trong câu truyện của họ bằng cách cho họ biết ý nghĩa câu truyện của riêng ông. Nhờ đó họ có khả năng xem lại sự thật mà họ vừa trải qua ở Giêrusalem. Phúc âm kể: “Họ bảo nhau: Dọc đường khi Người nói chuyện và giải thích Kinh thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”. Lòng họ sốt sắng vì đó là câu truyện của chính họ chứ không phải của người khác.

Sở dĩ người đàn ông mất trí nhớ có thể trở lại trạng thái bình thường là vì vị bác sĩ lắng nghe câu truyện của ông ta. Những rắc rối, những tối tăm, đau khổ của ông ta được tự do giãi bày. Nhờ đó cơn bệnh biến mất. Bệnh tật thiêng liêng của chúng ta cũng được chữa trị tương tự. Xin đừng kiêu căng cho mình chẳng hề mắc bệnh. Thực tế, chúng ta nhiều bệnh lắm, và còn nặng hơn ông khách thuê khách sạn: Bệnh điếc, bệnh mù, bệnh giả hình, thôi thì đủ cả, thậm chí cả những bệnh đưa đến cái chết. Vậy mà vẫn cứ nhởn nhơ coi mình là thánh thiện, lại còn sẵn sàng lên lớp cho thêin hạ. Mỗi người có một câu truyện cần phải được bộc bạch. Nếu như không gặp khách lạ thì chẳng bao giờ nói ra. Nếu khiêm tốn nhận ra vấn đề của mình, thì chẳng bao giờ còn tâm lý tự cao tự đại, ăn vận diêm dúa, trang hòang lãng phí để đánh bóng danh tiếng mình, tổ chức mình. Chúng ta sẽ sẵn sàng chấp nhận phần tối tăm của linh hồn mình mà nhận ra thiếu thốn ơn Chúa soi sáng. Thực ra, xét cho cùng, thì chỉ câu truyện của Đức Kitô qua khổ nạn và cái chết rồi mới được vinh quang, chúng ta mới hiểu ra ý nghĩa trọn vẹn của cuộc sống mình. Mọi sự khác đều không thỏa đáng. Hai môn đệ chỉ nhận Chúa Phục sinh khi dùng bữa tối với Ngài. Lý do nằm ở chỗ, theo tục lệ Do thái, giai đọan cúôi cùng của tế lễ hy sinh là một bữa tiệc thánh thiện. Sách Lêvi ký thuật lại rất nhiều lần kết thúc của các hy lễ là chia sẻ bữa ăn với Đức Chúa tại bàn tiệc hy tếtsúc vật mà thày tư tế vừa thực hiện. Chắc chắn những tín hữu đầu tiên (đa số là Do thái) nghỉ rằng họ sẽ mất gốc nế không biết liên hệ với truyền thống này. Vì thế lễ bẻ bánh của họ là sau bữa ăn để tưởng niệm Đức Kitô. Truyền thống này còn mãi đến ngày hôm nay. Những ai không nhận ra ý nghĩa của nó, thì quả thật không phải là tín hữu chân chính.

Khi Chúa vào dùng bữa với họ và Ngài vừa cầm bánh bẻ thì họ nhận ra Ngài. Chúng ta cũng chỉ nhận được ân huệ ấy sau khi đã đồng lao cộng khổ với Chúa. Đức Giáo Hòang Phaolô VI đã mô tả thánh lẽ bằng ba chữ:“ Một hy lễ, một tưởng niệm và một bữa tiệc” là ở trong ý nghĩa ấy. Đức tin chúng ta sẽ không nhận ra Chúa trong thánh lễ nếu trước hết không suy niệm về khổ nạn, cái chết và phục sinh của Ngài. Đây là tư tưởng của thánh Augustinô và nhiều vị khác trong Gíao Hội. Làm ngược là chúng ta thất bại không nhận ra Chúa.

Nhiều người nói rằng việc sống lại của Chúa, chỉ là suy nghĩ viển vông của các tín hữu. Họ không muốn chấp nhận thày mình đã chết, sự nghiệp đã tiêu tan. Họ ước ao mãnh liệt Ngài vẫn sống với họ, cho nên tạo ra những ảo ảnh rằng Ngài hiện ra đó đây nhiều lần. Họ “trông” thấy ngài đúng như lòng mong ước và đặt tên là Đức Kitô Phục sinh. Kỳ thật chẳng có chi là thực tế cả. Dân chúng chẳng bao giờ được chứng kiến “nội dung” họ từng kể lại. Đúng là đám môn đệ đã ở tận cùng hất vọng. Câu chuyện của các ông tỏ lộ một sự mất mát tòan diện và các ông đang làm chuyện mà ngày nay các người thất bại thường làm: Co cụm lại để băng bó vết thương, trở về công việc cũ, xây dựng lại tương lai. Một vài người trong bọn trở lại nấm mồ, như người ta thường làm, thăm viếng chỗ chôn cất và đau đớn khóc than. Có vậy thôi.

Hai môn đệ đi làng Emmaus nói là gặp khách lạ thì chỉ là sản phẩm của óc tưởng tượng quá mạnh mẽ và ký ức còn quá sống động. Họ kể lại cho ông khách “ảo” điều mà các phụ nữ đồn thổi về thày đã trỗi dậy, thì chính họ cũng không tin. Đúng là câu truyện hoang đường mà ngày nay vẫn thừơng nghe thấy. Về phần Giáo hội tiên khởi cũng cùng một ruộc âm mưu lừa dối thiên hạ. Nhưng làm sao lừa được cả thiên hạ, cấp lãnh đạo Do thái, cho tới nay, có tin đâu? Xét trong tư tưởng của hai ông, thì họ đã kết thúc một quãng đời mộng mơ và trở về cuộc sống đời thường.

“Chúng tôi những tưởng người sẽ cứu Israel”. Câu nói rất phổ thông giữa chúng ta ngày nay: Chúng tôi những tưởng công trình này rất thành công. Những tưởng cuộc hôn nhân này hạnh phúc, con cái rất ngoan ngõan, dịch vụ này mang lại nhiều lợi ích, viên thuốc này rất hiệu nghiệm, ông nọ ba kia rất tốt bụng….ai dè! Hy vọng và mơ ước của chúng ta thường gặp thất bại. Thất bại này kế tiếp thất bại khác, khiến chúng ta nhát đảm, rụt rè, chột dạ, nghi nan không tin tưởng vào mình nữa, nản chí trong bất cứ công việc nào, kể cả đàng thiêng liêng. Nhưng có một thực tại không thể chối cãi được, là hai môn đệ ngay đêm hôm ấy trở về Giêrussalem để gặp các tông đồ, thuật lại cho họ ngay kinh nghiệm xem thấy thày của mình. Các ông cũng ngỡ ngàng nghe kể lại cùng một câu truyện: Họ cũng nói với hai ông:“Chúa trỗi dậy thật rồi và đã hiện ra với Simon”. Simon là tên cũ của Phêrô, đứng làm biểu tưởng cho đạo cũ. Tức Kinh Thánh đã được ứng nghiệm mà Kinh thánh thì không thể sai lầm. Cho nên lương tri ngay chính buộc phải công nhận sự Phục sinh của Chúa là chân lý. Và khi nhận lãnh chân lý thì không thể giấu kín. Cleopha và bạn đồng hành trở về Giêrusalem báo tin cho các tông đồ và những môn đệ khác đang tụ họp.

Câu truyện Emmaus là câu truyện của mỗi tín hữu. Nó thường xẩy ra với chúng ta mỗi khi rước lễ. Nếu thực sự chúng ta gặp gỡ Chúa trong thánh thể, chúng ta chẳng thể giữ Tin Mừng ấy cho riêng mình. Nó phải được loan ra bằng hành động, lời nói, trừ phi chẳng gặp Ngài mà chỉ giả đò gặp mà thôi. Cùng với Giáo Hội, chúng ta làm những cuộc hành trình giữa trần gian, cuộc hành trình súôt cả cuộc đời. Chúa Giêsu luôn đi sát bên mỗi người, giải thích, hướng dẫn mỗi linh hồn về quê Trời ngay cả khi không nhận ra Ngài. Chúng ta là thành phần của Dân Thiên Chúa, cần sống xứng đáng với những chi mình tin tưởng. Vì mỗi người đều phải kể lại câu chuyện đời mình. Câu chuyện đó có ý nghĩa hay không tùy thuộc vào thái độ sống của chúng ta. Amen, Alleluia.

(Tổng hợp từ: Flor McCarthy – Sicilianô, OP).
 
Tin Mừng Chúa Nhật III Phục Sinh: Chúa Giêsu ở với chúng ta qua Kinh Thánh
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
04:14 05/04/2008
ROME (Zenit.org).- Cha Raniero Cantalamessa Dòng Capuchin, là vị giảng Phủ Giáo Hoàng, đã giải thích những bài đọc Thánh Lễ Chúa Nhật III Phục Sinh. “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” Hàng chữ này từ đoạn Tin Mừng nói về các môn đệ thành Emmaus bắt chúng ta suy nghĩ về Kinh Thánh.

Có hai cách đến gần Kinh Thánh. Cách thứ nhất là nghiên cứu Kinh Thánh trong một cuốn sách củ, đầy sự khôn ngoan tôn giáo, những giá trị luân lý, và thi thơ nữa. Từ quan niệm này đó là một cuốn sách tuyệt đối quan trọng nhất để hiểu văn hóa phương Tây của chúng ta và tôn giáo Do Thái-Kitô hữu. Đó cũng la cuốn sách được in ấn và được đọc hơn hết trong thế giới.

Nhưng có một cách khác đòi hỏi hơn nhiều để đến gần Kinh Thánh, đó là tin rằng Sách Thánh chứa đựng lời hằng sông của Chúa cho chúng ta, tức là một cuốn sách được “linh hứng”, trên thực tế được viết bởi những tác giả nhân loại, với tất cả sự hạn chế của họ, nhưng với sự hướng dẫn trực tiếp của Chúa. Một quyển sách rất nhân bản, đồng thời có tính thần linh, nói cho những con người mọi thời đại và mạc khải cho họ ý nghĩa sự sống và sự chết.

Hơn hết Kinh Thánh mặc khải cho họ tình yêu Thiên Chúa. Nếu tất cả Sách Thánh trong thế giới, Thánh Augustine nói, do một tai họa nào đó, bị phá hủy và chỉ còn lại một bản sao và, trong bản sao này, tất cả các trang đều không thể đọc được trừ một trang, và trong trang này chỉ có một hàng chữ đọc được; nếu hàng này là hàng trong thư thứ nhất của Gioan nói về “Thiên chúa là tình yêu,” thì toàn diện Sách Thánh sẽ được cứu vãn bởi vì Kinh Thánh được tổng kết trong lời công bố này. Điều này giải thích rằng có rất nhiều người đến với Sách Thánh mà không có văn hóa, không có giáo dục cao, với sự đơn sơ, vì tin rằng chính Thánh Thần nói trong sách thánh và họ gặp trong đó những câu giải đáp cho những vấn đề của họ, gặp sự sáng, sự an ủi, nói tóm, sự sống.

Hai con đường đến gần Sách Thánh—con đường học vấn uyên bác và con đường đức tin—không loại trừ nhau, ngược lại, phải liên kết nhau. Cần phải học Sách Thánh, học cách giải thích Sách Thánh (hay là chú ý tới những khám phá của những kẻ học Ssách Thánh bằng cách này), hầu không rơi vào trào lưu chính thống.

Trào lưu chính thống hệ tại lấy một câu từ Sách Thánh, đúng như nghe, và áp dụng câu đó cho những tình huống ngày nay, mà không coi trọng sự khác biệt về văn hóa, thời gian, và những loại khác nhau của Sách Thánh.

Ví dụ, tin rằng vũ trụ hiện hữu ít hơn 4,000 năm bởi vì điều này xem ra là điều chúng ta có thể tính do thông tin Sách Thánh cung cấp, đang khi chúng ta biết rằng vũ trụ đã hiện hữu từ hàng tỷ hàng tỷ năm. Sách Thánh không được viết như một quyển sách khoa học thiên nhiên, nhưng để cứu độ. Thiên Chúa, trong Sách Thánh, thích ứng với cách nói cho con người của thời đại hầu họ có thể hiểu được; Người không viết chỉ cho con người thời đại kỹ thuật.

Đàng khác, qui Sách Thánh về một đối tượng nghiên cứu và học tinh thông, mà vẫn giữ trung lập với sứ điệp Sách Thánh, đó là giết chết Sách Thánh. Điều này có thể so sánh với một người nam, nhận thơ từ người nữ họ yêu, hạch sát thơ ấy với một tự điển, từ quan điểm văn phạm và cú pháp, và ông ấy chỉ dừng tại những sự này, mà không nắm bắt tình yêu nói đến trong thơ.

Đọc Sách Thánh mà không có lòng tin cũng như rán đọc một quyển sách ban đêm: không đọc được gì, hay là ít ra người ta không đọc điều cần thiết. Đọc Kinh Thánh với đức tin có nghĩa là đọc Kinh Thánh trong sự qui chiếu về Chúa Kitô, nắm bắt điều gì qui chiếu về Người trên mỗi trang, đúng như Người đã làm với các môn đệ thành Emmaus.

Chúa Giêsu vẫn ở với chúng ta bằng hai cách: Trong Thánh Thể và trong lời của Người. Người hiện diện trong cả hai: trong Thánh Thể dưới hình thức của ăn, trong Lời dưới hình thức ánh sáng và chân lý. Lời có một lợi thế lớn hơn Thánh Thể. Chỉ những kẻ đã tin và đang ở trong tình trạng ân sủng mới có thể rước lễ; nhưng mọi người, tin và không tin, người kết hôn và người ly dị, có thể đến với lời Chúa. Trên thực tế, muốn trở nên một kẻ tin, con đường bình thường nhất là nghe lời Chúa.
 
Cảm Nghiệm Sống : Đời Sống Tâm Linh Cho Tín Hữu
Phó tế GB Nguyễn Văn Định
05:04 05/04/2008
Cảm nghiệm Sống # 69:

ĐỜI SỐNG TÂM LINH CHO TÍN HỮU

Pt: Nguyễn Định

* Ét-ra nghiên cứu Lời Chúa: Từ chương 7 đến 10 nói đến chủ tâm tìm hiểu kỹ càng Luật Chúa. Dân Chúa đã có đền thờ, một trung tâm thờ phượng Chúa, nhưng đại đa số dân Chúa chưa hiểu biết Lời Chúa..

Thầy tế lễ Ét-ra dù sống tha hương nhưng đã chuyên tâm nghiên cứu Lời Chúa, thực hành và dạy Lời Chúa cho dân chúng (Ét-ra 7:10). Ét-ra nhận thấy dân chúng tại quê hương ông có nhu cầu hiểu biết và sống theo Lời Chúa để thành công về thể chất lẫn tâm linh.

Ét-ra đã kiên trì dạy dỗ Lời Chúa cho dân chúng và đem lại một sự tái sinh, đổi mới lớn (x. Nơ-khe-mi-a 8:13). Cuộc đổi mới này đem lại sức sống cho dân chúng và kéo dài khoảng năm trăm năm cho đến thời Chúa Cứu thế đến thế gian.

1- Sự Mạc khải của Lời Chúa: Rất cần thiết cho đời sống tâm linh của Tín hữu người Việt Nam tại hải ngoại cũng như tại quê hương:

1/ Mỗi Tín hữu VN cần có một cuốn kinh Thánh chính xác, dễ hiểu.

2/ Mỗi Tín hữu VN cần tập dần, có giờ cầu nguyện với Lời Chúa mỗi ngày và học hỏi Lời Chúa với các Nhóm nhỏ hàng tuần.

3/ Mỗi người trách nhiệm cần có những đường khuyến khích Tín hữu tập học hỏi, chia sẻ, nghiên cứu Kinh Thánh, các sắc lệnh về Công đồng Vatican II, các Tông huấn và Giáo huấn của Giáo hội.

4/ Giaó hội tại VN cũng như hải ngoại cần có ngân sách chính đáng để đầu tư vào người nghiên cứu chuyên môn, cũng như công tác học hỏi Lời Chúa một cách rộng rãi, để tìm kiếm một nền thần học Kinh Thánh phù hợp.

2- Đức Thánh Cha với Lời Chúa: Ngài nói trong ngày 7-11-2007 với 40.000 Tín hữu: Đối với tôi trước hết là yêu mến Lời Chúa:

1/ Mỗi Kitô hữu cần sống trong sự tiếp cận và đối thoại cá nhân với Lời Chúa, vì Chúa muốn nói với từng người trong chúng ta.

2/ Mỗi Tín hữu cần đọc Kinh Thánh như là Lời Thiên Chúa đang nói với ta bây giờ, tâm sự, gặp gỡ với Ngài trong giây phút hiện tại.

3/ Đọc trong sự hiệp thông xây dựng cộng đoàn và Giáo hội, lắng nghe trong Phụng vụ để Lời Ngài hiện diện giữa chúng ta.

3/ Lời Chúa là Lời của sự sống vĩnh cửu, khi ta đem theo Lời Chúa trong mình là đem theo Đấng Vĩnh Cửu, Sự Sống Vĩnh Cửu.
 
Bức chân dung của con ông họa sĩ
LM. Giuse Trương Đình Hiền
10:12 05/04/2008
Chúa Nhật III Phục Sinh (A - 2008)

Bức chân dung của con ông họa sĩ



Dẫn nhập đầu lễ:

Anh chị em thân mến,

Như chúng ta vẫn biết và vẫn tuyên xưng: Đại lễ Phục sinh hằng năm và Ngày Chúa Nhật hàng tuần chính là cuộc “tưởng-niệm-tái-diễn” mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô, là cuộc tái khám phá và đào sâu mầu nhiệm nầy để đem vào hiện thực cuộc sống. Chính vì thế, trọng tâm của sứ điệp phụng vụ Chúa Nhật III Phục sinh hôm nay chính là trình bày mối tương quan liên vị của người Kitô hữu với chính Đấng Phục sinh, nhấn mạnh mối quan hệ sinh động giữa mầu nhiệm Phục Sinh được tuyên rao, làm chứng và cuộc sống đời thường; đó cũng chính là cách thể hiện, sống, tuyên xưng, rao giảng của thế hệ các Tông Đồ, các cộng đoàn Kitô hữu nguyên thủy.

Giờ đây, để xứng đáng gặp gỡ Đấng Phục sinh, xứng đáng cử hành Thánh lễ, chúng ta hãy sốt sắng nhìn nhận và thống hối tội lỗi.

Giảng Lời Chúa:

Có một ông họa sĩ già, góa vợ. .. ông sống chung với một cậu con trai. .. cuộc sống thăng trầm lặng lẽ trôi. .. ông già họa sĩ dành hết cuộc đời cho nghệ thuật. ..Rồi chiến tranh bùng nổ. ..Cậu con trai lên đường làm nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc. .. ông già lại càng cảm thấy cô đơn. .. và càng dành trọn thời gian để cống hiến cho hội họa. .. ông tạo ra những bức tranh tuyệt vời và giá trị...

Rồi chiến tranh cũng phải đến hồi kết thúc. Một hôm ông nghe tiếng gõ cữa. .. ông nhìn thấy một thanh niên trong bộ đồ quân phục chào ông trong nghẹn ngào:

- Thưa bác, cháu cùng đơn vị con trai bác. .. cháu xin thành thật chia buồn với bác và gia đình. .. anh ấy đã ra đi anh dũng. .. Và đây là bức hình chân dung của anh ấy. .. cháu vẽ vội. ..chắc chắn là không đẹp và không giống lắm. .. cháu xin gửi đến bác...

Thời gian lặng lẽ trôi. .. và ông già họa sĩ kia cũng về bên kia thế giới...

Hôm nay trong viện bảo tàng này, các nhà sưu tập, các văn nhân nghệ sĩ, các chính khách và các thương gia. .. chờ đợi để mua cho được những bức tranh tuyệt hảo của ông ta.

Người điều khiển cuộc đấu giá:

- Kính thưa quý vị, để bắt đầu cuộc đấu giá hôm nay. .. đây là bức tranh chân dung cậu con trai nhà họa sĩ, sẽ được đấu giá trước. ..Có ai mua nó không ?

Không một tiếng trả lời

- Chúng ta không thể sang bức tranh kế tiếp, khi bức tranh này không ai đấu giá.

Vẫn không một tiếng trả lời. Cuối cùng ở cuối góc có một tiếng làu bàu:

- Mất thì giờ quá. ..tôi đồng ý trả 1$ cho bức tranh đó, tiếp tục đi. ..

Người điều khiển buổi đấu giá:

-1$ cho bức tranh chân dung cậu con trai lần thứ nhất. Không ai trả thêm

-1$ lần thứ hai. Vẫn yên lặng.

-1$ lần thứ ba. SOLD

- Tiếng búa gõ mạnh xuống. .. bức chân dung 1$ bán cho người mua.

Và xin cảm ơn tất cả quý vị đã đến. .. buổi đấu giá đã chấm dứt tại đây. Mọi người ngơ ngác và bực bội vô cùng. Ông đùa à !. .. chúng tôi chưa thấy bắt đầu.

Xin lỗi quý vị và ông ta chìa ra một phong bì có lời di chúc của nhà họa sĩ: AI CÓ BỨC TRANH CHÂN DUNG CỦA CON TRAI TÔI, THÌ TẤT CẢ NHỮNG TÁC PHẨM CỦA TÔI THUỘC VỀ NGƯỜI ĐÓ...

Thưa ông bà và anh chị em,

Ở giữa chúng ta hôm nay, giờ phút nầy, phải chăng cũng đang có một “bức chân dung nhỏ của Con Thiên Chúa” được giới thiệu cho mỗi người chúng ta để cùng đấu giá, chọn lựa. Tôi nghĩ rằng, còn hơn thế nữa. Không chỉ “một bức chân dung nhỏ” mà là cả một “bức tranh tuyệt tác”, và còn hơn cả một “bức tranh tuyệt tác”, một “Một Tình yêu, một sự hiện diện, một Con người, Một Ngôi Vị, một Thiên Chúa”!...

Vâng, cuộc họp mừng Lễ Tạ Ơn hôm nay, ở khắp nơi, mọi thời, chính là cuộc gặp gỡ thân mật và đích thật nầy giữa chúng ta và Chúa chúng ta, Đức Kitô phục sinh; giữa cộng đoàn chúng ta, gia đình giáo xứ chúng ta với Đấng Phục sinh đang trở về, đang có mặt, đang ban Lời chân lý và Bánh Trường Sinh, đang ủi an và chia sẻ tình yêu, đang động viên và soi sáng để chúng ta tiến bước trên đuờng…Đó chính là niềm tin muôn nơi và muôn thuở của chúng ta, của mỗi người Kitô hữu, là ý nghĩa đích thực của cuộc họp mừng phục sinh, là nội dung cốt yếu của Tin Mừng phải được sẻ chia và làm chứng, như lời “lời chứng và chia sẻ của Thánh Phêrô” từ thuở khai sinh Giáo Hội mà BĐ 1 sách CVTĐ đã thuật lại hôm nay:

“Chính Đức Giêsu đó,Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều nầy tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy đang nghe”

1. Câu trả lời của Đấng Phục Sinh:

Ở giữa đời thường hôm nay, trên muôn vạn nẻo đường cuộc sống, có biết bao nhiêu con người lê chân mệt mõi chán chường sau những biến cố, tai ương, mất mát làm vỡ vụn trái tim, hụt hẫng cõi lòng cùng với những vấn nạn lững lờ bế tắc: Có Trời hay chăng ? Ông Trời đang ở đâu ? Tại sao người công chính tốt lành như thế mà phải chịu bao nhiêu tai ương hoạn nạn ? Đâu là cán cân công lý của thiện và ác ?... Có lẽ hai tông đồ trên đường Em-mau vào buổi chiều Ngày Thứ Nhất trong tuần cách đây 2000 năm, cũng đang hoang mang về những vấn nạn như thế, những phi lý như thế về Thầy Giêsu của mình, về cuộc tử nạn thảm thương của Thầy cách đó hai ngày mà linh mục nhạc sĩ Thành Tâm đã diễn tả trong ca khúc “Trên đường Emmau”: “mộng vàng tan mây, nhọc nhằn lê gót chân buồn đường dài”. Nếu Đức Kitô sau buổi chiều thê lương Thứ Sáu cứ “bặt vô âm tín”, để sau đó xác thân từ từ thối rửa trong mộ đá… thì chắc chắn cho đến mãi hôm nay, vẫn còn những chàng trai, những cô gái, những cụ già, những em thơ…trên mọi nẽo đường trần thế cứ hoang mang hoài, cứ thắc mắc hoài, trăn trở hoài về những vấn nạn của cái sống và cái chết, của hạnh phúc và khổ đau, của hôm nay và vĩnh cửu…

Và Đức Kitô phục sinh đã đến, đã đồng hành, đã thỏ thẻ chuyện trò, đã khai lòng mở dạ, đã hong lại niềm tin, đã đốt lên sức sống cho họ cũng như cho bao nhiêu thế hệ con người. Biết bao nhiêu người đã cảm nhận được điều đó như cách cảm nhận của hai môn đệ trên đường Em-mau xưa: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?”

Cốt lõi của niềm tin Kitô giáo là ở đây: Sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh: câu trả lời cho mọi vấn nạn của kiếp nhân sinh, chìa khóa giải mã cho mọi ẩn số của cuộc đời, niềm hy vọng bừng sáng lên đẩy lui mọi bóng tối của sợ hải và thất vọng. Một sự hiện diện tuy vô hình nhưng rất thật đã khiến nhiều khi chúng ta cứ tưởng “Ngài chỉ là ông khách lạ”. Bởi chưng Ngài thường đến rất tình cờ và biến đi cũng thật lặng lẽ. Tình cờ như bao nhiêu thánh lễ cử hành mỗi sáng, lặng lẽ như bao đêm Giờ Thánh ngày Thứ Năm Đầu tháng trôi qua; tình cờ như bao nhiêu nghĩa cử yêu thương, lo lắng của Mẹ, của vợ, lặng lẽ như bao giọt mồ hôi hy sinh thầm lặng của Cha, của chồng...

Phải chăng điều quan trọng còn lại cho niềm tin hôm nay đó là “để Ngài cùng sánh bước”, là biết “mở miệng để chuyện trò thân mật với Ngài”, là biết hào phóng “mời Ngài vào quán cóc bên đường” để mời Ngài một “bữa cơm trưa, một chầu nhậu tối”, biết “mở mắt tâm hồn để nhận ra Ngài trong Tấm bánh Ly Rượu trên bàn tiệc Thánh Thể...”. Nói cách khác, chúng ta chỉ thật sự là Kitô hữu khi chúng ta có quan hệ mật thiết và sinh động với Đấng Phục Sinh, và cũng chỉ tìm lại được sức sống và niềm vui khi thật sự đón nhận Ngài vào cuộc sống.

Trong tác phẩm tu đức "Nên thánh trong thời đại mới", Kilian Mc Gowan, C.P. đã nói một cách mạnh mẽ rằng: "Lãng phí lớn nhất của trí tuệ con người là sống mà không nhận biết Chúa Kitô. Thất bại thê thảm nhất của trái tim con người, nếu có, là chưa bao giờ thật sự yêu mến Chúa Kitô. Vở kịch bi thương nhất trong bất cứ cuộc đời nào là không đặt Chúa Kitô làm trung tâm của đời sống chúng ta" (Nên thánh Thời đại mới, trang 72).

Ngày Mồng 2/4/08 vừa qua, cả thế giới vừa kỷ niệm lễ Giỗ 3 năm qua đời của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, một vĩ nhân của thời đại và đang được Giáo Hội tiến hành hồ sơ phong thánh.

Điều gì đã khiến “Vị Giám Mục Ba Lan, Ông Già gân 85 tuổi nầy” trở thành nhân vật vĩ đại như thế, được tán dương và ca tụng, yêu mến và ngưỡng mộ đến thế ? Chúng ta có thể nghe câu trả lời bằng chính những lời của Đức Hồng Y Josef Ratzinger, Vị niên trưởng Hồng Y đoàn, chủ trì Thánh lễ An Táng ĐTC hôm 08.04/2005:

« Chính nhờ đâm rễ sâu trong Đức Kitô, Ngài đã có thể chu toàn trọng trách vượt quá sức con người: trọng trách của mục tử đoàn chiên Chúa Kitô và của Giáo Hội hoàn vũ. .. Đức Thánh Cha của chúng ta, tất cả chúng ta đều đã biết, đã chẳng khi nào muốn giữ mạng sống của riêng mình, giữ mạng sống cho riêng mình, nhưng đã muốn ban tặng một cách không hề từ nan, cho tới giây phúc cuối cùng, cho Đức Kitô và nhờ vậy cũng ban tặng cho chúng ta »

Điều đó đã được ấn chứng qua bao nhiêu di cảo Ngài để lại cho chúng ta, đặc biệt cho những người trẻ, mà có lẽ nội dung cốt lỏi vẫn là: “Anh em đừng sợ ! Hãy mở lòng đón nhận Đức Kitô, hãy gặp gỡ, hãy đối thoại…”, như trong bài chia sẻ cho giới trẻ tại Bolivie ngày 11/5/1988 với đoạn Tin Mừng “Hai môn đệ trên đường Em-Mau”, Ngài đã nói:

“Đứng trước tình huống đó, tình huống thật sự đen tối đó, cha mời chúng con hãy quay về với Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, Con của Đức Maria, đi vào đối thoại với Người, vì hôm nay Người đang sánh bước bên ta trên con đường giống như chiều xưa, Người đã bước đi với hai người về làng Em-Mau, cho dù mắt ta có bị chìm trong bóng tối hoặc khép kín lại nên không nhận ra Người…”

“Các bạn trẻ thân mến, trên đường đời, chúng con đừng bỏ Đức Giêsu. Nếu thân phận con người yếu hèn đã khiến chúng con không chu toàn các giới răn của Thiên Chúa, chúng con hãy hướng cái nhìn về Đức Giêsu và thưa với Người: “Xin ở lại với chúng con, xin ở lại, xin đừng đi xa nữa”…

2. Hãy trở thành khách quý trên những nẻo đường Emmau hôm nay.

Và một khi đã có Đức Kitô Phục Sinh đồng hành và ban Lời Hằng sống sống, đã gặp gỡ và “bẻ bánh cùng Ngài”, thì mọi môn sinh của Ngài đều phải tất tả lên đường để loan báo tin vui, để sẻ chia hy vọng. Và như thế, mỗi người chúng ta lại trở thành một “khách quý trên vạn nẽo đường Emmau hôm nay”, để hong lại niềm tin, để chia ngọt xẻ bùi, để khơi lên hy vọng, để đẩy lùi tăm tối...cho bao nhiêu con người đang lầm lũi bước đi trong mệt mõi chán chường, trong đau thương thử thách.

Thế giới hôm nay đang cần biết bao những “vị khách quý” như thế để dẫn đưa nhân loại vào con đường Chúa đã đi: con đường của Tám Mối Phúc Thật, con đường của phục vụ yêu thương, con đường của thập giá, hy sinh tự hiến...để đi tới bến bờ Chúa đã đến: bến bờ của phục sinh, bến bờ của hạnh phúc vĩnh hằng trong vinh quang Nước Chúa.

Và như thế, cuộc họp mừng Phục Sinh hôm nay sẽ không bao giờ là cuộc “chọn lựa hay đấu giá sai lầm” như biết bao người đã xem thường “bức chân dung của con trai ông họa sĩ” để ra về trong tiếc nuối, trắng tay; nhưng chúng ta phải mua cho được, đấu giá cho thắng không phải “một bức hình bất động đã rách nát với thời gian”, nhưng là một Đức Kitô sống động, phục sinh đang có mặt ở đây, phút nầy để trao ban cho chúng ta tình yêu và ân sủng, chân lý và Bánh Trường Sinh...

Nhưng để được như thế, chúng ta không thể cầu nguyện khác hơn lời khẩn khoản của hai tông đồ Em-Mau: Lạy Chúa Giêsu phục Sinh, “Xin hãy ở lại với chúng tôi vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn”. Amen.
 
Thánh lễ tại Emmaus
Pm. Cao Huy Hoàng
13:07 05/04/2008
Suy niệm Tin Mừng CN 3 PS (Ga 24, 13-35)

THÁNH LỄ TẠI EMMAUS

Nối tiếp trình thuật việc Chúa Giêsu sống lại và hiện ra cho các Tông đồ - những người được truyền chức linh mục trong đêm trước ngày chịu nạn, hôm nay, Thánh Gioan gửi đến trình thuật Chúa Giêsu sống lại và hiện ra với hai giáo dân đầu tiên của Giáo Hội.

Hai người nầy từ Giêrusalem đi ra để về làng Emmaus cách Giêrusalem chừng mười một cây số. Không thấy Thánh Gioan nói đến chi tiết họ bỏ Giêrusalem, để đi tìm một chỗ an thân hơn giữa cơn bức bách điêu tàn, nhưng chỉ cho biết lòng họ buồn rầu vì cuộc thương khó kinh hoàng của Chúa Giêsu vừa xảy ra. Tai họ vẫn còn nghe tiếng búa đinh chát chúa. Mắt họ vẫn còn hình dung ra một thân xác con người Giêsu mê mếch máu từ mão gai trên đầu cho đến bàn chân. Tôi đồng cảm với hai giáo dân nầy khi nhớ lại biến cố Lm. JM Nguyễn Thế Thoại bị mời đi cải tạo ngày 15-6-1977. Giáo xứ Hòa Yên như rắn mất đầu. Các thầy ở trung tâm thần học Hòa Yên và cả ông Chủ Tịch Nghiêm không làm sao giải thích nỗi cho bà con giáo dân, vì chính các thầy, và hội đồng giáo xứ cũng không hiểu điều gì đang xảy ra. Chỉ biết Bố ra đi, rồi bặt vô âm tín, chỉ có ngày đi mà không biết ngày về. Hoang mang khiếp sợ từ Hòa Yên lan ra tới Hòa Nghĩa rồi khắp vùng Cam Ranh. Đâu đâu cũng bàn tán chuyện Bố Thoại bị bắt. Rồi sẽ đến Bố nào nữa? Nhớ lại tâm trạng của tôi và của giáo dân ngày ấy, giúp tôi hiểu ra phần nào nỗi buồn của hai giáo dân trên đường Emmaus. Họ còn đau thương hơn chúng tôi, vì họ không chỉ chứng kiến thầy mình bị bắt, bị tra tấn … mà còn mục kích tận mắt cái chết bi thương của Thầy trên Thánh Giá, và niềm tin vào việc Thầy mình sẽ sống lại quả là một thách đố lớn lao cho họ, vì họ là những người có thể nói là chưa thân thiết lắm với Chúa Giêsu, như các tông đồ.

Chúa Giêsu hiểu tâm trạng của họ và Ngài đã hiện ra với họ trong tư cách là một người đồng hành – không chỉ đồng hành trên quảng đường đi, mà đồng hành với họ trong từng suy tư, trong mỗi xúc cảm, và cả trong sự chao đảo của niềm tin ban đầu. Ngài đã hỏi han họ: "Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?". Rồi Ngài nhận lời trách cứ của họ: "Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay." Và Ngài lắng nghe họ chia sẻ: "Chuyện ông Giêsu Nadarét. Người là một ngôn sứ đấy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. 20 Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. 21 Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Ðấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. 22 Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, 23 không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn còn sống. 24 Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy”.

Nghe hai giáo dân trình bày những thổn thức, những dao động trong hành trình đức tin, Linh Mục Giêsu Phục Sinh cũng cố niềm tin của họ ngay lập tức bằng một thánh lễ trên đường đi. Mở đầu là lời mời gọi họ nhìn nhận họ kém tin vào lời các ngôn sứ, nhìn nhận trí khôn giới hạn của mình trước chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa, qua Đức Giêsu Kitô. Phần Phụng Vụ Lời Chúa cử hành ngay trong lúc đi, Linh mục Giêsu đã trích dẫn lời Thánh Kinh qui chiếu về nhân vật Giêsu, Ngài đã giảng giải cặn kẻ cho họ và đã làm cho lòng họ bừng cháy lên niềm tin yêu vững vàng. Vì trời đã chiều, nên họ mời Chúa Giêsu ở lại với họ, và chính lúc nầy, Linh Mục Giêsu cử hành phần Phụng Vụ Thánh Thể, bằng việc “cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng” và khi “tấm bánh được bẻ ra, trao cho họ” thì mắt họ mở ra, và họ nhận ra Người nhưng Người đã biến đi. Vâng, Ngài đã biến đi theo lời kể của Thánh Gioan, nhưng thật ra, Ngài đang ở lại với họ, đang sống động trong lòng họ vì họ đã ăn Tấm Bánh Thân Xác Tử Nạn và Phục Sinh của Người.

Chính tấm bánh ấy, chính Thánh Thể Người đã phục sinh cõi lòng họ, phục sinh niềm tin, phục sinh niềm vui, niềm hy vọng và phục sinh đời sống Giáo Hội trong họ, đời sống chứng nhân phục sinh cho mọi người.

Kết thúc thánh lễ trên đường Emmaus là cuộc trở về Giêrusalem với Giáo Hội, với các Tông Đồ, để nghe các Linh Mục của Chúa loan tin Chúa đã sống lại, và họ, là giáo dân, cũng mạnh dạn trình bày chứng từ phục sinh mà họ đã nhận được từ Chúa Giêsu Phục sinh. Thánh Gioan kết thúc đoạn trình thuật sống lại và hiện ra với giáo dân bằng một cuộc sum họp duy nhất thánh thiện trong cùng một Đức Tin của cả Linh Mục và Giáo dân, của cả cộng đoàn dân Chúa. “Các tông đồ bảo hai ông: "Chúa chỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon." 35 Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh”.

Là những Kitô hữu giáo dân trong giáo hội, qua trang tin mừng hôm nay, thiết tưởng chúng ta được phép vui mừng, có thể theo cách vui mừng của trần thế, vì giáo dân cũng được vinh dự mục kích tận mắt Chúa Giêsu Phục Sinh: ít là một bà Madalena, hai người trên đường về Emmaus.

Chúng ta được vui mừng, vì chính Chúa Giêsu Phục Sinh qua các linh mục, đang đồng hành với chúng ta trong cuộc đời. Ngài thăm hỏi chúng ta, Ngài hiểu chúng ta, nhận lời trách cứ của chúng ta khi ta chưa hiểu Ngài. Ngài lắng nghe nỗi niềm của chúng ta. Ngài kêu gọi chúng ta nhìn nhận sự hèn kém của mình trước mầu nhiệm Thiên Chúa, để chấp nhận lắng nghe lời Ngài ân cần giải thích cho chúng ta. Và Ngài cử hành cho chúng ta hy tế chính Thánh Thể Ngài để niềm tin phục sinh của chúng ta thêm vững chắc. Chúa Giêsu đã chu toàn sứ vụ Linh Mục bằng chính sự phục sinh của mình để các linh hồn được phục sinh. Ngài giảng giải sống động và có sức làm cho lòng con người bừng cháy lên vì Ngài đã giảng giải bằng chính sự phục sinh của mình….Vì vậy, chúng ta có quyền tin tưởng rằng: Chúa không lầm khi ban tác vụ linh mục để các Linh Mục của Chúa sống-trước-đời-sống-phục-sinh ngay trong đời sống trần thế, để chính các Ngài là hiện thân của Chúa Giêsu Phục sinh từ việc mục vụ đến việc tế lễ, để chính các ngài thực là tấm gương tấm bánh bẻ ra cho nhiều người được sống. Chúng ta có quyền tin tưởng - không phải là ước ao hay khát vọng. Và nếu chúng ta có thấy bóng dáng của sự chưa-phục-sinh trong đời sống một vài linh mục, thì thiết tưởng, cũng không phải là cái cớ vô duyên dẫn chúng ta đến chổ mất niềm tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh.

Mới đây, được đọc bài “Nghĩ gì về cao trào Giáo dân” của Linh Mục Anre Đỗ Xuân Quế, tôi bỗng dưng dị ứng với hai từ “cao trào”, vì thoạt đầu nghe như giáo dân đòi “nỗi dậy”; nhưng rồi tôi hiểu được ý ngài muốn trân trọng đóng góp của giáo dân cho Giáo Hội thời đại hôm nay trong mọi lĩnh vực, dưới mọi hình thức, để Tin Mừng Phục Sinh lan xa tới tận cùng bờ cõi trái đất. “Sự hợp tác giữa linh mục và giáo dân là cần thiết và bổ ích..Giáo dân đón nhận sự tín nhiệm và lời mời gọi của linh mục một cách chân thành và khiêm tốn. Linh mục coi trọng khả năng chuyên môn và lòng tận tâm của giáo dân. Cả hai cùng đồng lao cộng tác trong việc phụng thờ Chúa và muu ích cho các linh hồn” (Lm. Anre Đỗ Xuân Quế)

Vâng, đến muôn đời, đến muôn muôn đời, giáo dân cần có các linh mục là chừng nào, càng cần có những linh mục phục sinh là chừng nào… để họ được Chúa Giêsu phục sinh đồng hành, hỏi han, giảng giải, để họ có Thánh Thể như của ăn đàng trên đường về quê hương phục sinh vĩnh cữu, và để họ được hợp tác, như hai giáo dân Emmaus ngày ấy, trở về Giêrusalem hợp tác với các linh mục của mình, làm chứng cho Chúa Giêsu Phục sinh đến mọi hang cùng ngõ hẻm trần gian.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cử hành thánh lễ trên đường Emmaus để đức tin của các tín hữu được củng cố. Xin cho đức tin phục sinh của chúng con cũng được bồi dưỡng qua việc sốt sắng lắng nghe Lời Chúa và Dự Tiệc Thánh Thể trong thánh lễ hàng ngày, và để nhờ đó, chúng con trở nên nhân chứng phục sinh sống động giữa cuộc đời. A men.
 
Tôi Gặp Chúa Trên Đường Emmaus
Tuyết Mai
13:09 05/04/2008
Tôi Gặp Chúa Trên Đường Emmaus

Trên đường đời có phải tất cả chúng ta cùng gặp nhau ít nhất là một lần trên một con đường nào đó!? Hay một đoạn đường nào đó! Nhưng không ai trong chúng ta lại có thời giờ để muốn tìm hiểu và muốn biết anh là ai!? Có thể anh và tôi chúng ta cùng chung nhau một con đường mà hằng ngày chúng ta cần dùng để đi qua. Nhưng hai ta vẫn coi nhau như người xa lạ.

Có phải Chúa đã chết và đã Sống Lại trên 2000 năm và con đường Emmaus vẫn còn đó!? Nhưng ai trong chúng ta đã có dịp gặp gỡ được Chúa như hai Tông Đồ may mắn đã được Chúa Giêsu Hiện Ra và Đồng Hành với hai ông cùng đi với nhau trên suốt một đoạn đường thật dài của Emmaus. May mắn hơn nữa là hai ông đã được nhận ra Thầy của mình khi chính mắt được thấy Thầy lúc Bẻ Bánh. Khi hai ông nhận diện ra được Thầy của mình thì cũng là lúc Thầy Biến Mất.

Trên suốt một đoạn đường thật dài hai ông đã không nhận diện ra Thầy Giêsu của mình. Có phải vì hai ông đã quá Tuyệt Vọng vì Thầy đã bỏ mình mà ra đi Vĩnh Viễn sẽ không bao giờ có cơ hội gặp lại như chuyện thường tình của bao nhiêu người cũng ra đi y như thế!? Vì tuyệt vọng, buồn phiền, và chán nản, nên đã làm cho tâm trí hai ông nên tối tăm và không còn biết hay nhớ những điều Thầy mình đã dậy và đã nói trước đây.

Cuộc đời của chúng ta rất nhiều khi vì quá bận rộn và tất bật vất vả lo cho cuộc sống đủ ăn đủ mặc nên đã không nhìn thấy Chúa, tuy dù Chúa đã Chết và đã Phục Sinh? Có phải đối với nhiều người chúng ta cũng đã coi như Ngài đã chết thật rồi! vì tâm trí và tâm hồn chúng ta thật trống vắng, bất an, và buồn sầu vì thiếu vắng Chúa trong cuộc đời và trong Trái Tim của chúng ta?

Có phải thời nay và thời xưa chúng ta cũng phải đòi hỏi là được Chúa hiện ra và đồng hành cùng trên con đường chúng ta đi mỗi ngày thì mới tin là Chúa Phục Sinh, Hiện Diện, và Đồng Hành với ta hay không? Như tôi đây đã sống và đã cùng với tất cả anh chị em trên con đường Emmaus nhưng tôi chẳng có được cái may mắn như hai Tông Đồ là được thấy Thầy Giêsu của mình tận mắt. Tôi đã được sinh ra và lớn lên trong muôn ngàn thiếu thốn. Thiếu thốn tình Cha. Thiếu thốn tình Mẹ. Thiếu thốn tình người. Thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu ăn học, thiếu mái ấm, và còn thiếu bao nhiêu thứ nhu cầu sống khác. Do đó tôi đã quá bận rộn để tìm miếng ăn để dằn bụng mỗi ngày. Tôi đã đi tìm tình yêu nơi không đúng. Tôi đã cố gắng trở thành con người tốt nhưng tôi không có cơ hội. Tôi cũng có cố gắng đi tìm Chúa một thời gian nhưng vì tâm tư tôi luôn tìm kiếm những thứ và những điều không giúp gì được cho tâm linh và sự bình an của tôi.

Ôi thôi! tôi bận rộn lắm làm gì mà tôi có thời giờ để đến với Chúa tôi ở Nhà Thờ, ở Tòa Giải Tội, ở tất cả những nơi mà Chúa đang hiện diện và đang cần sự giúp đỡ của tôi. Tôi bận rộn đi học, đi kiếm công ăn việc làm. Khi có công ăn việc làm thì tôi cần phải kiếm xe, mà phải xe tên hiệu mới được, ít nhất là phải sắm cho được chiếc Toyota Camry chứ không thấp hơn được. Mercedes thì là điều tôi mơ ước. Rồi thì phải sắm sửa quần áo tên hiệu mới gọi là biết chưng diện với người ta. Cuối tuần phải bắt kép chở đi vũ trường mới là con người sành điệu và biết cách sống chứ không người đời cho là mình nhà quê chẳng biết gì, và cuộc sống cứ thế, tôi làm sao gặp được Chúa? Chúa làm gì mà đến những nơi phồn hoa đô thị ấy?

Nhưng cảm tạ Chúa việc gì đến cũng phải đến và tôi đã phải trả giá cho việc tôi làm. Sau sự việc ấy Chúa đã mở mắt cho tôi thấy rằng mọi thứ trên cõi đời này chỉ là Phù Vân. Nay còn, mai mất là việc tất nhiên. Lên voi xuống chó là chuyện rất thường tình xảy ra trên đời. Hôm nay vui, ngày mai khóc. Hôm nay yêu, ngày mai thù. Hôm nay lầu đài gác tía, ngày mai dưới gầm cầu. Tất tất cả chỉ là giấc mơ vì ta không giữ được. Còn tiền thì còn vợ còn con, không tiền thì vất vưởng chèo queo ngoài đường. Sự đời là thế. Chỉ có Tình Yêu của Chúa là tồn tại đến muôn ngàn đời. Tình Yêu của Ngài cho ta Hạnh Phúc thật sự. Tình Yêu của Ngài rất nhiệm mầu cho ta biết tìm kiếm một Nơi cao trọng hơn là thế gian này.

Thế mới biết khi ta Tuyệt Vọng vì đã thất bại trên đường đời lại là lúc Chúa Giêsu Hiện Đến, Đồng Hành, và Ở Cùng chúng ta mãi mãi trên con đường Emmaus thân thương luôn dẫn đưa ta đến một nơi chốn có thật nhiều Hy Vọng và Hạnh Phúc. Emmaus là con đường sẽ dẫn đưa tất cả con cái của Chúa đến Quê Hương Yêu Thương là Quê Trời Nơi có Ba Ngôi Thiên Chúa, Mẹ Maria, các Thiên Thần, các Thánh, cùng cả Triều Thần Thiên Quốc trông đợi và đón chờ.

Tôi cũng như hai ông Tông Đồ là còn nghĩ đến Chúa trong lúc Tuyệt Vọng và sầu khổ không biết nương tựa vào ai? Và kìa Chúa đã không bỏ tôi và thuyết phục cho tôi hiểu là Ngài đã Phục Sinh để tôi được cứu rỗi và Sống Muôn Đời. Trên con đường Emmaus, tôi đã may mắn tìm thấy và gặp được những khuôn mặt dịu dàng của Chúa. Họ đã giúp tôi thấy và nhận ra được Chúa trong từng anh chị em. Tốt cũng như xấu. Giầu cũng như nghèo. Và đây là một trong những khuôn mặt khả ái của Chúa đã giúp tôi tìm gần tới Chúa của tôi và tôi không còn thấy anh chị em của mình là xa lạ nữa! Để thấy cuộc đời là Hạnh Phúc và là Thiên Đàng nằm rất gần trong tay vói của tôi ngay trên trần gian này.

Tông Đồ Đắc Lực Của Chúa

Người có biết!?
Tôi thương mến người ở điểm nào không?
Tôi thương mến người vì người có tấm lòng vàng.
Tôi thương mến người vì người không quản ngại,
Dãi dầu mưa nắng với tấm lòng bác ái của người.

Tôi quen biết người nay cũng đã khá lâu.
Không việc gì nhờ người giúp đỡ mà người từ chối.
Người đã vì anh chị em bất hạnh và khốn khổ bên quê nhà.
Không sáng nào tôi không thấy người đi ngang qua,
Tay cầm bao bị đi lượm từng ống lon trong những thùng rác,
Hôi hám dơ dáy bẩn thỉu và thối tha.

Tấm thân người đen đủi theo ngày năm tháng,
Do đi lượm lon không bỏ sót một ngày nào.
Trên miệng người luôn nở nụ cười chào hỏi.
Tôi phải thán phục vì người rất kiên nhẫn và kiên trì.
Dù ngòai trời có mưa tầm tã sấm sét dữ tợn,
Người cũng trong chiếc áo mưa vẫn rất đúng giờ,
Không bỏ sót một ống lon nào mà người không lượm.

Tôi thương mến người vì người rất mẫu mực siêng năng và cần mẫn.
Dù ngòai trời nắng có chang chang, cháy da, và không một chút gió,
Người vẫn khoan thai tiến bước miệng vẫn vui vẻ húyt gió.
Vẫn bao bị, vẫn một con đường quen thuộc,
Vẫn vì mục đích cao cả vì tình yêu thương anh chị em,
Người vẫn vui vẻ thỏa mãn với những ống lon người tìm kiếm được.
Trong mồ hôi, trong cơ cực, và đôi khi cả trong nước mắt.

Vì người biết người đang làm việc cho Chúa và vì Chúa.
Những ống lon của người lượm được trong một ngày,
Có thể sẽ lo cho Chúa được một bữa ăn gọi là tạm no.
Sẽ lo cho Chúa được vài viên thuốc cảm.
Sẽ lo cho Chúa được một đôi dép.
Sẽ lo cho Chúa được một ít lương thực khô cầm chừng.
Một ít đồ dùng cá nhân rất cần thiết vì cuộc sống,
Của Chúa rày đây mai đó không có nơi nương tựa,
Không có chỗ cho Chúa gối đầu.

Tôi rất khâm phục ở tấm lòng của người.
Tuy cuộc sống hằng ngày của người chỉ vừa đủ.
Người luôn cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho người.
Tuy gia đình không được dư giả nhưng rất hạnh phúc.
Không gì hạnh phúc hơn khi người được Hồng Ân Thiên Chúa,
Luôn ban cho người và gia đình có thời giờ và sức khỏe.
Để người đem hạnh phúc rất khiêm nhường đến cho anh chị em.

Người vẫn cố gắng thực thi những điều Thiên Chúa dậy:
”Kính Chúa và yêu người như yêu chính mình”.
Nhưng đối với tấm lòng của người tôi thấy người còn hơn,
Cả điều Chúa dậy là người thương yêu anh chị em và
Đem niềm vui, no ấm, đến cho mọi người còn hơn lo cho chính mình.
Người không cần biết khi người ra đi từ giã cõi tạm trần gian này,
Người sẽ được Chúa dẫn đến nơi đâu!?
Nhưng hiện giờ người chỉ biết xả thân sống cho anh chị em,
Từng giờ, từng phút, từng cuộc gặp gỡ khi người có cơ hội.

Thiên Đàng hiện giờ của người là cố gắng đem niềm an ủi,
Chia sẻ đến cho những anh chị em cần sự giúp đỡ của người.
Cuộc sống hằng ngày của người xem chừng giản dị lắm!?
Hạnh phúc của người là muốn thấy được anh chị em vui vẻ yêu đời.
Người thường xuyên cho họ. ...
Từ một nụ cười xem ra chẳng đáng chi!?
Những câu nói đùa xem ra chẳng lợi ích gì!?
Những câu an ủi nghe có vẻ mủi lòng!?
Những món quà rất thiết thực xem chừng như rất nhỏ bé!?

Dầu tất cả những điều tốt lành và rất tình người này,
Người đã, đang, và mãi luôn cố gắng thực hiện,
Dưới mắt thiên hạ xem chừng như chẳng đáng để tâm.
Nhưng tôi biết tấm lòng của người luôn đối với anh chị em,
Là bát nước đầy, là tất cả những gì người có thể chia sẻ,
Là tất cả những gì người hy vọng và cố gắng,
Làm được cho anh chị em của mình,
Ngay bây giờ, và mãi mãi trong những ngày tháng tới.

Tôi biết người là một vị ân nhân của rất nhiều người,
Nhưng hầu hết những người được người giúp đỡ,
Họ chưa từng bao giờ được hân hạnh hoặc có cơ hội gặp người,
Để cám ơn, để tỏ lòng biết ơn, người ân nhân của mình.
Người là một Tông Đồ rất đắc lực rất nhiệt tâm của Chúa.
Người là một Tông Đồ làm việc rất âm thầm rất lâu năm.
Người là một Tông Đồ rất nhiệt thành và nhiệt tình.
Người là một Tông Đồ của những người bất hạnh.

Cảm tạ Chúa đã ban cho tất cả anh chị em chúng con,
Có được Những Con Người có tấm lòng vàng và bác ái như người.
Họ là những Tông Đồ làm việc rất âm thầm không ai hay.
Họ là những Tông Đồ nhiệt thành và có trái tim giống Chúa.
Họ là những Tông Đồ quên mình mà chỉ nghĩ đến anh chị em.
Họ là những Tông Đồ không cần được những lời khen tặng.
Họ là những Tông Đồ thấy Chúa trong tất cả anh chị em.

Nguyện xin Chúa luôn luôn gìn giữ những Tông Đồ Khả Ái của Chúa, để làm Tấm Gương Sáng cho chúng con noi theo và bắt chước, dù cuộc đời ngày lại ngày của chúng con có bận rộn và có vất vả để kiếm từng miếng ăn. Nhưng suy nghĩ cho tận cùng thì Tất Cả những điều chúng con đang tìm kiếm cũng không nuôi dưỡng và giúp ích được gì cho Linh Hồn đời đời của chúng con trong một thế giới mà con người không bao giờ Thỏa Mãn được những điều mình đã, đang, và sẽ có, nếu chúng con không có Trái Tim giống Chúa, Amen.
 
Mười tư tưởng đơn sơ về Nhân Bản và Đạo Đức mỗi tuần
LM Nguyễn Vinh Gioang
13:47 05/04/2008
Mười tư tưởng đơn sơ về Nhân Bản và Đạo Đức mỗi tuần (26)

251. Lời Chúa đầy ích lợi

Lời Chúa đi khắp nơi. Lời Chúa vào tận đầu giường người bệnh, lọt vào trong những gia đình đang sầu khổ, thấm vào tận đáy lòng những ai đang lo lắng.

Lời Chúa mang đến những câu trả lời, đặt lên những câu hỏi mới, đánh thức và thúc giục tâm hồn của những người thiện chí.

Lời Chúa đem lại nguồn vui, sự bằng an và niềm hy vọng cho tất cả chúng ta, những người đang nhọc nhằn lê bước trên cuộc đời đen tối đầy thử thách và sóng gió nầy.

252. Hạng người nào dễ phạm tội hơn?

Hạng người nào cũng dễ phạm tội, nhưng đặc biệt, hạng người thanh niên nam nữ thì dễ phạm tội hơn.

Những người thanh niên nam nữ giống như những con tàu đang trôi nổi trên biển cả mênh mông, đầy sóng gió hiểm nguy.

Những sóng gió hiểm nguy nầy, đối với họ, là những đam mê bồng bột và mù quáng luôn sôi sục trong con người của họ, là những bạn bè xấu nết luôn tìm cách dẫn đưa họ đến chỗ phạm tội, là những hoàn cảnh xã hội suy đồi đang bao quanh họ khắp nơi, và nhất là ma quỷ luôn quyết dùng mọi thủ đoạn để nhận chìm tuổi tươi đẹp và quan trọng của họ.

Các linh mục quản xứ, trong đời sống mục vụ và loan báo Tin Mừng của mình, hãy lo để ý nhiều nhất đến hạng người thanh niên nam nữ nầy.

253. Lửa và người phụ nữ

Người phụ nữ giống như ngọn lửa: nếu tốt, ngọn lửa sẽ rọi sáng trong đêm tối để soi đường cho người ta đi, đem lại ấm áp trong lúc trời lạnh giá, mang đến cơm bánh ngon lành nuôi sống người ta; trái lại, nếu xấu, ngọn lửa sẽ đốt cháy nhà cửa, thiêu rụi rừng cây, phá tan mùa màng làm cho người ta chết đói.

Phụ nữ tuyệt vời biết bao, nhưng cũng lại tai hại dường nào! Vì thế, việc giáo dục các thiếu nữ và thanh nữ là điều hết sức quan trọng.

254. Người phụ nữ được so sánh với con ốc sên, tiếng dội và chiếc đồng hồ

Vài năm trước khi bị ám sát chết, trong một cuộc diễn thuyết cho giới phụ nữ tại Calcutta, Gandhi nói rằng:

- “Có ba điều mà một người phụ nữ vừa phải giống nhưng vừa phải khác.

Người phụ nữ phải giống như con ốc sên, luôn luôn chôn mình trong nhà, nhưng cũng đừng như con ốc sên mà giữ chặt những gì mình có, xây lưng lại với tất cả.

Người phụ nữ phải giống như tiếng dội, chỉ trả lời khi có ai hỏi, nhưng cũng đừng như tiếng dội mà luôn luôn cho mình phải có tiếng nói cuối cùng.

Người phụ nữ phải giống như chiếc đồng hồ đặt nơi công trường, bảo đảm đúng giờ một cách điều đặn, nhưng cũng đừng như chiếc đồng hồ mà rộn ràng, làm điếc tai cả thành phố.”

255. Đạo Công giáo là Đạo Tin Mừng, Đạo Tin Vui

Theo sự nhận xét của thánh Phanxicô Salêxiô, người nào làm môt điều lành mà làm cách vui vẻ, thì người đó như thể làm hai điều lành.

Như vậy, sự vui vẻ làm tăng thêm giá trị của công việc ta làm. Cũng giống như câu sau đây: ai cho một cách vui vẻ, kẻ đó như thể cho hai lần.

Chúng ta luôn luôn cố gắng vui vẻ trong lời chúng ta nói, trong việc chúng ta làm. Lý do là vì Đạo chúng ta là đạo Tin Mừng, đạo Tin Vui.

256. Nghiêng chiều xấu trong con người chúng ta là điều rất nguy hiểm

Theo sách Talmud, nghiêng chiều xấu, đối với chúng ta, trước hết là một vị khách qua đường, tiếp đó là một vị khách trọ, cuối cùng là một ông chủ.

Nghiêng chiều xấu rất nguy hiểm: giống như đinh đóng càng sâu, nhổ ra khó vô cùng.

Chúng ta hãy quyết liệt dứt bỏ những nghiêng chiều xấu, những thói quen xấu khi thấy chúng vừa xuất hiện nơi chúng ta, nơi con cái chúng ta, nơi học trò chúng ta. Chúng ta hãy bắt chước người làm vườn cần mẫn và khôn ngoan: khi phát hiện cỏ cú vừa lú lên là cúp ngay vì để lơ nó một vài ngày thì nó đâm rễ sâu xuống đất rất mau và khó mà trị nó được.

257. Quả đất nầy không thể nào biến thành thiên đàng được

Quả đất của loài người chúng ta, dù đẹp đẽ đến đâu mặc lòng, dù quyến rũ đến đâu đi nữa, cũng chỉ là một nơi nhỏ hẹp, thiếu thốn, không bao giờ biến thành thiên đàng được.

Quả đất là nơi đầy đau khổ (sinh, lão, bệnh, tử…), nơi đầy phỉnh gạt (hứa thật nhiều mà đem lại quá ít, hoặc không đem lại được gì cả), nơi không có hạnh phúc lâu dài (chia ly, vĩnh biệt, tê tái).

Nếu không có thiên đàng sau cuộc sống trần gian nầy, cuộc sống của loài người chúng ta trên quả đất nầy thật là vô nghĩa: như con vật, chết là hết, như nhà tù, vào mà không ra được, như con đường cụt, không có lối thoát.

258. Hoa Hường tượng trưng cho nhân đức trong sạch

Màu trắng của hoa hường tượng trưng cho sự đoan trang, nết na.

Gai của hoa hường nói lên sự ý tứ hãm mình để gìn giữ cuộc đời trong sạch, khỏi mọi xâm phạm.

Mùi hương của hoa hường xông lên trời nói lên đời sống phải sống làm sao cho đẹp lòng Chúa.

259. Điều tệ hại nhất cho một dân tộc là dân tộc đó không nhận được một sự giáo dục cân xứng và xứng đáng

Xã hội tốt đẹp khi nền giáo dục tốt đến với công dân.

Gia đình hạnh phúc khi con cái được chăm sóc ân cần.

Giáo Hội lan rộng khi đoàn chiên được dạy dỗ ngày đêm.

Chúng ta cầu xin cho nền giáo dục ngày càng đẹp thêm.

260. Không ai yêu đời bằng người công giáo

Các giá trị trên đời nầy được người công giáo yêu như một con đường dẫn họ đến với Chúa: khi sử dụng và hưởng dùng các sự vật trên đời nầy, họ tìm gặp Chúa.

Các giá trị trên đời nầy được người công giáo yêu như một tặng vật Chúa biếu cho họ: khi sử dụng và hưởng dùng các sự vật trên đời nầy, họ luôn cám ơn Chúa.

Các giá trị trên đời nầy được người công giáo yêu như một người cọng tác giúp họ đi lên tới Chúa: khi sử dụng và hưởng dùng các sự vật trên đời nầy, họ càng yêu mến Chúa.

Người công giáo yêu đời rất đúng hướng. Và như vậy, không ai yêu đời bằng người công giáo.
 
Đấng Kitô phải đau khổ, chết và sống lại vinh quang
LM. Phêrô Trần Thế Tuyên
17:52 05/04/2008

GIÁO LÝ PHÚC ÂM CHÚA NHẬT 6.4.2008:

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH NĂM A



(Công Vụ Tông Đồ 2:14, 22-28; Thư I của Thánh Phêrô 1:17-21 và P. Luca 24:13-35)

Sứ Điệp Phúc Âm:

Đấng Kitô phải đau khổ, chết và sống lại vinh quang đúng như Kinh Thánh Cựu Ước đã mô tả.



Câu hỏi giáo lý

1. Kitô nghĩa là gì?

Tiếng Anh: Christ; Tiếng Pháp: Christ; Tiếng La-tinh: Christus. Tất cả được dịch từ tiếng Hy Lạp: Christos. Christos dịch từ tiếng Do Thái Mashiah, có nghĩa “Đấng được xức dầu” Trong Kinh Thánh Cựu Ước “Đấng được xức dầu” dùng để chỉ các vua, các tư tế, các tổ phụ. Đặc biệt để tiên báo về một Vị Cứu Tinh đến từ dòng dõi David. Mashiah là hy vọng và sự đợi trông của Dân Do Thái (Sách Samuel quyển II 7:5-16; Sách Niên Sử 17:4-14; Thánh Vịnh 89:20-38).

2. Sách Công Vụ Tông Đồ là gì?

Công vụ Tông Đồ (Acts of the Apostles): công việc truyền đạo của các Tông Đồ. Trong tiếng La-tinh Công Vụ gọi là Acta, có nghĩa công việc đang tiến hành hay một ghi nhận những biến cố đang xảy ra (proceedings or record of happenings)

Công Vụ Tông Đồ là quyển sách ghi lại công việc truyền đạo của các Tông Đồ sau khi Chúa lên trời, khởi đầu từ Giêrusalem. Đây cũng là quyển sách mô tả đời sống Giáo Hội sơ khai: bị bách hại, nhưng người tin Chúa mỗi ngày thêm đông. Truyền thống cho rằng Luca, môn đệ của Thánh Phaolô là tác giả của Sách Công Vụ Tông Đồ được viết khảng năm 63 khi Thánh Phaolô bị cầm tù ở Rôma.

3. Tại sao hai môn đệ nhận ra Chúa chỉ khi “Chúa đồng bàn và bẻ bánh trao cho họ?’

Hai môn đệ về làng Ê-mau không là tông đồ, không ở trong nhóm mười hai tham dự Bữa Tiệc Ly

và đã nhìn thấy Chúa bẻ bánh. Nhưng họ lại “nhận ra Chúa khi bẻ bánh!” Họ nhận ra Chúa, vì Chúa cho học nhận ra Ngài lúc đó, hay nói theo từ ngữ Phúc Âm là “mắt họ liển mở ra”. Cũng giống như Bà Maria Mađalêna, khi thấy Chúa sống lại mà cứ ngỡ là người làm vườn, cho đến khi Chúa gọi “Maria” thì Bà mới nhận ra Chúa và gọi “Ráp-bu-ni” nghĩa là ‘lạy Thầy!’ (Gioan 20:15-16).

Áp Dụng:

1. Bà Trần thị Kim Vân năm nay đã 72 tuổi. Lễ Phục Sinh năm nay, lần đầu tiên bà quay lại nhà thờ sau gần 40 năm “thề không tin Chúa và theo đạo!”. Bà nguyên là một nữ sinh có tài, có sắc và lớn lên trong một gia đình Phật giáo nề nếp. Bà đã theo đạo để lấy người chồng Công Giáo mà bà rất mực yêu thương. Bà bất chấp khó khăn và cả cả sự ruồng bỏ của gia đình để sống chung thủy với chồng..

Nhưng không ai ngờ, chính người chồng Công Giáo nầy đã bỏ rơi bà với 4 đứa con thơ để đeo đuổi và chung sống với một người đàn bà khác. Cái lạ ngoài sức tưởng tượng của bà là bên nhà chồng bà, gia đình Công Giáo gốc lại tán đồng và bênh vực chuyện chồng bà bỏ bà. Bà căm thù và thề không tin Chúa và không theo đạo.

Qua hai lần tiếp xúc với một linh mục bà nhận ra: Người theo đạo Công Giáo không luôn là người theo Chúa. Bà được linh mục hướng dẫn đọc Phúc Âm về Chúa Phục Sinh. Chúa sống lại mang sự sống mới. Sự sống không có hận thù, chết chóc và đau khổ. Bà chôn mọi thứ vào mồ quá khứ và đi dự lễ Mừng Chúa Phục Sinh thật sốt sắng. Bà sống lại với sự sống mới! Alleluia

2. Ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta được gọi là Kitô hữu, người được xức dầu, người mang danh Chúa Kitô, người biến mình thành một Kitô khác. Có khi nào chúng ta đã là một Kitô hữu mà lại làm cho người ta bỏ đạo, thề không tin Chúa và không theo đạo hay không? Nhiều khi Kitô hữu mà lại làm người khác ghét Chúa Kitô?
 
Mỗi ngày một câu chuyện (dành cho trẻ em)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:12 05/04/2008
HẰNG NGA LÊN CUNG TRĂNG

N2T


Hậu Nghệ bắn tên rớt mười mặt trời thì bị thiên đế trừng phạt vĩnh viễn không được trở về thiên đình. Vợ của ông ta là thiên thần Hằng Nga cũng bị biếm xuống làm người phàm, lại còn chịu đựng đau khổ sinh bệnh lão tử của nhân gian, do đó mà Hằng Nga thường báo oán Hậu Nghệ sao quá ngu đần.

Một hôm, Hằng Nga nói với Hậu Nghệ: “Quái thần Tây vương mẫu trên núi Côn Lôn, có chôn một chai linh dược trường sinh bất tử, ông mau đi lấy đem về !” Vì để làm vui lòng vợ, quả thật Hậu Nghệ đã đi đến núi Côn Lôn và nhìn thấy tướng mạo đáng sợ của Tây vương mẫu. Tình yêu chân tình đối với vợ đã làm cảm động Tây vương mẫu, ông ta lấy linh dược trở về rất thuận lợi. Hằng Nga biết được thuốc này chỉ một người dùng là có thể lên trời thành thần tiên, bèn len lén uống thuốc sạch, nhưng chỗ bà ta lên là nguyệt cung lạnh lẽo chứ không phải là thiên đình, Hằng Nga hối hận thì đã muộn, bởi vì bà ta cũng không thể rời khỏi nguyệt cung.

(Đông Hán, Trương Hoành: Linh Huệ)

Gợi ý:

Trần gian này, vì là đời tạm, nên không có gì là tồn tại mãi mãi, ngay cả mạng sống của con người, có giỏi chăng là sống đến...vài trăm tuổi, rồi thì cũng chết, do đó mà chuyện uống thuốc trường sinh bất tử để sống lâu cùng vũ trụ.

Tuy nhiên, người Ki-tô hữu luôn xác tín rằng: thân xác này sẽ chết và trở về với tro bụi, nhưng linh hồn thì đúng là bất tử, bất tử để được hạnh phúc với Thiên Chúa trên thiên đàng, hoặc bất tử để bị phạt đời đời trong hỏa ngục. Cho nên chỉ có một vị duy nhất có thể cứu chúng ta khỏi chết đời đời, đó là Chúa Giê-su, Đấng đã chết trên thánh giá và đã sống lại, chính Ngài đã ban tặng cho chúng ta đức tin để chúng ta được sống đời đời. Đức tin làm cho chúng ta được sự sống đời đời, qua việc tin và thực hành Lời Chúa, qua việc tham dự các bí tích mà Chúa Giê-su đã lập ra, nhất là bí tích Thánh Thể và bí tích Hòa Giải.

Thiên đàng là nơi hạnh phúc đời đời, mà Thiên Chúa đã dành cho những người khi còn sống ở trần gian này biết yêu mến và thực hành Lời Chúa, biết yêu thương và phục vụ tha nhân...

Các em thực hành:

- Luôn nhớ quê hương thật của mình là ở trên trời.

- Yêu mến Chúa Giê-su Thánh Thể và luôn thực hành lời Chúa dạy.

- Luôn cầu nguyện với trước mặt Chúa Giê-su Thánh Thể.
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:13 05/04/2008
N2T


14. Lương thực mà chúng ta ăn là để nuôi dưỡng thân thể chúng ta, bí tích Thánh Thể là để nuôi sống linh hồn chúng ta. Bởi vì giống như lương thực biến thành một phần thân thể của chúng ta, bí tích Thánh Thể đem chúng ta biến thành Chúa Giê-su Ki-tô.

(Thánh John of Toulouse)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
ĐGH Biển Đức cho biết Ly dị và Phá thai là “tội nặng”
Đức Long
10:20 05/04/2008
ROMA - Thứ Bảy 05/04/08, ĐGH đánh giá rằng ly dị và phá thai là phạm “tội nặng” đối với “chính Thiên Chúa”, Ngài mời gọi Giáo Hội “ hãy gần gũi với lòng yêu thương” đối với những người “bị tổn thương” bởi những sự kiện này.

“Đánh giá luân lý của Giáo Hội về vấn đề ly dị và phá thai là phân minh và thấu đáo: nghĩa là mắc phải tội nặng, vi phạm phẩm giá con người, kéo theo sự bất công sâu sắc trong quan hệ người và quan hệ xã hội, xúc phạm đến Thiên Chúa, là Người đảm bảo cho ký ước vợ chồng và Đấng tác thành sự sống”, ĐGH nói như vậy.

ĐGH nói với những người tham dự hội nghị công giáo về hôn nhân gia đình tại Tòa Thánh Vatican.

Tuy nhiên ĐGH nhắc lại rằng “Giáo Hội luôn có những trường hợp cụ thể”. Khi mắc phải những tội này, “ họ đau đớn vì vết thương” trong tâm hồn, nên họ “đi tìm kiếm sự tham thản”.

ĐGH cam đoan rằng “Giáo Hội có bổn phận gần gũi và lòng yêu thương, sự khéo léo đối với những người như vậy”.

“Ly dị và phá thai là những chọn lựa (…) chín chắn trong những tình thế khó khăn và nguy kịch, đó là nguồn mạch đau đớn sâu thẳm đối với những người phải đưa ra quyết định, nó tác động đến những nạn nhân vô tội: đứa trẻ bị giết trong thai nhi, khi chúng chưa chào đời, trẻ em bị ảnh hưởng bởi ly dị”, ĐGH kết luận.

(Nguồn: La Croix 05/04/08)
 
Một Linh Mục Chính Thống Giáo bị ám sát tại trung tâm thanh phố Irắc.
Đức Long
10:22 05/04/2008
Bagdad - Ngày thứ Bảy hôm nay (5/4/2008) một Linh mục Chính Thống Giáo bị ám sát bởi những kẻ lạ mặt ngay tại trung tâm thành phố Bagdad, nguồn tin an ninh Irắc cho biết.

Những kẻ lạ mặt trang bị vũ khí đi trên xe ôtô và bắn vào vị linh mục khi Ngài ra khỏi nhà, ở trung tâm khu phố Karrad, nguồn tin giấu tên cho biết.

Vị linh mục chết do một phát đạn, sự cố xảy ra vào lúc 12 giờ địa phương (09 h00 GMT), sau đó những kẻ sát nhân bỏ trốn.

Yousef Adel là linh mục thuộc Giáo Hội Chính Thống, Ngài coi sóc giáo xứ Thánh Phêrô nằm ở khu phố Karada.

Người tín hữu Irắc luôn là mục tiêu của bạo lực, bắt cóc, sát nhân, tấn công bằng bom đạn của những kẻ nổi loạn dòng Chiite cũng như dòng Sunni, chống phá các Giáo Hội. Các Kitô hữu ở đây luôn bị họ tố cáo tiếp tay cho “ kẻ xâm lược thập tự chinh”.
 
Tòa Thánh lên tiếng về kinh nguyện mới cầu cho người Do thái
LM Trần Đức Anh OP
10:38 05/04/2008
VATICAN - Hôm 4-4-2008, Tòa Thánh minh xác rằng công thức mới của kinh nguyện cầu cho người Do thái vào thứ sáu Tuần Thánh không hề thay đổi lập trường của Giáo Hội Công Giáo đối với người Do thái đã được công đồng chung Vatican II cải tiến.

Thông cáo của Tòa Thánh khẳng định rằng: ”Sau khi công bố kinh nguyện mới cầu cho người Do thái, dành cho sách lễ Roma ấn bản năm 1962, có một số thành phần Do thái trên thế giới bày tỏ bất mãn vì coi văn bản kinh nguyện ấy không hòa hợp với những tuyên bố và tuyên ngôn chính thức của Tòa Thánh về người Do thái và niềm tin của họ, đánh dấu sự tiến bộ trong quan hệ thân hữu giữa người Do thái và Giáo Hội Công Giáo trong 40 năm qua.”

Tòa Thánh cam đoan rằng công thức mới của kinh nguyện cầu cho người Do thái, thay đổi một số thành ngữ trong sách lễ năm 1962, tuyệt đối không có ý biểu lộ một thay đổi nào trong thái độ của Giáo Hội Công Giáo đã được phát triển đối với người Do thái, nhất là từ đạo lý của Công đồng chung Vatican 2, đặc biệt là Tuyên ngôn ”Nostra aetate”. Tuyên ngôn này, theo những lời của ĐTC Biển Đức 16 trong buổi tiếp kiến dành cho các vị Rabbi trưởng của Israel ngày 15-9-2005, đã đánh dấu ”một cột mốc trên con đường hòa giải giữa các tín hữu Kitô đối với dân tộc Do thái”.

Thông cáo nói thêm rằng: ”Đàng khác, thái độ liên lỷ trong Tuyên ngôn 'Nostra aetate' đã được nêu bật do sự kiện kinh nguyện cầu cho Người Do thái trong sách lễ năm 1970 vẫn hiện hành và là hình thức bình thường của kinh nguyện Công Giáo. Văn kiện công đồng, trong bối cảnh những lời khẳng định khác - về Kinh Thánh (Dei Verbum 14), và về Giáo Hội (Lumen Gentium 16) - trình bày các nguyên tắc cơ bản đã và đang nâng đỡ hiện nay các quan hệ thân hữu quí trọng, đối thoại, yêu thương, liên đới và cộng tác giữa các tín hữu Công Giáo và Do thái. Khi cứu xét mầu nhiệm Giáo Hội, Tuyên ngôn ”Nostra aetate” nhắc nhớ mối liên hệ tinh thần rất đặc biệt giữa Dân Tân Ước với dòng dõi Abraham và loại bỏ mọi thái độ coi rẻ và kỳ thị đối với người Do thái, mạnh mẽ lên án bất kỳ hình thức nào bài Do thái.”

”Tòa Thánh mong ước rằng những minh xác trong Thông cáo này góp phần làm sáng tỏ những hiểu lầm, và tài khẳng định ước muốn mạnh mẽ mong có thêm những tiến bộ trong sự cảm thông và quí chuộng lẫn nhau giữa người Do thái và Kitô trong tương lai”.

Lời kinh thay đổi được ĐTC cho công bố ngày 5-2-2008, được đọc từ ngày 21-3-2008 trong sách lễ bằng tiếng latinh ấn hành năm 1962, như sau:

“Chúng ta hãy cầu nguyện cho người Do Thái. Xin Thiên Chúa là Chúa chúng ta soi sáng tâm trí họ để họ nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ tất cả mọi người.. . Lạy Thiên Chúa toàn năng và vĩnh cửu, Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý, xin khấng ban cho toàn thể Israel được cứu độ, cùng với toàn thể các dân tộc gia nhập Hội Thánh của Chúa”.

Phản ứng về tuyên ngôn trên đây của Tòa Thánh, Rabbi Jack Bemporad người Mỹ tuyên bố hài lòng và nói rằng: ”Theo ý tôi, lời kinh mới không là gì khác hơn là phải giải thích như một kinh nguyện cứu thế”. Tuy nhiên Rabbi Riccardo Di Segni của cộng đoàn Do thái ở Roma tuyên bố không hài lòng, vì ông nói: điều mà chúng tôi muốn Tòa Thánh tuyên bố là Giáo Hội không cầu nguyện cho người Do thái trở lại hoặc ít là hoãn lại ước muốn đó cho đến tận thế hay là để tùy thuộc ý muốn của Thiên Chúa”. (SD 4-4-2008)
 
Quyền lợi của cá vị không thể biện minh cho chủ nghĩa cá nhân
Bart. Phan Trần Thái, SDB
13:18 05/04/2008
GENEVA - Tổng Giám mục Silvano Tomasi, Quan Sát Viên thường trực của Tòa Thánh tại cơ quan của Liên Hiệp Quốc tại Geneva, đã đưa ra lập khẳng định trên trong bản kiến nghị của mình tại phiên họp thường kỳ lần thứ bảy của Ủy Ban Nhân Quyền LHQ diễn ra tại thành phố này từ ngày 3 đến 28 tháng 3 vừa qua. Trong bài phát biểu này, Đức Tổng giám mục Silvano Tomasi đã mời gọi các thành viên cùng nghiên cứu một “điểm xuất phát chung” cho vấn đề nhân quyền dựa trên nền tảng nhân vị và phẩm giá.

Tuy nhiên, ngài cũng nhấn mạnh rằng việc chú tâm vào mỗi nhân vị không thể là sự biện minh cho chủ nghĩa cá nhân. Mỗi cá vị không thể trở nên như mình đáng là nếu không có mối tương quan với người khác. Tiến trình tương quan này xuất phát trước tiên từ “gia đình tự nhiên”. Theo TGM Silvano Tomasi, mỗi quyền lợi đều tương ứng với một trách nhiệm, và chúng không thể bị tách rời. Chính trong sự hỗ tương giữa quyền lợi và trách nhiệm và trong việc tìm kiếm thiện ích chung mà các cộng đồng được hình thành và được gìn giữ.

Như thế - vị đại diện Tòa Thánh tiếp tục khẳng đinh - vấn đề hệ tại ở việc cống hiến một môi trường phù hợp, trong đó mỗi cá vị có thể triển nở và không bị kỳ thị. Nhìn từ nhiều góc cạnh khác nhau, tự do tôn giáo vẫn là một biểu tượng cho kiểu môi trường sống này, một môi trường có khả năng nâng đỡ mỗi cá nhân và cả cộng đồng.

Cũng trong dịp này, Đức TGM Silvano Tomasi mời gọi các thành viên cùng bàn thảo dựa trên hai vấn đề chính: 1) Cách thức nào để nguồn gốc của quyền lợi của cá vị, như được thể hiện trong Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền, bảo đảm ích lợi cộng đồng trên thực tế. 2) Cách thức nào để việc tìm kiếm thiện ích chung, bao gồm các quyền lợi kinh tế, văn hóa, dân sự, xã hội..., có thể là mục tiêu của sự phát triển trong quyền con người.

Được biết Ủy Ban Nhân Quyền LHQ trực thuộc Đại Hội Đồng LHQ. Mỗi năm thực hiện ít nhất 3 cuộc họp kéo dài tất cả ít nhất 10 tuần. Nếu có sự yêu cầu của 1/3 số thành viên, có thể triệu tập thêm các cuộc họp ngoại thường. 47 thành viên của Ủy Ban được bầu từ Đại Hội Đồng LHQ, với đa số phiếu tuyệt đối, cho một thời kỳ 3 năm, và không thể được tái bầu nếu đã là thành viên của nhiệm kỳ liên tiếp. Các ứng viên cho Ủy Ban này phải là những quốc gia có những hoạt động dấn thân tự nguyện trong lãnh vực nhân quyền. Ủy Ban có nhiệm vụ hình thành một cơ chế hoạt động hầu có thể giám sát tình hình nhân quyền ở tất cả các quốc gia thành viên LHQ và hoạt động của mọi quốc gia trong lãnh vực nhân quyền.

(Nguồn: Báo Osservatore Romano 5-3-2008 và trang web http://www.eda.admin.ch/eda/it/home/topics/human/humri/humun.html)
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Thanh niên Công giáo giáo xứ Thanh Xuân đi làm sứ giả Tin Mừng
Lm Giuse Bạch Kim Tri
13:36 05/04/2008
PHAN THIẾT - Vào ngày Chúa nhật Lòng Chúa thương xót, 53 anh chị em giới trẻ thuộc nhóm Thanh Niên Nhiệt Thành GX Thanh Xuân, Giáo phận Phan Thiết chọn Đami Bình Thuận, nơi có những “Giáo điểm trên cao” để làm “sứ giả Tin Mừng Phục Sinh”, đem chút thương, tí vui đến cho bà con nghèo trong vùng. Đami nơi có nhiều người nghe nhưng ít người thấy, có nhiều người mói nhưng ít người thực hiện. Đây là một chuyến đi ý nhgĩa tình người cho người đi và người tiếp nhận.

Hưởng ứng lời mời gọi của Đức Thánh Cha trong sứ điệp mùa chay năm nay với mục đích làm việc bác ái và làm phúc, Cha phó đặc trách giới trẻ kêu gọi bà con trong xứ tiết kiệm, góp quà giúp người nghèo, đây lại vừa tạo dịp để giới trẻ làm việc phúc. Điều mà ít ai ngờ, là nhờ thế mà tinh thần sống mùa chay trong xứ được hâm nóng cách lạ thường. Nhà nhà hô nhau gom lọc đồ, một số bà mẹ tự nguyện rỉ tai quyên góp tiền kẻ nhiều người ít. Còn Thanh niên hồ hởi nhiệt thành rảo khắp xứ để nhận quà giúp của bà con. Không khí đặc biệc nhộn hẳn lên trong những ngày đầu Tuần Thánh và tuần Bát Nhật Phục Sinh. Số đồ vượt ngoài dự tính nên chúng tôi phải thêm xe thứ hai.

7 giờ sáng ngày thứ bảy 29/ 03/ 2008 trứơc đài Đức Mẹ, nhóm thanh niên nhiệt thành đồng phục áo xanh dưới sự hướng dẫn của Cha phó, đọc kinh xin ơn bình an và chào Cha Chính xứ. Trên đường nhóm ghé toà giám mục thăm Đức Ong Tổng Đại Diện cựu quản xứ và chụp hình lưu niện cùng cha quản lý.

Đường lên Đami không xa (120 Km) nhưng rất vất vã vì lắm đèo dốc, đá gốc lởm chởm. Đúng 12 giờ trưa chúng tôi đặt chân tại giáo họ La Dày, trong sự tiếp đón nồng hậu của Thầy Sáu Phêrô Nguyễn Châu Linh và ban điều hành Giáo họ. Sợ chúng tôi lạc đường Thầy cho người ra đón chúng tôi từ xa. Buổi chiều cùng ngày, nhóm đi thăm hai Giáo họ xa hơn là Đakim I và Đakim II. Được gặp gỡ bà con trước và trong hai Thánh lễ Chúa nhật, ai trong chúng tôi cũng cảm động trước cái cảnh nghèo và tấm lòng mộc mạc đơn sơ của người dân miền sơn cước.

Phần quà chúng tôi gởi lại nơi Thầy sáu để chuyển cho bà con khó khổ, gồm người kinh lẫn người dân tộc ở sâu tít trong núi cách La dày nơi chúng tôi dừng chân khoảng độ 6 - 7 Km.

Tối về bà con các họ lân cận kéo đến nhà nguyện Ladày để giao lưu cùng chúng tôi trong một chương trình văn nghệ bỏ túi “tuỳ hứng”. Sau đó những đứa con theo “Lạc Long Quân và nàng Au Cơ tìm gặp lại”, đan kết thân mật, nối thành một vòng tay lớn, hùng tráng tấu bài ca nhạc Trịnh. An tượng thay cái cảnh vai bên vai, tay trong tay hoà thấm trong không khí se lạnh của vùng núi rừng về khuya !

10 giờ sáng Chúa nhật hôm sau chúng tôi chia tay trở về miền xuôi, qua ngã đường khác gần hơn, khó đi hơn. Đường ngang qua núi Đức Mẹ Tàpao lúc 14giờ, nhóm dừng chân, sau cơm trưa nhóm cùng nhau lên núi, sốt sắng quì quanh Thánh Tượng, dâng kính Mẹ những lời kinh tạ ơn. Tạ ơn về một chuyến đi bình an với nhiều hoa trái thánh thiêng gặt về.

ĐÔI ĐIỀU GHI NHẬN:

Xin quay về lời tựa: “những sứ giả của Tin Mừng Phục Sinh ”. Ai là sứ giả ? Trao Tin Mừng gì ?

1. Mượn ý của một tác giả nói về niềm vui Phục Sinh: “Chúa Giêsu đã Phục Sinh để sống một cuộc sống mới. Ngài sẵn sàng ban cho chúng ta thông phần vào khả năng trao tặng nhau những cuộc sống mới”. Nhóm bạn trẻ Công giáo chúng tôi hẳn chưa làm được gì lớn lao để gọi là “trao cuộc sống mới”. Một hiện diện thân tình, một chút quà mà cái công cái lòng lớn hơn hiện vật, một trung gian của sự cảm thông chia sẻ, những cố gắng vượt núi băng rừng.. . tí vui, chút tình ấy đã giúp cho bà con nhận thấy “lòng Chúa thương xót” qua những sứ giả nhân danh Ngài, sứ giả của tình thương yêu.

2. Những sứ giả khác: Để có được Đami ngày nay với 5 giáo họ Đaguri, Đatro, Ladày, Đakim I, Đakim II, cùng những đổi mới, phải kể đến những “sứ giả” vất vả dọn đường, dày công gầy dựng.

- Cha Gioan Nguyễn Văn Hảo hiện là Cha xứ GX Phước An, thời còn là chính xứ Ma Lâm, Ngài đã có nhiều hành trình tìm con chiên lạc. Chẳng nề ngại khó, bất chấp mưa gió đường trơn trượt, thăm hỏi nơi nào nhà nào có tượng Chúa, tượng Đức Mẹ Ngài tìm đến. Lúc đó đường xá ở đây chỉ là những lối mòn suối dốc hiểm trở. Công Cha đã qui tụ, lập thành hình các giáo họ. Tuỳ nơi Ngài dâng lễ một hay hai tháng một lần cho bà con giáo hữu.

- Kế tục là Cha Phaolô Hoàng Kim Tốt, Ngài cũng cố và giúp mua thêm đất để mở rộng nhà nguyện cho các giáo họ, nơi cử hành Thánh lễ của các giáo điểm thời ấy chỉ là một chòi lá hay vĩ hè nhà một giáo dân nào đó.

- Hiện nay Đami có nhiều phúc đổi mới: lần đầu tiên có Cha xứ, có Thầy và hai cộng đoàn Nữ tu MTG Phan Thiết sống với họ. Cha quản xứ đương nhệm Fx.As Nguyễn Đức Quang vị mục tử khiêm tốn, đạo đức hết lòng vì người nghèo và đàn chiên. Cha chịu khó chạy xin khắp nơi vừa giúp bà con nghèo, vừa sửa lại các ngôi nhà nguyện rách nát.

Đáng thương nhất cho người dân vùng này là nỗi khó khăn, thiếu thốn về văn hoá và y tế. Thấy được điều đo, Cha Fx đã xây một lưu xá cạnh trường cấp II cách Ladày 20 Km. Có gần 60 em học sinh được Cha giúp các khoảng ăn – ở – học. Mỗi đầu tháng Thầy tu hội chở các em về thăm nhà một lần. Đặc biệt xe tải nhỏ này cũng là phương tiện cấp cứu cho nhiều ca nguy tử trong thôn xã. Thường đã giúp là giúp “trọn gói”. Không ít lần Thầy phải “thương giùm” cho nhà thương phần viện phí cấp cứu của họ.

- Chia sẻ gánh vác với Cha Fx có Thầy Sáu Phêrô Nguyễn Châu Linh, bạn cùng khóa 6 ĐCV Sài Gòn với tôi, Thầy đã chờ đợi 3 năm nay... Ngoài việc thường xuyên thăm viếng bà con lương giáo, Thầy cùng Cha xứ đã sửa mới lại 3 ngôi nhà nguyện, dù vẫn còn rất khiêm tốn (trống vách). Trong lời giới thiệu đầu Thánh lễ Chúa nhật II Phục Sinh Thầy nói: “ Có lẽ tôi kém đạo đức hơn anh nên đến nay tôi vẫn chưa được lên bàn Thánh”. Ngậm ngùi sau lời nguyện Hiệp lễ, tôi đáp lại bằng tâm tình cùng bà con đang rất quí mến thầy: “ Chính Đức Kitô là quà tặng là hồng ân cho nhân loại, Thầy Sáu sống hoà nhập, cùng chia sẻ cảnh khó ghèo, vất vã với QBACE, Thầy nên quà tặng, là hồng ân Chúa thương ban cho cộng đoàn các Giáo họ miền núi này. Thầy cũng noi gương Đức Kitô hy sinh rất nhiều vì anh chị em và cho anh chị em. Thầy là sứ giả Tin Mừng Phục Sinh, là khí cụ của Chúa giúp đổi mới đời sống và lòng đạo của bà con.. .”. Một thoáng cầu nguyện và cảm thông với người anh em, tôi nghĩ Thầy vui nhận sứ vụ trên vùng cao, vùng xa này, nhất là xa cái “biết rất cần” của mọi người dành cho Thầy. Tương lai không thuộc về chính mình, không tạo được cho mình nhưng là của Chúa. Thầy đang ở trên cao, cao hơn chúng tôi, nên “gần Chúa” hơn chúng tôi. Có thể chăng người sau hết sẽ nên trước hết trong mắt Chúa.

“Chúa đã ban cho chúng ta thông phần vào khả năng trao tặng nhau những cuộc sống mới”. Chúng tôi những “sứ giả” đã cùng Chúa, nhờ Chúa đem chút thương tí vui góp phần bé nhỏ làm mới cuộc sống và tình thần cho anh chị em nghèo. Thật một chuyến đi đã chở nhiều hoa trái trở về.
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Cương quyết không làm công dân hạng nhì!
Bs Vũ Linh Huy
13:23 05/04/2008
Cương quyết không làm công dân hạng nhì!

Cương quyết không để cộng sản
coi người công giáo là công dân hạng nhì
và dưới hạng nhì!


Cộng sản xử ta dưới hạng nhì,
Với bao chèn ép lẫn khinh khi,
Nưả thế kỷ nay đà quá đủ,
Dân Thánh Chuá ơi, dậy mà đi!

Cộng sản vu ta theo giặc Tây,
Theo chân Mỹ Nguỵ, tội ác đầy,
Còn chúng thì đi theo dân tộc,
Giải thoát nhân dân khỏi đoạ đày!

Đó là lập luận rất điêu ngoa,
Thuở xưa giáo dân ít lắm mà,
Chúng ta có nước đâu để bán,
Vua quan Nhà Nguyễn bán nước ta!

Cộng sản lợi dụng dân tộc thôi,
Khi lòng yêu nước đang sục sôi,
Đẩy bao thế hệ vào cõi chết,
Để cho cộng sản được lên ngôi!

Một khi cộng sản nắm trọn quyền,
Bèn theo Mao, Xít, Mác, Lê-nin,
Lộ mặt hại dân và bán nước,
Ai dám kêu ca, xiết cổ liền!

Chúng ta may mắn có Miền Nam,
Tự do, Dân chủ hai mươi năm,
Chế độ dù có nhiều khuyết điểm,
So cùng cộng sản tốt gấp trăm!

Công giáo Việt Nam luôn tri ân,
Trăm ngàn chiến sĩ đã hiến thân,
Giữ vững Miền Nam bao năm đó,
Để ta thăng tiến gấp nhiều lần.

Công giáo Việt nam cũng tự hào,
Bảo vệ Miền Nam góp công lao,
Sát cánh cùng mọi người yêu nước,
Giữ vững non nông, giúp đồng bào.

Ta không có gì phải tự ti,
Thành tích chống cộng rất đáng ghi.
Cộng sản bán nước, ta yêu nước,
Được, vua; thua, giặc, có xá gì!

Đừng để cộng sản hạ nhục ta,
Rằng ta lạc lối, chúng dẫn ra!
Cộng sản mới là phường phản nước,
Mới cần tạ tội với Ông Bà.

Công giáo, dân tộc vẫn đồng hành,
Với lòng yêu nước rất chân thành,
Chẳng cần "nhận lỗi" cùng cộng sản,
Chẳng cần theo gót lũ nhặng xanh!

Tự do, bình đẳng ta quyết đòi,
Dưạ trên nguyên tắc rất rạch ròi:
Mọi người bình đẳng trước pháp luật,
Dù tổng bí thư cũng vậy thôi!

Boston, ngày 4 tháng 4 năm 2008
 
Liên Đoàn CGVN Hoa Kỳ
Tòa Án Hôn Phối Trong Thiên Niên Kỷ Mới
LM Phêrô Ngô Công Thắng
13:12 05/04/2008
Tòa Án Hôn Phối Trong Thiên Niên Kỷ Mới

Giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo nhấn mạnh hôn nhân Công Giáo là một Bí Tích, một biểu tượng của sự hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài. Là một giao ước thánh của đời sống và tình yêu, hôn nhân thật thiết yếu cho người Công Giáo. Giáo Hội bảo vệ và thăng tiến những quyền lợi căn bản của mỗi người Công Giáo.

Chúa Giêsu trao quyền xét xử cho Giáo Hội, như thế, vị giám mục trong giáo phận có bản quyền phán xét theo phương diện Giáo Luật, gồm cả Bí Tích Hôn Phối. Tòa Án Hôn Phối đươc Giáo Luật ủy quyền cho mỗi giáo phận trong Giáo Hội.

Giáo Hội Công Giáo đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống người tín hữu. Không có gì lạ lùng khi người chồng hoặc người vợ bất trung với người bạn đời và đi dan díu với một người khác; sự đổ vỡ của những cuộc hôn nhân có bí tích đã trở thành một việc thông thường hơn trong Giáo Hội. Với ảnh hưởng lan rộng vào từng nền văn hoá và sự tiến bộ về kỹ thuật, sự hiểu biết về tự do cá nhân giúp con người ngày nay ý thức hơn rằng ý niệm ly thân, ly dị và sự tuyên bố hôn nhân vô hữu hiệu là những lựa chọn có thể xảy ra.

Nhiều người bây giờ đang đặt những câu hỏi như, “Người Công Giáo có được ly dị không?” “Ly dị và tuyên bố hôn nhân vô hữu hiệu khác nhau như thế nào?” “Tuyên bố hôn nhân vô hữu hiệu có thể xẩy ra không khi người nam và người nữ kết hôn trong Giáo Hội?” “Phải giải thích như thế nào về đoạn Kinh Thánh, ‘Sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân ly’?” “Giáo Hội có quyền tuyên bố một hôn nhân vô hữu hiệu không?” “Tòa Án Hôn Phối là gì?” “Có phải việc tuyên bố hôn nhân vô hữu hiệu sẽ trở thành một tập quán phổ thông trong thiên niên kỷ mới không?”

Vì sự sụp đổ của đa số các hôn nhân, ly dị đã trở nên thông thường hơn. Sự kiện con số người Công Giáo ly dị càng gia tăng đã khiến các giám mục và các linh mục phải nghĩ ra những phương pháp để ứng phó vấn đề cứu xét khá nhiều hồ sơ gởi đến các Tòa Án Hôn Phối.

Giáo Hội phải làm gì để đem lại ích lợi nhất cho cộng đồng dân Chúa, cách riêng cho những ai đang ở trong hoàn cảnh khó khăn này, bằng phương thế nào tốt nhất. Nhiều giám mục giáo phận đang tự hỏi, “Trong hoàn cảnh thực tế của giáo phận tôi, đang thiếu linh mục và thiếu những nhân viên được huấn luyện chuyên nghiệp để làm việc này, tôi phải làm gì để phục vụ dân Chúa cho tốt hơn?”

Trong phạm vi một trang không thể nào đề cập hoàn hảo đề tài nói trên. Những ngày tới đây, Ủy Ban Giáo Luật sẽ phổ biến nhiều đề tài liên quan đến Tòa Án Hôn Phối và Hôn Nhân (hữu hiệu/vô hữu hiệu) qua mạng lưới của Liên Đoàn Công Giáo tại Hoa Kỳ.
 
Sống Đạo, Nên Thánh và Rao Giảng Tin Mừng Trong Năm Thánh Phaolô
LM Nguyễn Khắc Hy, S.S.
13:16 05/04/2008
Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ

Sống Đạo, Nên Thánh và Rao Giảng Tin Mừng Trong Năm Thánh Phaolô (2008-29.6-2009)

Cùng với lời kêu gọi của Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam (LĐCGVN) hải ngoại, tiếp nối tinh thần Sống Đạo, Nên Thánh và Rao giảng Tin Mừng được gợi ý bởi Tôi Tớ Thiên Chúa Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, LĐCGVN đang chuẩn bị những gợi ý cụ thể, thực tế và dễ áp dụng trong đời sống để giúp giáo dân thực hiện những ước vọng trên.

Những gợi ý của Liên Đoàn Công Giáo cũng không gì hơn là chuyển tải những đề nghị của Hội Thánh qua ngôn ngữ và phong cách Việt Nam để tín hữu hiểu và áp dụng vào đời sống theo linh đạo của Hội Thánh một cách thiết thực hơn.

Nói cách khác, Giáo hội hoàn vũ luôn quan tâm đến đời sống đạo của từng Kitô hữu trên toàn thế giới, nhưng những hướng dẫn chung cũng cần được cắt nghĩa và áp dụng trong đời sồng thực tế của từng cá nhân theo từng hoàn cảnh cụ thể.

Nhận biết nhiều mạng lưới thông tin hiện đại đang làm công tác truyền đạt những tin tức cần thiết của Giáo hội hoàn vũ và cập nhật những giáo huấn của Hội Thánh cách hoàn hảo, đồng thời từng Giáo hội địa phưong (Giáo phận) cũng có những hướng dẫn chung trong đời sống đạo của tín hữu, tuy nhiên LĐCGVN vẫn nhận ra tính hữu ích của những đóng góp việc cổ động Sống Đạo, Nên Thánh và Rao Giảng Tin Mừng cho mọi Kitô hữu Việt Nam nơi hải ngoại.

Ngoài những khu vực có nhiều người Công giáo VN định cư còn có nhiều cộng đoàn VN không có được đáp ứng mục vụ thích hợp với những nhu cầu trong đời sống tâm linh của giáo dân vì những trở ngại hoặc vì Văn hoá, hoặc vì ngôn ngữ.

Trong tinh thần đó, LĐCGVN cố gắng là phương tiện giúp Kitô hữu hiểu được những mong muốn của Giáo hội hoàn vũ, giúp các cộng đoàn hiệp thông để hỗ trợ nhau trong đời sống đạo, và giúp chúng ta đóng góp thêm cho bản sắc của Giáo hội đa văn hoá tại địa phương đặc nét của người Công giáo Việt Nam trên đất Hoa Kỳ.

Nội Dung:

LĐCGVN sẽ phổ biến và cổ động lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI dịp kỷ niệm 2000 năm sinh nhật của Thánh Phaolô Tông Đồ.

Năm Thánh Phaolô được mừng kính từ ngày 29 tháng 6 năm 2008 đến 29 tháng 6 năm 2009 nhằm kêu gọi mọi Kitô hữu học hỏi và sống lời Chúa theo gương Thánh Phaolô.

LĐCGVN cũng tìm cách giới thiệu linh đạo của Tôi Tớ Thiên Chúa, Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đến với đồng bào Việt Nam và nước ngoài.

Phương Thức:

• LĐCGVN sẽ cố gắng gởi đến mọi cộng đoàn những đề nghị thực tế trong đời sống đạo bằng những gợi ý cụ thể hằng tháng.
• Sẽ có gợi ý tài liệu để giáo dân có thể học hỏi thêm về Thánh Phaolô.
• Sẽ thu thập những tài liệu về thần học, kinh thánh, linh đạo và lịch sử liên quan đến đề tài học hỏi về Thánh Phaolô cho giáo dân tham khảo.
• Kêu gọi đóng góp những bài viết chia sẻ về cảm nghiệm hay công tác mục vụ phản ánh qua giáo huấn hay đời sống Thánh Phaolô.
• Kêu gọi các bạn trẻ, đặc biệt các em Thiếu Nhi Thánh Thể, đóng góp những bài viết liên quan đến đời sống đạo của các em là những người gốc Việt Nam sống tại Giáo hội điạ phương Hoa Kỳ (sẽ có hướng dẫn cụ thể cho các em tham gia thi viết).
• Trong nỗ lực vận động xin tiến trình phong Chân phước cho Tôi Tớ Thiên Chúa Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, LĐCGVN cũng muốn có những đóng góp của mọi người trong kinh nghiệm sống theo linh đạo của Hồng Y Nguyễn Văn Thuận.

Hi vọng những cố gắng nhỏ của Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam sẽ giúp chúng ta Sống Đạo, Nên Thánh và Rao Giảng Tin Mừng một cách thiết thực hơn.

hnguyen@stmarys.edu
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Làng Quê Tôi
Nguyễn Đăng Khoa
00:14 05/04/2008

LÀNG QUÊ TÔI



Ảnh của Nguyễn Đăng Khoa, Giáo phận Vinh Việt Nam.

Xanh rờn bãi mía nương khoai

Ruộng đồng bát ngát, bóng ai chập chờn..

Làng thôn vẫn ở trong hồn

Lũy tre xanh ấy sói mòn ao xanh.

(Trích thơ của Việt Hoài Phương)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền