Ngày 01-04-2011
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:58 01/04/2011
TẤT QUẢN BÚT
N2T

Có một thời thịnh hành mốt “tất quản bút”, loại bít tất này rất hẹp, ôm rất sát ống chân nên giống như cái quản bút vậy, người xưa gọi như thế.
Có người đi mua bít tất, đổi nhiều lần mà vẫn cứ quá rộng, về sau, người chủ tiệm nói:
- “Nếu ngài muốn hợp ý, sao lại không đi tìm thợ sơn ?”
Người mua bít tất không hiểu gì cả, bèn hỏi nguyên nhân. Chủ quán trả lời:
- “Không cần mang bít tất, chỉ cần sơn trắng hai ống chân, chẳng lẽ không kỳ diệu hay sao ?”

Suy tư:
Ngày xưa mang bít tất chật thì người ta gọi là cái quản bút; ngày nay mang bít tất cùng màu với màu da là mốt đời mới, mang bít tất dài tới bắp vế thì được coi như là con người hiện đại; mang áo ngắn ngang ngực là được coi như là người của thời đại…
Có những người thích mang bít tất rộng tức là lương tâm rộng, có những người thích mang bít tất hẹp, tức là lương tâm hẹp. Lương tâm rộng thì không coi trọng những chi tiết nhỏ nhặt nên dễ dàng khiến họ phạm tội mà không biết, vì như thế là đùa với lữa; lương tâm hẹp là những người ngay cả một chi tiết nhỏ nhặt cũng xét nét cố chấp, nên họ khó mà thực hành đức ái với tha nhân trong cuộc sống của mình, bởi vì đức ái thì không câu nệ những chi tiết…
Không có bí tất chật thì –ý kiến của chủ tiệm- lấy sơn mà sơn cổ chân của mình.
Cũng vậy, có nhiều người không có lương tâm hẹp cũng như không có lương tâm rộng, nên họ -nghe lời của tên cám dỗ là ma quỷ- dung vẻ bên ngoài để đánh lừa người khác: dùng dáng đạo mạo để lừa những người già cả, dung những lời lẽ hoa mỹ để lừa những người trẻ, dung những hành vi than thiện để đánh lừa những người nhẹ dạ cả tin.v.v…
-----------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
04:00 01/04/2011
N2T

19.

Tội là sự phản bội Thiên Chúa.

(Thánh Thomas Aquinas)
 
Hãy sống như con cái sự sáng
Lm Jude Siciliano, OP
06:12 01/04/2011
CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY A

1 Samuel 16: 1b, 6-7, 10-13a; Tv 23; Ep 5: 8-14; Ga: 9: 1-41

Từ xa xưa Giáo hội đã chọn ba bài tường thuật thú vị từ Tin Mừng Gioan để đọc trong các Chúa nhật thứ ba, thứ tư và thứ năm Mùa Chay. (Chúng xuất hiện trong các bài đọc năm A này). Hôm nay, chúng ta đọc bài thứ hai,trích từ chương 9, tường thuật việc chữa lành người mù bẩm sinh.

Các bài đọc trích từ Tin Mừng Gioan được chọn vì trong suốt mùa này bởi vì chúng ta có những anh chị em đang chuẩn bị lãnh nhận Phép Rửa và những đoạn văn cũng thích hợp cho anh chị em tân tòng sẽ được rửa tội vào đêm Vọng Phục Sinh. Tuy nhiên, các bài đọc còn giúp tất cả chúng ta suy ngẫm về căn tính của mình là những Kitô hữu đã được thanh tẩy trong thế giới này.

Khi lắng nghe các bài tường thuật, chúng ta sẽ để ý thấy chúng dài hơn các đoạn văn theo Tin Mừng Matthêu, Maccô và Lucca thường đọc trong các Chúa Nhật. (Tôi có thể dùng các bản văn dài hơn và chứ không phải bài ngắn hơn như đã chọn. Tác giả Gioan đã viết những đoạn tường thuật đầy sức thuyết phục và sẽ không công bằng nếu chia nhỏ bài tường thuật vì lợi ích trước mắt). Trong các trình thuật đầy đủ hơn này, thánh Gioan mời chúng ta vừa quan sát xem người ta đến với niềm tin thế nào, vừa cùng với họ lớn lên trong sự nhận biết thâm sâu rằng đối với chúng ta Đức Giêsu là ai. Như nói ở cuối Tin Mừng, thánh Gioan đã viết như thế là để “anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Messia, con Thiên Chúa để nhờ tin mà anh em có sự sống nhờ danh Người”. Hôm nay, qua câu chuyện về người mù bẩm sinh, một lần nữa chúng ta có dịp gặp gỡ riêng tư với Đức Giêsu và cảm nghiệm sự hiểu biết sâu xa về Người ngay giây phút này trong cuộc đời chúng ta.

Trong trình thuật, phép lạ chữa lành người mù diễn ra cách nhanh chóng. Đức Giêsu tiến tới, bôi vào mắt anh mù thứ bùn làm từ nước miếng nhổ xuống đất và bảo anh đi rửa ở hồ Silôác. Anh làm theo và nhìn thấy được. Nhưng đó chỉ mới là khởi đầu. Trong Kinh thánh, cái thấy của thể lý là biểu tượng cho cái thấy của tinh thần – là đức tin. Như thư gửi cộng đoàn Êphêxô hôm nay diễn tả, “anh em là những người mù, nhưng giờ được sáng mắt trong Thiên Chúa”. Qua cái chết, Đức Giêsu đã tiêu diệt các quyền lực của tử thần. Đức tin đã mở mắt chúng ta; bây giờ chúng ta nhìn thấy và được mời gọi để “sống như con cái sự sáng…”.

Chúng ta để trong suốt câu chuyện xem đức tin của người mù tiến triển ra sao. Nó là manh mối giúp đào sâu đức tin của mỗi chúng ta. Người mù đã được chữa lành là hình ảnh cho thời điểm chúng ta mới tin. Không thể thấy rõ ràng ngay được. Cái nhìn mới của anh phải triển nở và sau khi được soi sáng trong nước thanh tẩy, cái nhìn của chúng ta cũng phải như thế.

Hảy để ý cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu và các môn đệ ở đầu câu chuyện. Các ông hỏi Người, “Thưa Thầy, ai đã phạm tội, người này hay cha mẹ anh ta?” Vào thời đó dân chúng cho rằng những thứ bệnh tật hay bất cứ đau khổ gì cũng là hậu quả của tội. Người ta hay đưa ra kết luận như thế khi bệnh tật hay những thảm kịch đến với họ. Họ nói đại loại như: “có thể tôi đã làm sai điều gì đó nên Chúa mới phạt tôi”. Thật khó mà phấn đấu vượt qua những lúc khó khăn, ít nhiều lúc đó cũng nghĩ rằng Thiên Chúa là nguyên cớ của những đau khổ nơi chúng ta. Với phép lạ của Người, đặc biệt câu chuyện hôm nay, Đức Giêsu cho thấy Thiên Chúa liên luỵ với chúng ta trong những khó khăn, những ưu phiền và niềm khát khao hạnh phúc. Sự soi sáng của Tin Mừng hôm nay chất vấn chúng ta, “quý vị có thấy không? Quý vị có tin rằng nếu gặp thấy Đức Giêsu trong niềm tin, thì quý vị cũng có thể nhận thấy bàn tay chữa lành Chúa chạm đến quý vị?”

Thánh Gioan đưa vào câu chuyện những hình ảnh và cách diễn tả quen thuộc của Kitô giáo giúp chúng ta “thấy” Đức Giêsu là ai. Chẳng hạn hành động Đức Giêsu bôi bùn lên mắt người mù và kế đó, việc rửa sạch ở hồ, làm sáng mắt anh – tất cả muốn ám chỉ Phép Thánh Tẩy.

Khi anh mù được sáng mắt, những người đi theo Đức Giêsu lập tức kiểm chứng lòng tin của anh. Thánh Gioan miêu tả tiến trình thử thách mà người thanh niên trải qua. Bắt đầu là những người đến xem; sau đó, các Pharisiêu chất vấn anh (bọn họ đe doạ trục xuất anh khỏi hội đường); cuối cùng gặp lại Đức Giêsu và Người hỏi anh câu cuối cùng và quan trọng nhất: “Anh có tin vào Con Người không?” Người thanh niên trả lời: “Thưa Ngài, tôi tin”. Đó là lời tuyên xưng đức tin quan trọng như chúng ta có được trong Giao Ước Mới.

Khi còn trẻ, hay mới theo đạo, không ai trong chúng ta nương theo đời sống đức tin chúng ta được nhận lãnh. Cuộc sống đưa ra quá nhiều thử thách và chúng ta được hỏi đi hỏi lại trong suốt thời gian bị thử thách: “Anh có tin vào Con Người chăng?” Những lúc bị chất vấn, chúng ta trả lời như người thanh niên đã đáp lại khi Đức Giêsu đặt câu hỏi tương tự, “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Chúng ta gặp Đức Giêsu một lần nữa ở mỗi chặng đường quan trọng trong cuộc sống của chúng ta.

Khi chúng ta trưởng thành, Đức Giêsu khơi lên hơn cho chúng ta những đức tính phong phú và mới mẻ. Đôi lúc chúng ta cần Người chỉ lối cho những quyết định khó khăn mang tính sống còn. Những lúc khác, chúng ta trở về với Người để chữa lành những khoảnh khắc đổ vỡ của chúng ta. Sau thời gian lầm đường lạc lối chúng ta quay về với Người và nài xin ơn tha thứ. Đối diện với những bất công, chúng ta cần sức mạnh của Người để làm điều ngay chính; khi bệnh hoạn hay tuổi già sức yếu, chúng ta cần Người ban sức mạnh để bước tiếp hành trình… Hơn một lần chúng ta từng hỏi, “Đấng đó là ai, thưa Ngài? (hay, Ngài là ai vậy?) để tôi tin?” Câu trả lời trong chúng ta gặp gỡ với Người là “Anh đã nhìn thấy Đấng ấy và người đang nói với anh đây”. Tại một thời điểm mới trong hành trình đức tin, chúng ta có thể tuyên xưng, như anh mù đã tuyên xưng lúc gặp lại Đức Kitô, “Thưa Ngài, tôi tin.” Đó là một hành vi đức tin quan trọng mà chúng ta có thể thực hiện.

Có lạ không khi mà cha mẹ của người mù bối rối trước tình trạng mới và được chữa lành của anh? Thánh Gioan nói với chúng ta rằng, họ sợ giới cầm quyền có thể trục xuất họ khỏi hội đường. Nhưng họ cũng phải nhận biết rằng điều gì đó phi thường đã xảy ra cho con của họ và giờ đây anh ta có thể tự mình nói về điều đó – ngay cả với những chuyên gia, các nhà cầm quyền tôn giáo. Có những lúc chúng ta không thể cậy nhờ nơi người khác để tìm ra những lời giải đáp hay khuôn mẫu về Đức Giêsu. Khi trưởng thành, chúng ta đón nhận sự chỉ dẫn của đức tin, tuy nhiên, những thách thức trước mắt chúng ta là phải được chuẩn bị để nói gì về cảm nghiệm đức tin của chúng ta – vì đó là điều độc đáo và không ai có thể giống chúngg ta.

Chúng ta đã nhận được ánh sáng, chúng ta được rửa sạch ở giếng rửa tội và vì thế chúng ta có sẵn sàng chia sẻ về những gì đã xảy đến cho chúng ta – như anh mù đã làm. Chúng ta phải sẵn sàng để giải thích đơn giản và cụ thể về Đức Giêsu đối với chúng ta và niềm tin vào Người đã làm nên những khác biệt gì cho cuộc sống của chúng ta. Khi anh mù xác nhận người đã chữa lành với các lãnh đạo tôn giáo, thì lời giải đáp của anh đã khiến anh trở thành kẻ dị hợm trước mắt họ và “họ trục xuất anh”. Có những hậu quả dành cho việc can đảm làm chứng về Đức Giêsu là ai và những gì Người thực hiện cho chúng ta.

Người thanh niên khởi đi từ cảnh mù loà, nhờ Đức Giêsu, anh bắt đầu thấy. Khi anh bị chất vấn và thử thách, câu trả lời của anh về Đức Giêsu ngày càng trở nên sâu sắc và sáng suốt hơn. Trước tiên, anh ám chỉ tới “người gọi là Giêsu”. Rồi anh nói với những người Pharisêu, “Ông ấy là ngôn sứ”. Sau đó, anh nói với họ rằng Đức Giêsu chắc chắn đến từ Thiên Chúa và cuối cùng anh tuyên xưng niềm tin trọn vẹn vào chính Đức Giêsu. Anh đi từng bước, từ đêm tối qua ánh sáng, khi anh gặp thách thức và chống đối.

Theo thánh Gioan, tin vào Đức Giêsu dường như không đơn giản. Niềm tin ấy không chỉ là đưa ra một tín điều. Những gì chúng ta tuyên xưng vào Đức Giêsu, thì phải được thực hiện trong cuộc sống của mình. Khi bị nhạo báng, nghi ngờ và chống đối chúng ta không được phản lại điều chúng ta tin – không có sức mạnh hay quyền lực to lớn nào ngăn cản được chúng ta.

Chúng ta không kiếm được niềm tin. Chúng ta không thể làm nó lớn lên. Nhưng trình thuật nói với chúng ta rằng không chịu thử thách thì có thể niềm tin bị đe doạ và yếu đi. Ngược lại, trong sự nỗ lực thực sự, Đức Kitô tìm kiếm chúng ta để thêm sức và củng cố niềm tin của chúng ta vào Người. Người đã làm điều đó cho anh mù và cả cho chúng ta nữa.

Một lời về bài đọc thứ nhất, xét từ những biểu dấu hiệu bên ngoài, Đavít khó được chọn lãnh đạo dân Israel của Đức Chúa. Ông không nổi bật nhất trong số anh em ông; là đứa con út, nhỏ nhất trong gia đình, đang chăm sóc đàn cừu mà cha ông không nghĩ cần phải gọi về; vậy mà, ngôn sứ Samuel có thể nhận ra ông. Tuy nhiên, Đức Chúa chọn người yếu đuối và nhỏ bé để khiến chúng ta bẽ mặt và nhắc chúng ta chỉ nơi Chúa mới là nguồn sức mạnh, quyền năng và ân sủng. Đức Chúa thấu suốt tận đáy lòng Đavít và thấy ông sẵn sàng tuân phục đường lối và sức mạnh của Đức Chúa. Vì vậy, bất cứ ai cũng không có thể nào nhầm lẫn được rằng sức mạnh của Đavít đến từ Đức Chúa.

Chuyển ngữ Anh Em HV Đaminh Gò Vấp

4th SUNDAY OF LENT (A) -

1 Samuel 16: 1b, 6-7, 10-13a; Psalm 23; Ephesians 5: 8-14; John 9: 1-41

From ancient times the church has chosen three great narratives from John’s Gospel for the third, fourth and fifth Sundays of Lent. (They appear in our current A cycle readings.) Today we have the second narrative, from John 9, the healing of the man born blind.

This set of readings from John is chosen because, during this season, we have people preparing for Baptism and the passages are appropriate for those being initiated into the faith will be baptized at the Easter Vigil. But the readings also help us all reflect on our identity as baptized Christians in the world.

As we hear these narratives we can’t help but note how much longer they are than our usual Sunday passages from Matthew, Mark, and Luke. (I would use the longer versions and not the shorter clipped options. John has written powerful narratives and it would do them an injustice to slice them up for the sake of brevity.) In these fuller narratives John invites us to both observe how people come to faith and then to grow along with them into a deeper appreciation of who Jesus is for us. As he says at the end of his gospel, John has written so that, "you may believe that Jesus is the Messiah, the Son of God and that through this belief you may have faith in his name" (20:31). Today, with the example of the man born blind, we have another opportunity for a personal encounter with Jesus and to experience a deeper knowledge of him for this moment of our lives.

The miraculous healing of the blind man comes quickly in the narrative. Jesus goes over to the him, anoints his eyes with the mud made from his saliva and tells him to wash at the Pool of Siloam. He does and gains his sight. But that’s just the beginning. To receive physical sight in the Scriptures is a symbol for gaining spiritual sight–faith. As the Letter to the Ephesians puts it today, "You were once darkness, but now you are light in the Lord." Through his death Jesus has destroyed the powers of darkness. Faith has opened our eyes; now we see and are called to, "Live as children of light...."

We will note throughout the story how the man’s faith grows. It will be a clue to our own deepening in faith. The blind man’s healing represents the first moments of faith for all of us. Fuller sight doesn’t come immediately. His new sight must grow and, after being enlightened in baptismal washing, so must ours.

Notice the exchange between Jesus and his disciples at the beginning of the story. They asked him, "Rabbi who sinned this man or his parents?" The popular belief at the time was that sickness, or any affliction, was the result of sin. People still tend to draw the conclusion when sickness or tragedy hits them. They say things like, "I must have done something wrong because God is punishing me." It’s difficult enough to struggle through hard times, much less to be thinking that God is the source of our troubles. By his miracles and, in particular, today’s story, Jesus reveals that God has joined us in our struggles and afflictions and desires our well-being. In light of today’s gospel we are asked, "Don’t you see? Don’t you believe that if you see Jesus in faith, then you can see the healing hand of God reaching out to you?"

John includes in his story familiar Christian images and language to help us "see" who Jesus is. For example: Jesus’ anointing of the man’s eyes and then the washing in the pool, bring sight to him – an allusion to Baptism.

When he receives his sight the man immediately has his faith tested by Jesus’ protagonists – and so do we. John describes the testing process the man undergoes. The onlookers start the process; then he is questioned by the Pharisees (they threaten him with expulsion from the synagogue); finally he meets Jesus again and Jesus puts the final and most important question to him: "Do you believe in the Son of Man." The man answers, "I do believe Lord." That’s as big a statement of faith as we get in the New Testament.

None of us coasts through life on the faith we had when we were young, or when we first converted. Life figures out too many ways to test us and, during those testing periods, we are repeatedly asked, "Do you believe in the Son of Man?" Each time we are asked we respond as the man did when Jesus asked the same question, "Who is he sir, that I may believe?" We meet Jesus anew at each important stage and milestone of our lives.

Jesus takes on newer and varied identities for us as we mature. Sometimes we need him for guidance for difficult life-altering decisions. Other times we turn to him for healing at our broken moments. After a period of wandering we return to him and ask his forgiveness. We face injustices and we need him as strength, so we can make things right. We are in failing health or we are aging and we need his strength to help us on our journey. Etc. More than once we also ask, "Who is he Sir (or, "Who are you sir) that I may believe?" His answer at the current point of our encounter with him is, "You have seen him and the one speaking with you is he." At a new point in our faith journey we can profess, as the blind man did at his later encounter with Christ, "I do believe Lord." And that too is about as big an act of faith as we can make.

Isn’t it curious that the blind man’s own parents are confused by his new, healed condition? John tells us they feared the authorities might expel them from the synagogue. But they must also recognize that something extraordinary has happened to their son and that he now can stand on his own and speak about it – even to the so-called experts, the religious authorities. There comes a point when we can’t rely on others to provide us with answers or formulas about Jesus. We receive instruction in our faith as we grow, but the challenge placed before us is that we must be prepared to speak out of our own faith experience – for it is unique and no two of us are exactly alike.

We have received sight, we have been washed at the baptismal pool and so we have to be ready to give our own accounting of what has happened to us – just as the blind man did. We must be prepared to put into plain and personal language who Jesus is for us and what difference our faith in him makes in our lives. When the blind man identified who cured him to the religious authorities his response put him at odds with them and "they threw him out." There are consequences for bold witnesses to who Jesus is and what he has done for us.

The man started in darkness and then, because of Jesus, he began to see. As he was questioned and challenged his response about Jesus grew more profound and insightful. First, he refers to "the man called Jesus." Then he tells the Pharisees, "He is a prophet." Later he says to them that Jesus must be from God and finally he confesses full faith to Jesus himself. He went stage by stage, from darkness to light, as he met challenges and opposition.

John is not making faith in Jesus sound easy. It’s not just quoting a creedal formula. What we profess about Jesus in our lives must be acted upon. When we meet ridicule, skepticism and opposition we cannot back down on what we believe–no matter the strength or authority of those opposing us.

We don’t earn our faith. We don’t make it grow. But the story tells us that we are not left on our own to face the challenges that might weaken or threatened our faith. Quite the contrary, in the very struggle Christ seeks us out to strengthen and confirm our faith in him. He did it for the blind man and he does it for us.

A word about the first reading. Judging from the usual outward signs, David was hardly the most obvious choice to lead God’s people Israel. He wasn’t the most outstanding of his brothers. He was his parents’ youngest son, of so little statue that his father didn’t think to call him in from tending the sheep so that Samuel might see him. But God chooses the weak and least likely to confound us and remind us just where the source of power, authority and grace lie–with God. God looked into David’s heart and saw it ready to submit to God’s guidance and authority. Thus, there would be no mistaking to anyone where David’s power came from–it was from God.
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:56 01/04/2011
CHÉM TRÊN MỘT CHÚT
N2T

Có một tử tù trước khi bị chém thì nói với đao phủ:
- “Đến nơi đồng ruộng, chém thì ông tùy tiện chém, nhưng tôi chỉ xin ông chém nơi chỗ phía trên cổ một chút”.
Đao phủ bèn hỏi tại sao.
Người tử tù nói:
- “Trên cổ của tôi có một cái mụn nhọt rất đau, nếu ông chém ngay đó thì tôi đau chịu chi thấu !”

Suy tư:
Chết rồi thì còn sợ đau gì nữa, đúng là lo bò trắng răng.
Có những người Ki-tô hữu không biết tội trọng nó tai hại đến mức nào, nên khi phạm tội trọng rồi mà vẫn cứ nhỡn nha nhỡn nhơ đi rước lễ, đi làm những việc thiện để được Chúa tha tội, mà không hề đi xưng tội của mình.
Tội trọng làm chết linh hồn của chúng ta, nghĩa là khi linh hồn -phạm tội trọng- đã chết rồi, thì không còn được hưởng những ơn sủng của Chúa nữa, dù cho họ đi yết kiến Đức Giáo Hoàng, dù cho họ đi viếng thánh địa, dù cho họ đem tất cả gia tài ra bố thí cho người nghèo, dù cho họ có hy sinh, dù cho họ xây dựng những nhà thờ to lớn, thì họ vẫn không được gì cả, bởi vì linh hồn đã chết rồi. Họ giống như người đã chết, không ăn được, không uống được, không nghe được, tóm lại là đã chết rồi thì chẳng còn hưởng thụ gì được nữa...
Chết rồi thì còn đau đớn gì nữa mà dặn dò xin xỏ. Cũng vậy, một khi linh hồn đã chết rồi thì không còn hưởng thụ gì ân sủng của Chúa nữa, chỉ có một cách duy nhất là khiêm tốn thống hối tội lỗi của mình, và xin Chúa thứ tha, rồi đi làm hòa với Chúa và với tha nhân trong bí tích Giải Tội, thì linh hồn sẽ được sống lại, và được hưởng những ơn lành của Chúa ban cho.
Nhớ nhé, phạm tội trọng thì linh hồn đã chết rồi đó.
-----------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:02 01/04/2011
N2T

20. Tội lỗi là sự hung ác lớn nhất, giả như Thiên Chúa có thể chết, thì tội lỗi có thể khiến cho Ngài chết.

(Thánh Bernard)
 
Mỗi tuần một ''Chuyện Rất Ngắn''
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:04 01/04/2011
GIÁO XỨ NGHÈO
Cha sở trông coi hai giáo xứ nhỏ trong thành phố, buồn buồn nói với thầy giúp xứ:
- “Cha nói với bề trên xin cho một thầy đến phụ giúp, nhưng thầy nào cũng chê xứ mình nghèo nên không muốn đến”.
Chúa Giê-su Ki-tô sinh trong cảnh nghèo hèn túng thiếu, đến những nơi ấy thì sẽ gặp được Ngài.
------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Một linh mục có thể bị khai trừ khỏi Dòng Maryknoll vì ủng hộ việc truyền chức cho phụ nữ
Bùi Hữu Thư
05:54 01/04/2011
Hoa Thịnh Đốn (CNS) – Bề trên tổng quyền của Dòng Maryknoll lưu ý cha Roy Bourgeois là ngài sẽ khởi sự thủ tục theo luật Giáo Hội để tìm cách khai trừ cha và xin được thế tục hóa cha trừ khi cha ấy bác bỏ niềm tin là các phụ nữ có thể được truyền chức làm linh mục Công Giáo.

Linh mục Edward Dougherty, bề trên tổng quyền của các linh mục và tu sĩ Maryknoll, lược trình các thủ tục nhà dòng sẽ áp dụng theo chỉ thị của các giới chức Vatican trong một lá thư lưu ý theo giáo luật được gửi cho cha Bourgeois ngày 18 tháng Ba.

Lá thư này buộc cha Bourgeois phải trả lời trong vòng 15 ngày sau khi nhận thư. Cha Bourgeois cho hãng thông tấn Catholic News Service hay là ngài nhận được thư này ngày 29 tháng Ba và hạn chót phải đáp lời là ngày 13 tháng Tư.

Một lưu ý theo giáo luật thông báo cho một người biết là họ đã vi phạm luật Hội Thánh. Giáo huấn của Giáo Hội dậy là việc truyền chức linh mục và phó tế được dành riêng cho nam giới, và giáo hội không có quyền truyền chức cho phụ nữ

Mike Virgintino, phụ trách giao tế và các sinh hoạt của Dòng Maryknoll, cho Catholic News Service hay ngày 30 tháng Ba là biện pháp đối với cha Dougherty được thi hành theo chỉ thị của các giới chức Tòa Thánh.

Ngài nói, nhà dòng đã liên tiếp tìm cách hoà giải giữa cha Bourgeois với Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin của Vatican là cơ quan điều hành các vấn đề liên quan đến giáo huấn của Hội Thánh từ năm 2008 mà không có kết quả gì.

Việc cha Bourgeois ủng hộ vần đề truyền chức linh mục cho phụ nữ dẫn đưa tới việc tự động bị “rút phép thông công” (latae sententiae) – năm 2008.

Kể từ khi cung cấp cho Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin những giải thích về niềm tin của cha trước khi bị rút phép thông công, cha Bourgeois nói ngài không nhận được thêm một tin tức gì khác của các giới chức Hội Thánh. Dòng Maryknoll cho hay trong một thông cáo rằng nhà dòng buộc phải ra chỉ thị theo luật giáo hội “với rất nhiều đau buồn.”
 
Truyện tranh mới về ĐTC Biển Đức XVI
Nguyễn Trọng Đa
07:34 01/04/2011
Truyện tranh mới về ĐTC Biển Đức XVI

San Rafael, California, Mỹ - Công ty Manga Hero, một công ty ở bang California sản xuất truyện tranh theo phong cách Nhật với các chủ đề Công giáo, sẽ cung cấp cho người tham dự Ngày Giới trẻ Thế giới một truyện tranh đặc biệt về cuộc đời của ĐTC Biển Đức 16, với nhan đề là "Habemus Papam!" (Chúng ta có Giáo hoàng).

Ông Jonathan Lin bên tranh bìa cuốn sách Habemus Papam
Ông Jonathan Lin, người sáng lập và giám đốc của công ty Manga Hero, nói: "Mục đích của truyện tranh này là giới thiệu ĐTC Biển Đức 16 với những người có thể chưa biết nhiều về Ngài".

Ông Lin nói với Ban tổ chức Ngày Giới Trẻ Thế Giới rằng truyện tranh kể lại thời gian của ĐTC, khi còn là Hồng y, làm việc với cố ĐTC Gioan Phaolô II, và dẫn đến việc Ngài được bầu làm Giáo hoàng năm 2005. Ông nói thêm là truyện tranh cũng kể lại các hoạt động của Ngài trong mấy năm qua.

Ông giải thích: “Chúng tôi muốn sử dụng truyện tranh như một công cụ để cho giới trẻ và thế giới biết rằng Giáo Hội không sợ thời hiện đại và văn hóa phát triển. Cho nên trong trường hợp này, chúng tôi không sợ sử dụng các hình thức truyền thông mới và hấp dẫn, để đáp ứng giới trẻ ở nơi họ đang sống”. Trước đây công ty Manga Hero đã xuất bản hai truyện tranh về thánh Phaolô và nhân vật Giuđitha trong Kinh Thánh.

Ông Lin cho biết công ty đang làm việc với một nhà xuất bản Tây Ban Nha để phân phát hơn 300.000 cuốn "Habemus Papam!", bằng tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha, cho số người tham dự Ngày Giới trẻ Thế giới và công chúng.

Ông cho biết thêm: “Chúng tôi cũng đang nhắm phân phát truyện tranh tại khu vực Madrid nữa, chẳng hạn ở các địa điểm như nhà thờ, trường học, khách sạn hoặc ký túc xá, trạm tàu điện ngầm, sân bay, quầy thông tin, các điểm tham quan du lịch, và các địa điểm sự kiện khác."

Truyện tranh này, do Gabrielle Gniewek viết và họa sĩ Sean Lam vẽ tranh, lấy nhan đề từ thông báo truyền thống tiếp theo sau một cuộc bầu cử giáo hoàng. Gniewek tốt nghiệp Đại học Công giáo Gioan Phaolô ở San Diego, một trường học chuyên về các khoa kinh doanh, công nghệ, và các phương tiện truyền thông phục vụ Giáo Hội.

Việc ông Lin mong muốn tạo một tác động tích cực lên thế giới kinh doanh đã thu hút ông thực hiện truyện tranh, khi ông nhận thấy rằng các câu truyện và chủ đề Công giáo có thể được trình bày theo phong cách mới và năng động.

Ông nói: “Với phương tiện truyền thông giữ một vai trò có ảnh hưởng trong nền văn hóa chúng ta, nhất là đối với thanh niên, tôi cảm thấy đây là một lãnh vực mà tôi có thể tạo sự khác biệt."

Ông Lin cũng tin rằng ĐTC Gioan Phaolô II sắp được phong chân phước – vị sáng lập Ngày Giới Trẻ Thế Giới, và là bổn mạng của Ngày Giới Trẻ thế giới năm nay - ắt sẽ hài lòng với truyện tranh tôn vinh vị kế nhiệm Ngài, là ĐTC Biển Đức 16.

Ông nhận xét: “ĐTC Gioan Phaolô II đã kêu gọi việc sử dụng các hình thức mới và khác nhau của phương tiện truyền thông, trong đó có truyện tranh, nhằm tiếp cận các người trẻ nơi họ sinh sống, để xây dựng một nền văn hóa của tình thương và phẩm giá". (CNA 1-4-2011)

Nguyễn Trọng Đa
 
Lễ Giỗ 6 năm ĐGH Gioan Phaolô II qua đời
LM Trần Đức Anh OP
10:51 01/04/2011
VATICAN - Thứ bẩy 2-4-2011, là lễ giỗ lần thứ 6 ĐGH Gioan Phaolô 2. Đây là lễ giỗ lần cuối cùng trong đó các tín hữu còn cầu nguyện cho ngài, vì từ ngày 1-5 tới đây, sau lễ phong chân phước, các tín hữu sẽ chính thức được phép cầu khẩn sự chuyển cầu của Đức Cố Giáo Hoàng.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, ĐHY Angelo Comastri, Giám quản Đền thờ Thánh Phêrô kiêm Tổng Đại diện của ĐTC tại thành Vatican, nói: “Chúng ta phải nhận rằng chính lúc Đức Gioan Phaolô 2 qua đời, dân Chúa đã xác tín rằng một Vị Thánh vừa về trời. Vả lại, trong lễ an táng trọng thể gần 1 tuần sau đó, ngày 8-4-2005 ĐHY Joseph Ratzinger, niên trưởng Hồng Y đoàn, đã khẩn cầu phúc lành của Đức Gioan Phaolô 2 từ cửa sổ của trời cao, theo một nghĩa nào đó, Ngài đã coi Đức Cố Giáo Hoàng là vị thánh rồi. ĐHY Ratzinger nói: “Thưa Đức Thánh Cha, xin chúc lành cho chúng con từ cửa sổ trời cao!”. Với lễ phong chân phước tới đây, trực giác của dân Chúa được củng cố bằng một nghi thức long trọng và chính thức của Đức Thánh Cha”.

Trong cuộc phỏng vấn, ĐHY Comastri cũng nhận định rằng “Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một vị Giáo Hoàng được vui mừng tôn phong vị tiền nhiệm của mình là Chân Phước. Chắc chắn đây sẽ là một cảm xúc ngoại thường đối với ĐGH Biển Đức 16, nhưng cũng là một sự chắc chắn về tinh thần! Giờ đây, từ trời cao, Đức Gioan Phaolô 2 phù hộ những bước đường của người kế nhiệm và củng cố Người trong những thách đố mà Giáo Hội phải đương đầu. Trong những diễn văn đầu tiên, ĐTC đương kim đã nói: “Tôi dường như vẫn nghe tiếng nói của ngài nói với tôi: “Đừng sợ!”, lời mời gọi ấy, mệnh lệnh mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 gửi đến toàn thế giới, tới các tín hữu Kitô rải rác trên hoàn cầu. “Anh chị em đừng sợ!”: giờ đây chắc chắn từ trời cao, ngài cũng nói với cả Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 trong thời điểm bi thảm này của lịch sự, trong lúc biển cả lịch sử dường như đang nổi ba đào. Bám chắc vào Chúa Giêsu, dưới cái nhìn của Mẹ Maria, chúng ta có thể tiến qua sóng gió bão táp này của lịch sử, chắc chắn đạt tới bến của Thiên Chúa” (RG 1-4-2011)

Mặt khác, Hiệp Hội Papaboys ở Roma lên tiếng mời gọi các bạn trẻ trên thế giới đến dự lễ phong chân phước cho Đức Gioan Phaolô 2 vào ngày 1-5 tới đây vì không thiếu chỗ.

Hôm 31-3-2011, Cô Loredana Corrao, phát ngôn viên Hiệp hội Papaboys tuyên bố: “Các bạn hãy đến Roma để dự lễ phong chân phước cho Đức Gioan Phaolô 2, vì vẫn còn nhiều chỗ”.

Hiệp hội này, ngay từ sau khi có tin về ngày phong chân phước cho Đức Cố Giáo Hoàng, đã dấn thân giúp đỡ và cung cấp các dịch vụ cho các hội viên và bạn hữu để trú ngụ tại Roma và vùng phụ cận trong dịp lễ phong chân phước

Ngoài ra ngày 5-4 tới đây sẽ có một cuộc họp báo tại Phòng báo chí về tường trình về việc chuẩn bị lễ Phong chân phước. Lên tiếng trong dịp này có ĐHY Agostino Vallini, Giám quản Giáo phận Roma, Đức ông Liberio Andreatta, Phó chủ tịch cơ quan hành hương Roma, và Đức Ông Marco Frisina, Giám đốc văn phòng phụng vụ thuộc tòa giám quản Roma.

Báo chí Italia ra ngày 27-3 vừa qua cho biết nhiều người Nhật đã hủy bỏ việc giữ chỗ khách sạn ở Roma để dự lễ phong chân phước vì có cuộc động đất và nạn sóng thần vừa qua; cũng có những người Mỹ hủy chương trình đi Roma dự lễ vì sợ hậu quả của cuộc chiến tranh ở Lybie.

Ông Giuseppe Roscioli, Chủ tịch Liên hiệp các khách sạn ở vùng Roma tuyên bố với hãng thông tấn Pháp AFP rằng các khách sạn bị một loạt các vụ hủy bỏ việc giữ chỗ vì những lý do trên đây. Theo ông, nếu chiến tranh tại Lybie kéo dài, có nhiều du khách Mỹ và Á châu sẽ không dám đến vùng ven Địa trung Hải.
 
Gia đình ít con thì Ơn Gọi sút giảm?
Dominic David Trần
11:51 01/04/2011
Góp ý suy niệm Mùa Chay 2011

Theo bản tin Thông Tấn Xã Công Giáo toàn cầu (CNA) ngày 31, 2011, qua kiểm lại bản tường trình về sự sút giảm các Ơn Gọi trong Các Tu Hội Dòng Nữ, chuyên gia Terry Mattingly đã ghi nhận được là đôi khi các bậc cha mẹ của thiếu nữ trẻ đã bàn ra khi nghe con gái tỏ ý muốn đi tu hoặc làm sao để cho con gái của họ không còn tha thiết đến việc gia nhập vào các Đan Viện nữa.

Trong vô số các lý do khác nhau được ghi lại, chuyên gia Mattingly nhận định rằng chính vì các bậc cha mẹ muốn được lên chức Ông Bà nội ngoại thì họ phải có các cháu nội hay ngoại.

Vậy nghĩ sao về việc các bậc cha mẹ muốn có cháu nội ngoại ? Vâng, đó chỉ là một yếu tố góp phần nên thực trạng sút giảm Ơn Gọi Tu Trì nếu tự bản thân những gia đình ấy không có con hay họ chỉ có một người con mà thôi.

Thế nhưng trên bình diện toàn xã hội thì Ơn Gọi Giáo Sĩ và Tu Sĩ theo truyền thống và thống kê lịch sử cho thấy; tỷ lệ đi tu là không cân xứng và không trải đều - bởi vì các Ơn Gọi Giáo Sĩ Tu Sĩ thường đến từ những đại gia tộc hay những gia đình có đông con. Vì vậy khi quy mô dân số trong các gia đình giảm đi, số thành viên trong các thế hệ giảm thì số lượng Ơn Gọi cũng phải giảm xuống theo.

( Chứng minh dễ nhất: Sau hơn 30 năm không ngừng cầu nguyện và tìm sự giúp đỡ từ Tòa Thánh Vatican, từ Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ và khắp nơi, sau cùng vào ngày 20 tháng Hai năm nay 2011 các Đức Tổng Giám Mục Thomas Rodi, và Oscar Hill Lipscomb cùng với Tu Hội Dòng Thánh Hiền thuộc Tổng giáo Phận Mobile, Tiểu Bang Alabama đã hân hoan đón chào 08 Nữ Tu Sĩ từ Đan Viện Cát Minh thuộc Giáo Phận Nha Trang Việt Nam sang gia nhập và xây dựng lại Đan Viện Cát Minh tại TGP Mobile, tiểu bang Alabama Hoa Kỳ.

Trên toàn Quebec, là Tỉnh Bang có số lượng Tín hữu Công Giáo lớn nhất Canada - thế nhưng trong hơn 10 năm qua, thống kê của năm 2008 cho thấy các số liệu rất nhỏ bé nơi Ơn Gọi cho Các Tu Hội Dòng Nữ. Những năm gần đây chỉ có Ơn Gọi từ các gia đình di dân gốc Á Châu trên các Tỉnh Bang nói Tiếng Anh của Canada, hoặc các Nữ Tu từ các nước Á Châu như Việt Nam, Đài Loan, Ấn Độ, Phi Luật Tân, hoặc từ Đông Tây Phi Châu trực tiếp gia nhập vào các Tu Hội Dòng Nữ .

Không phải ngẫu nhiên mà Đức Thánh Cha Biển Đức thứ 16, Các Đấng Bậc, và trên Mạng Lưới VietCatholic đã không ngừng cảnh giác và nêu rõ những tác hại về mặt Tôn giáo và Đạo Đức Xã Hội, cũng như về những nguy hiểm của các Chủ Nghĩa Duy Tương Đối (Relativism), Chủ nghĩa Hưởng thụ Vật chất (Consumerism), Chủ Nghĩa Duy Thế Tục (Secularism) và vô số những học thuyết khác đề cao chủ nghĩa cá nhân vị kỷ qúa mức qúa lố.

Hãy nghĩ về một số cặp vợ chồng trẻ đẹp, khoẻ mạnh dạo phố trong những mùa hè đã qua và sắp tới. Họ dung dẻ dắt ... chó đi theo. Rồi những đại công ty sản xuất thuốc ngừa thai, những thế lực đứng sau lưng các nơi cổ vũ việc phá thai, những hệ thống truyền thông thế tục đã tô vẽ và dẫn dắt giới trẻ theo lối sống của những tài tử điện ảnh, ca sĩ, người mẫu thời trang.

Những tường trình khác cho thấy các cường quốc kinh tế Âu Châu như Đức, Ý ... sẽ phải đối diện với bi kịch " muà Đông dân số " là nếm phải những "trái đắng" là kết qủa của những gì mà chính họ đã gieo trồng trước đây. Những người lao động hôm nay sẽ không được về hưu và lãnh đủ ... lương hưu như họ đã nghĩ khi mà dân số người già trên 65 tuổi chiếm phần lớn.

Về mặt tự do Tôn giáo và Tín ngưỡng thì trái đắng sẽ có vị đắng... hơn những vị đắng mà họ có thể chịu đựng ra được. Khi số trẻ em sinh ra bình quân trên mỗi phụ nữ bản xứ Âu châu xấp xỉ bằng 1, trong khi đó những phụ nữ di dân ... (đã bị buộc phải bỏ mạng che mặt đi) ... nhưng bình quân họ sẽ đẻ từ 3 con trở lên. Những nóc đỉnh của các nơi cầu nguyện ở một số nước Âu châu đã và sẽ mang hình ... trăng lưỡi liềm nhiều hơn . Đã vậy chính những nước này còn cấm không cho trưng bày hay treo Thập Giá Chịu Nạn trong lớp học cho các cháu bé nữa.

Ai chối bỏ Thiên Chúa trước mặt mọi người thì sẽ nhận được gì sau đó?

Những lý sự về cái gọi là quyền tự do và sự lựa chọn của cá nhân phải được tôn trọng. Thế nhưng các tự do cá nhân và nhân phẩm đích thực cũng như chính bản thân xác thịt của con người phàm tục là do ý muốn của Thượng Đế tức Đức Chúa Trời. Không có ân sủng của Thiên Chúa thì loài người phàm nhân chẳng làm gì được.

Cơn sóng thần cao hơn 10 mét và cuộc động đất ở 9 độ Richter kèm theo các tác hại tại các Nhà Máy Điện chạy bằng Nguyên Tử tại Nhật Bản đã cho toàn thể thế giới biết thêm những bài học về thân phận và năng lực thực sự của người phàm nhân sẽ đến đâu trước những tai họa không thể lường trước được.

Nước Nhật và người Nhật với văn hóa, tâm linh , và trình độ khoa học kỹ thuật cao, họ đã làm hết sức họ có thể chuẩn bị trước mọi cơn động đất và sóng thần mà còn chịu đựng thiệt hại to lớn như thế . Chúng ta cảm thông , chia xẻ và cầu xin Thượng Đế ban cho dân tộc Nhật thêm lòng can đảm và sớm khắc phục được mọi khó khăn.

Giả dụ như thiên tai vừa qua xảy ra tại Trung Cộng (cường quốc kinh tế thứ 2 thế giới) hay tại Pháp hay Việt Nam chẳng hạn thì mọi sự sẽ ra sao?

Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong < thuân theo Ý Trời thì sẽ được sống, làm trái Ý Trời sẽ phải bị diệt vong.>

“ Sống bao lâu con nguyện đàn ca kính hát Đức Chúa Trời.”

Vậy nếu các người trẻ chỉ biết chép miệng lập lại theo Iphone gắn bên tai, chú tâm vào những idol của họ và một xã hội và thế giới con người khô cạn Ơn Gọi thì ai là người cầu xin Thượng Đế chúc bình an cho họ.

Có người sẽ hỏi sao lại đem gán việc gia đình ít con, rồi Ơn Gọi sút giảm vào sự an bình của thế giới và tự do cá nhân của con người. Những chuyện này nào có quan hệ gì với nhau, và chuyện tai Trời ách nước nào ai biết trước được.?

Xin phép được thưa là: Khoa Địa Chấn học đã thiết lập thang độ động đất Richter, có điều họ cho rằng làm gì có việc cường độ động đất đến 9 độ Richter sẽ xảy ra ở đó. Những bức tường bêtông ngăn chặn sóng thần Tsunami đã được các nhà Khoa học và Kỹ thuật Nhật Bản tính toán và xây dựng chu đáo cũng như những biện pháp- hướng dẫn cá nhân cần tuân theo khi có sóng thần và động đất đã được dân chúng Nhật thực tập chuẩn bị rất công phu.

Còn việc tai Trời ách nước ai mà biết trước được ? đối với riêng Người Công Giáo chúng ta; trong Phúc Âm theo thánh Mátthêu 24-13-14;

Những cơn đau đớn khởi đầu ( Mc 13, 5-13 ; Lc 21, 8-19) đã chép; “ ... Sẽ có những cơn đói kém và những trận động đất ở nhiều nơi. Nhưng tất cả những sự việc ấy chỉ là khởi đầu những cơn đau đớn.

.... Phải canh thức và phải sẵn sàng: (Mc 13,32-37; Lc 17,26-30.35.36) đã chép; “ ... Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy....”

Vì vậy, con tàu ông Nô-ê ngày xưa chinh là sự canh thức và sẵn sàng của con người trong thế kỷ 21 . Sự chuẩn bị này mới chính là sự chuẩn bị và sẵn sàng chân thực nhất.

Và như những ngọn đèn chầu không bao giờ tắt trước bàn thánh Chúa, những lời cầu nguyện xin bình an của mọi người trần thế phải được duy trì liên tục bất kể đêm ngày trong đó bởi các Giáo sĩ Tu sĩ là chính. Nếu không có Ơn Gọi như những mùa lúa chin vàng rộng trải khắp nơi thì các giáo sĩ tu sĩ từ đâu đến.

Và nếu phần lớn các cặp vợ chồng trẻ đẹp đang dung dẻ nắm tay nhau, dắt theo chó con dạo phố thì lấy đâu ra các con cháu để dâng mình hoặc thánh hiến cho Ơn Gọi.

Cầu xin cho người Công Giáo Việt Nam, cách riêng cho Phong Trào Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình và Hội Bảo Trợ Ơn Thiên Triệu- Hội Cầu Nguyện cho Ơn Gọi khắp nơi, được sống trong ân sủng và được tràn đầy Lòng Chúa Thương Xót.

Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ đang bước vào tuần thứ 4 Mùa Chay năm 2011, khi nhìn qua truyền hình cho thấy biết bao sinh linh, tài sản nhất là những con tàu to lớn của ở Sendai, Miyagi đã tan vỡ và bị cuốn trôi trong dòng sóng thần đen ngòm cao hơn 10 mét thấy mà kinh sợ.Chuyện ông Nô-ê và cơn đại hồng thủy bỗng nhiên được lập lại và chứng minh uy lực vô biên của Lời Chúa và Lòng Chúa Thương Xót.

Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro.

Xin Thiên Chúa rộng lòng thương xót ban cho chúng con thêm thời giờ ăn năn thống hối và tỉnh thức - trước khi mọi sự sẽ quá muộn với chúng con.

 
Người Công giáo và người Do Thái phải thể hiện sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới
Nguyễn Trọng Đa
19:30 01/04/2011
Người Công giáo và người Do Thái phải thể hiện sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới

Hội nghị Ủy ban song phương của các phái đoàn Israel và Tòa Thánh

ROMA – “Trách nhiệm của các tín hữu Do Thái và Công giáo là làm chứng sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới của chúng ta, trong khi nhìn nhận các thất bại của họ trong quá khứ để làm chứng nhân thực sự cho sự hiện diện đó”. Đó là tuyên bố của các tham dự viên trong cuộc họp Ủy ban song phương phái đoàn của Rabbi trưởng của Israel và Ủy ban Tòa Thánh về quan hệ tôn giáo với Do Thái giáo, được Phòng báo chí Tòa thánh công bố ngày 1-4.

Cuộc họp lần thứ 10 của ủy ban song phương, trong đó tập trung vào các thách thức của đức tin và lãnh đạo tôn giáo trong xã hội thế tục, diễn ra từ ngày 29 đến 31-3 vừa qua. Phái đoàn Do Thái do Rabbi Shear Yashuv Cohen đứng đầu và phái đoàn Công giáo do Đức Hồng Y Jorge Maria Mejia, người Argentina, đứng đầu.

Hai phái đoàn nhận thấy rằng trong xã hội, mặc dù "có nhiều lợi điểm", "các tiến bộ công nghệ nhanh chóng, chủ nghĩa tiêu thụ tràn lan, một hệ tư tưởng hư vô nhấn mạnh quá mức vào con người cá nhân" đã được khai triển "gây phương hại cho cộng đồng và lợi ích tập thể" và "đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng đạo đức”. Thế giới hiện đại của chúng ta "thiếu một cảm thức thuộc về, cảm thức về ý nghĩa và mục đích."

Hai phái đoàn đã nhìn nhận rằng hai tôn giáo có một "vai trò quan trọng", "cung cấp vừa niềm hy vọng vừa một lối sống đạo đức, phát sinh từ sự nhận thức về sự hiện diện của Thiên Chúa và hình ảnh của Ngài trong mỗi con người".

"Truyền thống tương ứng của chúng ta công bố tầm quan trọng của việc cầu nguyện, vốn vừa là diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa vừa là cách để khẳng định ý thức này và ý nghĩa đạo đức của nó," hai phái đoàn nói thêm.

"Trách nhiệm của các tín hữu là làm chứng sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới của chúng ta, trong khi nhìn nhận các thất bại của họ trong quá khứ ", hai phái đoàn giải thích, nhấn mạnh sự cần thiết cung cấp chứng tá này trong giáo dục, nơi giới trẻ, trong các phương tiện truyền thông thông qua "việc thành lập và quản lý các tổ chức cứu trợ với sự quan tâm đặc biệt đối với người dễ bị tổn thương, bệnh nhân và người bị gạt bên lề xã hội, trong tinh thần "Olam tikkun" (cứu chữa thế giới)".

Trong tuyên bố, hai phái đoàn cũng bày tỏ "sự mong ước rằng các vấn đề ngưng đọng trong các cuộc đàm phán giữa Tòa Thánh và Nhà nước Israel" sẽ "sớm được giải quyết và các thỏa thuận song phương" sẽ được "phê chuẩn không chậm trễ." (Zenit 1-4-2011)

Nguyễn Trọng Đa
 
Top Stories
Veglie di preghiera a Hanoi per un attivista per i diritti umani, la verità e la giustizia
Asia-News
04:50 01/04/2011
Si terranno domani e dopodomani nella parrocchia di Thai Ha. Cu Huy Ha Vu è un avvocato che rischia 20 anni di carcere per l’accusa di diffamare le autorità e mirare al rovesciamento del regime, chiedendo un sistema multipartitico.

Hanoi (AsiaNews) – Due veglie di preghiera sono state orgnizzate per domani e dopodomani dai redentoristi della parrocchia di Thai Ha, a Hanoi, “a favore dell’avvocato Cu Huy Ha Vu, della giustizia e della verità”, spiega il superiore del monastero, padre Mathew Vu Khoi Phung.

Contro l’avvocato, noto difensore dei diritti umani, è in programma un processo che dovrebbe iniziare lunedì. Il legale, che non è cattolico, è divenuto famoso in seguito alla denuncia che ha presentato contro il primo ministro Nguyen Tan Dung, per lo sfruttamento da parte dei cinesi delle miniere di bauxite negli Altopiani centrali. E a ottobre ha nuovamente denunciato il Primo ministro per un decreto che vieta ai gruppi di presentare petizioni o lamentele contro il governo.

L’avvocato e sua moglie, Duong Ha, hanno espresso sostegno ai cattolici di Con Dau, Da Nang e si erano offerti per la loro difesa, ma fu loro negato il permesso.

Nei preparativi per la celebrazione dell’11mo congresso del Partito comunista, tenutosi a gennaio, Vu è stato arrestato, insieme con altri attivisti per i diritti umani. Il 17 febbraio è stato accusato di propaganda contro lo Stato per aver pubblicato articoli e aver dato interviste a giornali stranieri miranti a “diffamare l’autoritùà del governo popolare, conducendo una guerra psicologica mirata a rovesciare il regime e chiedendo un sistema multipartitico”. Rischia fino a 20 anni di carcere.

Vu ha un passato significativo. E’ il figlio di un eminente poeta, Cu Huy Can, che ha guadagnato un ruolo politico in Vietnam in quanto è stato un compagno del padre del comunismo vietnamita, Ho Chi Minh, durante le guerra di Indocina e del Vietnam, dal 1945.
I redentorisi sono coscienti del fatto che le veglie di preghiera, chieste anche dai familiari dell’avvocato, “potrebbero causare nuovi problemi per noi. In ogni caso- dice padre Mathew Vu - noi abbiamo la responsabilità di sta re dalla parte della giustizia e della verità. Non abbiamo una linea che mira a creare situazioini ‘sensibili’. Noi ci troviamo di fronte a problemi ‘estremamente sensibili’ per la loro natura e non possiamo farci niente”.

Le autorità di Hanoi hanno a più riprese chiesto l’allontanamento dalla capitale di padre Mattew Vu e di altri redentoristi.

Le dimissioni dell’arcivescovo Joseph Ngo Quang Kiet e una serie di attacchi contro i cattolici sembrano voler riportare i rapporti tra Stato e Chiesa a prima del 2008, quando nel Paese esplosero le proteste dei cattolici.

Da una parte ci sono episodi di cstrizione alla rinuncia della fede, violenze, pressioni e arresti contro i cristiani delle rovince degli Altipiani. Ci sono sacerdoti e anche vescovi ai quali viene impedito di celebrare messa e svolgere attività pastorali. Dall’altra parte, si cerca di far rifiorire le attività dei cattolici “patriottici”. Articoli e discorsi che lodano il “contributo dei cattolici” sono pubblicati dai media di Stato e sono sulla bocca dei funzionari, mentre le autorità mirano alla totale sottomissione dei fedeli al Partito.
 
Prayer vigils in Hanoi for an activist for human rights, truth and justice
Asia-News
07:17 01/04/2011
Tomorrow and the day after in the Thai Ha parish. Cu Huy Vu Ha is a lawyer who risks 20 years in prison on charges of slandering the authorities and seeking to overthrow the regime, in favour of a multiparty system.

Hanoi (AsiaNews) - Two prayer vigils have been organised for tomorrow and the day after at the Redemptorist parish of Thai Ha, in Hanoi, "in favor of the lawyer Cu Huy Ha Vu, justice and truth," says the superior of the monastery, Father Mathew Vu Khoi Phung.

A trial against the lawyer, a noted human rights activist, opens Monday. The lawyer, who is not Catholic, became famous after the complaint filed against Prime Minister Nguyen Tan Dung, over the exploitation by the Chinese of bauxite mines in the Central Highlands. And in October, he again denounced the prime minister for a decree that prohibits groups to submit petitions or complaints against the government.

The lawyer and his wife, Duong Ha, have expressed support for the Catholics of Con Dau, Da Nang and offered for their defense, but was denied permission.

In preparation for the celebration of the 11th Communist Party Congress, held in January, Vu was arrested, along with other human rights activists. On February 17, he was charged with propaganda against the state for publishing articles and giving interviews to foreign newspapers aimed at "defaming the authority of popular government, waging a psychological war aimed at overthrowing the regime and calling for a multiparty system." He faces up to 20 years in prison.

Vu has a significant past. He is the son of an eminent poet, Cu Huy Can, who earned a political role in Vietnam in so far as that he was a companion of the father of Vietnamese communism, Ho Chi Minh during the Indochina and Vietnam War since 1945.

The redemptorists are aware that the prayer vigils, also requested by the family of the lawyer, "could cause new problems for us. In any case, says Father Mathew Vu - we have a responsibility to be on the right side of justice and truth. We do not aim to create 'sensitive' situations. We are facing 'extremely sensitive' problems and we can not simply stand by and do nothing”.

Hanoi authorities have repeatedly called for the expulsion from the capital of Father Matthew Vu and other Redemptorists.

The resignation of Archbishop Joseph Ngo Quang Kiet and a series of attacks against Catholics seem to want to bring the Church/state relationship back to what it was prior to 2008, when the protests by Catholics erupted in the country.

On the one hand, there are episodes of forced renunciation of faith, violence, pressure and arrests against Christians of from the provinces and Highlands. There are priests and even bishops who are prohibited from celebrating Mass or carrying out their pastoral activities. On the other hand, an attempt to revive the activities of the "patriotic" Catholics. Articles and speeches praising the "contribution of Catholics" are published by state media, while the authorities aim for the complete submission of the faithful to the Party.
 
Prayer vigils in Hanoi for an activist for human rights, truth and justice
Asia-News
06:18 01/04/2011
Tomorrow and the day after in the Thai Ha parish. Cu Huy Vu He is a lawyer who risks 20 years in prison on charges of slandering the authorities and seeking to overthrow the regime, in favour of a multiparty system.


Hanoi (AsiaNews) - Two prayer vigils have been organised for tomorrow and the day after at the Redemptorist parish of Thai Ha, in Hanoi, "in favor of the lawyer Cu Huy Ha Vu, justice and truth," says the superior of the monastery , Father Mathew Vu Khoi Phung.

A trial against the lawyer, a noted human rights activist, opens Monday. The lawyer, who is not Catholic, became famous after the complaint filed against Prime Minister Nguyen Tan Dung, over the exploitation by the Chinese of bauxite mines in the Central Highlands. And in October, he again denounced the prime minister for a decree that prohibits groups to submit petitions or complaints against the government.

The lawyer and his wife, Duong Ha, have expressed support for the , Da Nang and offered for their defense, but was denied permission.

In preparation for the celebration of the 11th Communist Party Congress, held in January, Vu was arrested, along with other human rights activists. On February 17, he was charged with propaganda against the state for publishing articles and giving interviews to foreign newspapers aimed at "defaming the authority of popular government, waging a psychological war aimed at overthrowing the regime and calling for a multiparty system." He faces up to 20 years in prison.

Vu has a significant past. He is the son of an eminent poet, Cu Huy Can, who earned a political role in Vietnam in so far as that he was a companion of the father of Vietnamese communism, Ho Chi Minh during the Indochina and Vietnam War since 1945.

The redemptorists are aware that the prayer vigils, also requested by the family of the lawyer, "could cause new problems for us. In any case, says Father Mathew Vu - we have a responsibility to be on the right side of justice and truth. We do not aim to create 'sensitive' situations. We are facing 'extremely sensitive' problems and we can not simply stand by and do nothing”.
Catholics of Con Dau
Hanoi authorities have repeatedly called for the expulsion from the capital of Father Matthew Vu and other Redemptorists.

The resignation of Archbishop Joseph Ngo Quang Kiet and a series of attacks against Catholics seem to want to bring the Church/state relationship back to what it was prior to 2008, when the protests by Catholics erupted in the country.

On the one hand, there are episodes of forced renunciation of faith, violence, pressure and arrests against Christians of from the provinces and Highlands. There are priests and even bishops who are prohibited from celebrating Mass or carrying out their pastoral activities. On the other hand, an attempt to revive the activities of the "patriotic" Catholics. Articles and speeches praising the "contribution of Catholics" are published by state media, while the authorities aim for the complete submission of the faithful to the Party.
 
Japon: Témoignage d’un missionnaire dans les régions sinistrées par le séisme du 11 mars 2011
Eglises d'Asie
10:14 01/04/2011
Eglises d'Asie - Membre des Missions Etrangères de Paris, le P. Antoine de Monjour est prêtre dans la paroisse catholique de Nasu, localité de la préfecture de Tochigi. Située à l’intérieur des terres, Nasu est sur un plateau, dans une région montagneuse. La ville a donc subi le tremblement de terre mais n’a pas été touchée par le tsunami. Trois semaines après le séisme, elle est cependant sous la menace d’une contamination radioactive, la centrale de Fukushima étant située à une centaine de kilomètres en direction du nord-est. Par des e-mails en date des 27 et 29 mars, le P. de Monjour témoigne du fait que, si les conditions de vie vont en s’améliorant, celles-ci demeurent précaires :

« Voici un point de la situation de ce 27 mars 2011 à partir du journal de ce matin et des infos glanées dans la journée : un homme de 30 ans environ, habillé plutôt à la mode, marié et père d’un enfant, et dont les parents habitent chez lui. Il est interviewé par un journaliste de la télévision devant un supermarché des zones sinistrées qui fonctionne difficilement et devant lequel il fait la queue depuis des heures. Il explique tranquillement, mais avec les yeux tirés, la fatigue sur le visage, qu’il a parcouru à peu près 10 km à pieds (soit 20 km aller-retour) pour essayer de trouver de l’eau, de la nourriture et de quoi se chauffer... Pas d’essence, donc pas de voiture, pas de vélo et en plus la route qui mène chez lui est très abîmée. Pas d’eau potable, pas d’électricité, quasiment pas de moyens donc pour transporter d’éventuels achats. Pas de travail depuis le séisme et pour les revenus... on verra plus tard car il faut bien vivre. Pour l’heure, on puise dans les réserves. Combien de dizaines de milliers de personnes sont-elles dans ce genre de situation ?

Le manque d’essence dans le Nord-Est à partir de la préfecture de Fukushima persiste : il s’explique entre autres par le fait que la distribution de l’essence se faisait par les ports du Nord. Ceux-ci étant hors d’usage pour le moment, toute la distribution a été bloquée.

Nombre de morts confirmés : 10 489. Nombre de disparus recensés : 19 429. Nombre de réfugiés : 243 534, auxquels il faudrait ajouter environ 50 000 personnes qui sont rentrées chez elles mais manquent encore de tout.

Taux de micro-sieverts enregistré le 26 mars à Nasu : 0,37, soit encore un peu moins que la veille malgré une probable fuite mais sous forme d’eau qui se serait déversée dans la mer... Le vent soufflant du nord-est a été très fort.

Remarque d’un agriculteur de la zone dévastée par le tsunami : 400 ans de travail de la terre perdus ! Le sol a perdu sa couche la plus fertile, de l’eau de mer stagne par endroits, la terre est maintenant imprégnée de sel, sans parler de tout ce que la vague a déposé ici et là sur son passage. Un de mes confrères rappelle que, dans la même région, il y a environ 120 ans, un tsunami géant avait ravagé la même côte et fait plus de 20 000 morts, dont l’un de nos confrères ; il avait 29 ans.

29 mars 2011 : je suis allé visiter le P. Tanaka, curé de la paroisse de Shirakawa dans la préfecture de Fukushima (diocèse de Sendai), que j’avais vu il y a environ dix jours : bien des choses ont changé. D’abord, en traversant la ville, j’ai été heureusement surpris de voir des rues ayant à peu près retrouvé vie. Les magasins sont ouverts pour la plupart, les gens se déplacent et les familles se préparent vaille que vaille à la rentrée scolaire (qui est fixée au 4 avril). On s’affaire un peu partout à réparer les dégâts extérieurs, tant sur la voirie que sur les bâtiments industriels ou commerciaux et chez les particuliers, sauf pour les toits ayant perdu leurs tuiles qui sont protégés par des bâches. Ces toits qui ont perdu leurs tuiles ne sont pas prêts de les récupérer ! Les journaux se sont faits l’écho des principaux fabricants de tuiles du nord du Japon qui ont perdu leurs stocks, voire leurs fours... Les fabricants des autres régions n’ont pas de quoi répondre aux demandes actuelles et on parle de six mois à un an pour honorer toutes ces réparations... Un chrétien de Nasu qui a perdu toutes ses tuiles craint les pluies de l’été et réfléchit à une autre solution pour couvrir sa maison car il ne se voit pas vivre avec des bâches pendant un an !

Le P. Tanaka va bien et semble plus détendu que lors de mon dernier passage : le journal est de nouveau distribué, on commence à trouver de l’essence sans avoir à faire des heures de queue, bien que toutes les stations ne soient pas encore ouvertes. Il se fait du souci pour une desserte de sa paroisse dont l’église et le presbytère-salle des chrétiens ne sont bons qu’à raser ! Les bâtiments penchent et les voisins s’inquiètent... Il faut faire vite mais rien n’est gratuit !

Le P. Tanaka a eu la visite d’une équipe de volontaires du centre de coordination de l’aide aux réfugiés du diocèse de Saitama. Il s’agissait de quatre séminaristes qui venaient voir si le P. Tanaka n’avait besoin de rien et lui apportaient des documents en plusieurs langues pour répondre aux éventuelles demandes (1).

Une famille passe, les Abe : tous sont sains et saufs mais leur maison a été très secouée... Elle devrait être utilisable mais ses habitants n’ont pas le cœur à tout remettre en état à l’intérieur et y vivent en campant plus ou moins chez eux ! La fille aînée, qui travaille dans une usine du coin qui fabrique du matériel médical de précision, est toujours au chômage technique. Elle a bien participé à des équipes de nettoyage pour remettre au maximum en état leur outil de travail mais les machines abîmées ont besoin de techniciens qui sont débordés et de pièces de rechange qui ne vont pas arriver tout de suite… Reprise du travail peut-être en partie début avril mais son responsable d’atelier parle aussi du mois de mai, voire plus tard ! Cette incertitude la bloque chez elle dans l’attente d’un éventuel appel téléphonique. Sa sœur, qui travaillait dans la même entreprise mais en CDD, se retrouve au chômage et cherche donc un travail qu’elle aimerait bien trouver dans la même région... Leur mère est aussi au chômage technique, mais le travail devrait reprendre bientôt dans son entreprise qui fabrique du matériel photographique.

A Shirakawa (ville située à une trentaine de kilomètres au nord de Nasu), il y a trois lieux d’accueil de réfugiés locaux : des gens de la ville ou de la proche banlieue qui ont perdu leur maison et/ou qui sont âgées et isolées et n’osent pas se retrouver seuls dans leur habitat ébranlé et en désordre. La famille Abe a parmi ses voisins une famille de cinq personnes (deux parents et trois enfants), qui ont accueilli chez eux assez vite après le séisme et le tsunami les familles de leurs frères et sœurs qui habitaient dans la préfecture de Miyagi (Sendai), non loin de la mer pour les uns, et à tout juste 20 km de la centrale accidentée de Fukushima pour les autres... Ils se sont retrouvés à quatorze dans la maison. Une sœur a décidé de retourner chez elle, non loin de Fukushima, à cause de la rentrée scolaire dans quelques jours : elle avait participé au nettoyage de l’école où ses deux enfants sont scolarisés et ont leurs amis. Elle ne se voyait pas entreprendre maintenant des démarches pour inscrire ses enfants à Shirakawa et son mari, qui était au chômage technique, vient d’être appelé pour aller rejoindre une autre usine du groupe industriel où il travaille, à… l’autre bout du Japon ! Mais avait-il le choix de refuser ? Il reste encore neuf personnes dans la maison dont une famille qui ne sait que décider quand il n’y a plus ni maison, ni école, ni travail, tout ayant été balayé par le tsunami !

Bref, il faut vivre et s’adapter au mieux aux circonstances. A travers ce que je lis dans les journaux et entends à la télévision, ces cas n’ont rien d’exceptionnel et seraient même plutôt ‘chanceux’....

Le jardin d’enfants attenant à la paroisse a perdu deux enfants et leur mère dans l’effondrement de leur maison. Une cérémonie a été organisée en leur mémoire.

Je reprends mon vélo et passe le long de la nationale n° 4 qui a repris un trafic presque normal. A une exception près, toutes les stations-essence que j’ai vues restaient fermées aux voitures particulières. Une station est réservée aux camions qui partent vers le nord acheminer de l’aide. Une autre indique sur un grand panneau qu’elle est réservée aux véhicules de la compagnie JR, la société de transport ferroviaire japonaise qui a 350 km de voies à contrôler et 940 points à réparer… La JR compte toujours rouvrir le tronçon abîmé (dont un bout passe par ma gare !) d’ici à la mi-avril.

Je passe au supermarché : un peu plus de véhicules que l’autre jour et maintenant tout le rez-de-chaussée est ré-ouvert. La plupart des rayons paraissent pleins mais on s’aperçoit vite qu’ils ont été astucieusement garnis : on trouve le même produit disposé en plusieurs endroits ! Le changement vient de ce que les fruits et légumes du secteur sont en partie de retour, à un prix exorbitant pour certains.... Autre changement : le papier toilette, les mouchoirs en papier et les produits d’entretien sont de nouveau là. En revanche – comme un peu partout dans le nord du Japon selon les journaux –, plus de piles électriques ! Les entreprises et autres commanditaires sont en rupture de stock. Très peu de poissons et de produits de la mer, mais il y a de curieux blocs de viande que personne ne semble acheter : je regarde l’étiquette ; cela vient des Etats-Unis. Le lait demeure rationné. Presque pas d’œufs. Autre changement : le pressing a rouvert sa porte après une vacance forcée de deux semaines.

Nombre de morts confirmés : 11 004
Nombre de disparus recensés : 18 687
Nombre de réfugiés enregistrés: 181 194. C’est le changement le plus significatif : les gens trouvent des solutions petit à petit, même si c’est provisoire, en dehors des circuits pour les réfugiés où ils se sentent assistés...

Taux de micro-sieverts enregistré hier à Nasu : 0,33. Cela baisse partout malgré les fuites sous forme liquide de produits contaminés d’un réacteur de la centrale de Fukushima. Les travaux de mise en sécurité avancent très lentement. Les trois personnes hospitalisées par crainte de contamination après avoir été en contact avec de l’eau qui s’était révélée chargée de césium et de je ne sais plus quoi, ont pu rentrer chez elles.

Le mot d’ordre de ces derniers jours est : ‘Gambaré’, Gambatté’, ‘Gambarô’, ce qui veut dire : ‘Courage !’. Et il est souvent suivi de ‘Japon’, ou du nom d’une ville ou d’une préfecture. Je l’ai même vu affiché sur la fenêtre d’un coiffeur à Shirakawa. »

(1) NDLR : Dans les paroisses catholiques du Japon, outre les Japonais, les fidèles sont constitués pour partie d’immigrants qui ne maîtrisent pas tous la langue japonaise. Originaires d’Amérique latine hispanophone ou lusophone, des Philippines et d’autres pays d’Asie, ils peuvent former une communauté numériquement aussi importante que la communauté japonaise.

(Source: Eglises d'Asie, 1er avril 2011)
 
Pope Dedicates Prayer in April to Youth
Zenit
10:25 01/04/2011
VATICAN CITY, MARCH 31, 2011 (Zenit.org).- Benedict XVI is dedicating the month of April to pray for the evangelization of youth.

The Apostleship of Prayer announced the intentions chosen by the Pope for this month. His general intention is: "That through its compelling preaching of the Gospel, the Church may give young people new reasons for life and hope."

The Pontiff's apostolic intention for April is: "That by proclamation of the Gospel and the witness of their lives, missionaries may bring Christ to those who do not yet know him."
 
Vatican's new financial oversight norms go into effect
Carol Glatz
15:14 01/04/2011
VATICAN CITY (CNS) -- Individuals carrying more than 10,000 euros (about $14,000) into or out of Vatican City State must declare the amount to proper authorities under a new law aimed at meeting international norms against money-laundering and financing terrorism.

The new measures to guarantee financial transparency in the Vatican went into effect April 1 and reflect the latest European Union regulations.

At the end of 2010, Pope Benedict XVI established the Financial Information Authority, an independent agency to oversee monetary and commercial activities of all Vatican-related institutions, including the Vatican bank.

At the same time, the Vatican promulgated a new law that defined financial crimes and established penalties -- including possible jail time -- for their violation.

One provision of the new law required that anytime more than 10,000 euros is brought into or out of Vatican City, whether in the form of cash, coins or checks, it must be declared, the Vatican said in a written statement April 1.

If the money is involved in any kind of transaction with a Vatican office or organization, including the Vatican bank, the declaration goes to the designated administrator in that office, the statement said.

If, however, the currency is to remain in the individual's personal possession and will not be transferred, then the amount must be declared to the Vatican gendarmes at the entrance of Vatican City, it said.

The Vatican gendarmes have the authority to stop and search vehicles, bags or other objects if they have any reason to suspect the required currency declaration has not been made, the statement said.

The declaration of currency of more than 10,000 euros in value is a normal part of most customs and border control duties, Jesuit Father Federico Lombardi, the Vatican spokesman, told journalists. Currency declarations help trace the flow of large amounts of money and prevent or detect money-laundering and other financial improprieties, he added.

The declaration includes a statement of where the money came from and its intended purpose, Father Lombardi said.

The Vatican's Financial Information Authority also sent a memo to all Vatican offices and departments making sure each office had the proper staff and procedures in place to comply with and enforce the new norms and standards of registering and archiving transactions and reporting suspicious activity to the financial authority.

The memo included a list of things staff should be on the lookout for that might indicate suspicious financial operations or activity, the Vatican statement said.

The statement said the financial authority may establish further detailed norms as specific problems or needs arise.

The authority monitors Vatican entities, including the Vatican bank, the Vatican's investment agency, the Vatican pharmacy, supermarket and the Vatican Museums.

Pope Benedict established the oversight agency after Italian treasury police, in a money-laundering probe, seized 23 million euros ($32 million) that the Vatican bank had deposited in a Rome bank account. The Vatican criticized the confiscation, saying the deposit was legitimate and that the Vatican bank was committed to "full transparency" in its operations.

The Vatican has been working for some time with Italian and international authorities to comply with procedures to ensure funds are not used for terrorism or money laundering.

(Source: http://www.catholicnews.com/data/stories/cns/1101303.htm)
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Buổi thuyết trình “Tâm Lý và Cách Giáo Dục Trẻ Vị Thành Niên” (Phần II)
Tạ Ân Phúc
06:53 01/04/2011
Buổi thuyết trình “Tâm Lý và Cách Giáo Dục Trẻ Vị Thành Niên” (Phần II)

Tuổi vị thành niên: Tìm bản sắc riêng đi vào đời

Tuổi vị thành niên, tuổi teen, tuổi trưởng thành, tuổi đã biết tự chăm sóc bản thân từ vật chất đến tinh thần, tuổi dần hình thành định hướng và bản sắc riêng để vào đời. Thế nhưng đây cũng là tuổi dễ mất phương hướng nhất khi bị ảnh hưởng đa chiều từ gia đình, nhà trường, xã hội và cả mạng lưới thông tin đang bùng nổ. Trên hệ thống mạng toàn cầu, thỉnh thoảng người ta bắt gặp những vụ chơi trội, những vụ gây sốc, có vẻ làm cho người ta khó chịu nhất lại thường do tuổi teen gây ra. Đó là những chuyện như chàng trai chủ động tỏ tình với người con gái mình yêu bằng hàng trăm, hàng ngàn bông hoa giữa sân trường, trong khuôn viên ký túc xá, ở những chốn đông người. Những đoạn phim bạo lực học đường, những hành vi không đúng đắn trong tuổi vị thành niên cũng được tung lên mạng nhan nhản.

Có thể nói tuổi vị thành niên là lứa tuổi phức tạp, khi mà nhận thức bắt đầu bộc lộ thì cũng là lúc các em phải đối mặt với rất nhiều vấn đề nơi thế giới quanh mình. Giúp đỡ các em có được bản sắc riêng để đi vào đời không phải là điều dễ dàng đối với các bậc cha mẹ. Hiểu được điều này, Chương Trình Chuyên Đề, Ban Mục Vụ Gia Đình TGP. Sàigòn đã tổ chức buổi nói chuyện với đề tài: “TÂM LÝ VÀ CÁCH GIÁO DỤC TRẺ VỊ THÀNH NIÊN” (Phần II) do Tiến sĩ Giáo dục học Nguyễn Thị Bích Hồng, giảng viên trường Đại Học Sư Phạm trình bày vào chiều thứ Bảy, ngày 26/03/2011 tại Trung Tâm Mục Vụ, Tổng Giáo Phận Sài Gòn.

Trong phần I, tiến sĩ đã trình bày một số yếu tố ảnh hưởng đến độ tuổi vị thành niên, trong đó đề cập đến sự phát triển cơ thể với hiện tượng dậy thì và các dấu hiệu phát triển giới tính. Trong 4 nhu cầu tâm lý ở độ tuổi này, cô cũng đã trình bày khuynh hướng làm người lớn, với nhận thức về thế giới xung quanh, thái độ với cuộc sống, chứng tỏ khả năng gánh vác công việc, sự phong phú của tình cảm, cũng như hiện tượng yêu sớm và cách thức ứng xử của các bậc cha mẹ khi con lâm vào hoàn cảnh này. (Xin mời tham khảo bài viết tường thuật phần I tại đường link sau: http://www.vietcatholic.org/News/Html/87157.htm)

Trong phần trình bày tiếp theo này, cô đã triển khai 3 nhu cầu tâm lý còn lại. Trước hết là nhu cầu tự khẳng định trong nhóm bạn với biểu hiện đầu tiên là rất thích kết bạn, các em rất hào hứng, chủ động lên các diễn đàn, các trang mạng để kết bạn làm quen với nhau. Qua những trang mạng, trẻ vị thành niên cảm thấy thế giới thật là ấm áp, phong phú, nhưng thật sự nó cũng chứa đựng rất nhiều cạm bẫy, nguy cơ. Ngay trong lớp học, các em cũng rất thích có nhiều bạn chơi cùng, thường thì các em chơi theo nhóm vì thế sẽ là điều khổ tâm nếu một vài em không có nhóm để chơi chung. Họ sẽ hài lòng khi có bạn cùng lớp, khác lớp, ở lớp học ngoại ngữ, nơi khu xóm và các mối quan hệ khác… Các em chứng minh giá trị của mình qua số lượng bạn bè, điều đó thể hiện nhu cầu rất rõ nơi trẻ vị thành niên.

Xem hình buổi thuyết trình

Khi có bạn, các em sẽ quý trọng và gìn giữ mối quan hệ bạn bè này bằng cách tỏ ra trung thành với bạn và bảo vệ tình bạn của mình. Đây là đặc điểm tâm lý mà phụ huynh cần quan tâm, để khi ứng xử với vị thành niên cần quý trọng cả bạn của con. Vì giả như có đối kháng với bạn của con, con thường chọn bạn chứ không chọn cha mẹ, do con cảm nhận rằng bạn hiểu mình hơn cha mẹ, bạn thường không làm trái ý, còn cha mẹ bắt phải làm những việc mà con thấy bất mãn, không hài lòng và con cũng biết rằng nếu mình ngã theo cha mẹ thì bạn sẽ bỏ rơi ngay, còn cha mẹ thì không bao giờ bỏ rơi con.

Tuổi vị thành niên có một nhu cầu rất tha thiết là muốn bạn thừa nhận, muốn được khẳng định mình trong nhóm bạn, tìm đủ mọi cách để bạn thừa nhận vì tìm sự thừa nhận của người khác không phải là điều dễ dàng, đơn giản đối với bất cứ ai. Các em chọn cho mình những cách thức phù hợp với bản thân.

Có những em làm cho bạn nể phục như học cho giỏi, chơi hay: chọn một tài năng nào đó để thể hiện như chơi cờ, chơi thể thao, nhảy hip hop, cả hành động mạo hiểm thậm chí liều mạng, tỏ ra anh hùng…

Có những em khéo léo hơn bằng cách làm cho bạn quý mến, đây là những em có kỹ năng xã hội tốt, có sự nhạy cảm, có phong cách hòa hợp vì vậy khéo léo đối xử trong quan hệ bạn bè, biết gợi chuyện, biết thăm hỏi bạn khi cần thiết, biết rủ bạn chơi, biết cách tặng quà cho bạn để tạo ấn tượng tốt, tạo sự cảm mến nơi bạn bè.

Có những em chủ động làm cho bạn tin tưởng vào mình bằng cách rất sẵn sàng lắng nghe bạn khi bạn có nhu cầu tâm sự, giữ bí mật, cố giải đáp thắc mắc…

Cũng có những em tỏ ra có ích đối với bạn, thậm chí chịu thiệt vì bạn, cho bạn những thứ bạn cần, như là vị cứu tinh trong những lúc cần thiết, tạo nên ấn tượng khó phai.

Con trẻ muốn được thừa nhận bằng nhiều phản ứng khác nhau nên cha mẹ cần giúp con trẻ có những cơ hội được thừa nhận một cách lành mạnh, bổ ích, tìm cho con một tài năng, giúp con chinh phục tình cảm của bạn bè, hãy là cầu nối cho con với các bạn của chúng. Khi con đã được bạn chấp nhận thì chúng sẽ không có những hành vi lạ lùng gây khó hiểu cho người khác.

Nhu cầu tự khẳng định trong nhóm bạn không phải em nào cũng được đáp ứng, trẻ vị thành niên cũng gặp nhiều trở ngại. Trở ngại lớn nhất là bị cô lập và bỏ rơi, vì trẻ muốn có bạn nhưng không có người chơi cùng. Trẻ vị thành niên chơi theo nhóm, cùng sở thích, cùng hoàn cảnh như có nhóm là những em thích học, có nhóm là những em thích làm điệu, thích mua sắm, thích chơi game… Các em liên kết với nhau theo cùng một đặc điểm nào đó. Những em có hoàn cảnh bất hạnh cũng dễ tìm đến nhau, nên dễ xảy ra sự cộng hưởng, hành vi cũng dễ trở nên cực đoan.

Trong lớp các em thường chơi theo nhóm, nhưng sẽ có một số em không có nhóm để chơi. Nhu cầu được thừa nhận ở những em này gặp khó khăn, thường đó có thể là những em là con một trong gia đình, không biết cách lân la với bạn, thiếu kỹ năng xã hội, không quen thích ứng với bạn. Đôi khi đó là những em có hoàn cảnh gia đình khác biệt, lối giáo dục cha mẹ khác với tình hình chung, thời nay lại có hiện tượng tréo ngoe khi cha mẹ giáo dục con kỹ lưỡng, trẻ nói năng lễ phép, từ tốn, trôi trải vào trong lớp lại không có bạn vì tuổi vị thành niên theo xu hướng thời @, sử dụng ngôn ngữ @, trẻ thông thích ứng được nên không có bạn, trở nên bị cô lập.

Có những em có bạn bè chơi chung, nhưng khó xử giữa 2 trạng thái hòa đồng hay độc lập. Có những lúc khó chịu khi phải theo ý kiến của chúng bạn chứ không được làm theo ý mình, bức bối vì phản ứng chống đối bạn thì sẽ bị cô lập.

Các em chơi với nhau theo nhóm, theo tương tác nhóm thì trong một nhóm thường có một người đóng vai trò thủ lĩnh. Tuy nhiên, trong nhóm có thể các em phục tùng thủ lĩnh nhưng cũng có em tuy chơi cùng nhưng lại không nể phục thủ lĩnh, nếu tranh thủ sự ủng hộ của các bạn để trở thành thủ lĩnh thì em này không đủ sức. Vì thế đương sự sẽ sống khổ sở vì rơi vào trạng thái lưỡng lự giữa việc khuất phục thủ lĩnh hay thu phục các bạn khác để trở thành thủ lĩnh, dẫn đến tâm lý không ổn định khi luôn phải nghĩ đến sự cạnh tranh.

Chơi với bạn thì phải chiều theo bạn, làm sao để bạn chấp nhận mình nên trẻ khó từ chối yêu cầu của bạn, ngay cả khi nhận ra rằng yêu cầu đó vô lý. Đôi khi trẻ không biết làm sao, đáp ứng hay từ chối những yêu cầu vô lý của bạn.

Trong lớp, các em chơi với bạn nhưng đôi khi có cảm giác “một mình” với bất công, ấm ức khi không được đối xử tốt như những bạn khác, nhất là ấm ức với sự thiên vị trong cách cư xử của ban cán sự lớp.

Những em có chức vụ và thành tích học tập cũng gặp khó khăn về mặt tâm lý. Làm ban cán sự lớp thường hay lâm vào cảnh trên đe dưới búa, nếu bạn làm sai mà không ghi nhận thì bị thầy cô quở phạt, nếu ghi nhận thì bị bạn bè trách cứ. Học giỏi nhiều khi cũng bị gièm pha, nếu được điểm cao mà vui mừng thì bị xem là chảnh, còn nếu không tỏ thái độ thì bị xem là đạo đức giả. Các em phải đối phó với thái độ từ những người bạn đồng trang lứa với mình.

Ngoài những trở ngại trong quan hệ bạn bè bình thường, các em còn có những trở ngại khi tiếp xúc với bạn khác giới. Khó khăn nhất là khó kềm chế cảm xúc, dễ phân tâm khi xuất hiện cảm xúc giới tính và bị chi phối bởi những cảm xúc mới mẻ này, bản thân các em nhiều khi không muốn bị phân tâm.

Kế đến là bị trêu chọc, ghép đôi mà không biết phải ứng xử như thế nào, khi thích hay không thích sự gán ghép đều không biết phải ứng xử làm sao để bạn bè không trêu chọc nữa. Tất cả những kinh nghiệm ứng xử đó đều mới mẻ, lạ lùng nên các em thường có những phản ứng vụng về, làm tổn thương nhau.

Làm sao để ngỏ ý tình cảm mình dành cho người khác phái và từ chối tình cảm người bạn dành cho mình cũng là một thách thức. Ngỏ ý hay từ chối tình cảm đều sợ bạn mình buồn, đau khổ, suy sụp, rồi dằn vặt nghĩ mình gây nên tội lỗi.

Các em cũng thường ngộ nhận cảm xúc với tình cảm, đó là những xao xuyến tạm thời chứ chưa có thể đi đến mối quan hệ bền vững. Việc các em ngộ nhận và đối phó với sự cấm cản đã được trình bày trong phần I.

Ngược lại, có những em chưa xao xuyến về tình cảm khác phái, đôi khi lại mặc cảm lẻ loi, kém duyên, băn khoăn thèm muốn được như bạn bè, để được sự quan tâm lo âu của bạn khác giới. Đây là đặc điểm tâm lý khác biệt so với những thời trước do ảnh hưởng của lối sống hiện đại.

Trẻ vị thành niên còn có nhu cầu xác định bản sắc riêng, với biểu hiện đầu tiên là mất thời giờ nắn nót chữ ký, điều này thường xảy ra ở các em lớp 6, lớp 7 (12-13 tuổi). Các em cũng đưa ra triết lý về chữ ký để bộc lộ bản sắc riêng, ý thức được tại sao tôi ký như vậy: ký liền một nét để không giữa đường gãy gánh, nét đi tới chứ không vòng lại ở đoạn cuối để về già được thanh thản, ký làm sao khi khoanh chữ ký lại thành hình chữ nhật hay hình bình hành để cuộc đời bình an, nếu ra hình tam giác thì đời có nhiều kẻ thù.

Bản sắc được bộc lộ rõ hơn khi các em thường soi gương, chọn cách thể hiện (khoảng 14 tuổi), chú ý đến sắc vóc, chọn cách xuất hiện trước mắt mọi người với mắt bồ câu, nụ cười hút hồn, dáng đi hoàn vũ.

Bản sắc càng được xác định rõ hơn khi trẻ vị thành niên tạo cho mình biệt danh, các em chọn cho mình một tên gọi không trùng lắp với người khác, tên gọi nghe một lần không thể quên được. Biệt danh cũng nói lên được tâm lý của trẻ ổn định hay không. Có những em nữ sinh nhìn bề ngoài hiền lành, thùy mị, ít nói nhưng giới thiệu biệt danh là “Người điên của thế kỷ”: Biệt danh này ẩn chứa sự nổi loạn ở bên trong, muốn chứng tỏ sự không bình thường của mình. Có những em gái đeo mắt kiếng nhiều màu sắc, đầu kẹp nơ, bông tai lủng lẳng, tay hai ba loại vòng, giới thiệu mình là “Ốc điệu”: Cho thấy em nhìn ra được tính cách con người của mình. Có những em mam sinh người nhỏ thó, xanh xao nhưng tự giới thiệu biệt danh là “Thiên thần đen”: Ẩn chứa sự khao khát một sức mạnh, khao khát sự thể hiện. Các em còn thích đặt biệt danh cho người khác, thậm chí còn rất hào hứng đặt biệt danh cho cả thầy cô, và đó là trò nghịch ngợm của học sinh.

Bản sắc riêng sẽ càng sâu sắc hơn theo độ tuổi khi xây dựng triết lý mới lạ như là một tuyên ngôn của người đã lớn, các em cho rằng mình đã hiểu biết, lý luận sâu sắc. Tuổi này luôn tìm sự đột phá trong suy nghĩ, trong quan niệm, không thích đi theo lối mòn mà người lớn đã bày sẵn. Các em không phủ nhận những gì người lớn nói, nhưng lại tìm cho mình một cách nói khác đối lập, thậm chí bẻ chữ, lập luận cùn: “Một sự nhịn, chín sự nhục”, chữ có nghĩa của nó hết, nhớ đi với thương, tức đi với giận, đau đi với khổ, buồn đi với rầu, thành ra nhịn đi với nhục! Mặc dù các em biết nói sai nhưng khoái chí vì không ai có thể lập luận để đè đẹp lý luận của mình, các em muốn làm người lớn theo kiểu của mình chứ không theo khuôn mẫu, sự áp đặt của cha mẹ.

Dần dần các em nói một cách thú vị hơn và thuyết phục hơn: “Nhìn lên hay hơn nhìn xuống”, sống ở đời phải nhìn lên để tiến bộ, phấn đấu, chứ nhìn xuống mình cứ thấy mình hơn người khác, để rồi cứ an phận thì mình sẽ lạc hậu. Không phải lập luận nào của trẻ cũng vô lý, có khi lập luận của người lớn không hợp lý theo từng hoàn cảnh.

Có thể chúng ta phải giật mình khi nghe các em nói rằng: “Không bao giờ hối hận quá 3 phút!”, nghe có vẻ ngạo ngược, nhưng được giải thích một cách chí lý rằng điều quan trọng không phải ngồi đó để hối hận.

Học = không rớt, có nghĩa là Không học = rớt. Cộng vế với vế: Học + không học = không rớt + rớt, đặt thừa số chung: Học ( 1 + không) = Rớt ( 1 + không). Cuối sùng suy ra Học = Rớt, học cũng rớt như thường. Các em biết rằng đây là cân bằng phương trình kiểu ngụy biện, nhưng vẫn rao truyền với nhau kiểu tư duy này. Điều đó cho thấy tuổi vị thành niên cắc cớ vô cùng và luôn tìm một cái gì đó đột phá, khác biệt, lạ lùng mà mình cho rằng là có lý.

Lên đến cấp ba (từ 16 tuổi), những triết lý này sẽ được chỉnh đốn lại, để các em hình thành một định hướng giá trị và tạo ra quan điểm sống cho vị thành niên. Đây là bước ngoặc rất quan trọng để người ta trưởng thành. Khi viết blog, các em thường tạo cho mình một câu tâm đắc, như là kim chỉ nam. Có thể nhìn vào nội dung đó để thấy một trẻ vị thành niên thể hiện bản sắc của chúng và định hướng giá trị có lành mạnh hay không.

Có thể thấy những câu như: “Hãy trở thành cầu vồng sau mỗi cơn mưa!” như là một lời nhắc nhở hãy đứng dậy mỗi khi vấp ngã; “Mọi tự do giới hạn ở chỗ… chạm tới tự do của người khác!”; “Người đùm bọc, che chở tốt nhất cho ta là tài năng và đức hạnh của chính mình”, chứng tỏ khả năng độc lập và tự vực mình lên.

Song song đó không ít các bạn trẻ chọn cho mình những câu không đáng để quan tâm. Cần quan tâm đến những câu mà các em chọn để chỉnh đốn suy nghĩ không đúng đắn, nhất là những câu nửa đùa nửa thật vì trong đùa có thật: “Lời nói không mất được đâu, lựa lời mà nói để câu được tiền”, điều này quá đề cao đồng tiền bất kể đạo đức.

Trong độ tuổi vị thành niên, các em sẽ có có quá trình để hình thành nên bản sắc của mình, quá trình này có nhiều biến động, đó là nhu cầu xác định bản sắc riêng. Trước hết, các em thường hay tự chất vấn lại những giá trị trước đây người lớn đã trao cho mình, hoặc giáo dục mình để đưa đến kết luận mới, quyết định mới. Điều này thể hiện bản sắc hình thành nơi đứa trẻ, các em biết rằng mình đang làm gì và tại sao mình làm như vậy, thích làm hay không, vì sao không thích mà vẫn làm, hiểu rõ tôi là người như thế nào. Chẳng hạn, khi còn là học sinh tiểu học, trẻ được dạy “đi thưa, về trình” là một hành động tốt, lễ phép nhưng một ngày nào đó ở tuổi vị thành niên em sẽ tự chất vấn có cần thiết thưa trình không, khi mà có nhiều người không thưa trình cũng không phải là người xấu. Có em quyết định không thưa trình nữa, có em thì tiếp tục thưa trình nhưng xem đó chỉ là một hình thức xã giao chứ không là hành động tốt xấu, hoặc chỉ xem đó là hành động nhằm để cha mẹ vui lòng.

Có những em tự chất vấn nhưng không đưa ra được kết luận, không biết phải làm sao, lúc thì thế này, lúc thế khác, không có cơ sở lý luận vì sao làm như vậy. Đây là trường hợp bản sắc bị khủng hoảng. Cũng trong ví dụ trên, có em không biết có nên thưa trình nữa không, vì thấy ông bác sĩ nọ không thưa trình cũng được nể trọng, còn cô giáo kia có thưa trình cũng được kính trọng, em cứ mãi băn khoăn mà không ra quyết định dứt khoát, lúc thưa, lúc không.

Có những em đến tuổi vị thành niên nhưng không chất vấn, cha mẹ, thầy cô bảo sao thì làm vậy dẫn đến bản sắc quá hạn. Tuy trẻ ở tuổi vị thành niên nhưng đang sống bằng hình ảnh ở tuổi tiểu học của mình, vẫn là một nhi đồng trong một cơ thể vị thành niên, không cập nhật được sự phát triển của bản thân, với biểu hiện là thường lệ thuộc vào một người nào đó.

Gió chiều nào, ngã theo chiều đó, không chất vấn, mà cũng chẳng quyết định, gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Đó là những em đi với bạn thì cả nể bạn, về nhà thì lệ thuộc gia đình, sống theo hứng thú, sống theo bản năng hơn là lý trí, làm cho bản sắc phân tán, mờ nhạt.

Trong xã hội, có những người đi qua tuổi vị thành niên rồi nhưng bị kẹt lại, không bức phá ra được để trở thành người lớn, nguyên nhân là do cách giáo dục của gia đình. Thường cha mẹ giáo dục con bằng thái độ quá hà khắc dễ đẩy con vào trạng thái bản sắc khủng hoảng, vì trẻ muốn nổi loạn, muốn bứt phá nhưng không bức ra khỏi luân lý đạo đức được, không biết phải làm sao. Cha mẹ mà ôm ấp, bảo bọc, chăm lo cho con quá, áp đặt con quá thì con sẽ làm con thành bản sắc quá hạn. Cha mẹ bỏ mặc con, lối sống gia đình không có nề nếp, con sẽ rơi vào tình trạng bản sắc phân tán, gần như không có bản sắc. Giáo dục con một cách đúng đắn, phải để cho ở giai đoạn tuổi vị thành niên con được quyền tự chất vấn, cho con nói lên suy nghĩ của mình để tự điều chỉnh lại, hình thành nên bản sắc.

Đến cuối tuổi trung học phổ thông (16-18 tuổi) thì các em có nhu cầu định hướng nghề nghiệp, người vị thành niên cần được định hướng trên những cơ sở có lập luận khoa học rõ ràng. Cơ sở định hướng nghề nghiệp không chỉ là sở thích mà còn là có khả năng hay không. Thường trẻ vị thành niên rất mờ mịt về định hướng do thiếu cơ sở, không biết được năng lực của mình là gì. Nếu trẻ có bản sắc thì biết được năng lực, biết được mình giỏi cái gì, dở cái gì, trên cở sở năng lực mới chọn ra sở thích phù hợp.

Bên cạnh đó, trẻ phải hiểu về đặc điểm, yêu cầu của nghề nghiệp. Chẳng hạn có những em thích làm bác sĩ vì thấy rằng đây là nghề vĩ đại, chuyên đi cứu người nhưng lại không biết rằng đó là nghề rất vất vả, cực nhọc và đầy hy sinh. Cần giúp cho con trẻ hiểu được đặc điểm và yêu cầu của nghề nghiệp để chọn nghề không chệch hướng.

Cũng cần phân tích điều kiện để theo đuổi nghề nghiệp, chẳng hạn có em thích làm hướng dẫn viên du lịch. Đây là nghề thường đi đó đây, nhưng đến lúc lập gia đình sẽ trở ngại, và nghề này chỉ thích hợp ở một độ tuổi nào đó, cần suy nghĩ đến chuyện khi quá tuổi thì sẽ phải làm nghề gì. Nếu thích trở thành nha sĩ, khả năng học thì có nhưng cũng cần suy tính có đủ điều kiện tiền bạc mua trang thiết bị để học, liệu có theo được nghề hay không, đó là vấn đề cần được đặt ra.

Do không có được những hướng dẫn thích hợp các em thường gặp phải những khó khăn như chọn nghề theo sự kỳ vọng và sự áp đặt của cha mẹ hơn là khả năng của bản thân. Hoặc các em bị tác động bởi thông tin và thiếu thông tin về nghề nghiệp, chẳng hạn có những sinh viên nông thôn chỉ biết ngoài nghề nông là nghề dạy học, không biết các nghề khác để lựa chọn phù hợp.

Kết quả nghiên cứu cho thấy 55 % sinh viên tại TP.HCM, 30% ở Đồng Nai biết mơ hồ về nghề nghiệp, và 10% hoàn toàn không biết gì về nghề nghiệp tương lai. Hầu như là do họ chưa xác định được bản sắc riêng, ngoài nguyên nhân từ gia đình, còn có nguyên nhân từ nhà trường: do điểm ảo, thành tích ảo, không xác định được khả năng, các môn học nổi trội để định hướng nghề nghiệp tương lai. Các cuộc khảo sát cho thấy 40% chọn học nghề không phù hợp.

Tầm quan trọng của bản sắc riêng: Bản sắc riêng được xác định nghĩa là một cá nhân nào đó nhận thức rõ bản thân tôi là ai. Từ đó, định hướng cuộc đời, định hướng nghề nghiệp mới rõ ràng và nhờ vậy có được nền tảng của hạnh phúc. Ngược lại, bản sắc không rõ ràng thì rất nguy hiểm, bản thân không thành công và khó hạnh phúc, đứng về góc độ xã hội sẽ làm thất thoát tài năng, hiệu quả kinh tế kém. Hiện nay, số sinh viên đại học có bản sắc không nhiều, một xã hội mà con người thiếu bản sắc thì rất nguy hiểm.

Ở giai đoạn tuổi vị thành niên điều quan trọng nhất là phải giúp trẻ hình thành được bản sắc riêng. Vì thế, các bậc cha mẹ hãy đón nhận con mình như là những gì trẻ thực có, làm sao để con sống bình an, hạnh phúc với những đặc điểm riêng của trẻ, đó là triết lý chung cần ghi nhận.

Xen lẫn trong phần trình bày của mình, tiến sĩ đã trả lời nhiều câu hỏi của khán giả để giải quyết các hoàn cảnh khác nhau mà các bậc phụ huynh và trẻ vị thành niên gặp phải trong cuộc sống. Hy vọng rằng qua đề tài này, các bậc phụ huynh có những điều chỉnh thích hợp trong cách giáo dục con cái và quan tâm đúng mức để con cái mình trưởng thành một cách chững chạc, tạo được bản sắc riêng để vững bước đi vào đời.

Sàigòn, ngày 31 tháng Ba năm 2011,

Tạ Ân Phúc
 
Tôi thán phục HĐGMHK với chương trình ''Sống đạo như người quản lý''
Đ.Ô. Francis Phạm Văn Phương
10:22 01/04/2011
Năm 1972, khi tôi đang chuẩn bị để được gửi sang du học tại Hoa Kỳ, Đức Cha Giuse Lê Văn Ấn là Giám Mục Giáo Phận Xuân Lộc, người đã ký giấy và cho phép tôi đi du học, nhưng Ngài lại tỏ ra quản ngại đặc biệt về tinh thần đạo đức lúc đó tại Hoa Kỳ. Ngài nói với tôi rằng: Ngài đã quyết định cho tôi đi du học ở Hoa Kỳ, nhưng nay Ngài lại như muốn đổi ý, vì Ngài nghe có nhiều người nói, tình trạng sinh hoạt tôn giáo ở Hoa Kỳ không thuận lợi, nhiều nam nữ tu sĩ đã bỏ ơn kêu gọi. Chủng viện và Tu viện trống vắng, kể cả sự kiện có nhiều linh mục rời bỏ đời sống linh mục, giáo dân thì ít còn đi lễ đi nhà thờ…

Có lẽ đó cũng là những quan niệm và ý nghĩ chung của nhiều Đức Giám Mục, Linh mục và các vị có uy tín ở Việt Nam lúc đó. Các Ngài nghĩ rằng Hoa Kỳ là một nước phồn thịnh và tiến bộ thật sự về mặt kỹ thuật và vật chất, nhưng tinh thần đạo đức và tôn giáo thì có thể còn ở điểm thấp. Chính vì thế mà bao nhiêu năm qua, không có mấy linh mục, chủng sinh và nữ tu được gửi sang du học ở Hoa Kỳ. Nói đến việc gửi người ưu tuyển đi du học ở ngoại quốc để sau này về làm việc cho tương lai thì phải là người được gửi sang du học ở Ý, Pháp, Thụy Sĩ, bên Đức hoặc gần hơn thì ở Philuậttân….

Năm 1975, đánh dấu khúc quanh lịch sử của Quê Hương và Giáo Hội Việt Nam. Rất đông người Việt Nam kể cả người Công Giáo Việt Nam đã đi ra sống ở ngoại quốc. Ngày nay, ở tại Hoa Kỳ, ít nhất cũng có trên 600,000 Người Công Giáo Việt Nam và gần 1,000 linh mục Việt Nam đang sống và làm việc. Khối người Công Giáo Việt Nam này đã có kinh nghiệm sống tại Việt Nam và đã quan sát sinh hoạt tôn giáo tại Hoa Kỳ, họ sẽ có những nhận định và phê phán công bình và chính xác hơn về Giáo Hội và nếp sống đạo ở Hoa Kỳ. Riêng tôi, tôi cũng muốn tìm hiểu thêm và đóng góp vào bài viết này, để mọi người có thể hiểu biết rõ hơn về Giáo Hội Hoa Kỳ, trong đó vai trò lãnh đạo của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ thật là khéo léo và đáng khen ngợi. Sau đây là mấy con số thống kê của Giáo Hội Hoa Kỳ.

Dựa vào cuốn The Official Catholic Directory năm 2010, chúng ta có các con số mới nhất sau đây về Giáo Hội Hoa Kỳ:

  • Hồng Y: 13 vị
  • Tổng Giám Mục: 59 vị
  • Giám Mục: 390 vị
  • Đan Viện Phụ: 110 vị
  • Linh Mục Triều / Địa Phận: 27,614
  • Linh Mục Dòng Tu: 13,174
  • Linh Mục mới chịu chức năm 2010: 472 (trung bình mỗi năm)
  • Thầy Sáu Vĩnh Viễn: 17,163
  • Nam Tu Sĩ / Chủng Sinh: 4,737
  • Nữ Tu Sĩ: 58,724
  • Giáo Xứ: 18,372
  • Giáo Họ: 2,680
  • Số Giáo Dân Công Giáo: 68,503,456
  • Số Người Dân Hoa Kỳ: 310,252,317
  • Tỉ Số Công Giáo: 22%

Hàng Giáo Phẩm kết hợp với Hội Đồng Giám Mục là cơ quan lãnh đạo tối cao đang hướng dẫn Giáo Hội Hoa Kỳ vượt qua nhiều khó khăn, kể cả những cuộc khủng hoảng và thanh lọc trong quá khứ. Hội Đồng Giám Mục luôn tỏ ra xứng đáng với vai trò lãnh đạo bằng cách đề ra đường hướng chính cho chương trình sống đạo, hành đạo và truyền đạo, luôn được thích hợp và ở trong chiều hướng đi lên.

Trong lối sống đạo độc đáo và hữu hiệu tại Hoa Kỳ do Hội Đồng Giám Mục đề xướng, triển khai, áp dụng và hướng dẫn, chúng ta phải kể tới: “Lối Sống Đạo Như Người Quản Lý Các Ơn Huệ Của Chúa” (Stewardship of Time, Talents and Treasures).

Để thực hành lối sống đạo này, Giáo Hội Hoa Kỳ chủ trương và dạy rằng: Mỗi người Công Giáo Hoa Kỳ phải xác nhận rằng, mình là một người quản lý các ơn huệ của Chúa, ân huệ thời giờ, tài năng và tiền bạc. Tất cả đều là ân huệ do Chúa đã ban. Do đấy, mình cần phải nghĩ tới trách nhiệm dâng lại cho Chúa một phần hợp lý, để cảm tạ Thiên Chúa và để sống đạo. Như thế việc sống đạo đã rõ ràng lại cụ thể và có việc làm. Việc dâng hiến này để sống đạo đã được quy định là dâng 1/10 các ân huệ do Chúa đã ban và được gọi là dâng hiến thập phân trong Cựu Ước (Tithe), được khích lệ trong Tân Ước và được xác quyết trong giáo huấn của HĐGM Hoa Kỳ.

Chính Đức Tổng Giám Mục Atlanta, Đức Cha Wilton D. Gregory trong văn thư mới đây, Ngài khích lệ giáo dâng trong toàn Tổng Giáo Phận nên suy xét, cầu nguyện và quyết định dâng hiến 10% về thời giờ, tài năng và tiền bạc. Dựa theo quyết định ấy, chúng ta có thể gia tăng việc cầu nguyện, học hỏi, sinh hoạt hội đoàn và tự nguyện phục vụ và giúp đỡ với khả năng và tài trí Chúa ban để tích cực sống đạo. Về tiền bạc, văn thư cũng đề nghị mỗi gia đình dâng hiến 10 % cho Chúa: 4 % cho ngân sách sinh hoạt của giáo xứ, 1 % cho cuộc lạc quyên của Tổng Giáo Phận hàng năm và 5% cho việc bác ái yêu thương chia sẻ mà mỗi người sẽ quyết định làm ở đâu và khi nào.

Để kết luận, chúng ta có thể nói rằng lối sống đạo “Stewardship of Time, Talents and Treasures” đã làm cho Giáo Hội Hoa Kỳ được mạnh mẽ, được trưởng thành và hoạt động, nhà thờ luôn có nhiều người tham dự thánh lễ cuối tuần, các hội đoàn sinh hoạt sầm uất, nhiều người thiện nguyện vào các mục vụ, Giáo Hội sung túc và họat động…. Trong khi có nhiều Giáo Hội ở các quốc gia khác không sinh hoạt được như vậy! Theo tinh thần khách quan, chúng ta có thể nghĩ rằng Giáo Hội Hoa Kỳ hiện đang ở vào cao điểm và đáng thán phục!
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Quyền làm người
Jos. Tú Nạc, NMS
10:20 01/04/2011
Vào năm 1948 đã có một sự kiện thế giới quan trọng. Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc đã ký Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Bản Tuyên ngôn này nói rằng Nhân quyền là tính phổ quát. Mỗi người và mọi người được sinh ra trên trái đất đều có quyền bình đẳng.
Để tưởng nhớ và khuếch trương bản tuyên ngôn đầu tiên, quyền làm người sẽ được bổ sung và ra đời vào năm 2048. Nó được gọi là Đề án 2048. Đề án 2048 là một nhóm các trường trung học, đại học, những tổ chức phi chính phủ và kinh doanh. Nó được gọi như vậy bởi vì vào năm 2048, bản Tuyên ngôn Độc lập sẽ tròn một trăm năm tuổi. Đây cũng là năm mà đề án này gặp gỡ những mục tiêu của nó. Họ hy vọng sẽ thực hiện được hai điều vào năm 2048.
Điều thứ nhất mà Đề án 2048 mong muốn để thực hiện là tạo ra một phương cách để triệu tập các quốc gia và những nhân vật có thể chịu trách nhiệm. Điều này muốn nói rằng phải có một phương thức để ép buộc tuân thủ nhân quyền. Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân Quyền không phải là một hiệp ước. Đề án 2048 muốn thay đổi điều này. Nếu một người nào đó không nhận được đầy đủ quyền lợi của mình, họ phải được thực hiện một điều gì đó. Vậy nên có một số người mà họ có thể nói và bước đi mà họ có khả năng hướng dẫn. Đề án 2048 bao gồm một số điều luật về trường học – trường đại học để đào tạo những luật sư và thẩm phán. Đặc biệt những nhà trường này quan tâm những câu hỏi luật pháp cho mục đích này.
Điều thứ hai họ muốn thực hiện là hướng dẫn tất cả dân chúng hiểu biết về quyền lợi của mình. Đặc biệt là họ muốn giảng dạy cho học sinh-sinh viên. Việc hiểu biết quyền lơi của bạn và quyền lợi của người khác là điều tối quan trọng. Việc giáo dục cho tất cả mọi người là mục tiêu khó khăn. Nhưng nếu người ta hiểu biết quyền lợi của mình, sau đó họ có thể kích động chính quyền của họ bảo vệ họ.
Bản tuyên ngôn này là một bản liệt kê rất dài. Đề án 2048 đã đơn giản hóa bản liệt kê này trong năm tự do chính yếu. Điều này tạo cho bản liệt kê dễ nhớ và dễ hiểu hơn. Họ đặt nền tảng năm tự do này trên một bài diễn văn của cựu tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt.
“Chúng ta hướng về một thế giới được xây dựng trên nền tảng bốn quyền tự do thiết yếu của con người…”
Roosevelt là tổng thống ngay sau khi Đệ nhị Thế Chiến – vì khoảng thời gian này mà nguyên bản tuyên ngôn đã được viết. Đây là thời gian mà con người muốn tạo sự bảo đảm rằng chiến tranh và chết chóc không còn xẩy ra nữa. Ông gọi bốn tự do này là: tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do thụ hưởng và tự do bình ổn. Đề án 2048 đã bổ sung một tự do thứ năm mà nó trở nên vô cùng quan trọng đối với thế giới đó là tự do môi trường.
“… bất kỳ nơi đâu trên thế giới.”
Để biết năm tự do này là một điều bổ ích. Kirk Boyd là một trong những nhà lãnh đạo đề án 2048. Ông đã có cách để ghi nhớ năm tự do này. Thứ nhất bạn phải giơ bàn tay của bạn ra và nhìn vào nó. Hầu hết chúng ta ai cũng có năm ngón tay; một trong số chúng là ngón cái. Ngón cái khỏe và đứng ở bên ngoài. Ngón này tượng trưng cho tự do ngôn luận. Đó là một quyền của con người để đứng lên và ăn nói. Con người có quyền ấy để nói hoặc viết những gì mà họ nghĩ.
Ngón kế là ngón điềm chỉ, hay ngón trỏ. Trong một số nền văn hóa, người ta người ta tập trung vào ngón này nhất. Nó tượng trưng cho sự tự do tôn giáo. Khi người ta tìm kiếm một phương hướng, người ta có quyền tư do lựa chọn bất kỳ tôn giáo nào hoặc không tôn giáo. Đối với những người đặt niềm tin vào Thiên Chúa, họ được tự do để thực hiện mà không có sự kiểm soát của chính quyền. Con người phải có quyền ấy để theo bất kỳ một tôn giáo nào mà họ đặt niềm tin.
Ngón thứ ba là ngón giữa. Nó dài hơn tất cả những ngón khác. Nó tượng trưng cho sự tự do thừa hưởng. Có nhiều người trên thế giới đã không được quyền con người này. Họ vẫn thiếu thực phẩm, nước uống, nơi trú ngụ, giáo dục hoặc chăm sóc sức khỏe. Bạn biết rằng có nước uống là quyền của một cá nhân không? Còn vấn đề đi học? Hoặc có sự điều trị từ một thầy thuốc giỏi? Tự do thừa hưởng bây giờ là con đường của tất cả mọi người trên trái đất.
Trong một số nền văn hóa, người ta đeo nhẫn cưới trên ngón thứ tư của họ. Ngón này là biểu tượng của sự quan hệ mật thiết. Nó tượng trưng cho sự tự do môi trường. Tất cả con người đều phải liên kết với trái đất. Tất cả mọi người đề cần nước uống, thực phẩm, không khí và nơi cư trú. Sức khỏe của chúng ta tùy thuộc và cách mà chúng ta bảo vệ môi trường. Nên đó là điều quan trọng mà chúng ta phải có quyền để thực hiện những gì tốt cho trái đất và lợi ích cho chúng ta. Bạn có thể thấy rằng điều này có liên quan với sự tự do thứ ba. Nếu chúng ta có đủ nước uống, thực phẩm và sức khỏe tốt điều đó dễ dàng hơn để chúng ta có mối quan hệ hoàn hảo với trái đất.
Ngón cuối cùng thì ngắn. Nhưng trong một số phương thức, nó rất quan trọng. Đây là sự tự do bình ổn. Ngón này hài hòa những ngón khác và tất cả chúng đều qui về nó. Nếu một người không có đủ đất đai và tiền bạc để nuôi nấng gia đình mình, người ấy có thể sống trong lo âu, sợ hãi. Nếu một phụ nữ không có sự chăm sóc sức khỏe tốt, người ấy có thể sợ thai nghén, sinh đẻ. Nếu chúng ta có tự do ngôn luận, tôn giáo, cho môi trường và thụ hưởng, chúng ta mới có thể sống bình ổn, không lo sợ.
Đây là cách hơn hết để chúng ta có thể nhìn thấy năm sự tự do của chúng ta trong bàn tay của mình. Chúng ta dùng bàn tay của chúng ta để làm việc và vui chơi mỗi ngày. Đề án năm 2048 đang nỗ lực tìm kiếm một đường lối để tạo nhân quyền một phần trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Giáo dục quần chúng về nhân quyền của họ là một bước quan trọng hàng đầu. Nhưng mục đích chính của họ là để các quốc gia trên thế giới ký một một tài liệu mới vào năm 2048. Ngày kỷ niệm một trăm nay này là một thời điểm tuyệt vời cho một cấu trúc mới. Nên đề án 2048 đang làm việc để đưa ra một cơ cấu tuân thủ khả thi cho những chính phủ. Cơ cấu này có nghĩa là buộc các chính phủ phải tuân thủ nhân quyền trong đất nước của họ. Điều này tạo một sự thay đổi sâu sắc đối với mọi nơi trên thế giới.
Sự thay đổi này có thể diễn ra chậm chạp. Thay đổi một chính thể đòi hỏi điều kiện thời gian. Thâm chí là một điều khó có thể. Đó là lý do tại sao mà Đề án 2048 đang bắt đầu từ bây giờ. Họ vẫn còn ngót bốn mươi năm nữa để vươn tới mục tiêu của họ. Chúng ta có thể giúp đỡ bằng cách hiểu biết những quyền làm người của chính bản thân và tôn trọng quyền lợi của người khác. Và chúng ta hy vọng rằng sau bốn mươi năm, sẽ có một con đường dành cho mọi người thuộc mọi dân tộc thực hiện để hướng tới năm sự tự do này.
 
Dân chủ
Jos. Tú Nạc, NMS
10:20 01/04/2011
Chúa Giê-su đã dạy rằng mọi sự sống con người đều quan trọng trong ánh mắt của Thiên Chúa.
Ý tưởng này cho rằng mỗi con người đều quan trọng là tư tưởng căn bản để con người tự cai trị chính mình. Đó là tư tưởng căn bản cho nền dân chủ.
Dân chủ là một kiểu chính quyền mà để người dân tự cai trị bản thân. Họ tự cai trị mình bằng sự lựa chọn người cai trị của họ và người lập pháp của họ. Abraham Lincoln đã nói rõ ý nghĩa của dân chủ là gì trong cuốn Gettysburg Address trứ danh của ông. Ông đã gọi nó là “chính quyền của dân, do dân và vì dân” (government of the people, by the people, and for the people)
Ý tưởng về nền dân chủ không phải là mới mẻ. Người Hy Lạp cổ đại đã biết chọn người cai trị của họ. Cho đến thời người La Mã cũng đã thực hiện như vậy. Cho đến thời Trung cổ một số bộ lạc Đức đã duy trì ý tưởng dân chủ một cách sinh động. Nhưng ở hầu hết các quốc gia nơi mà chúng ta thấy ngày nay có dân chủ, người dân đã chiến thắng giành quyền tự quyết cho chính mình bằng một cuộc đấu tranh gian khổ.
Hoa Kỳ là một nước cộng hòa tiêu biểu. Người dân của đất nước này bầu chọn hầu hết các quan chức chính quyền – các nhà lập pháp cũng như các nhân viên chính quyền. Nhiều quốc gia nơi mà người dân tự nắm quyền là những nước cộng hòa. Tuy nhiên vua và nữ hoàng, không có quyền lực thực tế. Nhân dân Anh quốc, chẳng hạn, họ tự cai trị chính họ như một nước cộng hòa mặc dù họ có vua và nữ hoàng.
Một số quốc gia tuyên bố rằng họ là nước dân chủ trong khi thực chất họ không phải là dân chủ. Họ cũng có những cuộc bầu cử nhưng không có những lựa chọn để bầu ra. Duy nhất chỉ có một bản liệt kê sẵn những ứng cử viên cho người dân để bầu.
Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ nói rằng moi người đều có quyền được “sống, tự do, và theo đuổi hạnh phúc”. Dân chủ phải được dựa trên ý tưởng này. Nhưng ý tưởng này thì khác với ý tưởng mà một số dân tộc thực hiện – ý tưởng này cho rằng trong một đất nước tự do, như một nền dân chủ thường được gọi, mọi người có thể làm gì tùy ý. Không một ai được làm bất cứ điều gì gây hại cho người khác.
Dân chủ có những vấn đề của nó. Nó không dễ gì để lựa chọn những người lãnh đạo một cách nhạy bén. Một số dân tộc đã không thực hiện được trong sự phân chia hợp lý trong quyền tự trị. Chẳng hạn, họ không được bỏ phiếu trong một cuộc bầu cử. Những người được bầu ra có thể làm những điều thiếu khôn ngoan tự họ đưa ra phổ biến. Bên cạnh đó bộ máy của một nền dân chủ trở nên cồng kềnh, luộm thuộm khi mà có một sự khủng hoảng về một lĩnh vực nào đó. Một người đưa ra quyết định còn hơn hàng triệu người quyết định thông qua những người mà họ bầu ra. Nhiều nước cộng hòa suốt nửa thế kỷ qua đã lọt vào tay những nhà độc tài trong một thời gian khủng hoảng như một số nước Trung Đông và Bắc phi mới đây. Còn một vài quốc gia được gọi là nước cộng hòa, nhưng những sư việc không được suôn sẻ bởi vì người dân không quen đưa ra những quyết định cho chính họ. Họ không quen với những ý tưởng dân chủ đích thực.
Ở Hoa Kỳ, một người phải có một độ tuổi nhất định nào đó (21 tuổi trong hầu hết các Tiểu bang) để có thể đi bầu và như vậy mới được tham gia vào chính quyền. Nhưng những cô cậu có thể thực hành những ý tưởng dân chủ của mình trong cuộc sống hàng ngày. Ở những câu lạc bộ và những lớp học họ có thể bầu ra những người đứng đầu của mình. Họ có thể học hỏi để lựa chọn những nhà lãnh đạo một cách sáng suốt thay vì họ bầu chọn những bằng hữu cá nhân. Họ có thể thực hành lắng nghe những đề nghị và cân nhắc chúng một cách cẩn thận mà không cần biết ai đưa chúng ra. Trên sân chơi, họ có thể thấy rằng mọi người đều có một cơ hội công bằng. Không có một vấn đề gì có thể xẩy ra đối với chủng tộc hay tôn giáo của họ, hoặc có thể gia đình họ giàu - nghèo như thế nào. Các cô cậu thực thi quyền dân chủ ngày này qua ngày khác sẽ trở nên những thành viên tốt hơn của một chế độ dân chủ khi họ trưởng thành đến tuổi ứng – bầu cử.
(Nguồn: The Golden Book Encyclopedia – Golden Press – New York)
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Hội Đồng Quý Chức - Phần Phụ Lục
Lm. Mai Đức Vinh
17:11 01/04/2011

PHỤ LỤC 1: TIẾN TRÌNH THÀNH LẬP HỘI ĐỒNG MỤC VỤ



TRẦN VĂN CẢNH

NHẬP ĐỀ

Từ khi được thành lập vào năm 1947 cho đến năm 1983, với những biến chuyển thăng trầm, Giáo Xứ Việt Nam Paris là một thực thể tôn giáo Việt Nam ở Paris. Trong suốt thời gian hiện hữu trên 40 năm ấy, Giáo Xứ luôn luôn có một Ban Giám Đốc (BGĐ), đại diện giáo quyền để giúp đỡ giáo dân về mặt tinh thần và tôn giáo. Tất cả mọi hoạt động đều do khả năng và nhiệt tình của Ban Giám Đốc, với sự cộng tác riêng rẽ của một số giáo dân, hay của một vài hội đoàn, chứ chưa hề bao giờ được thống nhất và điều hợp theo một qui chế hoặc một tổ chức chung. Nhu cầu cần có một Hội Đồng Mục Vụ (HĐMV), do đó, là một điều cần thiết. Nhưng hoàn cảnh đặc biệt của Ba-lê, vì là trung tâm văn hóa, tôn giáo và chính trị quan trọng, vì có nhiều khuynh hướng đối chọi nhau, việc tạo lập một Hội Đồng Mục Vụ vẫn chỉ là một ước mơ. Đã có nhiều lần, những Ban Giám Đốc tiên nhiệm đã toan tính lập Hội Đồng Mục Vụ bao gồm linh mục và giáo dân, nhưng chưa lần nào, những toan tính tốt đẹp ấy đã được thể hiện kết quả, bởi có quá nhiều khó khăn.

Nhưng những khó khăn này, nhờ ơn Chúa và với sự chuẩn bị cũng như đóng góp một cách tích cực và có phương pháp của Ban Giám Đốc cũng như của Cộng Đoàn, Cộng Đoàn công giáo Việt Nam Paris đã khắc phục được, và kể từ ngày 30.10.1983, một Hội Đồng Mục Vụ, một Ban Thường Vụ (BTV) của Hội Đồng Mục Vụ và một Ban Cố Vấn (BCV) đã chính thức được các đại diện các Đơn Vị Mục Vụ (ĐVMV) gồm đại diện của các Hội Đoàn Mục Vụ và đại diện của các Địa Điểm Mục Vụ thành lập. Rồi ngày 11.12.1983, giáo quyền địa phương, là Tòa Tổng Giám Mục Ba-Lê đã chính thức công nhận Hội Đồng Mục Vụ, Ban Thường Vụ và Ban Cố Vấn, qua sự hiện diện và chúc lành của đức cha Michel COLONI, giám mục phụ tá tổng giáo phận Ba-lê, đặc trách Ngoại Kiều Vụ.

Sứ mệnh của Hội Đồng Mục Vụ được nội quy xác định một cách vắn tắt rằng: 'Hội Đồng Mục Vụ là một cơ quan gồm những giáo dân được tuyển chọn để tích cực cộng tác với Ban Giám Đốc Giáo Xứ trong việc xây dựng cộng đoàn về các phạm vi: tôn giáo, văn hoá, xã hội, tài chính'. Sứ mệnh của Hội Đồng Mục Vụ sẽ được nhìn ra rõ hơn khi thấy được tiến trình theo đó Hội Đồng Mục Vụ đã được thành lập.

Tổ chức được HĐMV là kết tinh của nhiều cố gắng và thiện chí. Những cố gắng ấy đã trải qua ba chặng đường, cũng là ba giai đoạn trong quá trình của HĐMV: giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn phôi thai và giai đoạn sinh hoạt chính thức đầu tiên. (1)

1. GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ

Việc chuẩn bị có thể là chuẩn bị xa, có thể là chuẩn bị gần. Chuẩn bị xa thì chắc chắn là HĐMV hôm nay đã được chuẩn bị từ ngày cộng đoàn Việt Nam được thành lập tại Ba-lê, do những việc mà cộng đoàn và các Ban Giám Đốc (BGĐ) tiền nhiệm đã thực hiện. Chuẩn bị gần thì chắc chắn là từ ngày cha Mai Đức Vinh được bổ nhiệm làm giám đốc giáo xứ năm 1980 và do những hoạt động của BGĐ vào lúc đó, trong đó, sinh hoạt của các nhóm công giáo tiến hành đóng một vai trò không nhỏ.

Các BGĐ tiền nhiệm chẳng những đã góp phần chuẩn bị thành lập, mà một số hiện còn cộng tác với BTV của HĐMV hiện nay. Tôi có ý nói đến cha Trần Thanh Giản, một trong những khuôn mặt của các cha cựu giám đốc. Trong những năm 80, ngài vẫn hàng tháng đi họp với BTV của HĐMV mới thành lập, với tính cách là cố vấn và vẫn thường xuyên tích cực góp sức vào nhiều hoạt động khác. Cha Toán cũng vậy. Còn nói đến việc chuẩn bị thì công lao của các BGĐ tiên nhiệm là việc không thể chối cãi. Không kể việc duy trì và phát triển Đoàn Sinh Viên Công Giáo, Hội Các Bà Mẹ Công Giáo, Hội Đạo Binh Đức Mẹ,... một vài vị giám đốc tiên nhiệm đã rõ rệt muốn lập HĐMV. Năm 1977, cha Trương Đình Hoè đã triệu tập một phiên họp Trí Thức Công Giáo để bàn về vấn đề này. Trước đó, cha Toán và sau đó, cha Hoàng cũng đã có những ý định tương tự.

Nhưng cha Vinh mới thực là người đã trực tiếp chuẩn bị thiết lập HĐMV. Nếu trí nhớ tôi có thể tin được thì vào những năm 1979, 1980, cha Vinh đã nói truyện với tôi về vấn đề này. Lúc vừa nhận trách nhiệm giám đốc, hai vấn đề mà cha Vinh đã thông cảm với tôi và chắc chắn với nhiều người khác nữa, là làm sao để cho cộng đoàn được có tổ chức hơn, nói khác đi, làm sao thiết lập được HĐMV và làm sao tạo cho cộng đoàn một cơ sở thích hợp hơn. Tôi nhớ, lúc đó chúng tôi đàm đạo nhiều về những căn bản thần học, pháp lý, pháp lý đời cũng như pháp lý đạo, của HĐMV. Có lẽ có hai lý do khiến chúng tôi đề cập nhiều về vấn đề này. Thứ nhất vì đó là một vấn đề rất được cha Vinh lưu ý. Một trong hai luận án tiến sĩ mà cha đã đệ trình tại Roma là luận án 'Thần học mục vụ'. Luận án này đề cập đến 'Ban hành giáo tại các họ đạo ở Việt Nam'. Lý do thứ hai vì đó là đề tài thời sự công giáo cho những năm 79, 80. Tôi nhớ lúc đó đã đọc một số tài liệu của đức thánh cha về vấn đề HĐMV này.

Ngoài sự đóng góp của các Ban Giám Đốc tiền nhiệm, sự góp phần của các Hội Đoàn Công Giáo Tiến Hành vào việc thành lập Hội Đồng Mục Vụ cũng thật là quan trọng. Cái khéo của cha Vinh là ở chỗ đó. Ý thì đến từ cha, nhưng cha làm thế nào để ý đó được ý thức và được phát biểu nơi giáo dân. Sau nhiều xáo trộn và ồn ào, với những dư luận mà nhiều kẻ xấu miệng đã tung ra, không mấy hấp dẫn cho Giáo Xứ, nhiều địa điểm mục vụ lúc đó đã cảm thấy nhu cầu cần có một tổ chức để bảo tồn giáo xứ, để cộng tác với các cha. Sau một thời gian làm việc riêng rẽ, nhiều hội đoàn công giáo tiến hành đã cảm thấy nhu cầu cần có một cơ cấu để thống nhất các hoạt động. Những hội đoàn mà tôi đã từng tham dự, như nhóm Cầu Nguyện, nhóm Emmau, nhóm Ca đoàn, nhóm Thần Học Giáo Dân,... tất cả đều ý thức đến những nhu cầu mà tôi vừa nêu trên: nhu cầu sinh tồn, nhu cầu có tổ chức, nhu cầu thống nhất, nhu cầu cộng tác. Một khi nhu cầu đã được ý thức, việc thực hiện trở thành dễ dàng.

2. GIAI ĐOẠN PHÔI THAI

Sau thời gian chuẩn bị, một loạt các hoạt động phôi thai đã được thực hiện. Tôi muốn nói đến việc thành lập và phát triển các hội đoàn, việc lập bản nội quy và việc bầu Ban Thường Vụ. Tất cả những hoạt động này đều được thực hiện trong một giai đoạn mà tôi mạn phép đặt tên là giai đoạn phôi thai của HĐMV.

Có nhiều ý kiến về HĐMV, nhưng ý kiến hay hơn cả có lẽ là ý kiến, theo đó, HĐMV phải được tạo thành do các cán bộ công giáo tiến hành, và đặc biệt là các cán bộ đang tại chức, đang làm việc.

Đơn vị mục vụ gồm các địa điểm mục vụ và các hội đoàn mục vụ. Thực ra thì trong thời gian này, từ khoảng 1981 đến 1983, Cộng Đoàn Công Giáo Ba-lê đã không lập thêm được một địa điểm mục vụ nào mới, mà chỉ lập được một số hội đoàn mục vụ mới. Nhưng ngay cả với những đơn vị đã hiện hữu, làm thế nào để mỗi đơn vị đều có được một ban đại diện không phải là một việc dễ. Lập được một ban đại diện, nhưng chính thức hoá và làm sao cho ban đại diện ấy được công nhận cũng là một việc không dễ khác, cần phải được thực hiện.

Từ việc thành lập đại diện của các đơn vị mục vụ sang việc lập HĐMV, đó không phải là việc đương nhiên! Vì còn hai trở ngại lớn, trở ngại tâm lý và trở ngại pháp lý. Trở ngại tâm lý, tôi có ý nói đến việc hiểu biết nhau, việc làm việc chung với nhau. Hội đồng là nơi mà các đại diện làm việc chung với nhau. Làm thế nào họ có thể làm việc chung, nếu họ không biết có những ai. Do đó, việc đầu tiên phải làm là tạo dịp để các đại diện gặp gỡ và thông cảm nhau, nếu không nói là nhận diện nhau. Dĩ nhiên, lễ chủ nhật là dịp để họ nhận diện nhau, một vài hoạt động đặc biệt, như hai ngày thân hữu, cũng là dịp khác để họ làm việc chung với nhau. Những việc này đã được lưu ý. Nhưng, tổ chức một vài buổi họp để họ ngồi chung lại với nhau, cũng là một việc khác phải làm. Đó là lý do đã có những buổi họp rộng lớn vào năm 1983, đặc biệt là buổi họp đầu tiên, sôi nổi, hào hứng, vào ngày 27.02.1983.

Khó khăn thứ hai là khó khăn pháp lý, hay đúng hơn, có tính cách pháp lý. Dùng từ pháp lý thì hơi to. Vì đơn giản, nó là một bản văn qui định mục tiêu, thành phần, tổ chức, sinh hoạt của HĐMV, mà chúng ta có thể gọi là nội quy đơn giản. Đây là việc căn bản của bất cứ một tổ chức nào, huống hồ là của một tổ chức to lớn và phức tạp như Giáo Xứ Việt Nam Paris. Hai buổi đại hội đã được triệu tập, dành riêng cho việc này, đặc biệt là đại hội ngày 10.04.1983.

Có thể nói được rằng bản nội quy hiện nay là cô đọng ý kiến của tất cả các đại diện của tất cả các đơn vị mục vụ. Tôi nhớ, hồi đó, cha Vinh và tôi đã làm việc nhiều cho bản nội quy này. Chúng tôi đã phải viết đi viết lại đến ba lần. Lần thứ nhất, xong vào ngày 27.02.1983, sau khi đã cân nhắc từng chữ, từng câu, từng khoản, và đã so sánh với các bản nội quy khác của các ban hành giáo ở Việt Nam. Đại hội ngày 27.03.1983 đã sửa một số điều. Chúng tôi đã ngồi lại với nhau hai ngày để viết một bản mới, sửa theo những tiêu chuẩn mà đại hội đã đề ra. Bản thứ hai này đã được đại hội ngày 10.04.1983 nghiên cứu rất kỹ lưỡng: một số câu và chữ đã được sửa lại nữa. Chúng tôi lại phải ngồi lại viết bản thứ ba, để đệ trình vào đại hội ngày 30.10.1983. Lần này, đại hội đã chấp nhận toàn thể bản nội quy. Đó là bản nội quy đang được áp dụng hiện nay, với một vài tu chính do các đại hội ngày 23/06/1985, 13.12.1992, 12.10.1997 và 09.12.2001.

Còn một cơ quan quan trọng của HĐMV chưa được thành lập, đó là Ban Thường Vụ của HĐMV. Các thành viên của HĐMV là các đại diện của các đơn vị mục vụ, đã có. Nhưng các đại diện đông đảo quá, và mỗi lần tổ chức một phiên họp, thật là khó. Vả nữa, ai sẽ là người giải quyết các vấn đề thường ngày? Đó là vấn đề quan trọng phải được thực hiện. Qua một ngày đại hội rất sôi nổi, ngày 30.10 ?1983, một Ban Thường Vụ tiên khởi đã được bầu ra. Yếu tố cuối cùng, nhưng quan trọng nhất, đã được hoàn tất. Từ đây, cụ thể mà nói, ta có thể bảo HĐMV đã được thành lập.

3. GIAI ĐOẠN SINH HOẠT CHÍNH THỨC ĐẦU TIÊN 1983-1985

Tổ chức của cộng đoàn Giáo Xứ Việt Nam Paris là một tổ chức công giáo, trong đó, yếu tố pháp lý dân cử là quan trọng, nhưng không phải là quyết định. Sự quyết định đòi phải có sự hiệp thông của Giáo Hội địa phương, mà giám mục là đại diện chính thức. Báo Dân Chúa, số tháng 12/1985 có đăng bài của cha Phan Tấn Thành, nói rõ về điều này như sau: "Tiếng hiệp thông nhấn mạnh đến các yếu tố nội tại tạo nên Giáo Hội. Các phần tử Giáo Hội đã được gắn bó với nhau, không phải bằng các cơ chế luật lệ bề ngoài, nhưng bằng các sợi dây liên kết bên trong. Tất cả các phần tử gắn bó với nhau vì cùng chia sẻ một gia sản chung, một sức sống chung, một vận mạng chung. Sự hiệp thông trong cộng đồng địa phương đòi hỏi sự hiệp thông với giám mục".

Tôi vừa dùng chữ 'cụ thể mà nói', chứ không dám dùng chữ 'chính thức mà nói', vì BTV cũng như HĐMV chưa chính thức được giáo quyền địa phương công nhận. Phải đợi tới ngày 11.12.1983, khi đức cha Michel COLONI, giám mục phụ tá Paris, thay mặt đức hồng y J.M. LUSTIGER, đến Giáo Xứ, chủ lễ ra mắt của BTV, cũng như của HĐMV, ngày đó HĐMV mới chính thức được thành lập. Và từ đó, ta có thể nói rằng HĐMV đã bước vào giai đoạn thứ ba, giai đoạn sinh hoạt chính thức đàu tiên.

Từ ngày chính thức được công nhận, HĐMV tiên khởi đã làm được gì trong hai năm 1983-1985?

Trong bản phúc trình cho đại hội ngày 23.06.1985, đăng trong báo Giáo Xứ số 16 (2), ông chủ tịch BTV-HĐMV đã trả lời vấn đề này. Phần tôi, tôi gợi lại vài yếu tố góp phần trả lời, cũng đã được đăng trong Báo Giáo Xứ số 11, ngày 01.12.1985 (3), và sửa lại đôi chút.

Sau hai năm sinh hoạt, HĐMV đã làm được gì? Để trả lời câu hỏi này, người hời hợt và phiến diện sẽ nông nổi nói ngay rằng 'Chưa được gì cả, chưa xây được nhà thờ, chưa gây được quỹ'. Trả lời như vậy tức là chối bỏ cái quỹ xây nhà thờ là to lớn, cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, cần có kế hoạch, cần hiểu biết về pháp luật và giáo luật đến chi tiết, cần quản trị nghiêm chỉnh. Một gia đình, nhất là một gia đình trẻ, tay trắng, muốn mua một căn nhà, và mua chịu, cũng còn cần phải làm một kế hoạch tiết kiệm năm năm. Huống hồ việc gây quỹ cho một cộng đoàn, một quỹ to, đủ để xây một nhà thờ, có phải một sớm một chiều, một năm một tháng mà làm được đâu.

Người khác lại trả lời rằng: 'Được nhiều việc lắm: ra được báo, xây được sân xi-măng, giúp các cha tổ chức được hai ngày thân hữu, giúp các cha tổ chức được những lễ lạc lớn,...' Câu trả lời này cũng hời hợt và nhất diện không kém gì câu trả lời trên. Như chúng ta vừa thấy ở trên, HĐMV này là HĐMV tiên khởi của cộng đoàn Giáo Xứ Việt Nam Paris, một cộng đoàn có nhiều vấn đề đa tạp cần giải quyết, và sự hiện diện ở đây có lẽ còn kéo dài thế hệ này qua thế hệ nọ.

Bởi vậy, tiêu chuẩn đầu tiên cần đặt ra là hỏi xem HĐMV có ý thức được sứ mệnh của mình và những vấn đề phải được giải quyết không. Không dám nói rằng HĐMV đã ý thức hoàn toàn được những vấn đề của cộng đoàn, nhưng có những dấu chỉ để bảo rằng HĐMV đã có thiện chí muốn nhận định những vấn đề ấy. Năm đề tài được đưa ra để thảo luận trong đại hội mục vụ ngày 17.06.984, liên hệ đến năm việc quan trọng của cộng đoàn: 1. sự sinh tồn của cộng đoàn, 2. điều kiện phát triển cộng đoàn, 3. sứ mệnh tôn giáo và văn hoá của cộng đoàn, 4. tạo dựng cơ sở cho cộng đoàn, 5. những phương pháp gây quỹ cho cộng đoàn, là một biểu lộ của thiện chí ấy.

Tiêu chuẩn thứ hai cần đưa ra là hỏi xem "cách làm việc của HĐMV có phương pháp không?" Để trả lời câu hỏi này, cần phải nhìn xem BTV và HĐMV làm việc thế nào. Ở điểm này, tôi xin mô tả cách làm việc của HĐMV như sau: BTV đã tạo được một sinh hoạt đều đặn là buổi họp hàng tháng; Các giải pháp được đưa ra, các quyết định được lựa chọn, tất cả đều phải được BGĐ, người trách nhiệm thực sự về tinh thần của cộng đoàn chấp nhận; Tháng nào BTV và BCV cũng giữ được phiên họp hàng tháng này với sự chủ toạ của cha Giám Đốc, và sự trao đổi trong các phiên họp tương đối hào hứng và đa số tích cực. Riêng Đại Hội Mục Vụ thì nhiệm kỳ vừa qua chỉ tổ chức được hai lần. Đó cũng là lý do khiến việc tiếp sức với các đơn vị mục vụ chưa được dồi dào cho lắm.

Cũng ở trong phương pháp làm việc, đại để cách thức sau đây đã được BTV và BCV áp dụng để giải quyết các vấn đề. Trước nhất, nhận định vấn đề. Nếu là vấn đề ngắn hạn cần được giải quyết ngay, thì nhận định xem có nên làm hay không, nên làm thế nào. Rồi phân công, rồi thực hiện. Nếu là vấn đề dài hạn, trường kỳ và phức tạp, thì mổ xẻ sự cần thiết, điều kiện pháp luật, khả năng có thể và kế hoạch thực hiện. Nhiều khi, sau một chuỗi làm việc, ở giai đoạn kế hoạch, một vài khó khăn mới lại nảy ra, đôi khi lại là những khó khăn ngoài khả năng, việc thực hiện lại được xét lại. Đại để đó là hai điều chính yếu trong phương pháp làm việc hiện nay của BTV - HĐMV. Cái giá trị của phương pháp ấy ra sao, tôi xin nhường lời cho mọi người phê phán.

Tiêu chuẩn thứ ba cần đưa ra là hỏi xem "HĐMV có đã tìm ra được những giải đáp tương ứng với những vấn đề của cộng đoàn chưa?". Câu hỏi này tương đối tế nhị, vì sứ mệnh của HĐMV chỉ là cộng tác với Ban Giám Đốc Giáo Xứ, chứ không bao giờ được vượt quyền của ban này. Dĩ nhiên điều này không có nghĩa là HĐMV chỉ thụ động đoàn, đặc biệt là những vấn đề có tính cách tâm lý xã hội, như vấn đề đoàn kết, vấn đề tin tưởng, vấn đề tương trợ. Muốn đoàn kết các thành phần của cộng đoàn, đâu phải chỉ có một giải đáp chung, hữu hiệu cho hết mọi người, đâu phải chỉ cần làm một lúc. Nhưng phải linh động và thích ứng, tùy người và liên tục.

Kết luận

Như vậy là HĐMV đã đi được một chặng đường dài? Quãng đường còn lại phải đi còn nhiều việc phải làm và còn nhiều khó khăn phải vượt qua? Câu hỏi này gồm ba vấn đề. Vấn đề thứ nhất: HĐMV đã đi được một quãng đường dài? Dài được bao nhiêu, tôi không dám xác định. Tôi chỉ dám nói rằng HĐMV đã đi được một quãng đường. Quãng đường còn lại chắc chắn là dài lắm. Vấn đề thứ hai liên hệ đến những việc sẽ phải làm. Về điểm này, xin mọi người tin tưởng vào BGĐ, HĐMV, BCV và BTV. Quí vị là những người sáng suốt, chắc chắn đã, đang và sẽ nhìn ra những việc phải làm. Không ở trong HĐMV, nhiều khi mình tưởng việc này phải làm gấp, có thể làm ngay. Nhưng ở trong HĐMV, hiểu biết cụ thể về khả năng của cộng đoàn, về nhu cầu của cộng đoàn, một cái nhìn khác lại nảy ra. Còn vấn đề thứ ba liên hệ đến các khó khăn, có lẽ khó khăn lớn nhất là phương tiện: phương tiện tài chánh, phương tiện thời giờ, phương tiện nhân sự. Xin Chúa dàn xếp, để thiện chí chúng ta được đền bù phần nào cho những khó khăn về phương tiện.

Ghi chú

(1) Nguyễn thi minh Phượng; ‘Ba giai đoạn lịch sử HĐMV, phỏng vấn GS Cảnh’; trong báo Giáo Xứ Việt Nam, số 20, ngày 01/01/1986.

(2) Phan Quang; Phúc trình của ông Chủ Tịch BTV-HÐMV; trong báo Giáo Xứ Việt Nam, số 16, ngày 01.07.1985, trang 14-17

(3) Trần Văn Cảnh; tuổi đầu đời của Hội Ðồng Mục Vụ; trong báo Giáo Xứ Việt Nam, số 11, 01.02.1985, trang 30-32.



PHỤ LỤC 2: HÌNH THÀNH VÀ TU CHÍNH NỘI QUY HỘI ĐỒNG MỤC VỤ (1983-2007)



LÊ ĐÌNH THÔNG

Trong Năm Hồng Ân 2007, Giáo Xứ kỷ niệm Kim Khánh 60 thành lập Giáo Xứ và ngân khánh 25 năm thành lập Hội Đồng Mục Vụ: Lễ vàng Giáo Xứ cũng là Lễ bạc Hội Đồng Mục Vụ. Trong cuốn Kỷ Yếu 50 Năm Thành Lập Giáo Xứ Việt Nam tại Paris (trang 11) ghi rõ điều lệ của Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam được hàng Giáo phẩm duyệt y ngày 1 tháng 10 năm 1947. Thời điểm này đánh dấu ngày cộng đoàn chính thức thành lập.

Cách đây 25 năm máy điện toán và máy in chưa phổ cập như ngày nay. Giáo Xứ phát hành bản tin hàng tuần đánh máy chữ, in ronéo với số lượng hạn chế. Trong số 255 phát hành ngày chủ nhật 9 tháng 10 năm 1983 đăng bài ''Hội Đồng Mục Vụ'', của cha giám đốc Mai Đức Vinh như sau:

''Trong bộ Giáo Luật mới của Giáo Hội, được công bố ngày 25.1.1981 có hiệu lực từ 27.11.1983 quy định: Tùy theo sự phán đoán của đức giám mục giáo phận và ý kiến của Hội Đồng Linh Mục, nếu có thể được, trong mỗi xứ đạo nên thiết lập Hội Đồng Mục Vụ''.

''Vẫn theo quy luật và ước muốn của Giáo Hội, cộng đoàn chúng ta, sau gần một năm chuẩn bị và hơn một tháng phổ biến nội quy, sẽ thành lập Hội Đồng Mục Vụ trước Mùa Vọng năm nay, được tổ chức vào chủ nhật 30.10.1983. Thời điểm này đánh dấu sự thành lập Hội Đồng Mục Vụ tại Giáo Xứ.''

Chủ nhật 11.12.1983, đức cha Michel Coloni, giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Paris đại diện đức hồng y Tổng Giám mục Jean-Marie Lustiger đến Giáo Xứ chuẩn nhận việc thành lập Hội Đồng Mục Vụ của cộng đoàn Giáo Xứ. Chủ nhật 30.12.2007, đức cha Michel Pollien, giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Paris đại diện đức hồng y Tổng Giám Mục André Vingt-Trois cử hành thánh lễ Tạ Ơn bế mạc Năm Hồng Ân, mừng 25 Hội Đồng Mục Vụ.

Như vậy là Giáo Xứ tuân thủ điều 511 đến 514, chương V của Giáo Luật (Codex iuris canonici) có hiệu lực từ Mùa Vọng 1983 thành lập Hội Đồng Mục Vụ, đáp ứng nhu cầu mục vụ sau năm 36 thành lập (1947-1983). Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ (1983) cùng tuổi với việc áp dụng các quy định của Giáo Luật về HĐMV (1983) chứng tỏ Giáo Xứ luôn hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ và Tổng Giáo phận Paris.

Văn bản đầu tiên của Hội Đồng Mục Vụ có tên là Nội Quy Đơn Giản gồm 5 chương và 10 điều, có hiệu lực từ 30.10.1983. Theo quá trình phát triển của Giáo Xứ, bản Nội Quy Đơn Giản đã được tu chính 6 lần:

- Tu chính lần I: Đại Hội Mục Vụ ngày 20.06.1985.

- Tu chính lần II: Đại Hội Mục Vụ ngày 13.12.1992.

- Tu chính lần III: Cha Giám đốc và Ban Thường Vụ ngày 12.10.1997

- Tu chính lần IV: Đại Hội Mục Vụ ngày 09.12.2001.

- Tuchinh lần V: Đại Hội Mục Vụ ngày 17.06.2007.

Khoảng cách (intervalle) giữa:

- Nội quy 1 và 2 là 7 năm

- Nội quy 2 và 3 là 5 năm

- Nội quy 3 và 4 là 4 năm

- Nội quy 4 và 5 là 6 năm

Mỗi lần tu chính đánh dấu một giai đoạn phát triển của Giáo Xứ:

- 1985 đánh dấu sự tăng trưởng về số lượng, từ 28 thành viên HĐMV tăng lên 66 thành viên (+ 135%)

- 1992: tăng 76 thành viên (+ 15%)

- 1997: 50 năm thành lập Giáo Xứ. Cha giám đốc Mai Đức Vinh căn cứ vào điều 10, chương V Nội Quy lưu nhiệm Ban Thường Vụ.

- 2001: tăng số thành viên Ban Thường Vụ lên 12. Thêm các ủy viên Phụng vụ Thánh ca, Ủy viên Thiếu niên, Ủy viên Thông tin và Liên lạc và Ủy viên Văn hóa.

- 2007: 60 năm thành lập Giáo Xứ và 25 năm thành lập Hội Đồng Mục Vụ, đức ông giám đốc Mai Đức Vinh căn cứ vào điều 10, chương V nội quy lưu nhiệm Ban Thường Vụ.

Việc đối chiếu giữa hai ban thường vụ nhiệm kỳ 1 (1983) và nhiệm kỳ 10 (2007) và hai bản nội quy cho thấy tiến trình thành lập và tu chính Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ Việt Nam vùng Paris.

I. BAN THƯỜNG VỤ NHIỆM KỲ 1 (1983) VÀ NHIỆM KỲ 10 (2007)

A) Nhiệm kỳ 1 (1983-1985)

Chủ tịch: Ô. Phan Quang

Phó chủ tịch đặc trách tôn giáo:Ô. Nguyễn Văn Hộ

Phó chủ tịch đặc trách xã hội: Ô. Louis Trần

Phó chủ tịch đặc trách văn hóa tuổi trẻ: Ô. Võ Phước Thiện

Thư ký: Ô. Trần Văn Cảnh

Phó Thư ký: B. Tạ Thanh Minh Khánh

Chánh Thủ quỹ: B. Nguyễn Đình Thái

Phó Thủ quỹ: Ô. Nguyễn Tiến Đạt

B) Nhiệm kỳ 10 (2004-2007)

Chủ tịch: Ô. Phanxicô Lê Đình Thông

Phó chủ tịch: Ô.Antôn Bùi Trọng Khang

Tổng Thư ký: Ô. Giuse Trần Khắc Đạt

Phó Thư ký: B. Céceline Trần Kim Chi

Ủy viên Tôn giáo: C. Marie Thérèse Nguyễn Mỹ Phước

Ủy viên Cơ sở: Ô. Giuse Nguyễn Văn Thơm

Ủy viên Tài Chánh: Ô. Giuse Ngô Triệu Hùng

Ủy viên Thiếu Niên: A. Phanxicô Nguyễn Nhaty.

Ủy Viên Thanh Niên: Ô. Gioan Võ Thành Nhân

Ủy Viên Phụng Vụ và Thánh Ca: C. Élisabeth Thérèse Huỳnh Anh Thư

Ủy Viên Văn Hóa: Ô. Toma Nguyễn Minh Đức.

Ủy viên Thông Tin Liên Lạc: Ô. Michel Nguyễn Anh Hải

Thành phần Ban Thường Vụ nhiệm kỳ 1 và nhiệm kỳ 10 có một số khác biệt như sau:

• Nhiệm kỳ 1: không đặt ra chức vụ ủy viên.

• Nhiệm kỳ 10: 8 ủy viên chuyên trách.

Khác biệt chính: Nhiệm kỳ I chú trọng về cơ cấu (structurel). Nhiệm kỳ 10 chú trọng đến công tác mục vụ (opérationnel).

• Nhiệm kỳ 1: 2/9 phụ nữ (22%).

• Nhiệm kỳ 10: 3/12 phụ nữ (25%).

Khác biệt chính: Ngay từ nhiệm kỳ I đã chú trọng về vai trò của phụ nữ trong cộng đoàn. Nhiệm kỳ 10 triển khai sự quan tâm này, tỷ lệ tăng + 0,8 %.

• Nhiệm kỳ 1: họp hai tháng một lần.

• Nhiệm kỳ 10: họp mỗi chủ nhật đầu tháng (từ 9 giờ đến 11 giờ).

Khác biệt chính: Việc tăng số lần họp minh chứng sự gia tăng các sinh hoạt mục vụ trong cộng đoàn.

• Nhiệm kỳ 1 có sáng kiến triển khai nhiều sinh hoạt mục vụ đến nay vẫn còn tiếp tục (Tiệc Xuân Thân Hữu, Hội Yểm Trợ Ơn Gọi).

• Nhiệm kỳ 10 triển khai mục vụ tu đức và phụng vụ (tĩnh tâm hàng năm), phụng vụ thánh ca (tổ chức họp mặt ca đoàn, canh thức cầu nguyện), xây dựng (công tác trùng tu và bảo tồn cơ sở), văn hóa (sinh hoạt văn nghệ trong Đại Hội Mục Vụ) v.v…

II - NỘI QUY ĐỐI CHIẾU

Chúng tôi in lại toàn văn Nội quy Đơn giản (1983) và Nội quy hiện hành (áp dụng từ 2001).

A) NỘI QUY ĐƠN GIẢN (1983)

CHƯƠNG I: MỤC ĐÍCH VÀ THÀNH PHẦN HỘI ĐỒNG MỤC VỤ

Điều 1 - Mục đích Hội Đồng Mục Vụ

HĐMV là một cơ quan gồm những giáo dân được tuyển chọn để tích cực cộng tác với Ban Giám Đốc Giáo Xứ trong việc xây dựng cộng đoàn về các phạm vi: tôn giáo, văn hóa, xã hội và tài chính.

Điều 2 - Thành phần HĐMV:

Hội Đồng Mục Vụ gồm hai thành phần sau đây:

a) Ban Thường vụ HĐMV

b) Các đại diện những đơn vị mục vụ.

Điều 3 - Ban Cố Vấn HĐMV

Hội Đồng Mục Vụ có một ban cố vấn gồm những vị do Ban Giám Đốc Giáo Xứ và Ban Thường Vụ Hội Đồng Mục vụ tùy nghi thỉnh mời để tham khảo ý kiến trong những vấn đề quan trọng của cộng đoàn. Ban này đứng ngoài HĐMV.

CHƯƠNG II: NHÂN VIÊN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA TỪNG THÀNH PHẦN HỘI ĐỒNG MỤC VỤ

Điều 4: Ban thường vụ và Hội đồng Mục vụ

Ban Thường Vụ HĐMV là ban trách nhiệm của HĐMV để thường xử mọi công vụ liên hệ. Ban Thường Vụ HĐMV gồm những nhân viên với những trách nhiệm liên hệ sau đây:

a) Chủ tịch:

- chịu trách nhiệm tổng quát về HĐMV trước Ban Giám Đốc Giáo Xứ và Cộng Đoàn

- đôn đốc các sinh hoạt chung của cộng đoàn

- triệu tập, chủ tọa, điều khiển các phiên họp của HĐMV.

b) Phó chủ tịch đặc trách tôn giáo và mục vụ:

- cộng tác với chủ tịch và Ban Thường Vụ trong mọi vấn đề liên hệ.

- đặc biệt cộng tác với vị hữu trách trong Ban Giám Đốc Giáo Xứ về các vấn đề tôn giáo mục vụ.

c) Phó chủ tịch đặc trách văn hóa:

- cộng tác với chủ tịch và Ban Thường Vụ trong mọi vấn đề liên hệ

- đặc biệt cộng tác với vị hữu trách trong Ban Giám Đốc Giáo Xứ về các vấn đề văn hóa và tuổi trẻ.

d) Phó chủ tịch đặc trách xã hội:

- cộng tác với chủ tịch và Ban Thường Vụ trong mọi vấn đề liên hệ.

- Đặc biệt cộng tác với vị hữu trách trong Ban Giám Đốc Giáo Xứ về các vấn đề xã hội

Thư ký và phó thư ký:

- Tổ chức văn phòng HĐMV. Soạn thảo chương trình và làm biên bản cho các phiên họp của HĐMV.

- Soạn thảo và giữ các văn thư.

- Thông báo cho các thành phần của cộng đoàn khi cần.

Thủ quỹ và phó thủ quỹ

- Cộng tác với Ban Giám Đốc Giáo Xứ trong các vấn đề liên hệ đến việc tạo dựng, bảo trì tài sản và chi thu ngân quỹ của cộng đoàn.

Điều 5: Các đại diện những đơn vị mục vụ

Các đại diện những đơn vị mục vụ là những người có trách nhiệm tại các đơn vị mục vụ và được đề cử đại diện cho đơn vị trong HĐMV. Mỗi địa điểm mục vụ, mỗi hội đoàn, mỗi ban, mỗi nhóm đều là một đơn vị mục vụ.

Đại diện địa điểm mục vụ:

Mỗi nơi Ban Giam Đốc Giáo Xứ có thể qui tụ giáo dân để thường xuyên dâng lễ là một địa điểm mục vụ của cộng đoàn. Mỗi địa điểm có thể đề cử từ 1 đến 3 đại diện vào HĐMV tùy theo sự quyết định của linh mục trách nhiệm địa điểm. Riêng Paris, địa điểm mục vụ chính của cộng đoàn có 5 đại diện trong HĐMV.

Đại diện các đoàn, các ban hay các nhóm: Mỗi đoàn, mỗi ban hay mỗi nhóm công giáo tiến hành sinh hoạt trong cộng đoàn và cộng tác với Ban Giám Đốc Giáo Xứ và Ban Thường Vụ HĐMV trong công việc mục vụ đều được cử một đại diện vào HĐMV.

Nhiệm vụ của mỗi đại diện đơn vị mục vụ:

Cộng tác với Ban Giám Đốc Giáo Xứ trong phạm vi sinh hoạt riêng của đơn vị.

Tham gia các phiên họp mục vụ do Ban Thường Vụ triệu tập.

Phổ biến và thi hành trong phạm vi đơn vị những quyết định của HĐMV.

CHƯƠNG III: TUYỂN CHỌN VÀ NHIỆM KỲ HĐMV

Điều 6: Tuyển chọn vào HĐMV

Việc tuyển chọn vào mỗi thanh phần của HĐMV được quyết định như sau:

Vào Ban Thường Vụ: Các nhân viên của Ban Thường Vụ HĐMV sẽ được các đại diện đơn vị mục vụ bầu bằng phiếu kín trên các ứng cử viên hay những người được đề cử. Chỉ các đại diện những đơn vị mục vụ mới được quyền ứng cử hoặc được đề cử.

Vào các đại diện những đơn vị mục vụ:

Các đại diện của các địa điểm mục vụ hoặc sẽ được Ban Giám Đốc Giáo Xứ đề cử rồi giới thiệu với địa điểm hoặc sẽ được bầu cử trong mỗi địa điểm.

Đại diện của các đoàn, các ban hay các nhóm sẽ tùy đoàn, ban hay nhóm qui định.

Điều 7: Nhiệm kỳ của HĐMV

Nhiệm kỳ của thành phần của HĐMV được qui định như sau:

Ban thường vụ: nhiệm kỳ của Ban Thường Vụ là hai năm, tái cử tối đa 3 lần.

Các đại diện những đơn vị mục vụ: nhiệm kỳ của các đại diện những đơn vị mục vụ là hai năm, tái cử nhiều lần.

CHƯƠNG IV: NHÓM HỌP

Điều 8: Nhóm họp

Có ba loại nhóm họp sau đây:

Họp thường kỳ cho Ban Thường Vụ và cho HĐMV

Ban Thường Vụ họp thường kỳ hai tháng một lần.

HĐMV họp thường kỳ một năm hai lần để kiểm thảo tình hình chung của cộng đoàn và những công tác của từng ngành đạo đức, văn hóa, xã hội.

Họp bất thường: mỗi khi cộng đoàn gặp một vấn đề bất thường, Ban Giám Đốc Giáo Xứ sẽ mời Ban Thường Vụ mở một cuộc họp bất thường.

Đại Hội Mục Vụ: mỗi năm một lần Đại Hội Mục Vụ thường niên sẽ được triệu tập. Thành phần tham dự: Ban Giám Đốc Giáo Xứ, Ban Thường Vụ HĐMV, các đại diện những đơn vị mục vụ; ban cố vấn HĐMV. Và một số người trong cộng đoàn tùy nhu cầu; nội dung của đại hội là xem lại sinh hoạt năm qua hầu rút ưu khuyến điểm và phác họa chương trình năm tới.

Điều 9: Hiệu lực của các nhóm họp

Các đề nghị của mỗi buổi nhóm họp chỉ có giá trị và được cứu xét khi có quá bán số người tham dự chấp thuận.

Số người tham dự phải hơn quá bán số người được mời thì những quyết định của buổi họp mới có giá trị.

Trường hợp khẩn cấp, dầu không đủ hai điều kiện trên, Ban Giám Đốc Giáo Xứ có quyền quyết định thi hành.

Dầu sao, các quyết định của mọi thể thức nhóm họp chỉ có hiệu lực khi Ban Giám Đốc Giáo Xứ chấp thuận (xem chú thích).

CHƯƠNG V: VẤN ĐỀ TÀI SẢN CỦA CỘNG ĐOÀN

Điều 10: Tài sản của cộng đoàn do HĐMV cùng quản trị với Ban Giám Đốc Giáo Xứ.

Tiền niên liễm bổ theo nhân danh trong xứ

Tiền lạc quyên trong những trường hợp đặc biệt, hoặc do những ân nhân ủng hộ.

Lợi tức do tổ chức kinh tài hợp pháp mà thủy quỹ gây nên

Chú giải về điều 9

Nói cho rõ: HĐMV dù cấp bậc giáo phận hay giáo xứ chỉ có quyền tư vấn mà thôi, quyết định dành cho đức giám mục giáo phận hay cha sở giáo xứ.

Tự sắc ''Hội thánh'' (Ecclesiae sancae) (19+66) của đức Phaolô VI đã xác định: HĐMV chỉ hưởng quyền tư vấn thôi'' (Consilium pastorale voce conultiova tantum gaudet, ES 16)

Giáo Luật mới (1983) khi nói về HĐMV cấp giáo phận (cc511-514) và cấp giáo xứ (c 536) cũng quy định: ''HĐMV chỉ hưởng quyền đầu phiếu tư vấn thôi'' (Consilium volo gaudet tantum sonsultivo c.514.1 và 536.2)

Quy chế HĐGX địa phận Long Xuyên (1971) khẳng định: ''Chương trình nghị sự cũng như các quyết định của cuộc họp phải được linh mục chính xứ chấp thuận mới có giá trị'' (đ. 36)

Thủ bản HĐGX địa phận Xuân Lộc (1971) tuyên bố: Các quyết định của Hội Đồng trong ba thể thức hội họp trên (thường kỳ, bất kỳ, đại hội) chỉ có hiệu lực khi được cha xứ chấp thuận (đ.34).

B) NỘI QUY TU CHÍNH NĂM 2001

CHƯƠNG I: CỘNG ĐOÀN GIÁO XỨ

Điều 1: Tổ chức Cộng Đoàn Giáo Xứ

Cộng Đoàn Giáo Xứ gồm những tín hữu công giáo quy tụ từ các địa điểm, các hội đoàn, các ngành và các ban, nhóm.

Cộng đoàn Paris là địa điểm mục vụ chính. Ngoài ra, mỗi địa điểm có các sinh hoạt mục vụ do một linh mục trong Ban Giám Đốc Giáo Xứ hướng dẫn là một địa điểm mục vụ.

Nhằm mục đích thăng tiến cộng đoàn qua các sinh hoạt chuyên biệt, các hội đoàn, các ngành Liên đới Nghề nghiệp, các Ban, Nhóm đều được tổ chức thành Đơn vị Mục vụ.

CHƯƠNG II: MỤC ĐÍCH VÀ CƠ CẤU HỘI ĐỒNG MỤC VỤ

Điều 2: Mục đích và cơ cấu Hội Đồng Mục Vụ

Hội Đồng mục Vụ là cơ quan tư vấn hình thành các quyết định mục vụ. Ngoài ra, Hội Đồng Mục Vụ còn có trách nhiệm cộng tác với Ban Giám Đốc và trong các phạm vi: tôn giáo, văn hóa, xã hội và tài chính.

Điều 3: Cơ cấu Hội Đồng Mục Vụ

Hội Đồng Mục Vụ gồm có:

Đại biểu các Địa Điểm Mục Vụ

Đại biểu các Đơn Vị Mục Vụ

Ban Thường Vụ của Hội Đồng Mục Vụ

Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Mục Vụ được phụ đính vào bản Nội quy này.

CHƯƠNG III: THÀNH PHẦN VÀ NHIỆM VỤ BAN THƯỜNG VỤ

Điều 4: Thành phần Ban Thường Vụ

Ban Thường Vụ là cơ cấu thường trực của Hội Đồng Mục Vụ có trách nhiệm soạn thảo và thực hiện chương trình hoạt động cho mỗi năm mục vụ. Chương trình chỉ có hiệu lực sau khi được Ban Giám Đốc phê chuẩn.

Thành phần Ban Thường Vụ gồm có:

-Chủ tịch

-Phó chủ tịch

-Tổng thư ký

- Phó Tổng thư ký

- Ủy viên Giao lý

- Ủy viên Phụng vụ và Thánh ca

- Ủy viên Tài chính

- Ủy viên Thanh niên

- Ủy viên Thiếu niên

- Ủy viên Thông tin và Liên laic

- Ủy viên Văn hóa

- Ủy viên Xây dựng

Điều 5 - Nhiệm vụ mỗi thành phần Ban Thường Vụ

- Chủ tịch: Trách nhiệm soạn thảo chương trình hoạt động và thực hiện các sinh hoạt chung của cộng đoàn, triệu tập và điều khiển các phiên họp của Ban Thường Vụ

- Phó chủ tịch: cộng tác với chủ tịch trong mọi trách nhiệm của chủ tịch, thay thế chủ tịch trong trường hợp vị này vắng mặt.

- Tổng thư ký và phó tổng thư ký: Tổ chức văn phòng Ban Thường Vụ, lưu trữ văn thư và các tài liệu của Ban Thường Vụ và Hội Đồng Mục Vụ; soạn thảo, thông báo cho các thành phần Ban Thường Vụ và Hội Đồng Mục Vụ về nghị trình phiên họp; lập biên bản các phiên họp.

- Ủy viên Giáo lý: Cộng tác với Cha Tuyên Úy Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể và vị đại diện Ban Giám Đốc đặc trách Giáo lý tân tòng (dành ho người trưởng thành), soạn chương trình và thực hiện các lớp giáo lý tại Giáo XXứ. Phối hợp với các Địa điểm Mục vụ để tổ chức lớp Giáo lý tại các địa điểm này.

- Ủy viên Phụng vụ và Thánh ca: Ghi nhận về việc cử hành phụng vụ hiện nay để đưa ra những đề nghị thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi giúp các ca đoàn thực hiện phụng vụ Lời Chúa qua ca nguyện.

- Ủy viên Tài chính: thực hiện sổ sách chi, thu của Hội Đồng Mục Vụ. soạn thảo và thực hiện các sinh hoạt nhằm gây quỹ cộng đoàn.

- Ủy viên Thanh niên: Cộng tác với Cha Tuyên úy Thanh niên trong việc soạn thảo và thực hiện các sinh hoạt mục vụ thanh niên.

- Ủy viên Thiếu niên: Liên lạc giữa Ban Thường Vụ và Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể (các Huynh trưởng và các Phụ huynh) để thực hiện các sinh hoạt mục vụ chung. Đoàn trưởng Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể đương nhiên là Ủy viên Thiếu niên trong Ban Thường Vụ.

- Ủy viên Thông tin và Liên lạc: Liên lạc với các Địa điểm Mục vụ và các Đon vị Mục vụ nhằm phối hợp công tác mục vụ giữa các địa điểm và đơn vị mục vụ và ban thường vụ.

Thâu thập tin tức sinh hoạt mục vụ của ban thường vụ, các Địa điểm Mục vụ và các Đơn vị Mục vụ để thực hiện một trang Sinh hoạt Mục vụ đăng thường kỳ trên Báo Giáo Xứ.

- Ủy viên Văn hóa: Phối hợp thực hiện các sinh hoạt văn hóa của cộng đoàn (hội luận, hội diễn văn nghệ, triển lãm, chiếu phim công giáo có phần thuyết minh bằng tiếng Việt).

Phối hợp với các Địa điểm Mục vụ và Thư viện Giáo Xứ nhằm phát huy các sinh hoạt văn hóa tôn giáo chuyên biệt.

- Ủy viên Xây đụng: Cộng tác với Ban Giám Đốc trong việc hoạch định và thực hiện các công tác trùng tu hoặc khuyếch trương cơ sở Giáo XXứ.

Điều 6: Ban Cố Vấn

Ban Cố Vấn của Hội Đồng Mục Vụ gồm những vị có uy tín hoặc kinh nghiệm chuyên môn, do Ban Thường Vụ thỉnh mời và được Ban Giám Đốc chấp thuận. Số vị cố vấn không nhất định, thay đổi theo nhu cầu mục vụ. Ban Thường Vụ thông báo phương danh các vị cố vấn trước Đại Hội Mục Vụ.

CHƯƠNG IV: THỂ THỨC BẦU PHIẾU VÀ NHIỆM KỲ CỦA HỘI ĐỒNG MỤC VỤ

Điều 7 - Thể thức tuyển chọn các đại biểu:

- Địa điểm mục vụ Paris được cử từ 5 đến 10 đại biểu.

- Số đại biểu của mỗi Địa điểm Mục vụ: các thành viên của Ban Đại diện Địa điểm Mục vụ đương nhiên là đại biểu của Hội Đồng Mục Vụ.

Các Hội đoàn: các thành viên của Ban Chấp Hành mỗi hội đoàn đương nhiên là đại biểu của Hội Đồng Mục Vụ.

Các ngành Liên đới Nghề nghiệp: mỗi ngành được cử hai đại biểu.

Mỗi Đơn vị Mục vụ (nhóm, ban) tiến hành bầu đại biểu như sau:

Các Nhóm, ban có dưới 10 thành viên được cử một đại biểu.

Các Nhóm, Ban có trên 10 thành viên được cử hai đại biểu.

Điều 8 - Nhiệm kỳ của Hội Đồng Mục Vụ

Nhiệm kỳ của các thành phần trong Ban Thường Vụ là ba năm, có thể tái nhiệm nhiều lần, ngoại trừ chức vụ chủ tịch chỉ có thể tái nhiệm một lần (tức là tối đa hai nhiệm kỳ).

Điều 9- Thể thức tuyến cử Ban Thường Vụ

Đại biểu các Địa điểm Mục vụ, các Hội đoàn, các Ngành Liên đới Nghề nghiệp, các Ban, Nhóm có quyền ứng cử, đề cử, nhận sự đề cử và bỏ phiếu.

Ban Giám Đốc và Ban Cố Vấn có quyền bỏ phiếu.

Đại Hội chỉ tiến hành bầu cử khi hội đủ túc số quá bán hiện diện trên tổng số các đại biểu ghi trong danh sách HĐMV.

Trước ngày tổ chức Đại Hội, Tổng thư ký Ban Thường Vụ có trách nhiệm cập nhật hóa danh sách HĐMV.

Mỗi đại biểu chỉ được nhận một phiếu ủy quyền.

Đại Hội bỏ phiếu theo thể thức bầu phiếu kín. Nếu trong vòng đầu, người ra ứng cử (hoặc người được đề cử) không hội đủ đa số tuyệt đối thỉ phải bầu lại vòng hai. Trong vòng hai, Đại Hội chỉ giữ lại hai người nhiều phiếu nhất ở vòng một. Người nào có số phiếu cao nhất được coi như là trúng cử, bất kể đa số tuyệt đối hay tương đối.

CHƯƠNG V: THỂ THỨC ĐIỀU HÀNH HỘI ĐỒNG MỤC VỤ

Điều 10 - Thể thức điều hành Hội Đồng Mục Vụ

Mỗi Địa điểm Mục vụ và Đơn vị Mục vụ có trách nhiệm chuyển tới Ban Thường Vụ các sinh hoạt trong thời gian vừa qua cũng như dự án hoạt động trong thời gian sắp tới. Ban Giám Đốc Giáo Xứ và Ban Thuờng Vụ sẽ căn cứ vào các tài liệu này để soạn thảo lịch trình mục vụ bán niên hoặc toàn niên.

Để bảo đảm sự liên tục, thường xuyên và hiệu năng hoạt động, các phiên họp được tổ chức như sau:

- Ban Thường Vụ họp với cha Giám Đốc một tháng một lần.

- Các Địa diểm Mục vụ và Đơn vị Mục vụ tùy nghi tổ chức họp theo nhu cầu sinh hoạt.

- Ban Thường Vụ họp với Ban Giam Đốc mỗi khi cần thiết.

Ban Thường Vụ tùy nghi thỉnh mới các vị Cố Vấn dự họp với Ban Thường Vụ.

Đại Hội Mục Vụ gồm Ban Giám Đốc, Ban Thường Vụ, Ban Cố Vấn và các đại biểu, được tổ chức mỗi năm hai lần. Đại Hội xem xét các sinh hoạt trong thời gian qua và đưa ra các định hướng mục vụ trong thời gian sắp tới. Đại Hội Mục Vụ bất thường có thể được triệu tập.

Trong trường hợp có vấn đề quan tọng và do Ban Thường Vụ triệu tập, với sự chấp thuận của Ban Giám Đốc hoặc do Cha Giám Đốc trực tiếp triệu tập.

Điều 11 Tu chính và Hiệu lực Nội quy HĐMV

Đại Hội Mục Vụ có thẩm quyền tu chinh bản Nội quy của Hội Đồng Mục Vụ nếu hội đủ đa số tuyệt đối ở vòng một, hoặc đa số tương đối ở vòng hai. Các điều khoản tu chinh có hiệu lực ngay sau khi được Đại Hội Mục Vụ chung quyết.

Theo Tự sắc Ecclesiae Sanctae (Hội Thánh) số 16 năm 1966 của đức Phaolo VI và theo Giáo Luật 1983 về Hội Đồng Mục Vụ cấp Giáo Xứ (canon 536), Cha Giám Đốc Giáo Xứ có thẩm quyền tối hậu về mọi vấn đề của Cộng Đoàn.

Bản Nội quy này đã đuợc Đại Hội Mục Vụ tu chinh ngày 8.12.2001 và gồm hai bản chính.

Paris, ngày 9 tháng 12 năm 2001

Giám Đốc Giáo Xứ Chủ Tịch Ban Thường vụ,

Đức Ông Giuse MAI ĐỨC VINH Phanxicô LÊ ĐÌNH THÔNG

KẾT LUẬN

Như Đức Ông Giuse Mai Đức Vinh nhận xét trong bài Hội Đồng Quý Chức in trong tập Hội Đồng Mục Vụ ấn hành trong khuôn khổ Hội Ngộ Niềm Tin năm 2003 tại Roma: ''Phi cổ bất thành kim'' ''Ôn cố nhi tri tân'', việc ''ôn cố'' từ nội quy đơn giản đến nội quy tu chính hiện nay cho thấy sự đóng góp của Cha Giám đốc, quý Cha Tuyên úy, qúy Thầy Phó tế và Nữ tu trong ban Giám đốc, quý vị đã tham gia Ban Thường Vụ từ 1983 đến nay và toàn thể cộng đoàn. Có một số vị đã qua đời. Cha Tuyên úy Cung Chi đã ghi lại trang sử 25 thành lập Hội Đồng Mục Vụ qua thể thơ song thất lục bát, chúng tôi xin chép dưới đây, ''Của tin gọi một chút này làm ghi'' theo truyền thống văn hóa đức tin thể hiện rõ nét trong các sinh hoạt mục vụ của Giáo Xứ trong lịch sử 60 năm, từ 1947 đến nay.

PHỤ LỤC 3: HỘI ĐỒNG MỤC VỤ



CUNG CHI

Xin kính cẩn cúi đầu bái phục,
Các “Ông Trùm”, “Quới Chức” xưa nay.
“Hội Đồng Mục Vụ” tuyệt hay,
“Ủy ban Hành giáo”, đổi thay từng thời.
Toàn những vị giữa đời sống đạo,
Không ngại ngần đôn đảo xở xoay.
Mang bầu máu nóng hăng say,
Góp tài góp sức đắp xây Nước Trời.
Là tai mắt của người trong xứ,
Là thành viên dụng cụ ích chung.
Là nguồn đá quý không cùng,
Là vôi, là vữa, thành đồng, phên che.
Trải nắng mưa bốn bề chống đỡ,
Gặp gian nguy cơ khổ coi thường.
Sẵn lòng vai cứng đảm đương,
Âm thầm từng bước trên đường hy sinh.
Có những vị hiến mình tử đạo,
Nhiều tâm hồn trọn hảo trọn lành.
Đẹp như đồng cỏ tươi xanh,
Chữ Trung rạng rỡ, chữ Thành long lanh.
Nặng môt gánh gia đình sớm tối,
Chuyện áo cơm buộc trói như ai.
Không hề thở ngắn than dài,
Cốt sao cho trọn trong ngoài ấm êm.
Gia đình, Họ đạo ấm êm.

PHỤ LỤC 4: SỨ MỆNH VÀ CÔNG TÁC CỦA HỘI ĐỒNG MỤC VỤ



TRẦN VĂN CẢNH

LỜI MỞ

Được thành lập vào năm 1983, đến năm nay, 2007, Hội Đồng Mục Vụ (HĐMV) Giáo Xứ Việt Nam Paris đã tròn 25 tuổi. Bản nội quy đầu tiên viết xong và được chấp nhận ngày 30.10.1983, đã được tu chính 4 lần vào ngày 20.06.1985, 13.12.1992, 12.10.1997 và 09.02.2001. Hội Đồng Mục Vụ khoá XLII hiện nay, được bầu ngày 13.06.2004, đã được Đại Hội 17.12.2006 lưu nhiệm thêm một năm, sẽ chấm dứt nhiệm kỳ vào tháng 6 năm 2008, gồm 79 thành viên. HĐMV, theo nội quy tu chính lần thứ tư vào ngày 09.12.2001, gồm 4 thành phần: Đại diện của 7 địa điểm mục vụ, Đại diện của 36 đơn vị mục vụ, Ban Thường Vụ (BTV) với 12 nhân viên và Ban Cố Vấn gồm 6 vị. Tất cả bốn thành phần của HĐMV đều chung nhau giúp Ban Giám Đốc (BGĐ) thực hiện công việc mục vụ của giáo xứ cho tốt đẹp, trong ba sứ mệnh chính yếu sau đây: 1- Tư vấn BGĐ trong những quyết định mục vụ; 2- Cộng tác với BGĐ trong việc soạn thảo chương trình và kế hoạch hoạt động mục vụ; và 3- Cộng tác với BGĐ trong việc thực hiện công tác mục vụ qua khắp các phạm vi tôn giáo, văn hoá, xã hội và tài chánh. Những sứ mệnh này, từ 25 năm qua 1983-2007, đã được thực hiện qua 10 nhiệm kỳ HĐMV.

I. TƯ VẤN BAN GIÁM ĐỐC TRONG NHỮNG QUYẾT ĐỊNH MỤC VỤ

Tư vấn BGĐ trong những quyết định mục vụ, HĐMV không làm thay, cũng không lấn quyền của BGĐ. Giáo luật khoản 536 xác định rất rõ về điểm này "Nếu giám mục giáo phận xét là thuận lợi, sau khi đã tham khảo ý kiến của Hội đồng Linh mục, thì trong mỗi giáo xứ nên thành lập Hội Đồng Mục Vụ, do cha sở chủ tọa, và trong đó các tín hữu cùng với những người, chiếu theo chức vụ tham gia vào việc săn sóc mục vụ trong giáo xứ cùng đóng góp sự cộng tác của mình vào việc cổ võ sinh hoạt mục vụ. Hội Đồng Mục Vụ chỉ có quyền tư vấn, và được điều hành theo các quy tắc do giám mục giáo phận đã ấn định. Nguyên tắc chung được Giáo luật qui định đó là Hội Đồng Mục Vụ chỉ có quyền tư vấn mà thôi, nghĩa là cha sở không bị bó buộc vâng theo ý kiến của Hội Đồng Mục Vụ, nhưng tùy thẩm định khôn ngoan của ngài. Tuy nhiên, khi tất cả các thành viên trong Hội Đồng đều nhất trí về một vấn đề, cha sở không nên đi ngược lại nếu không có một lý do thật quan trọng để làm như thế ".

Tư vấn BGĐ là sứ mệnh chính yếu của mọi thành phần của HĐMV, nhưng Ban Cố Vấn (BCV) có một trách nhiệm đặc biệt về sứ mệnh cố vấn này. Công việc cố vấn thực ra không đơn giản và không chỉ giới hạn vào việc cho ý kiến, như nhiều người lầm tưởng. Sau nhiều năm làm cố vấn cho các chủ xí nghiệp và tổ chức về quản lý chất lượng, tôi nhận ra những công việc chính yếu sau đây của một cố vấn, mà ở xí nghiệp họ gọi là tư vấn. Những công việc tư vấn này cũng đã được các vị trong Ban Cố Vấn thực hiện cho BGĐ, BTV và cho HĐMV:

1) Chỉ lắng nghe, quyết định tức khắc nhìn ra;

2) Lắng nghe và gợi ý phân tâm, quyết định tức khắc tìm ra.

3) Đặt vấn đề, cho thông tin, hoặc tạo dịp quan sát vấn đề và từ từ hướng đến một quyết định;

4) Giúp thảo luận nhóm, để nhóm tự tìm lấy quyết định;

5) Quyết định gần như đã lấy, nhưng còn nghi ngại, giúp nhìn ra vấn đề minh bạch, giúp lấy quyết định rõ rệt và tìm ra cách hành động hữu hiệu;

6) Quyết định đã lấy, nhưng mục tiêu không xác định rõ rệt, chương trình không minh bạch, tiêu chuẩn không xác định, phương tiện, phương pháp và dụng cụ không đầy đủ, tóm lại không biết làm sao, chỉ bày cho làm, đào tạo người làm;

7) Quyết định đã lấy, nhưng không biết làm, không có người làm và cũng không có giờ làm, xin làm giùm.

BCV tiên khởi của HĐMV, trong thực tế đã được thành lập trước khi có HĐMV. Cha Trần Thanh Giản, Cha Bùi Đức Tín (P. Gastine), Sư Huynh Trần Văn Nghiêm, Bác Sĩ Hoàn, Bác Sĩ Phán, Giáo Sư Bảo, Bác Sĩ Tạ Thanh Minh, Giáo Sư Tạ Thanh Minh Khánh, Giáo sư Cảnh, Chị Lan Bằng là những vị cố vấn đầu tiên đã giúp BGĐ Giáo xứ từ những năm 1980 lấy quyết định lập HĐMV và tham gia tích cực vào việc chuẩn bị, đào tạo, tổ chức và thành lập HĐMV vào năm 1983, cũng như theo dõi và giúp đỡ HĐMV trong những năm đầu tiên, nhất là 3 nhiệm kỳ đầu, từ 1983 đến 1989.

Ban Cố Vấn đã cố vấn trong tất cả những mức độ quyết định, mà quan trọng và tổng quát nhất là những quyết định chiến lược (décisions stratégiques) để tạo những sinh hoạt mới, như tạo lập Hội Đồng Mục Vụ vào năm 1983; tạo lập việc gây quỹ tài chánh và tìm kiếm cơ sở từ năm 1983; tạo lập mục vụ văn hoá: thuyết trình vào năm 1981, báo chí vào năm 1984, tu thư vào năm 1997; tạo lập mục vụ giáo dục: giáo lý và tiếng việt từ năm 1983, gia đình vào năm 1995; tạo lập liên đới nghề nghiệp vào năm 2000,… Về những quyết định chức vụ (décisions fonctionnelles), BCV đã góp phần vào những quyết định liên hệ đến việc dùng phương tiện, hoặc tổ chức, như tổ chức lại cơ cấu của HĐMV: nâng vai trò của BTV lên quan trọng hơn BCV, tổ chức BTV theo mô hình một chính phủ với việc lập các ủy viên, giảm trách nhiệm cho tổng thư ký và tăng trách nhiệm cho chủ tịch,... Và sau cùng, về những quyết định hành sự (décisions opérationnelles), BCV đã tích cực tham gia vào những quyết định liên hệ đến công việc mục vụ hàng ngày, mà cụ thể và rõ rệt nhất là quí vị đích thân làm những việc mục vụ ấy.

BCV hiện nay gồm 6 vị sau đây: Bs Nguyễn Văn Ái, cố vấn văn hoá; Gs Trần Văn Cảnh, cố vấn giáo dục; Bs Nguyễn Ngọc Đỉnh, cố vấn ngoại vụ; Ông Nguyễn Văn Hộ, cố vấn mục vụ cao niên; Bs Tạ Thanh Minh, cố vấn y tế xã hội và Gs Tạ Thanh Minh Khánh, cố vấn gia đình và thanh niên. Mỗi vị cố vấn trên đây, ngoài công việc cố vấn, còn tham gia vào việc thực hiện các công việc mục vụ một cách tích cực, trong các đoàn thể, phong trào và ban nhóm khác nhau. Đa số các vị đều là giảng viên trong Ban Mục Vụ gia đình, và thành viên trong ban biên tập báo Giáo Xứ và ban tu thư Văn hóa.

II. CỘNG TÁC VỚI BAN GIÁM ĐỐC ĐỂ SOẠN THẢO CHƯƠNG TRÌNH VÀ KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ

Tất cả các linh mục và tu sĩ đều xuất thân từ giáo dân. Đó là một sự thật hiển nhiên thứ nhất. Đa số các linh mục và tu sĩ Việt Nam đều gốc gác từ những gia đình giáo dân nghèo. Đó là sự thật hiển nhiên thứ hai. Nhưng một số giáo sĩ và tu sĩ, khi trở thành giáo sĩ, được chọn vào hàng lãnh đạo của Giáo Hội, đã quên hẳn xuất xứ và gốc gác của mình, tự cao tự đại, khinh khi giáo dân, xa tránh người nghèo hèn. May thay các linh mục, thầy sáu và nữ tu ở Giáo Xứ Việt Nam Paris không có cách cư xử khinh khi và xa tránh ấy. Dường như BGĐ Giáo Xứ đã được nhiều hồng ân, đã cầu nguyện nhiều, có tinh thần làm việc theo đức ái chia sẻ, đức mến kính trọng, đức cậy tin tưởng và đức tin phó thác. Ban Giám Đốc rõ rệt có cách cư xử chăm chỉ và khiêm tốn nhã nhặn. Họ lãnh đạo giáo xứ có tổ chức và phương pháp và họ không ngần ngại mời gọi các giáo dân cộng tác. Sự cộng tác mà BGĐ mới gọi giáo dân đóng góp không chỉ ở lãnh vực thực hiện, nhưng ở cả lãnh vực soạn thảo chương trình và kế hoạch. Trao trách nhiệm một cách tin tưởng, trong tâm tình kính trọng vào giáo dân đến nỗi tất cả các chức vụ trong HĐMV đều trao cho giáo dân, ngay cả chức chủ tịch. Chỉ giữ cho mình trách nhiệm tuyên úy và đồng hành, là những trách nhiệm tối thiểu của các cha sở và cha phó đối với các đoàn thể của giáo xứ. Vai trò của giáo dân được nâng cao đến mức ấy thực là ít thấy, không chỉ ở những xứ đạo Việt Nam, mà ngay cả ở những xứ đạo Pháp !

Nếu công việc tư vấn là công việc ưu tiên của BCV, thì công việc soạn thảo chương trình và kế hoạch là lãnh vực chuyên biệt của BTV. Họp với Cha Giám Đốc mỗi tháng một lần, với BGĐ mỗi khi cần thiết, trách nhiệm căn bản của BTV là soạn thảo chương trình và kế hoạch chung, phối hợp và theo dõi, rồi tổng kết và cải thiện sự thực hiện các sinh hoạt ấy nơi các đơn vị mục vụ. Cụ thể mỗi năm hai lần, BTV có trách nhiệm tổ chức 2 đại hội mục vụ vào tháng sáu và tháng mười hai để xem xét sinh hoạt trong thời gian qua và đưa ra các định hướng mục vụ cho thời gian tương lai sắp tới. Bên cạnh những công việc có tính chất điều hành trên, BTV còn có bổn phận làm nhiều việc mang tính cách đại diện, như đại diện cộng đoàn tham dự những sinh hoạt mục vụ ở Tổng Giáo Phận Paris, tham dự những sinh hoạt mục vụ công giáo Việt Nam ở cấp quốc gia pháp, lục địa âu châu hay toàn thế giới; đại diện cộng đoàn đọc diễn văn, tiếp đón, chúc mừng các quan khách đạo đời pháp việt, đại diện cộng đoàn và HĐMV thăm viếng các đơn vị mục vụ, chúc mừng các linh mục, các giáo dân hoặc các đoàn thể vào những dịp đặc biệt, như Tết nhất, thượng thọ, sinh nhật, tang chế... Cũng trong lãnh vực đại diện này, mỗi vị trong BTV đều là đồng hành của một hoặc nhiều đơn vị mục vụ, nhóm, hội đoàn, phong trào,… Mỗi nhóm Liên Đới nghề nghiệp đều có ít nhất một nhân viên của BGĐ và một nhân viên của BTV là đồng hành.

Song song với những công việc điều hành và đại diện trên, BTV còn đích thân đảm nhiệm nhiều công việc cụ thể, như hàng năm tổ chức tiệc tân niên cho cộng đoàn vào dịp Tết Nguyên Đán, đảm nhiệm thực hiện hai ngày thân hữu giáo xứ vào tháng năm; tổ chức những công việc đặc biệt, như thi hang đá, huấn luyện và trình diễn thánh ca cho các ca đoàn, điều hành và quảng diễn những thánh lễ quan trọng, chỉnh trang cơ sở, triển lãm truyền giáo, truyền hình thánh lễ, chiếu phim truyền giáo,… Cũng trong lãnh vực những công việc cụ thể, mỗi vị trong BTV đều là thành viên của một hay nhiều đơn vị, hội đoàn, ban nhóm mục vụ.

III. CỘNG TÁC VỚI BAN GIÁM ĐỐC ĐỂ THỰC HIỆN CÔNG TÁC MỤC VỤ TRONG KHẮP CÁC PHẠM VI TÔN GIÁO, VĂN HOÁ, XÃ HỘI VÀ TÀI CHÍNH

Công tác mục vụ của BGĐ thật rất bao la, trải dài rộng trên 12072 cây số vuông, với 11491000 dân số của 8 tỉnh vùng Ile-de-France: Essonne, Hauts-de-Seine, Paris, Seine-Saint-Denis, Val-de-Marne, Val-d'Oise và Yvelynes, trong đó có từ 42 đến 47 ngàn người Việt Nam và từ 13 đến 16 ngàn người Việt Nam công giáo. Tính trung bình, mỗi một trong 9 vị BGĐ có trách nhiệm mục vụ trên 1341 k2, có trách nhiệm lo giữ đạo cho từ 1444 đến 1888 giáo dân Việt Nam, có trách nhiệm lo truyền đạo cho 4666 đến 5222 lương dân Việt Nam. Công tác mục này sẽ rất hạn hẹp, nếu các cha, các thầy sáu và các chị nữ tu không được giáo dân cộng tác.

Một cách nào đó, dù muốn dù không, BGĐ cần đến giáo dân. Và giáo dân, với tính cách là thành phần dân Chúa, với ơn gọi làm tông đồ giáo dân (1), có bổn phận giữ đạo và truyền đạo cũng cần phải liên lạc với hàng giáo phẩm và sự giúp đỡ của các linh mục và tu sĩ (2). Từ nhu cầu hỗ tương trên, Ban Giám Đốc đã cổ động và mời gọi các giáo dân cộng tác để tích cực và trực tiếp tham dự vào công tác mục vụ. Giáo dân đã nghe tiếng gọi của các giáo sĩ và đã gia nhập các hội đoàn Công giáo tiến hành có sẵn, hoặc lập ra những nhóm, phong trào, hội đoàn mới. Tư vấn là công tác mục vụ chuyên biệt của các vị cố vấn: Định hướng, phối hợp, kiệm tra tổng kết là hành động mục vụ độc đáo của ban thường vụ; trực tiếp tham gia mục vụ để giữ đạo và truyền đạo là ơn gọi và sứ mệnh của toàn giáo dân. Rất nhiều giáo dân đã tham gia vào các công tác mục vụ trực tiếp này bằng cách hoặc tham gia vào Ban Đại Diện các đơn vị mục vụ địa phương, hoặc tham gia vào các đoàn thể Công giáo tiến hành địa phương và trung ương Paris. Mỗi người chọn lấy sinh hoạt và đơn vị, tùy theo khả năng, thời giờ, sức khoẻ. Dẫu là công tác tình nguyện, nhưng vì tự do chọn lựa, đa số các giáo dân sinh hoạt với tinh thần trách nhiệm và với những kết quả đáng kính phục.

Cho đến năm 1980, theo những nghiên cứu được ghi lại tong "Kỷ yếu 50 năm thành lập Giáo Xứ Việt Nam tại Paris 1947-1997", giáo xứ có 2 địa điểm mục vụ là Paris (1947) và Sarcelles (1977) và 6 hội đoàn, ban nhóm mục vụ: Hội Sinh viên Công giáo (1946), Hội Đạo Binh Đức Mẹ (1970), Hội Các Bà Mẹ Công Giáo (1971), Giới trẻ (1977), Ca đoàn (1978) và Nhóm Xã hội (1978).

Hôm nay, 22.03.2007, nếu nhìn vào các báo cáo mục vụ hàng năm của BGĐ và BTV, Giáo xứ hiện có tất cả 7 địa điểm mục vụ: Paris (1947), Sarcelles (1977), Villiers-Le-Bel (1979), Marnes-La-Vallée (981), Cergy-Pontoise (1993), Ermont-Montigny-Franconville (1993) và Antony (2006)

Còn như các hội đoàn và phong trào, ban, nhóm Công giáo tiến hành, thì hiện nay tại Giáo Xứ Việt Nam, địa điểm trung ương Paris, có 36 đơn vị chính: Hội Các Bà Mẹ Công Giáo, Hội Đạo Binh Đức Mẹ (15 tiểu đội), Hội Yểm Trợ Ơn Gọi (35 chi hội với 539 hội viên), Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể (269 ấu, thiếu, sĩ), Phong Trào Cursillo (trên 600 cursillistas), Liên Đới Nghề Nghiệp (với năm nghành Chuyên gia, Thân hữu Taxi, Doanh tương, Dịch vụ, Xây dựng); Các Ca Đoàn (Năm Ca đoàn tại Paris: Giáo xứ, Trinh vương, Triều dâng, Thiếu nhi Thánh thể, Lê bảo Tịnh, và sáu Ca đoàn tại 6 địa điểm mục vụ: Antony, Cergy, Ermont, Marne la Vallée, Sarcelles, Villiers le bel) ngoài ra còn nhóm Nhạc Dân Tộc, nhóm Du Ca.

Giới trẻ (trên 300 người), Nhóm Gia đình trẻ, Nhóm Sống đạo, Nhóm Tìm hiểu ơn gọi, Nhóm Thánh kinh, Nhóm Giáo lý tân tòng, Nhóm bữa cơm chủ nhật, Nhóm Thư viện, Nhóm trẻ, Lớp Giáo lý cho 269 trẻ em, Lớp Pháp văn (8 lớp ban ngày cho 168 học viên), Lớp tiếng Việt cho 269 trẻ em, Lớp đàn tranh, lớp nghệ thuật ca kịch, Ban giúp lễ, Ban báo giáo xứ và tu thư, Ban Mục vụ hôn nhân, Ban Tiền giúp Giáo Hội.

Tất cả những địa điểm và hội đoàn mục vụ trên đây của Giáo Xứ đều đã được trình bày tóm lược trong một sơ đồ tổ chức sau đây, đơn sơ và trong sáng, cho thấy những sinh hoạt nội bộ của Giáo Xứ, được cha Mai Đức Vinh và giáo sư Trần Văn Cảnh phát họa vào năm 1999.

IV. CÁC NHIỆM KỲ VÀ NHỮNG THỰC HIỆN

Hội Đồng Mục Vụ tiên khởi, khóa I (1983-1985)

Ban Thường Vụ đã được các đại diện của các Địa Điểm Mục Vụ và các Đơn Vị Mục Vụ bầu cử ngày 30.10.1983 và được đức cha Michel COLONI, giám mục phụ tá Tổng Ba-lê, đặc trách các Cộng Đoàn Ngoại Kiều chính thức công nhận ngày 11/12/1983. Thành phần gồm:

Chủ tịch: Ô. Phan Quang

Phó chủ tịch đặc trách tôn giáo:Ô. Nguyễn Văn Hộ

Phó chủ tịch đặc trách xã hội: Ô. Louis Trần

Phó chủ tịch đặc trách văn hóa tuổi trẻ: Ô. Võ Phước Thiện

Tổng Thư ký: Ô. Trần Văn Cảnh

Phó Thư ký: B. Tạ Thanh Minh Khánh

Chánh Thủ quỹ: B. Nguyễn Đình Thái

Phó Thủ quỹ: Ô. Nguyễn Tiến Đạt

Ban Cố Vấn: Cha Trần Thanh Giản, Sư Huynh Pierre Trần Văn Nghiêm, Bác sĩ Phạm Văn Phán, Giáo sư Nguyễn Huy Bảo, Bác sĩ Tạ Thanh Minh.

1983:

Khai trương 'Bữa Cơm Chúa Nhật'; tổ chức hai ngày thân hữu để gây quỹ điều hành và kiến thiết; Xây Xi măng sân trong.

1984:

Xin nhà dòng Visitandines cho đất, mở rộng sân; tái bản báo Giáo Xứ Việt Nam; Tiểu đội Legio Trẻ ra đời.

1985:

Cha Hoàng Quang Lượng đi hưu, Cha Pêrô Bùi Duy Nghiệp từ Toulouse lên làm việc cho Giáo Xứ, lo giới trẻ và giúp cộng đoàn Sarcelles. Xin nhà dòng cho phép làm nhà kho ngoài sân, làm sân khấu. Trình diễn văn nghệ với đề tài 'Giữ Thơm Quê Mẹ'. Đại Hội Mục Vụ 20.06.1985: tu chính lần 1, Nội qui HĐMV. Cha Vinh được bầu làm chủ tịch hội Liên Tu Sĩ VN/P.

Hội Đồng Mục Vụ khóa II (1985-1987)

Ban thường Vụ:

Chủ tịch: Ô. Phan Quang

Phó chủ tịch đặc trách tôn giáo: Ô. Nguyễn Văn Hộ

Phó chủ tịch đặc trách xã hội: Ô. Louis Trần

Phó chủ tịch đặc trách văn hóa tuổi trẻ: Ô. Võ Phước Thiên

Tổng Thư ký: B. Tạ Thanh Minh Khánh

Phó Thư ký: Ô. Đoàn Ngọc Hưởng

Chánh Thủ quỹ: B. Nguyễn Đình Thái

Phó Thủ quỹ: Ô. Nguyễn Tiến Đạt

Ban Cố Vấn: Cha Trần Thanh Giản, Sư Huynh Pierre Trần Văn Nghiêm, Bác sĩ Phạm Văn Phán, Giáo sư Nguyễn Huy Bảo, Bác sĩ Tạ Thanh Minh, Giáo sư Trần Văn Cảnh

1986:

Qua sự gợi ý của BGĐ và BTV-HĐMV, nhiều giáo dân đã biên thơ (3) cho ĐHY Lustiger, trình bày về nhu cầu cần một cơ sở mới và rộng rãi cho Giáo Xứ.

Đại Hội Mục Vụ kỳ I, tháng 06.1986, quyết định mở "Sổ Vàng" gây quỹ xây dựng cơ sở; Đồng thời BTV đã quyết định khởi đầu tổ chức "Tiệc xuân hàng năm" để gây thêm quĩ cho Giáo Xứ.

Thành lập Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể,

Đại Hội Liên Tu Sĩ I tại Giáo Xứ.

Chị Sophie Phú thôi làm việc cho Giáo Xứ và được nhà dòng gửi đi học y tá.

Cũng chính năm 1986, nhiệm kỳ của cha Mai Đức Vinh được triển hạn thêm ba năm làm cha sở của Giáo Xứ Việt Nam trong Hạt Ngoại Kiều (Curé de la poroisse Vietnamienne dans le doynné des Migrants) kể từ ngày 01.09.1986.

1987:

Thầy Girard Xavier thuộc cộng đoàn Sarcelles lãnh chức Phó Tế Vĩnh Viễn.

Hội Đồng Mục Vụ khóa III (1987-1990).

Ban Thường Vụ:

Chủ tịch: Ô. Nguyễn Văn Hộ

Phó chủ tịch đặc trách tôn giáo: Ô. Trần Louis

Phó chủ tịch đặc trách xã hội: B. Debonnaire Lộc

Phó chủ tịch đăc trách văn hóa tuổi trẻ: Ô. Trương Quân Vương

Tổng Thư ký: Ô. Nguyễn Ngọcc Đỉnh

Phó Thư ký: C. Nguyễn Thị Hy

Chánh Thủ quỹ: B. Nguyễn Đình Thái

Phó Thủ quỹ: C. Đào Kim Phượng

Ban Cố Vấn: Cha Trần Thanh Giản, Sư Huynh Pierre Trần Văn Nghiêm, Bác sĩ Phán, Giáo sư Nguyễn Huy Bảo, Bác sĩ Tạ Thanh Minh, Giáo sư Trần Văn Cảnh, Bà Giáo Sư Tạ Thanh Minh Khánh

1988: Cha Bùi Duy Nghiệp trở về lo cộng đoàn Việt Nam ở Toulouse, Cha Vincentê Nguyễn Văn Cẩn từ Thụy Sĩ về làm việc cho Giáo Xứ. Giáo Xứ tham dự Thánh lễ Phong Thánh tại Roma.

1989: Hội Yểm Trợ Ơn Gọi ra đời. Sau vụ nhà thờ 'Notre Dame de Blanc Manteau', Ban Giám Đốc lên yết kiến đức hồng y để trình bày về ý chí bảo toàn 'hằng tình' (identité) của người Việt Nam. Lưu nhiệm Hội Đồng Mục Vụ thêm một năm. Đại Hội Liên Tu Sĩ II tại Giáo Xứ.

Ngày 28.08.1989, đức cha Claude Frikart, giám mục phụ tá Paris, thay mặt đức hồng y J.M. Lustiger, gửi thư báo cho cha Vinh biết: Nhiệm kỳ làm cha sở sẽ hết vào ngày 31.08.1989, nhưng với sự đồng ý của các bề trên của cha, theo quy định về đặc quyền mà Bộ Giáo Sĩ ra ngày 23.12.1968, và theo sự biểu quyết của Hội Đồng Giám Mục Pháp công bố ngày 13.06.1984, nhiệm kỳ của cha được triển hạn đến 31.08.1992.

1990: Với sự giúp đỡ của nhà dòng Visitandines, nhiều người trong cộng đoàn góp sức trang bị lại nhà bếp, hệ thống sưởi, máy hút đồ dơ. Ra tờ "Mission Catholique Vietnamiene" bằng tiếng Pháp, 1 tờ A3, mỗi năm 2 số để gửi cho các ân nhân và bạn hữu ngoại quốc.

Chiều chúa nhật, ngày 16.4.1990, thư viện đã chính thức được cha giám đốc Mai Đức Vinh cắt băng khánh thành với tên là "Thư Viện Giáo Xứ''.

Ngày 17.06.1990, Văn nghệ 'Uống Nước Nhớ Nguồn', kỷ niệm hai năm lễ Phong Thánh.

Ngày 25.06.1990, đức cha Pierre Joatton, giám mục giáo phận Saint Etienne, chủ tịch Ủy Ban Giám Mục Ngoại Kiều gửi thư bổ nhiệm cha Giuse Mai Đức Vinh làm Đại Diện Quốc Gia cho Tuyên Úy Đoàn Việt Nam tại Pháp và là người có trách nhiệm phối hợp về mục vụ cho người Việt Nam 'Délégué National pour les aumôniers vietnamiens en France et responsable de la cơrdination de la Pastorale des Vietnamiens).

Hội Đồng Mục Vụ khóa IV (1990-1992).

Ban Thường Vụ

Chủ tịch: Ô. Nguyễn Văn Hộ

Phó chủ tịch đặc trách tôn giáo: Ô. LouisTrần

Phó chủ tịch đặc trách xã hội: Nt. Christine Nguyễn Thị Lan

Phó chủ tịch đặc trách văn hóa tuổi trẻ: C. Đào Kim Phượng

Tổng Thư ký: C. Vũ Thị Lan

Phó Thư ký: Ô. Phạm Hòa Hiệp

Chánh Thủ quỹ: Ô. Hoàng Minh Trứ

Phó Thủ quỹ: C. Nguyễn Thị Cẩm Tuyết

Ban Cố Vấn: Cha Trần Thanh Giản, Sư Huynh Pierre Trần Văn Nghiêm, Bác sĩ Phạm Văn Phán, Giáo sư Nguyễn Huy Bảo, Bác sĩ Tạ Thanh Minh, Giáo sư Trần Văn Cảnh, Bà Giáo Sư Tạ Thanh Minh Khánh

1991: Ủy ban Giám Mục về Ngoại Kiều can thiệp xin đức cha địa phận Nanterre cử cha Giuse Nguyễn Văn Ziên đến làm việc cho Giáo Xứ một phần tư thời gian trong hai năm. Đại Hội Liên Tu Sĩ III tại Giáo Xứ. Cha Giuse Trần Anh Dũng đến làm việc cho Giáo Xứ bán thời gian.

1992: Ngày 01.09.1992, đức cha Claude Frikart, thay mặt đức hồng y J.M. Lustiger gửi thư cho cha Mai Đức Vinh triển hạn nhiệm kỳ 'cha sở Giáo Xứ' của cha đến 31.08.1995. Làm lại nhà kho.

Đại Hội Mục Vụ 13.12.1992: tu chính lần 2, Nội qui HĐMV

Hội Đồng Mục Vụ khóa V (1992-1994).

Ban Thường Vụ

Chủ tịch: Ô. Nguyễn Văn Nghi (+2006

Phó chủ tịch đặc trách tôn giáo: Ô. Nguyễn Ngọc Đỉnh

Phó chủ tịch đặc trách xã hội: B. Huỳnh Thái Ngoạn

Phó chủ tịch đặc trách văn hóa tuổi trẻ: C. Đào Kim Phượng

Tổng Thư ký: Nt. Nguyễn Thị Lan

Phó Thư ký: Ô. Đỗ Duy Hoàng

Chánh Thủ quỹ: Ô. Đỗ Thượng Hưng

Phó Thủ quỹ: B. Debonnaire Lộc

Ban Cố Vấn: Cha Trần Thanh Giản, Sư Huynh Pierre Trần Văn Nghiêm, Bác sĩ Tạ Thanh Minh, Giáo sư Trần Văn Cảnh, Bà Giáo Sư Tạ Thanh Minh Khánh, Ông Nguyễn Văn Hộ

1993: Phong trào Cursillo bắt đầu mở Tuần Tĩnh Huấn tại Rungis với sự giúp đỡ nhân sự và tài chánh của Cursillo Việt Nam bên Hoa Kỳ. Cha Dũng nhận cộng đoàn Noisy Le Grand thay Cha Cẩn. Cha Sách nhận lo cộng đoàn Cergy-Pontoise.

1994: Chuẩn bị vận động với nhà dòng và Tòa Giám Mục làm lại hai nhà ngoài sân. Cha Ziên thôi làm việc cho Giáo Xứ và được đức cha giáo phận Nanterre cho đi học. Cha Cẩn thay thế Cha Ziên giúp cha Vinh ở Sarcelles.

Hội Đồng Mục Vụ khóa VI (1994-1997).

Ban Thường Vụ

Chủ tịch: Ô. Nguyễn Văn Hộ

Phó chủ tịch: Ô. Nguyễn Ngọc Đỉnh

Tổng Thư ký: C. Đào Kim Phượng

Phó Thư ký: Ô. Đỗ Duy Hoàng

Ủy viên đặc trách Tôn giáo: C. Nguyễn Mỹ Phước

Ủy viên đặc trách xã hội: Ô. Ngô Triệu Hùng

Ủy viên đặc trách văn hóa và giới trẻ: Ô. Nguyễn Kim Tuấn

Ủy viên tài chánh. Ô. Đỗ Anh Sĩ

Ban Cố Vấn: Cha Trần Thanh Giản, Sư Huynh Pierre Trần Văn Nghiêm, Bác sĩ Tạ Thanh Minh, Giáo sư Trần Văn Cảnh, Bà Giáo Sư Tạ Thanh Minh Khánh, Bác sĩ Nguyễn văn Ái.

1995: Ban 'Chuẩn Bị Hôn Phối' bắt đầu sinh hoạt. Làm lại nhà ngoài sân. Tham dự Đại Hội Hành Hương Lộ Đức do Tuyên Úy Đoàn tổ chức. Cha Vinh nhận lo cộng đoàn Ermont theo lời yêu cầu của Giáo phận Pontoise. Cha Dũng lo giới trẻ thay cha Sách.

1996: Làm lại sân. Chuẩn bị lễ 50 năm thành lập Giáo Xứ. Tuần lễ 'Đón Đức Mẹ' là tuần khai mạc năm Tạ Ơn. Thiếu nhi mừng 10 năm thành lập. Ban Thường Vụ của Hội Đồng Mục Vụ được triển hạn lại một năm. Nhóm 'Thân Hữu Taxi' thành hình.

Đúng theo thư bổ nhiệm, cha Vinh hết nhiệm kỳ làm cha sở Giáo Xứ vào ngày 31.08.1996. Nhưng ngày 21.03.1996, cha Vinh lên Tòa Tổng Giám Mục gặp đức cha Claude Frikart, đức cha bảo: 'Bây giờ không tính số năm, điều quan hệ là cha còn khỏe (solide) không? Tôi suy nghĩ và sẽ trả lời cho cha. Thế rồi ngày 03.06.1996, cha Yves Mallmann phụ tá của đức cha Claude Frikart và là giám đốc của SITI (Service Interdiocésain des Travailleurs Immigrants) đến Giáo Xứ báo cho cha Vinh hay là 'Địa phận muốn cha vui lòng tiếp tục nhiệm vụ làm cha sở Giáo Xứ Việt Nam, không cần bổ nhiệm lại nữa'. Lưu nhiệm Hội Đồng Mục Vụ thêm một năm.

1997: Tổ chức Đại lễ Kim Khánh Giáo Xứ (1947-1997) tại nhà thờ Notre Dame des Champs và tại Giáo Xứ ở Boissonade vào hai ngày 11 và 18.05.1997.

Xuất bản kỷ yếu 50 năm thành lập Giáo Xứ Việt Nam tại Paris ngày 01.01.1997.

Triển lãm kỷ niệm Kim Khánh về lịch sử, sinh hoạt, các đơn vị mục vụ, tổ chức các hội đoàn do sứ thần tòa thánh cắt băng khánh thành vào ngày 11.05.1997.

Văn nghệ 'Mùa gặt mới' tổ chức tại Centre Culturel Bouogne - Brillancourt vào thứ bảy 10.05.1997.

Cha Giuse Trần Anh Dũng được Tòa Tổng Giám mục chính thức bổ nhiệm làm việc tại Giáo Xứ, cách riêng cho giới trẻ, từ 1995. Từ nay ngài sẽ làm việc toàn thời gian cho Giáo xứ.

Xuất bản cuốn sách 'Giáo lý cho người trưởng thành' và cuốn 'Têrêsa, vị thánh lớn nhất của thời đại'

Ngày 12.10.1997, Cha Giám Đốc và BTV tu chính lần 3, Nội qui HĐMV

HĐMV, nhiệm kỳ VII, 1997-1999

Ban Thường Vụ

Chủ tịch: Ô. Antôn Nguyễn Ngọc Đỉnh

Phó chủ tịch: - Ô. Phêrô Phạm Bá Nha (năm 1997); - Ô. Phanxicô Lê Đình Thông (1998-1999)

Tổng Thư ký: Ô. Giuse Trần Khắc đạt

Phó Thư ký: C. Anna Phạm Mai Hương

Ủy viên Tôn giáo: C. Marie Thérèse Nguyễn Mỹ Phước

Ủy viên Văn hóa: Ô. Giuse Bùi Văn Triển

Ủy viên Cơ sở: Ô. Giuse Nguyễn Văn Thơm

Ủy viên Tài Chánh: Ô. Giuse Ngô Triệu Hùng

Ban Cố Vấn: Bác sĩ Tạ Thanh Minh, Giáo sư Trần Văn Cảnh, Bà Giáo Sư Tạ Thanh Minh Khánh, Bác sĩ Nguyễn văn Ái, Ông Nguyễn Văn Hộ.

1998

Thầy Phạm Bá Nha và thày Nguyễn Văn Thạch lãnh chức phó tế vĩnh viễn ngày 23.08.1998 tại Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Paris.

Đại hội hành hương Lộ Đức từ 06 đến 10.08.1998

Đến cơ sở mới và dâng thánh lễ đầu tiên tại cơ sở mới vào ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời, 15.08.1998 và chuyển giao cơ sở Boissonade cho cộng đoàn công giáo Triều Tiên ngày 31.08.1998.

Linh mục giám đốc Mai Đức Vinh được Tòa Thánh ân thưởng tước vị 'Đức ông' qua quyết định ngày 12.11.1998 của phủ quốc vụ khanh đích thân đức hồng y Jean Marie Lustiger đã đến địa điểm mới của Giáo Xứ và công bố vào lễ Các Thánh Tử Đạo cử hành tại cơ sở mới vào ngày 15.11.1998.

1999

Sr Anna Huỳnh thị Na qua đời ngày 11.12.1999.

16 hang đá dự thi triển lãm vào Giáng sinh 25.12.1999

Xuất bản cuốn 'Hành trang sống thế kỷ XXI'

Ban thường vụ nhiệm kỳ VII; lưu nhiệm thêm một nhiệm kỳ 2 năm

Hội Đồng Mục Vụ nhiệm kỳ VIII, 1999-2001

Ban Thường Vụ

Chủ tịch: Ô. Antôn Nguyễn Ngọc Đỉnh

Phó chủ tịch: Ô. Phanxicô Lê Đình Thông

Tổng Thư ký: Ô. Giuse Trần Khắc Đạt

Phó Thư ký: C. Anna Phạm Mai Hương

Ủy viên Tôn giáo: C. Marie Thérèse Nguyễn Mỹ Phước

Ủy viên Văn hóa: C. Maria Đào Kim Phượng

Ủy viên Cơ sở: Ô. Giuse Nguyễn Văn Thơm

Ủy viên Tài Chánh: Ô. Giuse Ngô Triệu Hùng

Ban Cố Vấn: Bác sĩ Tạ Thanh Minh, Giáo sư Trần Văn Cảnh, Bà Giáo Sư Tạ Thanh Minh Khánh, Ông Nguyễn Văn Hộ, Bác sĩ Nguyễn Văn Ái

2000

Nhóm Chuyên Gia Đại Hội ra mắt vào chúa nhật 16.01.2000.

Ngày Năm Thánh của cộng đoàn để lãnh ơn toàn xá, cử hành ngày 12.03.2000 tại Vương Cung Thánh Đường Sacré Coeur, Montmartre.

Đại hội liên đới nghề nghiệp lần thứ nhất 01.05.2000 với năm nhóm chuyên gia, dịch vụ, doanh thương, thân hữu Taxi và xây dựng.

Hội diễn thánh ca ngày 17.12.2000 với sự tham dự của tất cả các ca đoàn và nghệ sĩ của Giáo Xứ.

Xuất bản 3 cuốn sách 'Fatima, hòa bình và tình thương', 'Đường vào tình yêu' và 'Chân phước Giáo hoàng XXIII'.

2001

Sư huynh Trần Văn Nghiêm, người đã đóng góp rất nhiều cho Giáo Xứ qua đời ngày 05.04.2001, thọ 93 tuổi.

Ban Mục vụ Hôn nhân cho ra đời ngày (bồi dưỡng) gia đình tổ chức vào hai ngày 27 và 28.10.201

Nhóm chuyên gia bắt đầu mở phòng trực vào mỗi chiều chúa nhật thứ tư, nha y dược, bắt đầu từ 23.09.2001.

Xuất bản cuốn sách "Tâm tình tuổi xuân" (Hỏi để biết sống).

Cha Dũng thay cha Cẩn lo việc quản lý.

Tu chính lần thứ tư Bản nội quy HĐMV, qua ĐHMV ngày 09/12/2001, đặc biệt tăng nhiệm kỳ của các thành phần trong BTV lên 3 năm (thay vì 2 năm, như trước đây) và tăng thêm số ủy viên. Xin nhắc lại Nội Qui HĐMVC được Gs Cảnh soạn thảo vào năm 1983, đã được tu chính ba lần vào các năm 1985, 1992 và 1997

Hội Đồng Mục Vụ nhiệm kỳ IX, 2001-2003

Ban Thường Vụ

Chủ tịch: Ô. Phanxicô Lê Đình Thông

Phó chủ tịch: C. Maria Đào Kim Phượng

Tổng Thư ký: Ô. Giuse Trần Khắc Đạt

Phó Thư ký: C. Marie Têrêsa Lê Thị Xuân Phượng

Ủy viên Tôn giáo: C. Marie Thérèse Nguyễn Mỹ Phước

Ủy viên Cơ sở: Ô. Giuse Nguyễn Văn Thơm

Ủy viên Tài Chánh: Ô. Giuse Ngô Triệu Hùng

Theo bản tu chính 9-12-2001, nhiệm kỳ của BTV là 4 năm và có thêm 4 Ủy Viên:

Ủy viên Thiếu Niên: Ô. Dương Công Huy.

Ủy Viên Phụng Vụ và Thánh Ca: Ô. Bùi Trọng Khang.

Ủy viên Văn Hóa: Ô. Trần Anh Dũng.

Ủy viên Thông Tin Liên Lạc: Ô. Giuse Nguyễn Thành Công.

Ban Cố Vấn: Bác sĩ Tạ Thanh Minh, Giáo sư Trần Văn Cảnh, Bà Giáo Sư Tạ Thanh Minh Khánh, Bác sĩ Nguyễn Văn Ái, Ông Nguyễn Văn Hộ, Bác sĩ Nguyễn Ngọc Đỉnh

2002

Cha Vinh được bầu làm Liên Lạc Trưởng Mục Vụ Âu Châu, lo phối hợp hoàn thành cuốn 'Hội Ngộ Niềm Tin' và tổ chức Đại Hội Công Giáo Âu Châu từ 02 đến 04.08.2002 tại Lộ Đức.

Đại hội liên đới nghề nghiệp lần thứ 3, ngày 01.05.2002, mạng lưới đầu tiên của Giáo Xứ (sau hai năm cưu mang). Chào đời với tên gọi www giaoxuvn paris.org

Cộng đoàn Giáo Xứ đón Đức Mẹ Lavang vào Giáo Xứ trong hai ngày 12 và 13.10.2002.

Ra mắt cuốn I trong bộ Tân Lịch Sử Giáo Hội (gồm 5 cuốn và 10 quyển sách)

2003

Tiếp đón 130 bạn trẻ trên tổng số 90.000 bạn trẻ thế giới về họp tại Paris từ 28.12.2002 đến 01.01.2003.

Thánh lễ tại Giáo Xứ được trực tiếp truyền hình trên đài F2 vào chúa nhật 23.03.2003.

Đại hội liên đới nghề nghiệp lần thứ 4, ngày 01.05.2003 Ấn hành cuốn 'Kỷ yếu Liên Đới Nghề Nghiệp 2003'.

Lập nhóm đặc trách 'Tiền giúp Giáo Hội'.

Giáo Xứ tích cực tham gia đại hội "Hội Ngộ niềm tin" tổ chức tại Rôma, từ 24 đến 28.07.2003, và góp phần thành hình tập sách "Hội Đồng Mục Vụ".

Cha Đinh Đồng Thượng Sách thay cha Trần Anh Dũng lo mục vụ giới trẻ, có thầy sáu vinh viễn Tạ Đình Chung phụ tá. Thánh lễ giới trẻ tổ chức vào chúa nhật 01.11.2003 qui tụ trên 300 người tham dự.

Thầy sáu Tạ Đình Chung chịu chức ngày thứ bảy 03.10.2003.

Cha Dũng lo mục vụ cộng đoàn Sarcelles, thay cha Nguyễn Văn Cẩn và làm tuyên úy hội yểm trợ ơn gọi. Hội đã tu chính nội qui và bầu Ban Chấp Hành mới vào ngày 05.10.2003.

Tiếp đón đức tân hồng y Phạm Minh Mẫn, và cùng Ngài cử hành thánh lễ kỷ niệm Các Thánh Tử Đạo Việt Nam ngày chúa nhật 16.11.2003.

16.12.2003, thiết trí hệ thống âm thanh mới trong nhà nguyện và hội trường chung với kinh phí 22.000 euro. Ngoài ra một hệ thống tân trang mới cũng đã được thiết bị: đàn piano numérique, máy chiếu điện tử (vidéo projecteur).

Thi hang đá kỳ II mừng Giáng Sinh. 18 hang đá đã dự thi từ lễ Giáng Sinh 25.12.2003 đến lễ Thánh Gia 28.12.03. Giải nhất về Marne-La-Vallée.

Khánh nhật Hôn nhân tổ chức vào ngày lễ Thánh gia 28.12. 2003, có 14 đôi tham dự, kỷ niệm 15 năm, 20 năm, 25 năm, 30 năm, 42 năm và 60 năm hôn nhân.

Tổng kết mục vụ năm 2003 ở Giáo Xứ có 49 em bé rửa tội, 26 người lớn gia nhập Giáo Hội, 21 trẻ em rước lễ lần đầu, 26 người lớn và 28 trẻ em chịu phép thêm sức, 14 đôi bạn trẻ lãnh bí tích Hôn Phối (10 đôi khác học khoá chuẩn bị hôn phối tại Giáo Xứ, nhưng làm lễ nơi khác), 256 ấu thiếu nhi và kha tráng, từ 5 đến 17 tuổi đi học giáo lý và tiếng Việt tại Giáo Xứ, 58.000 người rước lễ chúa nhật.

2004

Xuất bản 2 cuốn sách: Tân Lịch Sử Giáo Hội cuốn III, và Kỷ yếu mừng 20 năm xuất bản báo Giáo xứ.

Lễ thánh Giuse, quan thầy Giáo Hội VN, 19.03.2004, Ban tu thư Giáo Xứ phát hành cuốn sách thứ 11: VĂN HOÁ VÀ ĐỨC TIN, 640 trang, giá bán 20 euros.

Ngày gia đình thảo luận về "Trao truyền văn hoá và đức tin cho con cái" đã được các phụ huynh trẻ tổ chức vào ngày chúa nhật 28.03.2004, qua 2 nhóm thảo luận về 2 đề tài:

1- Trao truyền văn hoá gia đình Việt Nam cho con cái,

2-Trao truyền đức tin gia đình cho con cái.

Ngày chúa nhật 18.04.2004 nữ nghệ sĩ Bích Thuận nói truyện và ra mắt cuốn hồi ký "Từ làng Vân hồ đến Unesco".

Cha Huỳnh Ngọc Tiên tạ thế ngày 18.04.2004. Rất nhiều tu sĩ và giáo dân đã đến dự thánh lễ an táng do đức hồng y Phạm Minh Mẫn chủ tế tại Giáo Xứ, lúc 10 giờ, ngày 24.04.2004.

Đại hội kỳ 5 của Liên Đới Nghề nghiệp vào 01.05 tại Giáo Xứ từ 14 giờ và tiệc thân hữu tại Asia Palace từ 20 giờ, thâu được 3774 euro, để giúp quỹ truyền giáo tại Việt Nam.

Hai ngày Giáo Xứ thứ bảy và chúa nhật 15-16.05.2004 năm nay có sư tham gia đông đảo hơn của các đơn vị mục vụ và các hội đoàn.

Đại diện Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ, Ls Lê Đình Thông và chị Đào Kim Phượng tham dự các buổi hội thảo của Tổng địa phận Paris về Năm Truyền giáo, đặc biệt trong ngày Đại Hội 15.05.2004, và các cuộc Hội Luận trong tuần lễ 25-28.10.2004.

Đại Hội Mục Vụ nhiệm kỳ X (2004-2007),

Ban Thường Vụ.

Chủ tịch: Ô. Phanxicô Lê Đình Thông

Phó chủ tịch: Ô.Antôn Bùi Trọng Khang

Tổng Thư ký: Ô. Giuse Trần Khắc Đạt

Phó Thư ký: B. Céceline Trần Kim Chi

Ủy viên Tôn giáo: C. Marie Thérèse Nguyễn Mỹ Phước

Ủy viên Cơ sở: Ô. Giuse Nguyễn Văn Thơm

Ủy viên Tài Chánh: Ô. Giuse Ngô Triệu Hùng

Ủy viên Thiếu Niên: A. Phanxicô Nguyễn Nhaty.

Ủy Viên Thanh Niên: Ô. Gioan Võ Thành Nhân

Ủy Viên Phụng Vụ và Thánh Ca: C. Élisabeth Thérèse Huỳnh Anh Thư

Ủy Viên Văn Hóa: Ô. Toma Nguyễn Minh Đức.

Ủy viên Thông Tin Liên Lạc: Ô. Michel Nguyễn Anh Hải

Năm 2007- 2008, năm hồng ân của Giáo Xứ, kỷ niệm 60 năm thành lập Giáo Xứ (1947-2007) và 25 năm thành lập Hội Đồng Mục Vụ (1983-2007) nên Ban Thường Vụ trên được lưu nhiệm thêm một năm để tổ chức các lễ kỷ niệm..

Ban Cố Vấn: Bác sĩ Tạ Thanh Minh, Giáo sư Trần Văn Cảnh, Bà Giáo Sư Tạ Thanh Minh Khánh, Bác sĩ Nguyễn Văn Ái, Ông Nguyễn Văn Hộ, Bác sĩ Nguyễn Ngọc Đỉnh.

2004

Triển lãm kết thúc năm Truyền Giáo trong 2 tháng, từ 03.10 đến 28.11.2004 với chủ đề "Ai sẽ cho ta thấy hạnh phúc" (Tv 4,7), qua 4 ngăn: hiện tình truyền giáo trên thế giới, công cuộc truyền giáo tại Việt Nam, Giáo Xứ Việt Nam thể hiện tinh thần truyền giáo và phim về truyền giáo.

Để mở đầu năm Thánh Thể (tháng 10.2004 tháng 10.2005), Giáo xứ đã khai trương "Chương trình học hỏi về thánh lễ" 3 phút, kể từ chúa nhật 28.11.2004.

2005

Từ ngày 23.01.2005, Giáo Xứ phát hành 'Tờ Thông Báo' hàng tuần với nội dung: "Các bài đọc Kinh Thánh của chúa nhật, phần suy niệm Phúc Âm (Chủ yếu, Suy niệm và Cầu nguyện). phần thông tin sinh hoạt của Giáo Xứ.

Mùa đông 2004-2005 lạnh, các huynh trưởng và nghĩa sĩ đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể tổ chức nhiều ngày "Chúa nhật công tác xã hội, mang cháo, cà phê nóng và thức ăn cho những kẻ không cửa không nhà tại các khu phố nghèo ở Paris.

Cha Trần Định, sinh hoạt tích cực với Giáo XXứ trong những năm thập niên 80, đặc biệt trong nhóm Thần Học Giáo Dân, đã qua đời ngày 14.02.2005, hưởng thọ 63 tuổi

Hai ngày công quả 28.02 và 17.03.2005 đã được ủy viên xây dựng tổ chức để trùng tu cơ sở Giáo Xứ. Trên dưới 20 thành viên trong nhóm Liên đới Xây dựng đã đáp lời mời của ông Thơm, để đến làm việc công quả này.

Ngày Gia đình cho các gia đình trẻ đã được tổ chức vào ngày 13.03.2005. Gs Tạ Thanh Minh Khánh nói lời dẫn nhập vào đề tài "Hạnh phúc gia đình", để 4 nhóm thảo luận về: 1-Hạnh phúc vợ chồng: tiền bạc ? 2-Hạnh phúc vợ chồng: sức khoẻ và sinh lý ? 3- Hạnh phúc vợ chồng: danh vọng, nghề nghiệp, đam mê cá nhân? - Hạnh phức vợ chồng: tôn giáo ?

Cha Lê Xuân Mừng, trợ bút tích cực của báo Giáo Xứ đã từ trần ngày 27.03.2005, hưởng thọ 94 tuổi.

17.04.2005 là ngày sinh nhật thứ 15 của Thư Viện. Luật Sư Lê Trọng Quát và Giáo sư Vũ Quốc Thúc đã thuyết trình về Quận Công Nguyễn Hữu Bài.

Tiếp tục truyền thống ngày Hội Thánh Ca của các ca đoàn trong Giáo Xứ, ngày 30.04.2005, ngày ca đoàn lần thứ hai đã được tổ chức.

01.05.2005, Đại Hội Liên Đới Nghề Nghiệp kỳ VI, hội thảo về kinh nghiệm của các nghiệp đoàn. Gs Trần Văn Cảnh đã thuyết trình về đề tài "Từ quan niệm về liên đới trong hiến chương Âu Châu đến kinh nghiệm Liên đới Nghề nghiệp của các nghiệp đoàn chủ". Ls Lê Đình Thông thuyết trình về đề tài "Từ liên đoàn Lao Động đến Liên Đới Nghề nghiệp". Đức Ông Mai Đức Vinh bổ nhiệm thầy sáu Tạ Đình Chung và Giáo sư Trần Văn Cảnh làm đại diện cho năm ngành liên đới.

Qua lá thơ đề ngày 29.06.2005, Đức Ông Giám Đốc Mai Đức Vinh đã chính thức loan báo với cộng đoàn việc thành lập địa điểm mục vụ mới ở Antony.

11.08.005, 36 bạn trẻ Giáo Xứ Việt Nam lên đường tham dự Ngày Thế giới Giới trẻ lần thứ 20 tại Cologne, nước Đức, về đề tài "Chúng ta cùng đến thờ lậy Ngài".

Thứ bảy 10.09.2005, cùng với các tôn giáo Việt Nam khác, Phật giáo, Cao đài, Hoà Hảo, GXVN đã cử hành lễ cầu nguyện liên tôn cho các linh hồn tổ tiên tại crématorium nghĩa trang Père Lachaise Paris. Gs Trần Văn Cảnh điều khiển buổi lễ. Ls Lê Đình Thông cắt nghĩa ý nghĩa của buổi lễ.

Thầy Giuse Nguyễn Thanh Điển lãnh nhận chức linh mục ngày 01.10.2005 và đã dâng lễ tạ ơn tại Giáo XXứ. Tân linh mục sẽ về phục vụ Giáo Xứ, thay cha Nguyễn Văn Cẩn về hưu.

Nữ tu Marie Nguyễn thị Kim Thoa đã làm lễ khấn trọn đời trong tu hội Thánh Tâm Chúa Giêsu theo bậc giáo dân tận hiến ngày 02.10.2005 tại nhà nguyện Giáo xứ. Chị Thoa là thành viên trong Ban Giám Đốc Giáo Xứ và phụ trách Lớp Pháp Văn từ năm 2000.

Cha Trần Anh Dũng thay thế cha Cẩn lo sổ sách tiền bạc của Giáo Xứ.

Chúa nhật 16.10.2005, Giáo Xứ cử hành thánh lễ tạ ơn, cám ơn cha Nguyễn Văn Cẩn, đã làm việc cho Giáo Xứ gần 20 năm, từ 1988 và nay ngài về nghỉ hưu.

Trong chương trình hướng đi mục vụ LIÊN ĐỚI TIN MỪNG, ngày 26.11.2005, Ban Giám Đốc và Ban Thường Vụ đã đồng ý đề nghị với cộng đoàn 3 việc cho năm 2006: 1-Phổ biến và học hỏi hai văn kiện "Tông đồ giáo dân" và "Truyền giáo", 2-Tiếp tục cây thông truyền giáo trong Mùa vọng và mùa Giáng sinh, 3-Cầu nguyện và đọc kinh truyền giáo.

2006

Phục Sinh 16.04.2006 ra mắt cuốn sách thứ 12 của Ban Tu Thư GXVN: VĂN HOÁ GIA ĐÌNH, 552 trang, giá bán 20 euros.

2.04.2006, Ngày Văn Hoá Giáo Xứ do nhóm Thư Viện tổ chức để mừng sinh nhật thứ 20 của thư viện. Khoảng 300 người tham dự. Gs Lê Đình Thông thuyết trình về đề tài 'Thầy Lazarô Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản (1865-1911)'. Phần hai nhóm thư viện giới thiệu Cuốn Hồi ký của nhạc sĩ Phạm Xuân Lôi.

29.04.2006, họp mặt của 12 ca đoàn để hát cho nhau nghe và trao đổi về thánh ca và phụng vụ dưới sự hướng dẫn của cha Nguyễn Thanh Sang.

01.05.2006, Đại Hội LĐNN lần thứ 7. Khoảng 100 người thuộc 5 nhóm LĐNN đã về tham dự. Bà chưởng khế Mỹ Linh đã thuyết trình về đề tài 'thừa kế' rất hấp dẫn.

20.05.2006, Giáo Xứ tham dự lễ Tưởng Niệm và làm phép mồ Cựu Hoàng Bảo Đại tại Nghĩa trang Passy, quận 16, Paris với các tôn giáo Việt Nam khác và đại diện hoàng gia.

Chúa nhật 28.05.2006, đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể cắm trại ở Dourdan, mừng sinh nhật thứ 20 của đoàn.

Chiều thứ bảy 17.06.2006, đức tổng giám mục André Vingt-Trois đã đến thăm mục vụ Giáo Xứ và ban phép thêm sức cho 35 em thiếu nhi Việt Nam.

Từ 03 đến 07.08.2006 cùng với 46 Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam khác tại Pháp đã trở về Lộ Đức họp mặt kỷ niệm '30 năm hành trình đức tin của các Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp 1976-2006'. Gs Trần Văn Cảnh đã thuyết trình về đề tài 'Những thách đố đức tin' và Gs Tạ Thanh Minh Khánh về đề tài 'Nhiệm vụ làm tông đồ của giáo dân'.

08.10.2006, Hội Đồng Mục Vụ tĩnh tâm tại nhà dòng các Soeurs Bénédictines trên đồi Montmartre ở quận 18 Paris và học hỏi về đề tài 'Làm chứng cho tin mừng theo gương các thánh tử đạo Việt Nam'.

Mở đầu ĐẠI HỘI MỤC VỤ lần thứ 50 vào chúa nhật 17.12.2006, Đức Ông Mai Đức Vinh đề nghị với Cộng đoàn đặt tên cho năm 2007, năm mà Giáo Xứ Việt Nam Paris hiện diện vừa chẵn 60 năm là năm HỒNG ÂN và một chương trình gồm 9 sinh hoạt quan trọng.

Thi hang đá kỳ 3, 25.12.2006, với 19 hang đá dự thi. Giải nhất 500 euros đã được trao cho Cộng Đoàn Cergy Pontoise ngày lễ Ba Vua 07.01.2007.

31.12.2006, lễ Thánh Gia, Giáo Xứ đã tổ chức Lễ Mừng Thượng Thọ cho các bậc cao niên trên 70 tuổi của Cộng đoàn. Khoảng 200 vị đã đến tham dự. Phát hành bộ Suy Niệm Tin Mừng (ba cuốn A,B,C) để kỷ niệm 5 năm 'Sinh hoạt Mục vụ Màng Lưới' và gửi tặng các vị mừng Thượng Thọ.

2007

"Ngày Bệnh Nhân" được thực hiện trong 10 ngày, từ 26.01.2006 đến 04.02.2006, qua ba việc: bó hoa thiêng cầu nguyện, lần hạt, dâng lễ, rước lễ, làm phúc chỉ cho các bệnh nhân; thánh lễ đặc biệt vào chúa nhật 04.02.2007 cầu cho các bệnh nhân; và thăm viếng, tặng quà cho các bệnh nhân của Cộng Đoàn.

Thân Hữu Taxi mở Tiệc Xuân giúp các em mồ côi và khuyết tật tại Việt Nam, Paris, tối 10.02.2007

Tết Đinh Hợi, Tiệc Xuân chung cho toàn Giáo Xứ được tổ chức vào trưa chúa nhật 11.02.2007.

Giao thừa Tết Đinh Hợi 2007 tại Giáo Xứ Việt Nam Paris: 20 giờ, tối thứ bảy 17.02.2007, tất cả các giáo hữu tụ họp tại Giáo Xứ, khởi đầu bằng phần canh thức.

Rửa Tội và Thêm Sức cho 12 anh chị em Tân Tòng tại Giáo Xứ vào chủ nhật lễ Phục Sinh 08.04.2007.

Ngày Văn Hóa Việt Nam, nói chuyện về linh mục NGUYỄN VĂN THÍCH và nghe nhạc sĩ

LÊ TRẠCH LỰU, Do nhóm Thư Viện Giáo Xứ Việt Nam Paris tổ chức ngày 15.04.2007.

Diễn Nguyện Thánh Ca tại Giáo Xứ Việt Nam Paris, ngày 29.04.2007

Đại Hội Liên Đới Nghề Nghiệp VIII, tại Giáo xứ Việt nam Paris, ngày 01.05.2007

Ngày Gia Đình Trẻ với đề tài "Giáo dục con cái ở bậc tiểu học & trung học", chủ nhật 6-5-2007 tại cộng đoàn Marne-La-Vallée, Pháp

Hai ngày Thân Hữu (Kermesse), thứ bảy 12 và chủ nhật 13.05.2007, Giáo xứ Việt Nam Paris

Thánh Lễ Tạ Ơn, kỷ niệm 60 năm thành lập Giáo Xứ Việt Nam tại Paris, do đức cha Fortunato BALDELL, Sứ Thần Toà Thánh chủ lễ, Chủ nhật 24-06-2007

Nhóm Thân Hữu 'Tầu 101' xin Lễ Tạ Ơn vượt biển đền nơi định cư bình an, ngày 01.07.2007

Vĩnh biệt đức hồng y Jean Marie LUSTIGER, đã tạ thế vào chủ nhật 05 tháng 08 năm 2007

Tọa Đàm về 60 năm Giáo Xứ và 25 năm Hội Đồng Mục Vụ, GXVN Paris, ngày 30.09.2007

LỜI KẾT

Ngày 22.08.2006 vừa qua, tại Toà Giám Mục Thanh Hoá, Ủy Ban Giáo Dân thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã tổ chức một cuộc Hội Nghị để bàn về chương trình hoạt động cho năm 2007 với sự chủ toạ của đức cha chủ tịch Giuse Nguyễn Chí Linh. Trong bản đúc kết, Hội Nghị viết "Để cụ thể hóa cho hoạt động của Ủy ban, Hội nghị đã đề ra đường hướng sinh hoạt cho Năm Sống Đạo 2007 do HĐGM đề xướng, chủ yếu nhằm vào 3 đối tượng ưu tiên: Hội Đồng Giáo Xứ (HĐGX), Đoàn thể, Gia đình" (4). Ngày 08.09.2006, Hội Đồng Giám mục Việt Nam đã gởi một THƯ MỤC VỤ năm 2006. Chọn chủ đề sống đạo hôm nay để mời gọi mỗi người sống niềm tin bằng những hành động cụ thể, như thánh Giacôbê Tông đồ viết: "Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết" (Gc 2,17). Quả thực, đời sống đạo vừa cần gắn bó với Thiên Chúa, vừa phải đi đến với anh em, như Chúa Giêsu, Ngôi lời nhập thể và nhập thế đã nêu gương cho chúng ta (5)".

Dõi theo hai tài liệu căn bản và hiện đại này, chúng ta có thể bảo rằng giáo dân của Giáo Xứ Việt Nam Paris đang lắng nghe và sống thư mục vụ của các vị chủ chăn là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đang sinh hoạt theo đối tượng ưu tiên của Ủy Ban Giáo Dân thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt nam qua việc thực hiện ba sứ mệnh của Hội Đồng Mục Vụ mà họ đã thành lập từ 1983 và hằng luôn cải tiến. Ba sứ mệnh đó là:

Tư vấn các linh mục và tu sĩ trong Ban Giám Đốc Giáo Xứ về những quyết định mục vụ,

Cộng tác với các linh mục và tu sĩ trong Ban Giám Đốc Giáo Xứ để soạn thảo chương trình và kế hoạch hoạt động mục vụ,

Cộng tác với các linh mục và tu sĩ trong Ban Giám Đốc Giáo Xứ để thực hiện công tác mục vụ trong khắp các phạm vi tôn giáo, văn hoá, xã hội và tài chính.

Kết thúc bài biên khảo này về Sứ mệnh của Hội Đồng Mục Vụ và đặc biệt về Ban Thường Vụ của HĐMV, GXVN Paris, một hình ảnh mạnh tuổi thơ, khi còn ở xứ Thanh, trở về trong trí tôi. Hình ảnh bơi thuyền trên biển đời. Xin ghi lại hình ảnh này qua bài thơ 'Biển đời', mà tôi đã khai bút vào xuân Quí Mùi 2003 vừa qua, và xin gởi tặng các thành viên Hội Đồng Mục Vụ và nhân viên Ban Thường Vụ.

BIỂN ĐỜI

Ra biển lấy thuyền bơi.
Biển đời,
Nhiều sóng, nhiều gió,
Đá ngầm cũng có.
Biển đời, một thử thách gay go
Lèo lái thuyền, với sóng giằng co,
Bơi chèo thuyền, tranh giành với gió,
Chống đỡ thuyền, đá ngầm so đo.
Sóng qua,
Sóng tới,
Sóng nhẹ,
Sóng mạnh,
Sóng nhỏ,
Sóng to.
Gió tây,
Gió đông,
Gió đẩy,
Gió cản,
Gió bắc,
Gió nam.
Đá này nhận ra,
Đá kia chẳng thấy.
Ở đây không có đá,
Biết đâu có đằng xa !
Chèo thuyền, tự chèo lấy
Cả sức lực, tâm trí.
Đừng quay lung lại với gian lao,
Cũng đừng trao thuyền cho ai hết !
Chèo thuyền.
Tự mình.
Nhìn thẳng.
Phiá trước.
Lái thuyền !
Bơi !
Thuyền đời,
Mở đất trời,
Hạnh phúc, nghỉ ngơi !

(Thanh Hương)


Chú thích:

(1) Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân, chương 1; 2-4

(2) Ibidem chương 5; 24-25

(3) Bảy lá thơ đã được gởi lên Ðức Hồng Y Lustiger và toà tổng giám mục Paris

1. 01.10.1986, thơ của giáo sư Trần Văn Cảnh gởi cho ÐHY Lustiger

2. 10.03.1987, thơ của nữ tu Marie Thérèse Trần gởi cho ÐHY Lustiger

3. 10.06.0987, thơ của chị Marie Julie Dương Nguyệt Di gởi cho ÐHY Lustiger

4. 03.10.1987, thơ của Cha GD Mai Ðức Vinh và ông chủ Tịch Phan Quang gởi cho ÐHY Lustiger

5. 14.04.1988, thơ của Ban Giám Ðốc và Ban Thường Vụ gởi cho ÐHY Lustiger

6. 10.10.1989, thơ của Ông Pierre Ðặng Kim Ban gởi cho ÐHY Lustiger

7. 12.09.1992, thơ của Ông Vũ Văn Nghi gửi cho ÐHY Lustiger

PHỤ LỤC 5: NIỀM VUI CHUNG



Lm Mai Đức Vinh

Hôm nay chúng ta vui mừng chia sẻ niềm vui với ba người trong Giáo Xứ lãnh huy chương và bằng khen 'PRO ECCLESIA ET PONTIFICE' do đức thánh cha Biển Đức XVI trao ban. Ba người đó là:

• Ông Giuse TRẦN VĂN CẢNH, người có công soạn thảo Nội Quy của Hội Đồng Mục Vụ (1983), giữ chức Tổng Thư Ký HĐMV (1983-1985) và liên tục làm Cố Vấn của HĐMV cho tới năm nay.

• Ông Antôn NGUYỄN NGỌC ĐĨNH, lần lượt giữ chức Tổng Thư Ký HĐMV (1987-1990) Phó Chủ Tịch HĐMV (1994-1997), Chủ ịch HĐMV (1997- 2003).

• Ông Phanxicô Xaviê LÊ ĐÌNH THÔNG, lần lượt giữ chức Phó Chủ tịch HĐMV (1997- 2003) và Chủ Tịch HĐMV (2003 - 2008).

Đây là huy chương và bằng khen mà Toà Thánh ban tặng để tán thưởng một giáo dân đã tận tụy làm việc 'cho Giáo Hội và cho đức giáo hoàng'. Nói như vậy, đức thánh cha muốn nhấn mạnh với chúng ta: Dù chỉ làm việc tông đồ trong một xứ đạo nhỏ, chúng ta cũng được Ngài coi như 'làm việc cho chính Giáo Hội và cho Ngài' (pro Ecclesia et Pontifice), nghĩa là cho Thiên Chúa.

Một sự thật đáng nói lên: Cũng như mười vị đã lãnh huy chương và bằng khen nhân dịp lễ Kim Khánh của Giáo Xứ (1997), ba vị lãnh huy chương và bằng khen nhân dịp lễ Ngân Khánh của Hội Đồng Mục Vụ năm nay (1983-2008), không nhận riêng cho mình, nhưng cho toàn thể Giáo Xứ, và đặc biệt cho mọi thành viên của Hội Đồng Mục Vụ. Quả vậy, có những vị đã làm việc cho Giáo Hội cách khôn ngoan và nhiệt thành trong phong trào Cursillo như cụ Gioan Bosco Đào Văn, hay trong một Cộng Đoàn như ông Phêrô Nguyễn Văn Ân ở Villiers le Bel, bà Anna Nguyễn Hữu Nhơn ở Sarcelles, hay trong một hội đoàn như bà Maria Nguyễn Thị Hổ của hội các Bà Mẹ Công Giáo… và còn bao nhiêu người khác trong Ban Cố Vấn, Ban Thường Vụ, và trong các Đơn Vị Mục Vụ hay trong nhiều dịch vụ khác của Giáo Xứ, như lo sạch sẽ trong nhà, làm đẹp ngoài khuôn viên và quán xuyến ẩm thực… Tất cả đều đáng được Giáo Xứ ghi ơn và Giáo Hội khen thưởng.

Do đó, tôi xác tín rằng: Nếu Giáo Xứ chúng ta nhỏ bé và Giáo Hội trần thế còn bị giới hạn, thì chỉ mình Thiên Chúa mới ban huy chương và bằng khen đích thực cho mỗi người. Đúng như lời thánh Phaolô viết cho giáo dân Roma xưa: "Thiên Chúa không thiên vị, Ngài sẽ ban danh dự, bình an và vinh quang cho những ai phụng sự Ngài" (Rm 2,10-11); hay như chính lời của Chúa Giêsu trong Phúc Âm: "Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng của anh em thật lớn lao!" (Mt 5,12),

Thánh Gioan kể rằng: "Hôm ấy Chúa Giêsu nhìn ngắm đồng lúa chín vàng, đã phấn khởi thốt lên: 'Ai là người có công, ai là kẻ thu hoa lợi? Vậy, người gieo kẻ gặt hãy vui lên niềm vui chung! (Ga 4,35-36). Tôi trộm nghĩ: giờ đây Chúa Giêsu nhìn xuống Giáo Xứ Việt Nam Paris, Ngài cũng hồ hởi nói với chúng ta: "Các con hãy vui lên trong niềm vui chung! niềm vui chia sẻ của cả Giáo Xứ chúng con!".

ĐỨC GIÁO HOÀNG BIỂN ĐỨC XVI vui lòng ban cho Quý Ông

Joseph Trần Văn Cảnh, Antonio Nguyễn Ngọc Đĩnh, Francisco X. Lê Đình Thông

Huy Chương Thánh giá Tôn Nghiêm

PRO ECCLESIA ET PONTIFICE

Kết Tụ Công Trình Hoạt Động và Học Hỏi Sáng Giá

Nhân Danh Giáo Hội và Đức Thánh Cha

Đồng thời cho Quý Ông năng quyền mang huy chương cao quý này


TÀI LIỆU THAM KHẢO



A. Tài liệu căn bản

CHAFFOULIE H.: AUX ORIGINES D'UNE ÉGLISE (Rome et les Missions d'Indochine au XVIIe Siècles), 2 tomes, Paris 1943, 1948.

COLOMBERT (Mgr): CHỨC SỞ MỤC LỆ (Le Règlement des Notables) Saigon 1884

DIRECTOIRES (Les):

- DIRECTOIRE "POUR LES MISSIONS DE LA COCHINCHINE OCCIDENTALE ET DU CAMBODGE, 2è édition, Sai-Gon

- DIRECTOIRIUM VICARIATUS APOSTOLICI DE HA-NOI (Luật riêng địa phận Hà-Nội) Hà-Nội, 1941

- DIRECTOIRE DU VICARIAT APOSTOLIQUE DE HUẾ, Huế 1941

- DIRECTOIRE DU VICARIAT AOSTOLIQUE DE QUY-NHƠN, Quy-Nhơn 1942

LAUNAY A.:

-HISTOIRE DE LA MISSION DU TONKIN (Documents Historiques), tome I, 1658-1728

-HISTOIRE DE LA MISSION DE COCHINCHINE (Documents historiques) tome I, 1658-1728 Paris 1923; tome 1, 1728-1771, Paris 1924; tome II, 1771-1823, Paris 1925.

LOUVET E.: LA CONCHINCHINE RELIGIEUSE, 2 volumes, Paris 1882.

NGÔ-ĐÌNH-THỤC (Mgr): CHỨC SỞ MỤC LỆ (Le règlement des notables rédigé par Mgr Colombert, retouché et publié en 1953) Vĩnh-Long 1953.

NGUYÊN –HÔNG: LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO Ở VIỆT-NAM (Histoire d'évangélisation au Vietnam) tome I, Sai-gon 1959.

PHAN-PHAT-HUON: VIỆT-NAM GIÁO SỬ (Histoire de l'Église vietnamienne) tome I, 1533-1933 Sai-gon, 1958; tome Ì, 1933-1960, Sai-gon 1961.

SYNODES (les):

- CONSTITUTIONES SYNODI FAIFO 1672, dans LAUNAY A. Histoire de la Mission de Cochinchine (documents historiques) t.I, 1658-1728, pp. 276-286, Paris 1924

- SYNODE DE COCHINCHINE TENU A SÀI-GÒN DU 7 au 14 AOUT 1880, dans TEYSSERE, Un Missionnaire Albigeois en Cochinchine Mgr alibert, appendice pp.339-357, Albi 1881.

- ACTA ET DECRETA PRIMAEREGIONALIS SYNODI TUNQUINENSIS 1900, Kẻ-Sở, typis Missionis Tunquini Occidentalis 1905.

- PRIMIUM CONCILIUM INDONENSE 1934, imprimerie Trung-Hòa, 1938

TEYSSEYRE: UN MISSIONNAIRE ALBIGEOIS EN INDOCHICHINE, MGR. GALIBERT, Albi 1887.

THƠ CHUNG (Lettres pastorales):

-THƠ CHUNG ĐỊA PHẬN ĐÀNG TRONG BÊN TÂY

(Les lettres pastorales du Vicariat de la Cochinchine Occidentale) Sai-gon 1886.

- THƠ CHUNG ĐỨC CHA CHIẾU VÀ ĐỨC CHA PHỨƠC ĐÃ LÀM TỪ 1868 (Les lettres pastoales du Mgr. Theurel et Mgr Puginier depuis 1868) Ke-So 1890.

- THƠ CHUNG ĐỊA PHẬN TÂY ĐÀNG NGOÀI 5 Les lettres pastorales du Vicariat du Tonkin Occidental) 3 volumes Ke-So.1901-1908.

- THƠ CHUNG ĐỊA PHẬN THANH (Les lettres pastorales du Vicariat du Tonkin Maritime) 2 volumes, Hong-Kong 1920

- MƯỜI BẢY THƠ CHUNG ĐAI CÁI CỦA BA GIÁM MỤC SÀI GÒN (Dix-sept lettres pastorales de trois Vicaires apostoliques de Saigon) 2 volumes, Sai-Gon, Tân Định 1950.

CADIERE L.:

-ORGANISATION ET FONCTIONNEMENT D'UN CHRÉTIENNETÉ VIETNAMIENNE, dans Bulletin des Missions Étrangères de Paris 34 (1955) pp. 305-318,389-397,574-586,723-736,961-969,1051-1061

-LA MISSION DE HUẾ, dans Annales des Missions Étrangères de Paris I4(1911) pp. 254-272,282-312.

B. Sách chuyên đề

AAVV: LE CONSEIL PAROISSIAL, UNE FORME DE PARTICIPATION, Bruxelles, 1968

ANNABOLDI A.: SERVIZIO DELLA PASTORALE PARROCHIALE NELLA LUCE E NELLO SPIRITO DEL VATICANO II, Milano 1967

BARRI D: DOMANI, LE COMUNITA DI BASE, Milano 1971

BAZELAIRE: LES LAICS SONT AUSSI L’ÉGLISE ? Paris 1962

BERNARD-MAITRE:

-INTRODUCTION HISTOIRIQUE A L’ÉTUDE COMPARÉE DES CIVILISATION ANNAMITES ET EUROPÉENNE DEPUIS L’ARRIVÉE DES PORTUGAIS AU XVIe SIÈCLE JUSQU’À LA FIN DE LA DYNASTIE DE MINH EN CHINE, Hà Nội 1938

-POUR LA COMPRÉHENSION DE L’INDOCHINE ET DE L’OCCIDENT, Paris 1951

BONIFACY: LES DÉBUTS DU CHRISTIANISME EN ANNAM (Des origines au commencement du XVIII siècle) Hà Nội 1930

BORRI C.: RELATIONE DELLA NUOVA MISSIONE DELLE P.P. DELLA COMPAGNIA DI GIESU AL REGNO DELLA COCINCINA, Roma 1631 (Traduction française du père Antoine de la Croix, Lille et Rennes 1931)

CADET J.: LE LAICAT ET LE DROIT DE L’ÉGLISE

GAILLARD R.: ESSAI SUR LES ORIGINES DU CHRISTIANISME AU TONKIN ET DANS LES AUTRES PAYS ANNAMITES Paris 1925

CARATIMI H.: LE STATUT DES MISSIONS EN INDOCHINE. Hà Nội, 1941

(COLLECTIF):

- CALENDRIER POUR SIX PROVINCES DE COCHINCHINE (Lịch Annam thông dụng trong sáu tỉnh Nam-Kỳ) Saigòn 1917.

- COMPTE RENDU DE LA RÉUNION DES ÉVÊQUES DU GROUPE DU TONKIN, Hà-Nội 1926

- ESSAI DE DIRECTOIRE POUR LA MISSION DU TONKIN, Kẻ-Sỡ 1903

- LA COOPERAZIONE DEI LAICI D'ASIA E D'AFRICA ALL'APOSTOLATO MISSIONARIO, Roma 1958

- LA PAROISSE SE RECHERCHE, Bruges 1963

- LE LAICAT ET LES MISSIONS, Ottawa 1951

- SACRAE CONGREGATIONIS DE PROPAGANDA FIDE MEMORIA RERUM. 3 VOLUMES, Roma 1972-1975

COLOMBERT (Mgr); NOTICE SUR LES MARTYRS DE LA COCHINCHINE OCCIDENTALE, Sai-gon 1887

CONNAN F.; DEMAIN, LA PAROISSE, Paris 1966

COTHONAY R.; LES VINGT-SIX MARTYRS DES MISSIONS DOMINICAINES DU TONKIN BEATIFIÉS PAR S.S. LEON XIII, 7 MAI 1900, Paris 1906

DABIN: LE SACERDOS ROYAL DES FIDÈLES DANS LA TRADITION ANCIENNE ET MODERNE, Bruxelles 1950

ĐAO-DUY-ANH: VIỆT-NAM VĂN HÓA SỬ CƯƠNG (Histoire générale de la culture vietnamienne) Sai-gon 1961

ĐĂNG-PHƯƠNG-NGHI: LES INSTITUTIONS DU VIETNAM AU XVIIIe SIÈCLE (thèse), Paris 1965

DAVOUST J. (Mgr.): SÁCH DẠY VIỆC KẺ GIẢNG PHÀI LÀM (Manueldes catéchistes), Phát-Diệm 1871

DE LA CROIX: HISTOIRE UNIVERSELLE DES MISSIONS CATHOLIQUES, 4 tomes, Paris 1956-1958

D'ENJOY P.: LA COLONISATION DE LA COCHINCHINE, Paris 1898

DEPIERRE (Mgr): SITUATION DU CHRISTIANISME EN COCHINCHINE À LA FIN DU XIXe SIÈCLE, Sai-gon 1898

(DIRECTOIRE): DIRECTORIO DEL MISIONERO DOMINICO DE TUNQUIN, Phú-Nhai 1941

DORTEL C.: EGLISES LOCALES, EGLISE UNIVERSELLE, COMMENT SE GOUVERNE LE PEUPLE DE DIEU, Lyon 1973

ESTEVE E.: MISSION DE LA COCHINCHINE ET DU TONKIN, Paris 1858

GIRAN P.: PSYCHOLOGIE DU PEUPLE ANNAMITE, Paris 1904

GIROD L.:

-UNE TOURNEE PASTORALE DANS LE VICARIAT DU TONKIN OCCIDENTAL (Lettres d'un missionnaire à la famille) Lons-le-Saunier 1882.

-RECITS D'UN MISSIONNAIRE, Lons-le-Saunier 1886

-DIX ANS DE HAUT-TONKIN, Paris 1899

GRANDJEAN Ph.: LE STATUT LÉGAL DES MISSIONS CATHOLIQUES ET PROTESTANTES EN INDOCHINE FRANCAISE, Paris 1939

GUGLIEIMOTTI: MÉMORIE DELLE MISSIONI CATTOLIQUE NEL REGNO DEL TUNCHINO, Roma 1844

HAY A.: LE PÈRE PIERRE GODET, MISSIONNAIRE EN ANNAM 1866-1926, Châtellerault 1928

JOBBE-DUVAL: LA COMMUNE ANNAMITE, Paris 1896

JOLY L.: LE CHRISTIANISME EN EXTRÊME-ORIENT, tome I, (Indochine), Paris 1907

LABBE C.: RÉCIT ABREGÉ DE LA DERNIÈRE PERSÉCUTION DE LA RELIGION CHRÉTIENNE DANS LA COCHICHINE, Paris 1703.

LAUNAY A.:

-TRENTE CINQ MARTYRS, SERVITEURS DE DIEU, Paris 1907

-HISTOIRE GÉNÉRALE DE LA SOCIÉTÉ DES MISSIONS ÉTRANGÈRES, Paris 1894

-MONSEIGNEUR RETORD ET LE TONKIN CATHOLIQUE, 2è édit. Hong-Kong 1937

LÊ-THÀNH-KHÔI: LE VIỆTNAM, Paris 1955

LOUVET E.: MONSEIGNEUR COLOMBERT, Saigon 1895.

LURO: COURS D'ADMINISTRATION ANNAMITE (ronéo, chez les pères MEP) Paris 1695

MALOT Fr.: LA COMMUNE ANNAMITE: SA FORMATION, SA CONSTITUTION, SES RAPPORTS AVEC L'ETAT (thèse) Paris 1903

MAZZOLI A.: LA PASTORALE NELLA PARROCHIA MODERNA, 2è édit. Brescia 1968

MEYNARD A.: MISSIONS DOMINICAINES DANS L'EXTRÊME ORIENT, 2 Volumes, Paris 1865

MONTEZON Fr.: MISSION DE LA COCHINCHINE ET DU TONKIN, Paris 1858

MOSARD (Mgr): TỬ HẦU, (l'assistance aux mourants) 5è édit. Sài-Gòn 1942.

MUNERO M.: HISTORICAE VICARIATUS TONQUINI CENTRALIS, Phú-Nhai 1916

NEEZ L.: DOCUMENTS SUR LE CLERGÉ TONKI NOIS AUX XVIIe ET XVIIIe SIÈCLE, Paris 1925

NGUYỂN HỬU GIAI: LA PERSONNALITÉ DE LA COMMUNE ANNAMITE Paris 1937

NGUYỂN-HỬU-KHANG: LA COMMUNE ANNAMITE (études historiques, juridiques et économiques) Paris 1966

NGUYỂN-HỒNG-PHONG: XẢ THÔN VIỆT-NAM (la commune vietnamienne) Hà-Nội 1953

NGUYỂN-VĂN-PHONG: LA SOCIÉTÉ VIÊTNAMIENNE DE 1862 À 102 Paris 1971

NGUYỂN-VĂN-QUÊ: HISTOIRE DES PAYS DE L'UNION INDOCHINOISE, Paris 1943

NGUYỄN-HỮU-TRỌNG: LES ORIGINES DU CLERGÉ VIETNAMIEN ? Sài-Gòn 1959.

NHẤT-THANH: ĐẤT LỀ QUÊ THÓI (Les coutumes de chez nous) Sài-Gòn 1968

OEY P.: LA COMMUNE ANNAMITE AU TONKIN, Paris 1894

PASQUIER P.: L'ANNAM D'AUTREFOIS, Paris 1930

PHẠM-ĐÌNH KHIÊM: NGƯỜI CHỨNG THỨ NHẤT (Le premier martyr vietnamien) Sài-Gòn 1959

PAPOT J.: LA PAROISSE, Paris 1965

(QUY CHẾ):

-QUY CHẾ HỘI ĐỒNG GIÁO XỨ TỔNG GIÁO PHẬN HUẾ, (statut des conseils paroissiaux de l'Archidiocèse de Huế), Huế 1969

-QUY CHẾ GIÁO DÂN ĐỊA PHẬN NHA TRANG (statut des laics du diocèse de Nha-Trang 1970

- QUY CHẾ HỘI ĐỒNG GIÁO XỨ ĐỊA PHẬN SÀI-GÒN VÀ PHÚ CƯỜNG (statut des conseils paroissiaux des diocèses de Saigon et de Phu-Cuong) Sai-Gon 1971

- QUY CHẾ HỘI ĐỒNG GIÁO XỨ ĐỊA PHẬN LONG XUYÊN (statut des conseils paroissiaux du diocèse de Long-Xuyên) Long-Xuyên 1971

- THỦ BẢN HỘI ĐỒNG GIÁO XỨ ĐỊA PHẬN XUÂN LỘC (Manuel des conseils paroissiaux du diocèse de Xuân-Lộc) Xuân-Lộc (Biên-Hòa) 171

- QUY CHẾ HỘI ĐỒNG GIÁO XỨ ĐỊA PHẬN CẦN THƠ (statut des conseils paroissiaux du diocèse de Cần-Thơ ) Cần-Thơ 1972.

- QUY CHẾ HỘI ĐỒNG GIÁO XỨ ĐỊA PHẬN ĐÀ LẠT (statut des conseils paroissiaux du diocèse de Đà-Lạt) Đà-Lạt 1973

RHODES A.:

-HISTOIRE DU ROYAUME DE TUNQUIN ET DES GRANDS PROGRÈS QUE LA PREDICATION DE L'ÉVANGILE Y A FAITS EN LA CONVERSION DES INFIDELES, DEPUIS L'ANNÉ 1627 JUSQU'À L'ANNÉE 1646 (composée en latin par R.P. ALEXANDRE DE RHODES, de la compgnie de Jésus et traduite en français par le R.P.Henri Albi de la même compagnie) Lyon 1651.

-DIVERS VOYAGES ET MISSIONS DU P.ALEXANDRE DE RHODES EN CHINE ET AUTRES ROYAUMES DE L'ORIENT, AVEC SON RETOUR DE LA CHINE A ROME, DEPUIS 1618 JUSQU'À L'ANNÉE 1653 Lille 1884

SACCANO M.: RELATIONS DES PROGRES DE LA FOI AU ROYAUME DE LA COCHINCHINE DES ANNÉES 1646 ET 1647 Paris 1653.

(SYNODES):

- CONSTITUTIONES SYNODI NAMDIHENSIS 1670. DANS LAUNAY A. Histoire de la Mission du Tonkin (documents historiques ) t. I, 168-1727 pp. 92-100, Paris 1927

- ACTA ET DECRETA SECUNDAE REGIONALIS SINODI TUNQUINNSIS HABITAE IN PAGO KẺ-SỞ A/D 1912, in tại Kẻ-Sở, 1914.

SCHWOD G.: LES MISSIONS INDOCHINOISES A L'EXPOSITION DE 1900, Paris 1902

THEODORE C.: ESQUISSE SUR L'ACTION CATHOLIQUE DANS LE VICARIAT APOSTOLIQUE DE BÙI CHU, Bùi Chu 1938

TONNA B.: SOCIOLOGIA PASTORALE DELLA PARROCHIA E DELLA DIOCESI, Roma 1970

TRẦN-TRỌNG-KIM: VIỆT-NAM SỬ LƯỢC (Histoire générale du Viêt-Nam ) 5ème édit. Saigon 1954

TRẦN-MINH-TIẾT: HISTOIRES DES PERSÉCUTIONS AU VIETNAM Paris 1955

TRỊNH VIỆT-YẾN: MÁU TỬ ĐẠO TRÊN ĐẤT VIỆT (Le sang des martyrs au Vietnam) Hà-Nội 1953

VROMANT G.: DE BONIS EGGLESIAE TEMPORALIBUS, 3è édit. Paris 1953

VỦ-VĂN- ĐINH: DE FONTIBUS JURIS PARTICULARIS ECCLESIASTICI MISSIONIS VIETNAMIENSIS, Rome 1964

C. Bài báo chuyên đề

(ANONYME):

-HÀ NỘI CHRÉTIEN, dans Bulletin Missions Étrangères de Paris 4 (1925) pp. 331-333

-CONTACT AVEC LES NON-CHRÉTIENS VIETNAMIENS, dans Épiphanie, 1967 pp.245-246

-LA CHRÉTIENTÉ ET L'ÉGLISE DE BA-RIA, dans Les Missions Catholiques 12 (1980) pp.311-312

-COCHINCHINE OCCIDENTALE: LES DISTRICTS ET LEURS MISSIONS DE 1882 A 1918, dans Annales des Missions Étrangères de Paris 21(1918) pp.601-615

-COCHINCHINE ORIENTALE: ESPÉRENCE ET GLOIRE CHRÉTIENNE, dans les Missions Catholiques 41 (1909) pp.463-466

-NOTICE SUR LES MISSIONS DE LA COCHINCHINE ET DU TONKIN, dans Annales de la Propagande de la Foi 27(1855) pp.85-101,257-277, 338-353

-INFLUENCE D'UN ZÈLE NOTABLE SUR LES PROCHES D'UNE CHRÉTIENTÉ, dans Annales de la Propagande de la Foi 70 (1855) pp.20-23

-L'ÉGOISME DES INFIDÈLES ET LA CHARITÉ DES CHRÉTIENS PENDANT LE TEMPS DU COLÉRIE, dans Annales de la Propagande de la Foi 22(1850) pp.293-294

-CÁC CHÂN PHƯỚC TỬ ĐẠO VIỆT-NAM (La liste des bienheureux martyrs au Vietnam) dans Hiệp-Sống (hebdomadaire " l'Union de vie) (1972) n.13-14 pp.22-23

-HIỆN TÌNH CÁC ĐỊA PHẬN MIỀN BẮC VÀ MIỀN NAM VIỆT-NAM, (La situation actuelle de l'Église du Nord et du Sud Vietnam) dans Hiệp-Sống (L'Union de Vie) (1972) nn13-14 pp.14-18.

ARTIF: UNE FLEUR DE L'APOSTOLAT EN COCHINCHINE, dans les Missions Catholiques 38 (1906) pp. 448-454

BARDY G.: L'APOSTOLAT DES LAiCS AUX PREMIERS SIÈCLES, dans Masses Ouvrières, Juillet 1945 pp.2-15

BARUFFO A.: L'APOSTOLATO DEI LAICI NEL DECRETO CONCILIARI, dans Civiltà Catholica (1966) pp. 240-254.

BAUMGARTNER: FORMES DIVERSES DE L'APOSTOLAT DES LAiCS dans Christus, Janvier 1957 pp.67-71

BELLEVILLE Fr: RÉPÉTITION DE CATÉCHISME DES JEUNES GENS dans Annales de la Propagande de la Foi 76(1904) pp.290-293.

BERNARD H.: POURQUOI L'EXPANSION CHRÉTIENNE A-T-ELLE ÉCHOUÉ EN INDOCHINE AU XVIe SIÈCLE, dans Revue d'Histoire des Missions 12 (1935), pp. 386-390

BONICELLE C.: I CONSIGLI COLLEGIALI DI DIECI ANNI DOPO IL CONCILIO, dans Prezenza Pastorale 43 (1973) pp.95-102

BOSA P.N.: COOPÉRAZIONE DEL LAICATO AFRICANO CON LA GERARCHIA, dans la Cooperasione dei laici d'Asia e d'Africa all'Apostolato Missionario, Roma 1958 pp. 12-22

BOUCLET A.:

-TOURNÉE ÉPISCOPALE ÀTRAVERS LES FORÊTS MONTAGNEUSES DU LAOS TONKINOIS, dans Les Missions Catholiques 47 (1915) pp. 330-331

-DEUX MÉTHODES: COMMENT SE FONDENT LES PAROISSES EN ANNAM, dans les Missions Catholiques 70 (1938) pp.366-370

BURRO P.: LES ÉCOLES EN CHINE ET EN INDOCHINE, dans Bulletin des Missions Étrangères de Paris 3 (1924) pp.33-40

CADIERE L.:

-INSTRUCTIONS PRATIQUES POUR LES MISSIONNAIRES QUI FONT DES OBSERVATIONS RELIGIEUSES, dans annales des Missions Étrangères de Paris 13 (1913) pp. 60-70, 130146, 184-193

-LES MÉMOIRES DE VACHET POUR SERVIR À L'HISTOIRE ECCLÉSIASTIQUE DE LA MISSION DE COCHINCHINE ? DANS Bulletin de la Commission Archéologique de l'Indochine, 1933 pp 1-77

CELLARD JB.: CHRÉTIENTÉS DU VIETNAM, dans Union Missionnaire du Clergé de France 14(1955) pp.22-27

CHAIZE Fr: INFLUENCE DE LA SAINTE EUCHARISTIE DANS L'OEUVRE MISIONNAIRE EN INDOCHINE, dans les Missions Catholiques 69 (1937) pp. 262-367

CHARMOT Cl.: HISTOIRE DE L'ÉVANGELISATION, dans Sacerdos (1974) nn.145-146 pp 55-57

(OLLECTIF): UNE LETTRE DES ÉVÊQUES DU TONKIN SUR LES ÉCOLES CATHOLIQUES, dans Les Missions Catholiques 51 (1919) pp.565-566

CONGAR Y.:

-L'APOSTALAT DES LAICS D'APRÈS LES DÉCRETS DU CONCILE, dans la Vie Spirituelle (1967) pp. 129-160

-LAICS, dans Encyclopédie de la Foi, vol. II pp. 436-456: Paris 1965

CUSSAC G.:

-L'IMPLANTATION DE L'ÉGLISE AU VIETNAM, dans les Missions Catholiques (nouvelle série) (Lyon) 5 (1955) pp.44-50, 85-90;

-LE DRAME DES COMMUNAUTÉS CATHOLIQUES DU VIETNAM, dans la revue de Deux Monde (1955) n.4 pp. 577-593

DEVAUX A.: LETTRES DES MISSIONNAIRES DE LA COCHINCHINE ET DU TONKIN AU COMMENCEMENT DU XVIIIe SIÈCLE, dans Bulletin des Amis de Vieux Huế (Huế 1943) pp.285-327

DEPAULIS: LA CROISADE EUCHARISTIQUE DE HÀ-NỘI, dans Annales de la Foi 102 (1933) pp.176-186

DOUMERQ J.: UNE VISITE DE NOUVEAUX CHRÉTIENS (VIETNAMIENS) dans les Missions Catholiques 41 (1909) pp.55-56

DUBUC J.: COLLABORATION APOSTOLIQUE DES PRÊTRES ET DES LAICS AU DÉBUT DU CHRISTIANISME, dans Lumen Vitae 171962) pp.209-229

ELOY (Mgr.): LES ÉCOLES DU VICARIAT DE VINH, dans les Missions Catholiques 48 (1916) pp.232-236

ERNEST-HAY: QUELQUES NOTES SUR UNE OEUVRE DE CATÉCHISTES, dans Annales des Missions étrangères de Paris 8 (1905) pp.291-312

FOLLIET J.: QU'EST-CE QU'UN LAIQUE? dans ECCLESIA, avril 1956 pp.291-312

FRICHOT: UN COUP D'OEIL SUR LE TONKIN MÉRIDIONAL EN 1886, dans les Missions Catholiques 19 (1887) pp.260-262, 272-274, 286-288, 322-324.

GAILLARD: LE CHANT DES LAMENTATIONS AU TONKIN, dans Annales e la Propagande de la Foi 70 (1898) pp.436-437

GALLAY: LE CONCOURS GENERAL SUR LE CATÉCHISME, dans Annales de la Propagande de la Foi 22 (1953) pp. 20-22.

GAUDEMET J.: LA PAROISSE AU MOYEN ÂGE, dans la Revue d'Histoire de l'Église de France 59 (1973) pp. 5-21.

GEFFRAY: UNE PAGE DE LA PERSÉCUTION EN COCHINCHINE, dans Les Missions Catholiques 18 (1886) pp.420-430, 442-444, 452-455, 464-467

GERMAIN M.: LE RÔLE DU LAICAT DANS L'APOSTOLAT MISSIONNAIRE DE L'ÉGLISE, dans Laicat et les Missions, pp.27-37 Ottawa 1951

GERNOT: LES RELIGIEUSES ANNAMITES, dans Annales des Missions Étrangères de Paris 8 (1905) pp. 11-37

GISPERT F.:

-LA MISSION DOMINICANA EN TUNKIN EN EL SIGLO XIX, dans Missiones Dominicanas 21 (1938) pp. 173-180, 206-209, 235-239, 265-268, 299-304, 330-332.

-TROIS SIÈCLES D'APOSTOLAT DOMINICAIN EN INDOCHINE, dans Missions Dominicaines 3 (1924) pp. 32-42, 74-84, 111-112.

GRANGUA: À TRAVERSLES CHRÉTIENTÉS DE LA COCHINCHINE ORIENTALE, dans les Missions Catholiques 17 (1885) pp. 557-560, 569-573, 584-586.

GRAND'MAISON J.: LE CONSEIL PAROISSIAL DE PASTORALE, dans La Paroisse en Concile, pp. 159-165, Ottawa 1966.

GUENNOU J.

-LES MISSIONS D'INDOCHINE AU XVIIIe SIÈCLE, dans Sacrae Congregationis de Propaganda Fidei Memoria Rerum, vol.II pp.976-960.

-VIGUEUR NOUVELLE AUX MISSIONS D'INDOCHINE DANS 'Sacrae Congragationis de Propaganda Fidei Memoria Rerum' vol. I. (1622-1700) pp. 572-581, Rome 1972.

-FLORAISON MISSIONNAIRE DANS LES PERSÉCUTIONS. (ou: Les missions d'Indochine au XIe Siècle), dans ' Sacrae Congregationis de Propaganda Fidei Memoria Rerum' vol. III/I pp.461-475, Rome 1975.

HEBRARD Fr.: L'ÉVANGÉLISATION DE RÉGION NORD-OUEST DE LA MISION DE HÀ-NỘI, 1882-1936, dans Bulletin des Missions Étrangères de Paris 17 (1938) pp. 5-14,73-79,146-151,212-219

HEIMARL H.: CONCEPTS DE LAICS DANS LA CONSTITUTION SUR L'ÉGLISE DE VATICAN II, dans Concilium (1966) pp 117-126

HỒ-NGỌC-CẨN (Mgr): CẤM PHÒNG CHỨC SỞ ( La Retraite des notables) dans Sacerdos Indoniensis 3(1929) pp. 420-459 4(1930) pp.29-32,121-122,192-194,140-141,453-455; 5 (1931) pp. 16-17,179-183,255-257; 6(1932) pp. 184-186; 7 (1933) pp.9-11, 12-14,88-90,91-93,119-120,121-123.

HƯƠNG-HUYÊN: ĐẤT VIỆT NHUỘM MÁU HỒNG TỬ ĐẠO (Le sang des martyrs arrose le Vietnam) dans Hiệp-Sống (L'union de Vie) (1972) nn.13-14 pp 10-13

LÂM-THANH: HỘI ĐOÀN CÔNG GIÁO VỚI LƯƠNG DÂN (Association catholiques avec paiens) dans Hiệp-Sống ( L'Union de Vie) (1972 ) nn.13-14 pp. 2-5

LAPLANTE J.: NOS MISSIONS PAROISSIALES EN INDOCHINE dans Annales de la Bonne Sainte Anne 85 (1957 ) pp.126-129

LAUNAY A.: SOUVENIRS DU TONKIN CATHOLIQUE, dans les Missions Catholiques 29 (1897) pp.126-129

LE MEE H.: L'ORPHELINAT DES ÉCOLES CATHOLIQUES À SAI-GON, dans Les Missions Catholiques 18 (1876) pp. 502-503

LÊ-VĂN-NGÔ P.: ESSAI D'UNE MÉTHODE MISSIONNAIRE AU VIỆT-NAM, dans Cahiers des Auxiliaires Laiques des Missions 6 (1947) pp. 9-15

LIQUET-ISAAC: CATHOLIC ACTION IN VIETNAM, dans Missions Bulletin (Hông-Kông) 6 (1954) pp.530-532

LIÈGE P.A.: LA PARTICIPAION DES LAICS À L'APOSTOLAT ECCLÉSIAL, LA NOUVELLE IMAGE DE L'ÉGLISE, dans Bilan du Concile de Vatican II, (1967) pp. 441-452

LOMBARDI A.: COOPERAZIONE DEL LAICATO INDIANO CON LA GERARCHIA, dans La Cooperazione dei Laici d'Asia e d'Africa all'Apost. Mis. Roma 1958 pp. 8-12

LOPETEGNI L.: LA CONSERVACION DEL CATOLICISMO EN EL VIETNAM, dans Missiones Dominicanas 21 (1948) pp. 145-150

LUCAS LY: POUR UNE ÉVANGELISATION EFFECTIVE DU VIET-NAM DU SUD. Dans Le Christ au Monde 6 (1961) pp.346-354

L.V.P.: UNE EXPÉRIENCE PASTORALE CHEZ LES CATÉCHUMÈNES DU CENTRE-VIETNAM. dans Bulletin des Missions Étrangères de Paris 32 (1961) pp. 16-17

MARTIN: UN MANDIANT DEVINT BON CATÉCHISTE. dans Annales de la Propagande de la Foi 70(1898 ) pp. 20-23

MESSIEN: L'ÉDUCATION DU PEUPLE ANNAMITE, dans Le Correspondant, Paris 1901 pp. 307-329

NAIDENOFF G.: LA TRIPLE CHRÉTIENTÉ DU VIETNAM DANS LES CONJONTURES PRÉSENTÉS, dans Missi 21 (1956) pp.39-46

NGUYỄN-NGỌC-THU: HỌ ĐẠO CỦA NGÀY MAI (Le chrétienneté du demain), dans Sacerdos (1971) n.120 pp.755-759

NGUYỂN-DUY-VI: HỌ ĐẠO CŨA CHÚNG TA (Nos chrétientés) dans Sacerdos (1971) n.120 pp.379-346

PARREL F.: LES DÉBUTS D'UNE CHRÉTIENTÉ, dans Bulletin des Missions Étrangères de Paris 31 (1952) pp.162.169

PATUEL:

-EGOISME PAIENS ET CHARITÉ CHRÉTIENNE, dans Annales de la Propagande de la Foi 89 (1917) pp. 146-151

-CHARITÉ CHRÉTIENNE ET ÉGOISME PAIEN, dans Les Missions Catholiques 47 (1915) pp.303-05

-BAPTISEUSES VIETNAMIENNES, dans Les Missions Catholiques 47 (1915) pp. 185-186.

PHẠM-BÁ-TƯỚC: ĐI THĂM CHA SỞ HỌ ĐẠO MIỀN QUÊ (visite à un curé d'une paroisse de campagne) dans Sacerdos (971) n.120 p..747-750

PORTIER V.: APOSTOLAT DES LAICS, dans Missions Ouvrières (1958) n.137 pp. 43-50; n.138 pp.10-20

POTTERIE J.: L'ORIGINE ET SENS PRIMITIF DU MOT "LAIC" dans Nouvelle Revue Théologique 80 (1958) pp.840-853

RENAU JB.: LES CHRÉTIENS DU SUD-VIETNAM ENTRE LA GUERRE ET LA PAIX, dans Information Catholique Internationale (1969) n.330 pp. 27-32

ROBERT: UNE TOURNÉE PASTORALE AU TONKIN, dans Les Missions Catholiques 25 (1893) pp. 354-357, 365-368, 381-383, 390-392, 405-407, 418-419, 429-432.

RUYGROK P.: LA MISSIONE DEI LAICI, dans Mondo d'Oggi (Bresci) 1967 pp. 103-202

SAJOT: GLORIEUSES PAGES DE L'HISTOIRE DU TONKIN dans Les Missions Catholiques 25 (1905) pp.580-584,593-596,605-608,616-620

TÂN-YÊN: HIỆN TÌNH CÁC HỌ NHÁNH TẠI LỤC TỈNH (La situation actuelle des chrétiennetés secondaires de la région de Six-Provinces) dans Sacerdos (1969) n.89 pp.279-282

TARDIEU A.: VISITE D'UNE PROVINCE DE LA MISSION DE QUI-NHON, dans les Missions Catholiques 73 (1941) pp. 165-168,183-187

TRONG A.:

-APOSTOLAT LAIC AU VIETNAM, dans l'Église Vivante 3 (1951) p. 345-348

-LES ÉTAPES DE LA FONDATION DE L'ÉGLISE AU VIETNAM, dans L'Église Vivante 4 (1952) pp.302-311

VALDERAMA: LE VIETNAM, PAYS CLASSIQUE DU CLERGÉ INDIGÈNE, dans Mission Belletin (Hồng -Kông) 6 (1954) pp. 530-532

VIGNAU A.: LA VIE CHRÉTIENNE ANNAMITE, dans Les Missions Catholiques 77 (1945) pp.12-16, 26-28, 44-45, 76-77, 114-116, 136-138, 172-174

VÕ-THANH-LỘC: LES CHRÉTIENS DANS LA CONSTRUCTION SOCIALE DU VIETNAM, dans Les Missions Catholiques (nouvelle série, Lyon) 5 (1955) pp.177-182, 199-203.

D. Văn kiện Tòa Thánh và Công Đồng

PIUS XI PP:

-‘QUAE NOBIS': PRINCIPES ET FONDEMENTS GÉNÉRAUX DE L'ACTION CATHOLIQUE, dans Acta Apostolicae Sedis 20 (1928) pp. 384-387

-ENCYCLIQUE EVANGELII PRAECONES; dans Documentation catholique 78 (1951) col.759-790

-DISCURSUS AD CONGRESSUM MUNDI DE APOSTOLATU LAICORUM, dans Acta Apostolicae Sedis 42 (1951) pp. 784-789

-DISCURSUS AD CONGRESSIUM MUNDI DE APOSTOLATU LAICORUM, dans Acta Apostolicae Sedis 48(1957) pp.922-938

VATICAN II (Conc. de):

-DE SACRA LITURGIA, (constitutio), 4-12-1963,dans Acta Apostolicae Sedis 56 (1965) pp.1-130

-LUMEN GENTIUM (constitutio) 21-11-1964 dans Acta Apostolicae Sedis 57 (1965) pp.1-89

-UNITATIS REDINTEGRATIO (decretum), 21-10-1964 dans Acta Apostolicae Sedis 57 (1965 pp. 90-107

-CHRISTUS DOMINUS (decretum), 28-10-1965 dans Acta Apostolicae Sedis 58 (1966) pp.673-695.

-OPTATAM TOTIUS (decretum), 28-10-1965, dans Acta Apostolicae, Sedis 58 (1966) pp. 713-727

-GRAVISSIMUM EDUCATIONIS (decretum) 18-11-1965 dans Acta Apostolicae Sedis 58 (1966) pp.728-744

-APOSTOLICAM ACTUOSITATEM (decretum) 18-11-1965 dans Acta Apostolicae Sedis 58 (1966) pp.877-863

-GAUDIUM ET SPES (constitutio), 7-12-1965 dans Acta Apostolicae Sedis 58 (1966) pp.1025-115

-PRESBYTERORUM ORDINIS (decretum), 7-12-1965 dans Acta Apostolicae Sedis 58 (1966) pp. 991-1022.

-AD GENTES (decretum) 7-12-1965 dans Acta Apostolicae Sedis 58 (1966) pp. 948-989

PAULUS VI PP.:

-MOTU PROPRIO " ECCLESIAE SANTAE ", dans Acta Apostolicae Sedis 58 (1966) pp. 757-787.

-ALLOCUTIO 'MODERATORIBUS, MEMBRIS ET CONSULTORIBUS CONCILII DE LAICIS, ROMAE QUINTUM COETUM HABENTIBUS', dans Acta Apostolicae Sedis 61 (1969) pp. 245-247

-PAROISE NE PEUT ÊTRE / PAS SUPPRIMÉE (Allocution à la semaine italienne d'aggiornamento pastoral) dans Documentation Catholique 69 (1972) p.209
 
Văn Hóa
Máy vi tính sống
Trầm Thiên Thu
10:17 01/04/2011
Con người như máy vi tính
Chạy được hai hệ điều hành
Một hệ cơ bản: Thể lý
Một hệ nâng cấp: Tâm linh

Con người: Máy vi tính sống
Được cài đặt nhiều chương trình
Đôi khi bị “treo”, bất động
Bởi vì vi-rút hoành hành

Có những vi-rút dễ trị
Có những vi-rút “cứng đầu”
Đôi khi không đủ “bộ nhớ”
Hoạt động chẳng đâu vào đâu

Có khi cần phải Refresh
Có khi lại phải Cleaner
Hoặc là dọn dẹp, sắp xếp
Thậm chí cài đặt lại kìa

Đời người:Vi tính kỳ diệu
Hoạt động suốt cả ngày đêm
Có khi mạnh,có khi yếu
Đó là một lẽ tất nhiên

Và rồi có lúc phải sửa
Có thể do lỗi chương trình
Hoặc không hiểu tại sao đó
Khởi động lại là thường tình

Bill Gate được cả thế giới
Khâm phục, tán dương hết lời
Nhà sáng tạoVi Tính Sống
Đó chính là Đức Chúa Trời.
 
Học Làm Người
Trầm Thiên Thu
10:18 01/04/2011
Có những khoảnh khắc làm ta rưng rưng nước mắt khi nhìn thấy những người nghèo khổ, thiếu thốn cả những gì cơ bản nhất. Cái dư thừa của người này, thậm chí vói họ chỉ là… rác, nhưng với người nghèo thì có thể là điều họ khao khát. Quả thật, “một miếng khi đó bằng một gói khi no”… Miếng ăn thêm khi chúng ta no là miếng ăn của người nghèo khổ. Nếu vậy thì chúng ta thiếu nhân đạo! Một danh nhân đã xác định: “Chỉ những ai có lòng thương người thì mới xứng đáng nhận danh hiệu con người”. Câu này đáng để chúng ta suy ngẫm và xem lại chính mình!

Trong một liên hoan phim ngắn tại Berlin (Đức), khi xem phim ngắn Chicken à la Carte (có thể xem ở http://www.cultureunplugged.com/play/1081/Chicken-a-la-Carte), cả ban giám khảo và khán giả đã xúc động khi thấy người cha nghèo ngăn đứa con gái thò tay lấy miếng thịt gà, rồi cả nhà cùng làm dấu, tạ ơn Chúa và cầu nguyện trước khi ăn. Thật ra những miếng thịt gà kia chỉ là những cổ, chân, cánh,… bị gặm dở mà người cha đã lấy từ thùng rác của một nhà hàng sang trọng và đem về cho vợ con ăn.

Yêu thương là luật của Thiên Chúa. Đức Kitô đã chạnh lòng thương hàng ngàn người đi theo mình nên Ngài hóa bánh ra nhiều cho họ được no nê (Mt 14:13-21 và 15:32-39). Ngài rất thực tế, không nói suông, cũng không nói bóng gió. Ngài đã bỏ đàn chiên 99 con để đi tìm chỉ 1 con chiên lạc (Mt 18:12-14). Đặc biệt là Bát Phúc trong Bài Giảng Trên Núi (Mt 5:3-12). Đó là những bài học làm người mà Ngài dạy chúng ta.

Chuyện kể rằng Ðại sư Tinh Vân có một đệ tử, sau khi tốt nghiệp đại học liền đi học Thạc sĩ, rồi lại học Tiến sĩ. Sau nhiều năm dùi mài kinh sử, đệ tử đó hoàn thành luận án tiến sĩ nên vô cùng mừng vui. Một hôm đệ tử đó về vinh qui bái tổ và thưa với ngài Tinh Vân: "Bạch Sư phụ, nay con đã có bằng Tiến sĩ rồi, con còn phải học những gì nữa không?"

Ngài Tinh Vân bảo: "Học làm người". Học làm người là việc học suốt đời chẳng thể nào tốt nghiệp được. Ngài Tinh Vân cho rằng bất luận là sĩ, nông, công, thương là những người ở tầng lớp có học thức và có tiến bộ, hãy chia sẻ với người khác về những điều mình hiểu biết. Nhưng dù là ai thì vẫn cần phải học không ngừng. Phải tu thân trước, rồi mới đủ uy tín trị quốc, và sau đó mới khả dĩ bình thiên hạ. Đạo Làm Người là đạo quan yếu nhất, dù theo đạo nào và ở cương vị nào thì trước tiên vẫn phải biết Làm Người. Đây là vài “tín chỉ” trong “môn học làm người”:

1. Học Nhận Lỗi. Con người thường không chịu nhận phần lỗi mình, tất cả lỗi lầm đều đổ cho người khác, vì chúng ta cho rằng bản thân mình mới đúng. Thật ra “không biết mình” là lỗi lầm lớn nhất. Đừng nghĩ mình “lớn” thì hoàn hảo và vô tội. Càng lớn càng dễ lỗi lầm vì có thể đổ lỗi cho người dưới. Ðối tượng mà mình nhận lỗi có thể là ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè,… và bất kỳ ai trong xã hội, thậm chí là người nhỏ hơn mình và với chính người không tốt với mình. Nhận lỗi như vậy bản thân chẳng mất mát gì, ngược lại còn thể hiện được sự độ lượng của bản thân và được khâm phục. Biết nhận lỗi là một điều rất tốt, là sự tu thân lớn và là một nhân đức.

2. Học Khiêm Nhu. Răng cứng, lưỡi mềm. Nhưng cuối cuộc đời, răng rụng hết mà lưỡi vẫn còn nguyên. Đó là bài học về sự mềm mỏng, khiêm nhu. Được vậy thì đời người mới có thể tồn tại dài lâu, chứ “cứng” thì chỉ thiệt thòi. Tâm hòa là một tiến bộ lớn trong việc tu thân. Có tâm hòa thì mới có nhân hòa. Chúng ta thường hình dung những người cố chấp có tấm lòng và tính cách rất “lạnh”, rất “cứng” như sắt thép vậy. Nếu chúng ta có thể điều hòa hơi thở và tâm tính, dần dần khiến “ngựa chứng” phải thuần thục thì cuộc sống sẽ vui tươi, hạnh phúc và kiên vững.

3. Học Đức Nhẫn. Nhẫn nhục là loại “cỏ quý”, là “bùa hộ thân” đặc biệt. Biết nhẫn một chút thì có thể làm sóng yên biển lặng. Nhường nhịn không phải là chiến bại. Nhẫn để tiêu trừ điều ác. Nhẫn là biết xử sự, biết hóa giải, dùng trí tuệ và năng lực làm cho chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Muốn sinh tồn thì phải biết nhẫn để có thể phân biệt đúng – sai, thiện – ác, tốt – xấu, thậm chí chấp nhận nó.

4. Học Thấu Hiểu. Không hiểu nhau sẽ nảy sinh những thị phi, tranh chấp, hiểu lầm,... Nên thấu hiểu để biết cảm thông và giúp đỡ nhau. Không cảm thông nhau không thể tha thứ cho nhau, không thể có hòa bình. Tâm phẫn xí tắc bất đắc kỳ chính!

5. Học Khước Từ. Cuộc đời như một chiếc va-li, lúc cần dùng thì xách nó lên, không cần thì đặt nó xuống. Lúc cần đặt xuống lại không đặt xuống, cũng như kéo túi hành lý nặng nề vậy, cuộc đời luôn trĩu nặng. Cuộc đời hữu hạn, biết phục thiện, biết tự trọng và tôn trọng, biết bao dung thì mới làm cho người ta chấp nhận mình, biết khước từ chính mình để có thể sinh tồn.

6. Học Xúc Ðộng. Nhận ra ưu điểm của người khác thì chúng ta nên hoan hỷ, thấy điều không may của người khác nên biết xúc động. Vui với người vui, buồn với người buồn. Trắc ẩn là lòng thương yêu, là thiện tâm. Trên đời có rất nhiều cảnh thương tâm, nhiều cuộc đời rất đáng thương, vô cảm là độc ác.

7. Học Sinh Tồn. Ðể sinh tồn, chúng ta phải biết giữ gìn sức khỏe – tinh thần và thể lý. Tinh thần thoải mái thì thân thể khỏe mạnh, và ngược lại. Thân thể khỏe mạnh không chỉ ích lợi cho bản thân mà còn làm cho gia đình, bạn bè an tâm. Đó cũng là biết sống hiếu đễ với người thân.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Cánh Bướm Đầu Xuân
Lê Trị
21:13 01/04/2011
CÁNH BƯỚM ĐẦU XUÂN
Ảnh của Lê Trị
Cánh bướm xinh gởi tình trên hoa thắm
Trong cơn mê đắm bướm lịm vào mơ
Một giấc mơ tiên khiến ai phải thẩn thờ
Bướm liệng hoa chao, nắng chào...gió sớm!
(Trích thơ của Huyền Băng)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền