Ngày 18-03-2019
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Thời kỳ sám hối và làm việc thiện
Lm Đan Vinh
06:00 18/03/2019
CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY C
Xh 3,1-8a.13-15 ; 1 Cr 10,1-6.10-12 ; Lc 13,1-9.

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Lc 13,1-9

(1) Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng. (2) Đức Giê-su đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn hết mọi người Ga-li-lê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao ? (3) Tôi nói cho các ông biết: “Không phải thế đâu ; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”. (4) Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-a đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? (5) Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”. (6) Rồi Đức Giê-su kể dụ ngôn này: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, (7) nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất? (8) Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. (9) May ra sang năm nó có trái. Nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”.

2. Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay gồm hai ý chính như sau:

- NẾU KHÔNG CẤP THỜI SÁM HỐI THÌ SẼ PHẢI CHẾT: Khi ấy có một số người Ga-li-lê đã bị quân Rô-ma giết chết khi đang dâng lễ trong Đền thờ, và mười tám người khác ở Giê-ru-sa-lem đã bị tháp Si-lô-a đổ sập đè chết. Nhiều người cho rằng những kẻ đó là người xấu nên đã bị Chúa phạt. Còn Đức Giê-su lại quả quyết: Không phải như vậy! Nhưng nếu người ta không cấp thời sám hối thì mọi người cũng đều phải chết như thế !

- SÁM HỐI LÀ SỰ PHÁT SINH HOA TRÁI: Tội của cây vả ám chỉ dân Ít-ra-en không phải đã sinh trái chua độc hại, nhưng là tình trạng già cỗi không sinh ra hoa trái. Sở dĩ cây chưa bị chặt là nhờ người làm vườn đã xin chủ vườn gia hạn thêm thời gian một năm. Nếu vẫn không ra trái thì bấy giờ cây đó sẽ bị chặt đi. Cũng vậy, mỗi chúng ta nếu không muốn bị tiêu diệt thì ngay từ bây giờ phải thực thi bác ái là quan tâm phục vụ tha nhân.

3. CHÚ THÍCH:

- C 1-3: + Người Ga-li-lê: Là những người Do thái sống tại miền Bắc có lòng yêu nước, đã nổi lên chống lại với quân Rô-ma đang cai trị. + Khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng: Câu chuyện xảy ra ngay trong Đền thờ Giê-ru-sa-lem, nơi người ta giết chiên bò làm lễ vật dâng tiến Đức Chúa. Có lẽ những người Ga-li-lê này đi hành hương về Giê-ru-sa-lem đã lợi dụng nơi tôn nghiêm để khích động dân chúng chống lại nhà cầm quyền Rô-ma. Nhưng họ đã bị Tổng trấn Phi-la-tô phát hiện, sai quân đến vây bắt và giết chết ngay trong Đền thờ, làm cho máu họ đổ ra hòa lẫn với máu các con vật mà họ vừa sát tế. + Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn hết mọi người Ga-li-lê khác, bởi lẽ họ chịu đau khổ như vậy sao?: Có lẽ người thuật lại câu chuyện muốn biết quan điểm của Đức Giê-su để coi Người có phải là Đấng Thiên Sai mà họ đang mong đợi hay không. Nhưng sứ vụ của Đức Giê-su không phải để làm Vua Mê-si-a theo nghĩa trần tục. Nên Người đã không lộ ra quan điểm chính trị, mà cố tình lái vấn đề sang phạm vi tôn giáo. + “Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”: Người ta thường cho rằng: đau khổ, bệnh tật và sự chết là hậu quả của tội lỗi đã phạm. Nhưng Đức Giê-su lại phủ nhận điều ấy. Theo Người những người bị giết kia không phạm tội nhiều hơn những người khác ở Ga-li-lê, nhưng đây là dịp để mỗi người suy nghĩ và hồi tâm sám hối, hầu tránh cho mình khỏi bị tiêu diệt như vậy (x. Ga 9,2-3).
- C 4-5: + Tháp Si-lô-a: Là ngọn tháp cao được xây trên đỉnh đồi ở phía Tây Nam thành Giê-ru-sa-lem. + “Mười tám người kia bị tháp Si-lô-a đổ xuống đè chết...”: Đau khổ và chết chóc không phải luôn là sự trừng phạt riêng tội nhân, nhưng là cơ hội để mọi người duyệt xét lại bản thân và hồi tâm sám hối hầu tránh khỏi bị tiêu diệt. Chính vì thế mà Đức Giê-su đã tuyên bố: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”.
- C 6-9: + Một cây vả trồng trong vườn nho: Theo Cựu ước, cây vả tượng trưng cho dân Ít-ra-en (x. Gr 24,2-10), và vườn nho cũng ám chỉ dân này (x. Is 5,1-7). + Đã ba năm nay tôi ra cây vả tìm trái mà không thấy: Ba năm tương ứng với thời gian giảng đạo của Đức Giê-su. Dân Ít-ra-en được Người ưu tiên rao giảng Tin mừng Nước Trời, nhưng họ lại từ chối tiếp nhận vì không tin Người là Đấng Thiên Sai Mê-si-a. + Người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái. Nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”: Khác với Tin mừng Mát-thêu (x. Mt 21,19) và Mác-cô (x. Mc 11,21), trong Tin mừng Lu-ca số phận của cây vả được xử khoan dung hơn. Do lòng kiên nhẫn của chủ vườn là Thiên Chúa, và nhờ lời cầu bầu của người làm vườn là Đức Giê-su, mà cây nho không sinh trái là các tội nhân, có thêm thời gian sám hối. Sau đó nếu họ vẫn cứng lòng không chịu hoán cải thì họ sẽ bị tiêu diệt.

4. CÂU HỎI:

1) Người Ga-li-lê trong Tin Mừng là những ai ?
2) Tại sao mấy người Ga-li-lê lại bị quân Rô-ma giết chết trong Đền thờ ? Tại sao Thiên Chúa quyền năng lại không can thiệp để cứu họ thóat khỏi bàn tay của quân thù ?
3) Theo Đức Giê-su thì các tai ương họan nạn người ta gặp phải trong cuộc đời, phải chăng đều là hình phạt nhãn tiền của Thiên Chúa về các tội lỗi của họ ?
4) So sánh Tin mừng Luca hôm nay với hai Tin mừng Mát-thêu và Mác-cô thì số phận của cây vả trong Tin mừng nào được đối xử khoan dung hơn ? Tại sao ?
5) Phải chăng tội nhân có thể lợi dụng sự khoan dung của Thiên Chúa để không sám hối mà cứ tiếp tục phạm tội ?

II.SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết như vậy” (Lc 13,3).

2. CÂU CHUYỆN:

1) GIÁ TRỊ THỰC SỰ CỦA CÂY VĨ CẦM:

Trong một buổi bán đấu giá, người điều khiển chương trình cầm một cây vĩ cầm xấu xí đã bị nhiều vết nứt nẻ. Ông ta nghĩ cây vĩ cầm không mấy giá trị nên chẳng cần phí thời giờ sửa sọan cho cây đàn này làm chi. Ông giơ cây vĩ cầm cổ lên cho mọi người xem và rao bán: “Thưa quý vị, ai sẽ bắt đầu trả giá cho cây đàn này đây ? Một đồng, hai đồng... Ai sẽ trả giá 3 đồng ? À, một người đã trả ba đồng, rồi hai người trả ba đồng. Không còn ai nữa ư ?”. Bỗng từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm từ từ bước tới gần bục và cầm lấy cây đàn đang rao bán. Ông ta lau sơ bụi bặm bám trên chiếc đàn cũ kỹ và siết chặt lại các sợi dây đàn đã bị lỏng. Sau đó, ông tấu lên một khúc nhạc thật êm dịu và ngọt ngào. Tiếng đàn nghe du dương thánh thót giống như bài ca của các thiên thần trên trời. Sau khi ngưng đàn, mọi người hiện diện đều nồng nhiệt vỗ tay tán thưởng. Sau đó, người bán đấu giá tiếp tục hỏi: “Bây giờ tôi phải định giá lại cây vĩ cầm có âm thanh rất tuyệt vời này trị giá bao nhiêu cho xứng đây? Một ngàn... hai ngàn... Có ai chịu tăng lên ba ngàn không? À, một người chịu giá ba ngàn rồi. Hai người chịu giá ba ngàn. Và còn ai nữa không? Thôi, như vậy cây đàn dứt giá là ba ngàn đô-la! Lúc đó một bé gái ghé sát bên tai mẹ và hỏi: “Sao lạ vậy hả mẹ ? Tại sao cây đàn kia lại đột nhiên tăng giá lên gấp cả ngàn lần như thế hả mẹ ?” Bấy giờ bà mẹ mới ôn tồn giải thích cho con gái cưng như sau: “Chính nhờ đôi tay tài hoa của ông nhạc sĩ kia mà cây đàn đã tăng giá trị lên gấp cả ngàn lần đấy con ạ!”.

2) PHƯƠNG CÁCH CÁM DỖ KHÔN NGOAN NHẤT? :

Ngày nọ trong hỏa ngục ba con quỷ nhỏ cùng đến chào tướng quỷ là Xa-tan trước khi lên trần gian tập sự việc cám dỗ loài người phạm tội. Chúng lần lượt trình bày cho tướng quỷ về mưu chước cám dỗ của mình.

Quỷ nhỏ thứ nhất nói: “Em sẽ bảo với con cái loài người rằng: Ngoài loài người ra không còn Chúa nào khác, nên loài người cứ yên tâm sống thoải mái và không mất thời giờ vào việc đọc kinh thờ phượng Chúa”. Xa-tan liền trả lời rằng: “Nói như thế sẽ chẳng lừa được mấy người tin theo đâu, vì họ dư biết phải có ông Trời tạo dựng vạn vật muôn loài, sẽ ban thưởng cho kẻ lành và trừng phạt kẻ gian ác”.

Quỷ nhỏ thứ hai liền tiến lên trình bày về sách lược cám dỗ của mình: “Em sẽ rỉ tai người ta là không có hoả ngục đâu. Thiên Chúa là Đấng nhân hậu đầy tình yêu thương con cái loài người, nên Ngài không tạo dựng nên hoả ngục để trừng phạt loài người !”. Nghe thế Xa-tan nói: “Khá khen cho nhà ngươi đã nghĩ ra một kế hoach tốt. Tuy nhiên, cách này cũng chỉ lừa được một ít người nhẹ dạ mà thôi, vì ai ai cũng đều biết rõ Thiên Chúa còn là Đấng Công minh vô cùng, sẽ ban thưởng người ăn ngay ở lành, và trừng phạt kẻ gian ác tùy theo công phúc họ đã làm nơi trần gian.

Quỷ nhỏ thứ ba tiến lại tâu với thủ lãnh Xa-tan: “Em sẽ nói với loài người rằng: Có Thiên Chúa, cũng có thiên đàng để thưởng kẻ lành và có hỏa ngục để phạt kẻ dữ. Tuy nhiên các ngươi không cần phải lo, vì còn lâu các người mới chết. Lúc còn sống hãy cứ ăn chơi thỏa thích đi, đợi đến khi sắp chết sẽ ăn năn sám hối cũng không muộn”. Nghe xong kế sách này, tướng quỷ Xa-tan liền đứng lên vỗ tay khen ngợi: “Hay lắm, với phương kế này thì chắc chắn nước hỏa ngục của chúng ta sẽ ngày càng lớn mạnh và sẽ có thêm rất nhiều thần dân mới !!!”

3) GIÁ TRỊ CỦA VIỆC TĨNH TÂM:

Một hôm vị đạo sĩ già tập trung các học trò của ông trong một cái sân rộng trước nhà mình để dạy đạo. Ông ra lệnh cho gia nhân đặt một cái chậu đầy nước ở giữa sân. Khi mọi người đã tập trung, Ông đạo sĩ liền quậy nước trong chậu rồi yêu cầu học trò lần lượt đến nhìn mặt mình trong chậu nước. Sau đó, ông hỏi họ đã thấy gì trong chậu nước ? Học trò liền đáp: “Thưa thầy, chúng con chỉ thấy một khuôn mặt không rõ ràng trong đó”. Chờ một lát đến khi thau nước phẳng lặng, ông lại yêu cầu họ đến nhìn mặt mình trong chậu nước lần thứ hai và hỏi lại cũng một câu hỏi như trước. Học trò thi nhau trả lời: “Tất cả chúng con đều đã nhìn thấy rõ mặt mình ở trong chậu nước”. Vị đạo sĩ liền giải thích cho học trò như sau: “Chỉ khi nào nội tâm chúng con thật sự tĩnh lặng, thì chúng con mới nhìn thấy rõ con người thật của mình”.

Tĩnh tâm là đi vào sự thinh lặng nội tâm, là đặt mình trước mặt Chúa hầu có thể thấy rõ mình. Chúng ta không thể nhận ra con người thật của chúng ta khi tâm hồn đang bị giao động do những tiếng ồn ào bên ngoài, do sự lôi cuốn của lối sống hưởng thụ khoái lạc, những lo toan về cơm áo gạo tiền, những tính toán tham lam quyết tâm làm giàu bằng bất cứ giá nào… nên chúng ta không thể biết rõ về con người thật của mình.

4) PHẢI SÁM HỐI TỪ BẢN THÂN TRƯỚC HẾT:

Một triết gia Ấn Độ khi về già đã chia sẻ kinh nghiệm sống với học trò như sau:

- Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà bấy giờ tôi dâng lên Thượng Đế là: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để con đổi mới thế giới”.
- Đến tuổi trung niên, tôi đã nhận ra rằng, phân nửa cuộc đời của tôi đã trôi qua mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi đã cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con sức mạnh để biến đổi mọi người con gặp hằng ngày, nhất là những người thân trong gia đình con. Và như vậy là con đã thỏa mãn rồi”.
- Nhưng giờ đây, đến khi tóc bạc răng long, số ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận ra rằng, tôi là kẻ khờ dại nhất vì đã chẳng biến đổi được một người nào cả. Tôi chỉ còn biết cầu nguyện với Thượng Đế như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con biến đổi chính bản thân con”. Giả như tôi đã cầu nguyện như trên ngay từ khi còn trẻ, thì tôi đã không bỏ phí mất quãng thời gian tươi đẹp nhất cuộc đời của mình.

3. THẢO LUẬN:

1)Tội “Những điều thiếu sót” trong kinh “Tôi thú nhận” là tội gì ?
2) Có khi nào bạn khô khan cằn cỗi, không chịu làm các việc lành như cây vả không sinh trái trong Tin Mừng hôm nay không ?

4. SUY NIỆM:

1) PHẢI CẤP THỜI SÁM HỐI:

- Nội dung Tin Mừng hôm nay: Khi nghe một kẻ tội phạm gặp nạn, chúng ta thường nói: “Ác giả ác báo”- “gieo gió gặt bão”. Trong Tin Mừng hôm nay, những người đồng thời với Đức Giê-su cũng có quan điểm như thế khi kể cho Người nghe câu chuyện mới xảy ra về mấy người xứ Ga-li-lê đang dâng lễ trong Đền Thờ đã bị quan Phi-la-tô sai quân đến giết chết ngay tại bàn thờ, làm cho máu họ đổ ra hòa lẫn với máu các con vật họ vừa sát tế. Theo những người này thì chắc là mấy người Ga-li-lê kia đã ăn ở bất nhân thất đức nên mới bị chết thảm như vậy. Đức Giê-su đã sửa lại quan niệm sai lầm đó khi nói: Không phải chỉ mấy người đó mới bị tiêu diệt, mà đây cũng là lời cảnh báo chung tất cả mọi người. Nếu người ta không chịu hồi tâm sám hối thì họ cũng sẽ bị tiêu diệt như thế. Sau đó, Đức Giê-su đã kể dụ ngôn về một cây vả trồng trong vườn nho, đã bị chủ vườn than phiền vì không sinh trái dù đã được chăm sóc vun trồng cẩn thận. Con số ba năm tương ứng với thời gian ba năm Đức Giê-su đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho dân Ít-ra-en. Lẽ ra, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã giáng xuống những con người vô tín ương bướng kia rồi, giống như lời cảnh báo của Gioan Tẩy Giả: “Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10).

- Hãy sám hối để khỏi bị tiêu diệt: Có lẽ chúng ta hôm nay cũng giống như cây vả trong bài Tin Mừng: Chúng ta thường mải mê lo lắng việc kiếm cơm áo gạo tiền rồi lại tìm cách hưởng thụ… mà lơ là với việc bổn phận đối với Chúa và tha nhân. Nhiều tín hữu theo đạo nhiều năm mà lối sống vẫn đầy ích kỷ tự mãn gian tham… không những không tốt hơn mà có khi còn tệ hơn người lương. Họ đã không phát sinh hoa trái là các việc lành phù hợp với đức công bình bác ái và khiêm nhường phục vụ. Trong Mùa Chay này mỗi người chúng ta cần hồi tâm sám hối tội lỗi và làm việc thiện nếu không muốn bị tiêu diệt trong hỏa ngục đời sau.

2) PHẢI SÁM HỐI THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA ?:

- Tín thác vào tình thương tha thứ của Chúa: Sám hối không những là nhân biết mình tội lỗi yếu đuối để thành tâm tu sửa nên tốt, mà còn phải cậy tin vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa, giống vua Đavít xưa: Sau khi đã lỡ sa ngã phạm tội ngoại tình và mượn tay quân địch ngoài mặt trận giết chết tướng U-ri-gia để chiếm đoạt vợ ông này là nàng Bét-sê-va xinh đẹp, vua Đa-vít vẫn bình chân như vại. Nhưng rồi, ngôn sứ Na-than đã được Đức Chúa sai đến tuyên sấm cáo trách tội nhà vua. Na-than đã kể cho vua Đa-vít câu chuyện về một nhà phú hộ đã đối xử bất công với người nghèo, vua Đa-vít đã xé áo mình ra biểu lộ sự tức giận và đòi trừng trị tên nhà giàu gian ác bất công kia. Bấy giờ ngôn sứ Na-than đã chỉ thẳng vào mặt nhà vua mà nói: "Con người bất nhân thất đức đó chính là ngài". Vua Đa-vít nghe xong đã bừng tỉnh, ông nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình và quyết tâm ăn năn sám hối quay về làm hòa với Đức Chúa. Về sau Đa-vít đã sáng tác nhiều bài thánh thi cụ thể Thánh Vịnh 50 để biểu lộ lòng sám hối của ông (x. II Sm 11,1 tt).

- Sám hối là sẵn sàng tha thứ anh em để xứng đáng được Chúa thứ tha: Chúng ta hôm nay cũng thường có lối hành xử không ý thức về các tội đã phạm, nhưng lại nhạy cảm sẵn sàng lên án tha nhân giống như Đa-vít xưa. Qua Lời Chúa hôm nay, Đức Giê-su mời gọi mỗi người hãy hồi tâm sám hối, nhận ra mình là tội nhân, rồi tin cậy phó thác vào lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Rồi chúng ta cũng phải sẵn sàng tha thứ những xúc phạm của kẻ khác như dụ ngôn về tên đầy tớ không có lòng thương xót. Vua đã trách mắng tên đầy tớ như sau: “Hỡi tên đầy tớ bất lương! Ta đã tha bổng cho ngươi tất cả nợ nần chỉ vì ngươi đã nài xin ta. Sao ngươi không biết thương xót bạn ngươi như ta đã thương ngươi ?” (Mt 18,32-33).

3) HÃY ĂN NĂN SÁM HỐI:

- Sám hối là thay đổi cách đánh giá về bản thân: Cần nghiêm khắc với bản thân và khoan dung với tha nhân. Hãy đấm ngực mình chứ đừng đấm ngực người khác để xứng đáng được tha thứ như kinh cáo mình: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng…”. Muốn được sống và được hưởng hạnh phúc Nước Trời, mỗi người chúng ta phải biết dùng thời giờ và ân huệ Chúa ban để hồi tâm xét mình và ăn năn sám hối. Các tội lỗi chúng ta phạm chỉ là phần nổi của tảng băng chìm là các thói hư, giống như khối u ác tính cần sớm loại trừ. Sám hối là cắt khối u ra để cứu toàn thân, vì nếu không, thì toàn thân sẽ phải chết. Con người phạm tội cũng giống như một ngôi nhà bị bén lửa, nếu không kịp thời khống chế, ngọn lửa lan nhanh và sẽ thiêu rụi cả ngôi nhà; Sám hối chính là dập tắt ngọn lửa để cứu toàn bộ ngôi nhà khỏi bị cháy thiêu.

- Sống công bình bác ái mới là sám hối đích thực: Sự sám hối trở về không chỉ là hành vi đấm ngực về các tội đã phạm mà còn phải sống lời Chúa: "Hãy sinh hoa kết trái xứng với lòng ăn năn thống hối". Hoa trái của sự thánh thiện là các việc lành, giữ sự công bằng bác ái, sống yêu thương và phục vụ mọi người. Điều khó của hối nhân là phải phát sinh hoa trái tốt như: Gieo nụ cười thân ái, luôn quan tâm giúp đỡ phục vụ tha nhân, xoá bỏ những bất công và lòng thù hận, tránh “suy bụng ta ra bụng người” và làm theo Lời Chúa dạy: "Anh em muốn người ta làm gì cho mình thì cũng hãy làm cho người ta như vậy" (Lc 6,31).

4) SÁM HỐI LÀ QUYẾT TÂM TRỞ NÊN NGƯỜI TỐT:

Hành trình Mùa Chay theo Hội Thánh mong muốn không là quay về quá khứ ăn năn sám hối để xưng thú tội lỗi mình… nhưng còn nhằm dẫn đưa chúng ta đến cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Mùa Chay phải trở thành mùa đổi mới đời sống và cải thiện môi trường, là mùa nở hoa kết trái tình thương và thực thi các việc lành… nếu không, chúng ta sẽ bị chết trong tội của mình.

- Sám hối tội lỗi gồm cả những điều thiếu sót: Mỗi lần xét mình xưng tội, chúng ta thường chỉ xét những tội đã làm hại kẻ khác, mà quên không xét những tội đã bỏ qua không giúp đỡ tha nhân. Như cây vả trong Tin mừng hôm nay tuy không sinh hoa trái độc hại, cũng không trực tiếp làm hại chủ vườn... nhưng tội của cây này là không sinh hoa trái trong một thời gian lâu dài. Nhiều người chúng ta cũng vậy: Ta thường cảm thấy yên tâm khi thấy mình không cướp của giết người, không tà dâm ngoại tình, không dối trá lừa gạt ai... Nhưng ta lại quên không xét những tội đã sống khô khan nguội lạnh bỏ dự lễ đọc kinh; Tội không quan tâm làm việc tốt phụng sự Thiên Chúa và phục vụ anh em; Tội cố tình làm ngơ khi tha nhân đang cần được trợ giúp; Tội không chịu làm lợi thêm các nén bạc được Chúa trao phó (x. Mt 25,18); Tội không có lòng thương xót, không an ủi động viên và chia sẻ cơm áo để giúp những người đói khát bệnh tật và đau khổ (x. Mt 25,42)... Chính khi không làm điều tốt cho tha nhân là chúng ta đã để cho sự gian ác hoành hành. Sống đạo không phải chỉ là siêng năng đến nhà thờ dự lễ đọc kinh và không xúc phạm đến tha nhân... nhưng còn là tích cực phát huy các điều thiện để giúp tha nhân sống tốt đẹp hơn cả về thể xác cũng như tâm hồn.

- Hãy hành động tích cực và cụ thể để tỏ lòng sám hối: Câu chuyện sau đây cho thấy thế nào là ăn năn sám hối trong Mùa Chay này:

Một hôm, khi đi học về đến nhà, bé Tâm chạy ngay vào bếp rồi nũng nịu nói với mẹ rằng: “Mẹ ơi, con đói bụng quá !”. Mẹ ôn tồn nói với con: “Con hãy ráng chờ mẹ một chút sẽ có cơm ăn liền. Hôm nay mẹ đi làm về trễ nên có trễ giờ nấu cơm”. Nhưng bé Tâm lại tỏ thái độ vùng vằng khó chịu với mẹ, rồi em bỏ lên lầu chơi, chờ đến khi mẹ gọi mới chịu xuống nhà ăn cơm. Sau khi ăn xong, mẹ mới ôn tồn nói với bé Tâm như sau: “Con năm nay đã lớn và học lên lớp năm rồi. Con phải có trách nhiệm giúp mẹ lo việc nhà mới phải. Khi đi học về, thấy mẹ làm cơm chưa xong, lẽ ra con phải xuống bếp phụ mẹ lặt rau, lau chén đũa và dọn bàn ăn chứ. Con không được tỏ thái độ giận dỗi mẹ nghe không ?” Bé Tâm đã nhận ra thái độ giận mẹ khi nãy là không đúng khiến mẹ bị buồn. Em tỏ ra hối hận nên thưa với mẹ rằng: “Thưa mẹ, con đã biết lỗi rồi. Từ nay con hứa sẽ quan tâm giúp đỡ mẹ và sẽ không làm gì khiến mẹ phải phiền lòng nữa”. Thế là mẹ liền ôm Tâm vào lòng và âu yếm nói: “Con ngoan của mẹ. Mẹ cảm thấy rất vui vì con đã biết lỗi và hy vọng từ nay con sẽ trở thành đứa con ngoan hiếu thảo của mẹ”.

Cũng vậy, trong Mùa Chay này, để xứng đáng được Chúa ban ơn tha thứ tội lỗi, chúng ta hãy hồi tâm sám hối các tội đã phạm, hãy quan tâm tìm ra thói hư của mình và quyết tâm chừa bỏ bằng cách làm các việc tốt đối lập với thói hư. Mỗi tối sẽ dành ít phút xét mình về điều đã dốc quyết, ăn năn sám hối tội lỗi mỗi ngày và xưng tội mỗi tháng để được giao hòa với Chúa.

5. LỜI CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con thuờng hay đổ lỗi cho Thiên Chúa khi gặp phải thất bại: Khi bị mất mùa, con đổ lỗi tại Trời không ban cho mưa thuận gió hòa. Khi một người con đang ác cảm gặp phải tai ương hoạn nạn, con cho rằng họ bị Chúa phạt đáng đời! Nhưng hôm nay nhờ Lời Chúa soi dẫn, con sẽ không dám tiếp tục hiểu sai Lời Chúa nữa. Trong thực tế, con thấy có nhiều người tốt lành thánh thiện nhưng vẫn gặp phải nhiều tai nạn rủi ro. Ngay chính Chúa vốn là Con Thiên Chúa, là Đấng thánh thiện vô cùng, thế mà cũng từng chịu bao đau thương và còn bị chết đau thương nhục nhã bất công trên cây thập giá.
- LẠY CHÚA. Xin cho con luôn nhận ra tình thương của Chúa trong mọi biến cố vui buồn của cuộc đời con. Con biết rằng: Sở dĩ Chúa để con phải chịu đau khổ là để con có dịp sám hối và lập công đền tội, hầu ngày một nên tốt hơn. Xin cho con dù gặp phải những điều trái ý, vẫn nhẫn nại chịu đựng để đền tội con và góp phần với Chúa đền tội tha nhân. Xin cho con luôn phó thác tương lai cuộc đời con trong tay Chúa quan phòng, vì biết rằng: Tất cả những điều may lành hay rủi ro xảy đến cho con, đều không ngoài thánh ý Chúa, được Chúa cho xảy ra để mưu ích cho phần rỗi đời đời của con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
07:51 18/03/2019

113. Học vấn vĩ đại nhất của một người giáo hữu vẫn là nhận ra sự hư vô của mình.

(Thánh Augustinus)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")


---------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
07:53 18/03/2019
62. BA KẺ MỘNG DU

Có ba người ngủ trên một cái giường.

Một người trong mộng cảm thấy cái chân của mình ngứa kỳ lạ bèn đưa tay gãi, nhưng lại gãi trúng chân của người khác, còn chân của mình thì ngứa vẫn cứ ngứa, thế là lại cào cấu mạnh hơn, cuối cùng thì làm cho chân của người nọ chảy máu.

Người nọ trong mơ mơ màng màng rờ trên đùi thấy ướt ướt thì cho rằng người thứ ba đái dầm, bèn vội vàng đẩy người ấy ra bên.

Người thứ ba nửa tỉnh nửa mê đi ra ngoài tiểu tiện, nhà hàng xóm sát bên là một quán rượu, tiếng ép rượu nhỏ giọt giọt không dứt, anh ta cho rằng mình tiểu tiện chưa xong, bèn đứng đó cho tới khi trời sáng...

(Tiếu phủ)

Suy tư 62:

Thế gian là một cái giường khổng lồ vĩ đại có rất nhiều người ngủ mê trên cái giường ấy.

Có người ngủ mê trong danh vọng đến nổi quên cả tình cảm gia đình bè bạn; có người ngủ mê trong dục vọng xác thịt đến nổi quên mất mình là con cái của Thiên Chúa; có người ngủ mê trong tham lam tích trử bạc tiền đến nổi quên mất hạnh phúc thiên đàng mai sau; có người ngủ mê trong hận thù đến nổi quên mất Thiên Chúa là tình yêu rất yêu thương họ...

Người Ki-tô hữu cũng ngủ trên cái giường khổng lồ vĩ đại là thế gian ấy nhưng họ không ngủ mê, bởi vì ánh sáng Lời Chúa luôn chiếu soi và thức tỉnh họ đứng lên và mạnh dạn bước ra khỏi cơn mê của thế gian, để hướng tới nơi mà Thiên Chúa đang chờ đợi họ, đó là vì tình yêu Chúa mà phục vụ tha nhân trong cuộc sống của mình...

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


----------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Vinh quang của Đức Giêsu – Vinh quang của chúng ta
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
08:46 18/03/2019
Trong phần thứ nhất của Sứ điệp Mùa Chay năm 2019, với chủ đề “Muôn loài thụ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mạc khải vinh quang của con cái Người”, ĐTC Phanxicô đã nhắc nhở ta về “sự đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” (Rm 8,29). Vì thế, chúng ta sẽ dành ít phút để suy niệm vinh quang của Đức Giêsu Kitô được Người biểu lộ qua việc biến hình trên núi hôm nay cũng là vinh quang của người tín hữu, mà muôn loài thụ tạo mong chờ chúng ta tỏ bày trong đời sống hằng ngày.

1. Vinh quang của Thiên Chúa nơi vũ trụ và con người

Thiên Chúa là nguồn của ánh sáng, của chân thiện mỹ, của sự sống, tình yêu, hạnh phúc, nên khi dựng nên vũ trụ và con người, Ngài chia sẻ vinh quang của mình cho muôn loài. Thánh vịnh 148, câu 13 đã nói: “Vinh quang của Chúa tràn đầy trên trời dưới đất”. Vinh quang của Thiên Chúa được tỏ bày qua đám mây sáng láng trong sa mạc (Xh 6,7.10), trong đám mây cột lửa trong cuộc xuất hành, trên núi Sinai (Xh 24,16), cũng như trong nhà tạm chứa đựng hòm bia giao ước (Xh 40,34).

Vì thế, trái đất và muôn loài thụ tạo trong vũ trụ đã đầy tràn vinh quang của Chúa, mà vinh quang của Chúa là ánh sáng, là vẻ đẹp, là sự tốt lành chân thật, là tình yêu, hạnh phúc, sự sống, bình an và niềm vui. Do đó, khi nhìn vào vũ trụ bao la, ngắm xem núi cao, biển rộng, sông dài… con người cảm thấy mình hạnh phúc, sướng vui. Khi đón nhận các thụ tạo ấy, con người đón nhận sự sống, tình yêu, hy vọng cho mình và cho toàn thể nhân loại.

Hơn nữa, khi con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa đã chia sẻ vinh quang của Ngài cho con người một cách đặc biệt, dồi dào và phong phú gấp bội, nhờ tinh thần của con người mở ra tới vô biên và hướng tới vĩnh hằng (Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội Công Giáo, số 130).

Vì thế, ĐTC Phanxicô đã nói với chúng ta: “Khi chúng ta sống như con cái Thiên Chúa, như những người được cứu chuộc, được dẫn dắt bởi Chúa Thánh Thần (Rm 8,14), và có khả năng nhìn nhận và tuân thủ luật pháp Chúa, bắt đầu với lề luật được ghi khắc trong tâm hồn và trong tự nhiên, thì chúng ta cũng mang lại lợi ích cho mọi loài thụ tạo bằng việc hợp tác trong công trình cứu độ của muôn loài. Đó là lý do tại sao mà thánh Phaolô nói rằng muôn loài thụ tạo háo hức đợi chờ ngày Thiên Chúa mạc khải vinh quang của con cái Người”.

Con người có khả năng làm cho muôn loài thụ tạo cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc, sự sống và cả chân thiện mỹ khi yêu thương thụ tạo như những đứa em nhỏ của mình trong đại gia đình Thiên Chúa. Trong Bài ca Thụ Tạo, thánh Phanxicô Khó Nghèo cảm nhận được điều đó nên mới gọi “anh mặt trời” “chị mặt trăng”, “em gió”, “em bướm”…

2. Vinh quang của Chúa Giêsu

Trên ngọn núi biến hình, Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ thấy vinh quang của Người đã được chia sẻ cho muôn loài, nên y phục của Người trở nên trắng tinh chói loà và dung mạo của Người biến đổi khác thường, bởi vì “Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”.

Hơn nữa, khi Ngôi Lời làm người thì vinh quang được chia sẻ cho con người không còn chỉ là một dân tộc đông đúc như sao trời hay là một dải đất bao la làm quê hương, như Chúa đã ban cho Abraham trong Bài đọc I (St 15, 5-18), bởi vì con người không còn chỉ là một thụ tạo như các thụ tạo khác, nhưng đã trở thành Thiên Chúa, thành tạo hoá, nhờ được kết hợp mật thiết với Đức Giêsu. Họ đã nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu Kitô. Mặt họ không còn chỉ toả sáng như ông Môsê khi được tiếp xúc với Thiên Chúa, mà toàn thân người tín hữu, toàn cuộc đời của người tín hữu đều phát sáng để biểu lộ sức mạnh, quyền năng, tình yêu như Chúa Giêsu, khiến cho ai đụng chạm đến họ, tiếp xúc với họ, đều nhận được niềm vui, hạnh phúc, bình an và ơn cứu độ.

Chúng ta thấy người phụ nữ bị băng huyết 12 năm (x. Lc 8,43-48), bà chỉ cần đụng đến gấu áo của Chúa Giêsu là đã được chữa lành. Đời sống của các môn đệ và tông đồ thời Chúa Giêsu đã chứng minh việc người tín hữu được chia sẻ vinh quang của Chúa Giêsu: họ cũng làm phép lạ, chữa lành bệnh nhân, xua trừ ma quỷ, thậm chí làm cho người chết sống lại. Cái bóng của Phêrô ngả trên ai thì người đó được chữa lành (Cv 5,15). Vì thế, trong Bài đọc II (Ph 3,17-4,1), thánh Phaolô đã nói với chúng ta: “Chúa Giêsu có quyền năng khắc phục muôn loài sẽ dùng quyền năng ấy biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”.

Đất nước của chúng ta không còn chỉ là một dải đất nhưng là “quê hương ở trên trời”, nên chúng ta hướng lòng về trời nơi có Đức Giêsu ngự bên hữu Thiên Chúa. Dân tộc chúng ta không phải chỉ là một nhóm người, mà là tất cả nhân loại, tất cả vũ trụ vì tất cả chúng ta đều là anh chị em trong đại gia đình Thiên Chúa.

3. Vinh quang của người tín hữu chúng ta

Đứng trước việc Thiên Chúa và Chúa Giêsu bày tỏ và chia sẻ vinh quang cho con người, hầu như tất cả đều ngỡ ngàng, lo sợ, không tin. Abraham đã “kinh hoàng, đã bị một bóng tối dày đặc ập xuống trên ông và ông ngủ thiếp đi”. Các môn đệ trong bài Tin Mừng cũng vậy: họ sợ hãi, tưởng như đang ở trong một cơn ngủ mê nào đó. Nhưng Chúa Giêsu đã đánh tức họ, đã đưa họ vào trong đám mây sáng láng, để cho họ hiểu được rằng mỗi người môn đệ đi theo Chúa Giêsu đều có thể chia sẻ vinh quang với Người.

Vậy, chúng ta phải làm gì để cảm nhận và biểu lộ được vinh quang của Chúa trong đời sống?

Chúng ta đã thấy Chúa Giêsu biểu lộ vinh quang khi Người cầu nguyện, nên việc cầu nguyện sẽ đưa chúng ta vào sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, với Chúa Giêsu. Khi chúng ta kết hợp mật thiết với Người thì sức mạnh, tình yêu, quyền năng, vinh quang được chia sẻ cho chúng ta. Nhưng, điểm quan trọng nhất mà rất nhiều người sợ hãi, không dám dấn thân, thậm chí không dám nhắc tới, không dám kể lại cho ai cả, như các môn đệ trên núi thánh, đó là ta phải đi vào trong cuộc xuất hành của Người, tham dự vào mầu nhiệm vượt qua nghĩa là cùng chịu chết với Người đễ sống lại như Người.

Elia và Môsê hôm nay đã chứng minh điều đó khi các ông hiện ra “rạng ngời vinh hiển” và “nói đến cuộc xuất hành của Chúa Giêsu sắp hoàn thành tại Giêrusalem”. Mỗi người chúng ta cũng chết đi cho những tham vọng, dục vọng của riêng mình thì mới cảm nghiệm được ơn phục sinh của Chúa Giêsu Kitô và bày tỏ được vinh quang của Người trong đời sống thường ngày của mình. Các tông đồ, môn đệ, và bao thánh nhân đã chứng minh điều đó trong suốt dòng lịch sử của nhân loại cũng như của Giáo Hội.

Hôm nay chúng ta cũng được mời gọi như thế. Mỗi ngày chúng ta cố gắng chết đi cho những tội lỗi, cho những tiêu cực để chỉ nghĩ điều tích cực, chỉ nói lời chân thành, chỉ làm việc chính đáng. Khi ta cố gắng thực hiện những điều đó, cố gắng học hành, làm việc để chia sẻ tình yêu, niềm vui, hạnh phúc, quyền năng cho mọi người mọi vật quanh mình, chúng ta sẽ cảm nghiệm được vinh quang của Thiên Chúa đang được chia sẻ cho muôn loài. Như thế chúng ta đáp ứng được điều mong mỏi của muôn loài đang ngong ngóng đợi chờ con cái Chúa biểu lộ vinh quang.

Thật vậy, chính khi chúng “ta cùng chết với Chúa Giêsu, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người” (2Tm2,11-12). Đó là con đường chúng ta sẽ đi trong mùa Chay này cũng như trong suốt cuộc đời.
 
Thánh Giuse yêu chúng ta
Lm JB Nguyễn Minh Hùng
14:07 18/03/2019
THÁNH GIUSE YÊU CHÚNG TA,
VÌ CHÚNG TA LÀ CON CỦA NGƯỜI ...

Trong một chia sẻ của mình, Đức Cha Bùi Tuần chia sẻ cảm nghiệm với thánh Giuse đơn sơ, gần gũi, mang đấy chất yêu của một người con biết cha yêu mình. Đức Cha viết:

“… Tôi nhớ tới một lời cầu, mà những năm trước đây, tôi hay nói với Thánh Giuse. Tôi cầu xin thế này: “Tháng Ba là tháng kính Thánh Giuse. Con hơi sợ tháng đó. Bởi vì kinh nghiệm cho con thấy: trong nhiều tháng Ba của đời con, đã có những biến cố xảy ra khiến phải mất người mất của. Con hiểu là những gì đã xảy ra đó đều có mục đích dạy con về sự từ bỏ cần có trong tình yêu cứu độ. Con hiểu, nhưng con sợ. Xin Thánh Giuse thương giúp con”.

Hôm nay, tôi cũng nói lại với Thánh Giuse lời cầu trên đây.

Tôi tin Thánh Giuse là người được Chúa sai vào lịch sử, để làm chứng cho tình yêu Chúa. Ngài đã là một chứng nhân đích thực, ngay chính ở sự Ngài đã rất âm thầm khiêm tốn và từ bỏ mình, hết mình vâng phục thánh ý Chúa.

Xin Thánh Giuse thương cầu xin cho tôi cũng được là nhân chứng như Ngài. Tôi rất yếu đuối hèn mọn, mỗi ngày như bắt đầu lại hướng đi tình yêu. Bắt đầu, rồi lại bắt đầu lại. Chỉ vì yếu đuối. Nhưng trong sự yếu đuối ấy tôi đã gặp được Chúa là tình yêu thương xót. Thánh Giuse đã dạy tôi từng bước nhỏ. Xin cảm tạ Ngài. Trong tay Ngài, tôi phục vụ Hội Thánh và Quê Hương yêu dấu của tôi…”.


Chúng ta hãy đơn sơ như Đức Cha Bùi Tuần, đặt vào tay thánh Giuse muôn ngàn chìm nổi hằng diễn ra trong hành trình đời mình. Chúng ta ngã mình vào tình yêu của thánh Giuse như đứa con trong tay cha nó.

Cuộc đời chúng ta có nhiều gánh nặng, nhiều đổ vỡ. Ngước nhìn tình yêu của thánh Giuse dành cho chúng ta; ngườc nhìn sức chịu đựng mà một đời dâu bể, thánh Giuse đã trải qua; ngước nhìn lòng trung thành yêu mến Chúa dẫu đầy những gập ghềnh chắn lối, chúng ta biết thánh Giuse hiểu mọi vui-buồn-sướng-khổ trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta biết thánh Giuse luôn âm thầm lo lắng quan tâm bằng sự chuyển cầu hiệu quả để chúng ta vượt thắng như chính thánh Giuse đã vượt thắng.

Có người cha nào vui khi con bất hạnh? Có người cha nào không hạnh phúc khi con hạnh phúc? Cuộc đời của chúng ta là một chuỗi dài những vui buồn cộng lại. Chúng ta yên tâm. Chắc chắn thánh Giuse thông chia không sót một nỗi niềm nào. Lòng cha bao giờ mà chẳng ngút ngàn ví như biển, sánh như trời! Hai tiếng “lòng cha”, đủ cho chúng ta niềm ấm áp. Bởi người là cha, chúng ta là con. Người vô cùng đau, khi chúng ta đau. Người vỡ òa hạnh phúc khi chúng ta hạnh phúc.

Tất cả những chịu đựng mà một đời trần thế, thánh Giuse đã đi qua là để thánh nhân gần chúng ta. Càng hiểu cuộc đời, càng nếm trải đau khổ, càng thấu biết niềm vui, thánh nhân càng chia sẻ, và chuyển cầu cho con mình thật nhiều, thật hiệu quả, thật bền bỉ.

Trên hết, tất cả những trải nghiệm trong cuộc đời, là để thánh Giuse ngày càng tỏ ra là người cha đối với những đứa con hằng mong sự ấp ủ, vỗ về. Thánh Giuse là cha của niềm an ủi. Thánh Giuse là cha của nguồn cậy trông. Thánh Giuse là cha của lòng nhân hậu. Thánh Giuse là cha của lòng yêu thương lặng lẽ nhưng hiệu quả.


 
Thánh Giuse là Cha chúng ta
Lm JB Nguyễn Minh Hùng
14:10 18/03/2019
NHƯ VỚI CHÚA GIÊSU,
THÁNH GIUSE LÀ CHA CHÚNG TA

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông huấn Đấng trông nom Chúa Cứu Thế, dạy: “Chúng ta hãy phó thác chính mình để được Thánh Giuse chăm sóc, người mà Thiên Chúa tin tưởng phó thác những kho tàng vĩ đại và quí báu nhất, đồng thời hãy học hỏi nơi Người cách làm đầy tớ phục vụ trong nhiệm cục cứu rỗi. Mong Thánh Giuse trở thành người thầy đặc biệt dạy chúng ta phục vụ sứ mạng cứu rỗi của Chúa Kitô, một sứ mạng mà mỗi người chúng ta và mỗi thành viên của Giáo Hội đều có trách nhiệm: vợ, chồng, cha mẹ, những người sinh sống bằng lao động chân tay hay bất cứ công việc gì, những người được gọi vào đời sống chiêm niệm và những ai làm việc tông đồ” (số 32).

Vâng lời vị Cha chung, chúng ta tìm những lý lẽ thích hợp nhất, giúp chúng ta noi gương đời sống thánh Giuse mà sống đẹp lòng Chúa, xứng danh là người được Chúa Kitô cứu chuộc.

Chúa Giêsu gọi thánh Giuse là Cha.

Một trong các lời kinh dâng kính thánh Giuse được Hội Thánh tuyên xưng: “Dưới dòng họ của Ngài (thánh Giuse), Con Thiên Chúa làm người thuộc hoàng tộc Đavit đã âu yếm gọi Ngài là Cha”.

Ngay trang đầu tiên của Tin Mừng, “Gia phả của Chúa Giêsu”, thánh Mathêô khéo léo cho thấy Chúa Giêsu là “con” của thánh Giuse: “Giacob sinh Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô” (Mt 1, 16).

Bởi thánh Giuse chỉ là người được chỉ định dưỡng nuôi Chúa Giêsu, thánh Mathêô “đành” phải “rẽ ngang” gia phả để nhắc đến Đức Mẹ và gọi Đức Mẹ là “mẹ Đức Giêsu”.

Sự khéo léo này như ám chỉ: Chúa Giêsu không được sinh ra từ thánh Giuse, nhưng vẫn là dưỡng tử của thánh Giuse, mang danh dòng họ thánh Giuse. Ngay từ thuở thiếu thời, Chúa Giêsu đã được thánh Giuse thương yêu như người con của mình.

Ngay cách đặt tên cho phần đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Mathêô: “Gia phả Đức Giêsu Kitô”, Hội Thánh cũng đã kín đáo nhìn nhận Chúa Giêsu chọn cho mình một dòng tộc, một người cha, một mái gia đình để sinh ra làm người.

Kể từ đó, Tin Mừng không ngừng nhắc đi nhắc lại vai trò làm con của thánh Giuse, thuộc dòng tộc Đavit, mà Chúa Giêsu đảm nhận: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Mt 13,55; Lc 3,23; 4, 22). “Con vua David” (Mt 9, 27; 21, 9; Mc 12, 35). Chúa Giêsu đã không bao giờ hổ thẹn vì những lời mà người đương thời của Chúa gán cho: Con của bác thợ mộc Giuse.

Truyền thống Hội Thánh vẫn tin rằng, thánh Giuse được Chúa thánh hóa trước khi sinh ra, vì Chúa đã chọn thánh nhân làm cha nuôi của Con Chúa. Bởi: “Khi Thiên Chúa muốn tuyển chọn ai, để nhận lãnh một ơn gọi đặc biệt, hoặc một chức phận cao sang, Chúa luôn ban những ân sủng cần thiết cho người được tuyển chọn để thi hành ơn gọi hay sống chức vụ của mình. Ân sủng của Chúa sẽ tô điểm rất đầy đủ cho người được tuyển chọn ấy” (thánh Bênađô thành Siêna, sách đã dẫn trang 124).

Hội Thánh tin như thế, vì điều đó không đi ngược những gì Thánh Kinh đã cho biết về thánh Giuse. Bởi địa vị của thánh Giuse quá cao trọng: Người được coi là cha của Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Người là bạn của Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. Từ đời đời, Thiên Chúa đã tuyển chọn thánh Giuse làm dưỡng phụ của Chúa Giêsu. Người là Đấng gìn giữ Con Thiên Chúa và gìn giữ gia đình thánh tại Nagiareth. Chúa Giêsu là cả kho tàng ơn cứu độ loài người, vì thế, hiểu một nghĩa hạn hẹp nào đó, khi gìn giữ Chúa Giêsu, thánh Giuse cũng là Đấng bảo hộ kho tàng ơn cứu rỗi của chúng ta.

Dù quyền cao chức trọng là thế, nhưng thánh Giuse lại sống âm thầm, giản dị, không khoe khoang, nhưng khiêm nhường rất mực. Đặc biệt, thánh nhân đề cao đức vâng lời trong suốt đời mình. Một lòng vâng theo thánh ý Chúa đến cùng.

Qua tất cả những lần Thánh Kinh đề cập như: đón nhận Đức Trinh Nữ làm bạn trăm năm của mình (x.Mt 1, 18-25); đưa con trốn sang Aicập và lại đưa con trở về sau khi nguy hiểm đi qua (x.Mt 2, 13-23); khi con cử hành nghi lễ cắt bì (x.Lc 2, 21); dâng con trong đền thờ (x.Lc 2, 22-38); tìm và gặp con trong đền thờ (x.Lc 2, 41-49)… cho thấy đức vâng lời của thánh Giuse là một nhân đức tuyệt hảo, đáng là chuẩn mực cho sự vâng lời của chúng ta.

Chúng ta không biết ngày qua đời của thánh Giuse. Có lẽ thánh nhân qua đời trước cuộc thương khó của Chúa Giêsu, vì nếu không, thánh Giuse, một người cha đầy từ tâm, lân tuất, chắc chắn đã hiện diện, đã được Tin Mừng nhắc đến trong biến cố đau thương này. Và nếu có thánh Giuse bên cạnh, có lẽ Chúa không trối Đức Maria cho thánh Gioan (?).

 
Lễ thánh Giuse: Đấng che chở kẽ giữ mình đồng trinh.
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
20:49 18/03/2019
Đấng Che Chở Kẻ Giữ Mình Đồng Trinh

(Nhân dịp Lễ Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria, Cha nuôi Đấng Cứu Thế, Bổn mạng chủng viện Qui Nhơn, xin giới thiệu bài chia sẻ Lời Chúa mang tựa đề trích từ Kinh Cầu Thánh Giuse : “THÁNH GIUSE LÀ ĐẤNG CHE CHỞ KẺ GIỮ MÌNH ĐỒNG TRINH”.)

Chắc chắn khi chọn Thánh Giuse làm Quan Thầy Bổn mạng, các vị sáng lập Chủng Viện đã có một chủ ý : chủng viện, nơi quy tụ những thanh thiếu niên quyết chọn con đường “giữ mình đồng trinh” trong bậc tu trì để lên chức linh mục, như vậy rất cần một Đấng bảo trợ cho việc nầy. Tìm đâu cho xa, vì, Thánh Cả Giuse đã được Giáo Hội tuyên xưng qua 3 tước hiệu trong Kinh Cầu về Ngài liên quan đến đức đồng trinh : (4) : “Đấng thanh sạch giữ gìn Đức Nữ Đồng Trinh”, (9): “Đấng Cực thanh cực tịnh”, (18) “Đấng che chở kẻ giữ mình đồng trinh”. Như vậy, thật là chính đáng và phải đạo khi chọn Thánh Giuse làm Quan thầy - Bổn mạng Chủng viện, để ngài cầu thay nguyện giúp, nêu gương trinh khiết và sẵn sàng bảo vệ các chủng sinh, linh mục noi gương ngài “giữ mình đồng trinh”.

Nhưng ngài là ai, có được nhân thân như thế nào về “phẩm chất đồng trinh, khiết tịnh…” để được Thiên Chúa tín nhiệm, Hội Thánh tuyên xưng và dân Chúa suốt 2000 năm tin tưởng kêu cầu như thế ?

Chắc chắn không phải do “căn cước dòng tộc”. Nếu Bđ 1, trích sách Samuel, tường thuật lại lời của ngôn sứ Nathan báo cho Đa-vít về tính vĩnh cửu của dòng tộc ngài chắc chắn không nhằm đến “phẩm chất trong sạch, trinh khiết vẹn tuyền” của dòng tộc nầy. Bởi vì chính ông tổ Đa-vít, tiền bối của Giuse, lại là một ông vua ngoại tình, và các vị vương đế kế tiếp trong chuổi dòng tộc đó cũng phát xuất từ “sự cố ngoại tình ban đầu đó” ! Cái “triều đại vĩnh cửu” mà Thiên Chúa muốn thiết lập cho Đa-vít chính là “Triều đại Nước Thiên Chúa” của một người cũng trong dòng tộc nầy, xuất hiện sau Đa-vít 10 thế kỷ, được mệnh danh là “Con Vua Đa-vít”, cũng là “con bác phó mộc Giuse” đến từ Na-da-rét, tên là Giê-su. : “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).

Thì ra, điều mà Giuse được Thiên Chúa tín nhiệm, được Hội Thánh cao rao vì là người được chọn để nắm giữ một khâu quan trọng trong cuộc “Nhập Thể làm người của Con Thiên Chúa” với vai trò “cha nuôi”, “cha theo giấy tờ”, “cha theo luật pháp”, một người chấp nhận “ở vậy, sống đồng trinh” để bảo đảm vững chắc cho một người “Nữ Đồng Trinh” sinh con là Đấng Cứu Độ theo chương trình của Chúa. Người có trách nhiệm chuyển giao “lời hứa cứu độ” mang tính hữu hạn của “dòng tộc loài người” sang bến bờ vĩnh cửu của “dòng tộc thần linh”, của “triều đại Nước Thiên Chúa”.

Điều nầy thì Tin Mừng Matthêô hôm nay đã nêu bật : “Hỡi Giuse con vua Đa-vít đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu : vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội”.

Thế nhưng để đảm nhận tốt vai trò nầy, trách nhiệm nầy, chắc chắn không dễ chút nào. Một thanh niên (chứ không phải ông già đâu) chính thức là chồng, sống chung một gia đình với một người thiếu nữ mơn mởn xuân xanh – chính thức là vợ - mà phải đồng trinh, thanh khiết !

Chỉ có thể cắt nghĩa được phẩm chất thánh thiện nầy bằng hai từ “CÔNG CHÍNH”, hai từ mà Lời Chúa từ Cựu Ước tới Tân ước, trân trọng dành riêng cho sự hoàn thiện ở bậc cao nhất:

- Trước hết là dành cho chính Thiên Chúa : “Thiên Chúa là Đấng Công chính” : “Chỉ mình Ngài chính trực công minh” (Tv 71,16”; “Lạy Thiên Chúa, đức chính trực của Ngài cao vời vợi” (Tv 71,19); “Thiên Chúa cho thấy Người là Đấng Công Chính” (Rm 3,25) “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” (Mt 6,33);…

- Thứ đến là chính “Người Con Một” của Ngài, Đấng chịu chết trên thập giá, một người công chính mà viên sĩ quan Rôma ngoại giáo đã thốt lên vào buổi chiều thứ Sáu : “Đích thực ông nầy là người công chính” (Lc 23,47);

- Sau hết, là những người được mệnh danh là “anwim” (kẻ nghèo của Yavê), những kẻ sống cuộc đời thuộc trọn về Thiên Chúa qua việc chu toàn thánh luật, với đức tin và tình yêu sâu thẳm và luôn chu toàn thánh ý Chúa như Tổ phụ Abraham (Bđ 2 : Rm 4,22), Giacaria, Isave, Simeon; và trong đó có thánh Giuse được Tin Mừng xác quyết : “Giuse bạn của bà là người công chính”…!

Sở dĩ thế giới hôm nay (mà không chỉ hôm nay) có quá nhiều hổn loạn, tai ương, dịch bệnh, băng hoại, suy đồi…vì xa lìa sự công chính, vì có quá ít những người công chính. Chúng ta đừng quên lời của Thiên Chúa phán với Abraham trong sự cố đoán phạt thành Sôđôma : “Nếu Ta tìm được trong thành Sôđôma năm mươi người công chính, thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó” (St 18,26). Sau đó, do sự mặc cả của Abraham, Thiên Chúa rút xuống “chỉ 10 người” (18,32), nhưng cũng không có, nên Sôđôma đã bị tiêu diệt !

Trong những ngày này, Giáo Hội đang bị thế gian tấn công phủ đầu, từ giới lãnh đạo cao cấp, những người được xếp vào hàng lãnh đạo tinh hoa, mục tử cao cấp…như các Đức Hồng Y Edgar McCarrick (Mỹ), Philippe Barbarin (Pháp), George Pell (Úc)…cũng tập trung vào những tội phạm đến đức trong sạch. Đây quả là một đòn hiểm nghèo, bởi vì nó đánh ngay vào một trong 4 yếu tố thuộc tín điều về Giáo Hội : Giáo Hội thánh thiện.

Chính vì thế, thật là khẩn thiết, chúng ta cần chạy đến với Thánh Giuse, Đấng bảo trợ Hội Thánh, “Đấng thanh sạch giữ gìn Đức Nữ Đồng Trinh”, “Đấng Cực thanh cực tịnh”, “Đấng che chở kẻ giữ mình đồng trinh”…vừa kêu cầu ngươi thương che chở, bảo bọc Hội Thánh khỏi những làn sóng tấn công của thế gian và ma quỷ; đồng thời nỗ lực noi gương người thực thi những giá trị công chính của Phúc Âm.

Chủng viện Qui Nhơn đã trải qua hơn 170 năm; qua bao thăng trầm dâu bể, chắc chắn nhờ sự bảo trợ của Thánh Quan Thầy Giuse, vẫn tồn tại và phát triển để tiếp tục cung ứng cho giáo phận những con người can đảm sống cuộc đời đồng trinh trong ơn gọi linh mục.

Trước trào lưu tục hoá, nhiều cám dỗ của thời đại hôm nay, chúng ta cùng chung lời cầu xin cho chủng viện, cho các chú, các thầy, cho Ban Giám Đốc và những người hữu trách, nhờ lời chuyển cầu của Thánh Giuse, luôn trung thành và kiên định trong ơn gọi tận hiến, luôn can đảm chọn sống “ngược dòng” theo nẻo “Tám Mối” (Tông huấn Hãy Vui mừng Hoan hỉ) trong đó có “phúc thứ 6”, cái phúc mà thế gian và ma quỷ đang ra công cám dỗ và tấn công : “Phúc cho ai có lòng trong sạch”.

Là Đấng mệnh danh là “che chở kẻ giữ mình đồng trinh”, vai trò của Thánh Giuse với Hội Thánh, với giáo phận, với chủng viện, với chúng ta…chưa bao giờ hết cần thiết, như cách cảm nhận của bài thơ sau :

Giữa một thế giới ngập bon chen, ồn ào, vội vã,

Chúng con cần Ngài, người “Thợ cả vô danh”.

Để thấy đức tin vẫn còn ngời sáng yên lành,

Trong bàn tay chai sạn của cha,

Nơi khóe mắt nhạt nhòa của mẹ.

Giữa một thế giới

mà tình yêu chân thật chỉ còn là xa xỉ,

Chúng con cần Ngài, người bạn đời rất mực tín trung.

Để thấy hôn nhân vẫn sáng đẹp khôn cùng,

Trong những mái ấm đơn nghèo nhưng ngập tràn hạnh phúc.

Giữa một thế giới

Nhầy nhụa tiền tài, giàu sang, vẩn đục,

Chúng con cần Ngài, người cha tảo tần vất vả đắng cay.

Để thấy hy sinh và chia sẻ từng ngày,

là quà tặng, là của cải vô cùng cao quý.

Giữa một thế giới đầy bạc bẽo, vô tâm, quỷ mỵ,

Chúng con cần Ngài, Người bảo trợ tuyệt vời của Thánh Gia.

Để thấy trách nhiệm, trung thành là khúc nhạc câu ca,

Vẫn vang vọng trên muôn nẻo đường dương thế.

Giữa một thế giới đầy ác độc, hận thù, chia rẽ,

Chúng con cần Ngài, Người Công Chính có một không hai.

Để thấy niềm hy vọng và tình yêu rực sáng đến tương lai.

Và thấy Phục Sinh,

Bừng lên giữa muôn phận người mang đau thương thập giá !



Lạy Thánh Cả Giuse,

Giáo phận chúng con, chủng viện chúng con, anh em linh mục và chủng sinh chúng con luôn cần Ngài. Amen.

Giuse Trương Đình Hiền

19.3.2019
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bài giảng tĩnh tâm đầu Mùa Chay 2019 của cha Cantalamessa dành cho giáo triều Rôma
J.B. Đặng Minh An dịch
02:01 18/03/2019
Hôm thứ Sáu 15 tháng Ba, cha Raniero Cantalamessa, giảng thuyết viên Phủ Giáo Hoàng đã trình bày trước giáo triều Rôma bài giảng tĩnh tâm đầu Mùa Chay 2019 với chủ đề “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”.

Bản tiếng Anh có thể xem ở đây. Dưới đây là bản dịch sang Việt ngữ.

Mùa Vọng năm ngoái chúng ta đã bắt đầu suy niệm một câu từ Thánh Vịnh: “Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống.” (Tv 42: 2). Trong bài giảng Mùa Chay đầu tiên này, tôi muốn suy tư với các bạn về điều kiện cần thiết để “nhìn thấy” Thiên Chúa. Theo Chúa Giêsu, đó là sự thanh sạch trong tâm hồn: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5: 8).

Chúng ta biết rằng trong Kinh Thánh những chữ “thanh sạch” và “sự thuần khiết”, như trong ngôn ngữ hàng ngày, có ý nghĩa rất rộng. Phúc âm nhấn mạnh đến hai lĩnh vực cụ thể: sự công chính trong ý định và sự thuần khiết trong đạo đức. Đối lập với sự công chính trong ý định là đạo đức giả; và ngược lại với sự thuần khiết trong đạo đức là lạm dụng tình dục.

Trong lĩnh vực đạo đức, từ “tinh khiết” thường được dùng để chỉ một hành vi nhất định trong lĩnh vực tính dục, phù hợp với ý muốn của Đấng Tạo Hóa và mục đích nội tại của tính dục. Chúng ta không thể tiếp xúc với Thiên Chúa, Đấng là tinh thần, bằng phương thế nào khác hơn là tinh thần của chính chúng ta. Nhưng rối loạn hay tệ hơn là những biến thái trong lĩnh vực tính dục này có tác dụng, mà mọi người đều có thể thấy được, là làm tăm tối tâm trí. Nó giống như lấy chân khuấy bùn trong ao: bùn ở phía dưới bị khuấy lên và làm vấy bẩn tất cả nước. Thiên Chúa là ánh sáng và một người chọn cách hoạt động như thế “ghét ánh sáng.”

Tội ô uế ngăn chúng ta nhìn thấy thiên nhan Chúa, hoặc, nếu có thấy đi nữa, thì cũng chỉ là một hình ảnh đã bị biến dạng hoàn toàn. Thiên Chúa trở thành không phải là một người bạn, một đồng minh, và một người cha mà là một đối thủ, một kẻ thù. Con người xác thịt đầy những dục vọng và những ao ước của cải cũng như những thứ đi kèm khác. Trong tình huống này, Thiên Chúa dường như là một người cản đường cản lối ngăn chặn con đường dẫn đến những ham muốn xấu xa với các lệnh truyền quyết liệt của Người: “Ngươi phải!” và “Ngươi không được!” Tội lỗi khơi dậy một sự cay đắng thầm kín đối với Chúa trong lòng mọi người đến mức nếu để cho họ quyết định, họ sẽ ước rằng trên thực tế Chúa không hề tồn tại thì hơn.

Tuy nhiên, trong dịp này, tôi muốn tập trung chủ yếu vào ý nghĩa thứ hai của “sự thanh sạch trong tâm hồn” hơn là ý nghĩa thứ nhất - sự thuần khiết trong đạo đức. Tôi sẽ đề cập đến sự công chính trong ý định, mà trong thực tế đối lập với đạo đức giả. Mùa phụng vụ chúng ta đang sống lúc này cũng định hướng chúng ta theo chiều hướng đó. Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay hôm Thứ Tư Lễ Tro với việc nghe lại những lời khuyên răn được liên tục lặp đi lặp lại của Chúa Giêsu:

“Khi làm việc lành phúc đức, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường làm…Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả…Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả” (Mt 6: 1-18) Thật đáng ngạc nhiên khi thấy tội đạo đức giả nặng nề như thế, đến mức là tội lỗi mà Chúa Giêsu đã tố cáo nhiều nhất trong Tin mừng, nhưng tội ấy lại rất ít khi được đưa vào các công thức tự vấn lương tâm thông thường của chúng ta. Nếu không tìm thấy câu hỏi: “Tôi có từng là một kẻ đạo đức giả không?” trong bản xét mình, ta phải tự mình thêm câu hỏi ấy vào, và hiếm khi nào ta có thể bước qua câu hỏi tiếp theo mà không cảm thấy mình có tội. Hành động đạo đức giả lớn nhất là che giấu thói đạo đức giả của chính mình, che giấu nó khỏi chính chúng ta và những người khác, nhưng không thể che giấu tội ấy trước Thiên Chúa. Đạo đức giả phần lớn gây sững sờ vào thời điểm nó bị nhận ra. Và đây là những gì tôi đề xuất trong bài suy niệm này: đó là nhận ra phần đạo đức giả, ít nhiều có ý thức, trong các hành động của chúng ta.

Blaise Pascal viết rằng một người có hai cuộc sống: Một là cuộc sống thực sự của anh ta và cái thứ hai là cuộc sống tưởng tượng mà anh ta sống trong tâm trí của chính mình và trong tâm trí của những người khác. Chúng ta làm việc chăm chỉ để tôn tạo và bảo tồn con người tưởng tượng của mình đến mức bỏ bê thực thể của chúng ta. Nếu chúng ta có một số đức tính hoặc công đức, chúng ta cẩn thận làm cho chúng được người đời biết đến cách này cách khác ngõ hầu có thể gắn chúng vào cái hiện sinh tưởng tượng của mình. Chúng ta thậm chí tách biệt một đức tính khỏi cuộc sống thực của mình và gắn nó vào cuộc sống tưởng tượng, chẳng hạn, để được người đời ca tụng, chúng ta sẵn sàng trở thành những kẻ hèn nhát để có được danh tiếng là dũng cảm đến mức dám liều mất mạng.

Chúng ta hãy cố gắng khám phá nguồn gốc và ý nghĩa của từ “hypocrisy” - “đạo đức giả”. Nó xuất phát từ ngôn ngữ của kịch nghệ. Lúc đầu, nó chỉ đơn giản có nghĩa là “đóng kịch, diễn xuất trên sân khấu.” Yếu tố nội tại của sự giả dối xảy ra ở tất cả các giai đoạn sản xuất của sân khấu đã không thu hút được sự chú ý của những người thời xưa mặc dù người ta thừa nhận giá trị đạo đức và nghệ thuật cao của nó. Đây là nguồn gốc của sự phán xét tiêu cực đối với nghề diễn xuất, là ngành nghề bị hạn chế trong những thời kỳ nhất định. Có những thời kỳ, nghề này chỉ dành cho những người nô lệ, và thậm chí bị trực tiếp cấm chỉ bởi những nhà hộ giáo Kitô. Nỗi buồn và niềm vui được trình bày và nhấn mạnh không phải là nỗi buồn và niềm vui thực sự mà chỉ là bề ngoài, chỉ là một hư cấu. Các ngôn từ và thái độ bên ngoài không tương ứng với thực tế bên trong của tâm hồn. Những gì xuất hiện trên khuôn mặt của một người không phải là những gì trong trái tim của người đó.

Chúng tôi sử dụng từ “hư cấu” với một nghĩa trung tính hoặc thậm chí là tích cực. (Nó đề cập đến một thể loại văn học và giải trí rất phổ biến ngày nay!) Người xưa đã cho nó ý nghĩa mà nó thực sự có: “làm bộ”. Đâu là sự tiêu cực trong giai đoạn “hypocrisy” – “hư cấu kịch nghệ” - được chuyển sang từ “hypocrisy” - “đạo đức giả”. Sau một thời gian là một thuật ngữ trung tính vào thuở ban đầu, nó đã trở thành một trong số ít những từ có ý nghĩa hoàn toàn tiêu cực. Có những người dám hãnh hiện mình là người quá kiêu ngạo, hay là kẻ bất cần đời, nhưng không ai hãnh hiện mình là một kẻ giả hình.

Nguồn gốc của từ này đưa chúng ta đi đúng hướng để khám phá bản chất của đạo đức giả. Nó biến cuộc sống thành một sân khấu nơi chúng ta biểu diễn cho công chúng xem; nó có nghĩa là đeo mặt nạ để không còn là một người thật nhưng trở thành một nhân vật. Một nhân vật hư cấu không có gì khác hơn là một sự biến thái của một con người thực. Người thực thì có diện mạo cụ thể; trái lại một nhân vật thì đeo mặt nạ. Con người thực thì hoàn toàn trần trụi; còn nhân vật thì được phủ hoàn toàn trong những lớp áo quần. Con người thực thì yêu thích sự chân thực và thực tại; còn nhân vật lại sống một cuộc đời hư cấu và giả tạo. Con người thực thì tuân theo niềm tin của chính mình; còn nhân vật lại sống theo một kịch bản. Con người thực thì khiêm tốn và hiền lành; còn nhân vật thì phức tạp khôn lường.

Xu hướng bẩm sinh này ở con người đã được nhân lên đáng kể bởi văn hóa hiện tại bị chi phối bởi hình ảnh. Phim, truyền hình và Internet, tất cả chúng chủ yếu dựa trên hình ảnh. René Descartes nói: “Cogito, ergo sum” “Tôi nghĩ, vì thế tôi là”, nhưng ngày nay có xu hướng được thay thế bằng “Tôi xuất hiện, vì thế tôi là”. Một nhà đạo đức học nổi tiếng định nghĩa đạo đức giả như “một lòng tôn kính nửa vời trước nhân đức” [La Rochefoucauld: “hypocrisy is a tribute vice pays to virtue” - Điều này thường được hiểu là người đạo đức giả nói một đàng nhưng làm một nẻo, anh ta nói những điều anh ta biết điều là đúng nhưng không sống với xác tín của mình. Kẻ giả hình nhận thức được rằng hành vi của anh ta là sai trái hoặc tội lỗi, và vì vậy anh ta nói lên sự thật với một lòng tôn kính. Đó là một lòng tôn kính nửa vời cốt để che đậy lối sống thực của mình - chú thích của người dịch]. Nó đặt ra những cái bẫy cách riêng cho những người có lòng đạo đức và hàng giáo sĩ. Một thầy rabbi trong thời Chúa Kitô nói rằng 90 phần trăm những kẻ đạo đức giả trên thế giới này có thể được tìm thấy ở Giêrusalem. Lý do rất đơn giản: bất cứ nơi nào các giá trị tinh thần, lòng đạo đức và các nhân đức được đánh giá cao nhất, nơi đó cám dỗ sống giả hình là mạnh nhất để người ta không nghĩ mình không có những điều đó.

Một mối nguy hiểm khác đến từ vô số các nghi lễ mà những người ngoan đạo được giả định phải thực hiện; và từ cơ man các quy tắc mà họ phải tuân thủ. Nếu những nghi thức này không đi kèm với một nỗ lực liên tục để thiết lập chúng trong tâm hồn của một người vì tình yêu đối với Thiên Chúa và người lân cận, thì chúng trở thành những cái vỏ rỗng. Thánh Phaolô, khi nói về những nghi thức bên ngoài và giới luật, nói: “Những điều ấy có vẻ khôn ngoan: nào là ‘sùng đạo tự ý’, nào là ‘khiêm nhường’, nào là ‘khổ hạnh’, nhưng không có giá trị gì nếu cứ sống trong ham muốn xác thịt lăng loàn.”(Côl 2:23). Trong trường hợp này, vị Tông đồ nói rằng mọi người đang “giữ hình thức tôn giáo nhưng phủ nhận sức mạnh của nó” (2 Tim 3: 5).

Khi đạo đức giả trở thành mãn tính, nó tạo ra, cả trong đời sống hôn nhân và đời sống tận hiến, một “cuộc sống hai mặt”: một là công khai và nổi tiếng trong khi mặt kia thường được che dấu – một cuộc sống ban ngày và một cuộc sống ban đêm. Đó là trạng thái tâm linh nguy hiểm nhất đối với một linh hồn, và việc thoát ra khỏi nó trở nên vô cùng khó khăn trừ khi có thứ gì đó từ bên ngoài can thiệp và phá vỡ bức tường đang phong tỏa một người phía sau. Đó là tình trạng mà Chúa Giêsu mô tả với hình ảnh của những mồ mả tô vôi:

“Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!” (Mt 23: 27-28) Nếu chúng ta tự hỏi tại sao đạo đức giả lại là một điều kinh tởm đối với Thiên Chúa như thế, thì câu trả lời đã rõ ràng. Đạo đức giả là một lời nói dối. Nó che khuất sự thật. Thêm vào đó, đạo đức giả hạ bệ Thiên Chúa và đưa Ngài xuống vị trí thứ hai trong khi đưa các tạo vật – là công chúng – lên vị trí thứ nhất. Như thể ai đó trước sự chứng kiến của một vị vua lại dám quay lưng lại với nhà vua để chỉ tập trung vào những người hầu. “Con người chỉ trông vào vẻ bề ngoài, nhưng ĐỨC CHÚA nhìn thấu tâm can” (1 Sam 16: 7). Trau chuốt vẻ bề ngoài hơn là tâm hồn tự động có nghĩa là đặt con người trọng hơn Thiên Chúa.

Như thế, đạo đức giả, về cơ bản là thiếu đức tin, là một hình thức thờ ngẫu tượng trong đó các tạo vật được đặt ở vị trí của Đấng Tạo hóa. Chúa Giêsu giải thích việc các kẻ thù của Ngài không tin vào Ngài như sau: “Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin được?” (Ga 5:44). Đạo đức giả cũng là một sự thiếu lòng bác ái đối với những người lân cận vì nó có xu hướng hạ thấp những người khác thành những người ngưỡng mộ mình. Nó không nhận ra phẩm giá đúng của họ, bởi vì nó chỉ nhìn thấy những người khác trong mối tương quan với hình ảnh của chính mình. Điều quan trọng là quy mô của khán giả, ngoài ra không còn gì khác.

Một hình thái đạo đức giả là thói hai lòng hoặc không trung thực. Khi sống giả hình, người ta nhắm đến việc nói dối với Thiên Chúa, nhưng với thói hai lòng trong suy nghĩ và lời nói, người ta có ý muốn nói dối người khác. Thói hai lòng là nói một đàng và suy nghĩ một nẻo, nói tốt trước mặt một người rồi sau đó nói xấu người đó ngay khi người ấy quay lưng đi.

Phán xét của Chúa Kitô trên những người giả hình giống như một thanh kiếm rực lửa: “Receperunt mercedem suam” “Chúng đã được phần thưởng rồi” (Mt 6: 2). Họ đã có một biên lai được ký nhận, vì vậy họ không thể mong đợi gì hơn. Tuy nhiên, đó là một phần thưởng hão huyền và phản tác dụng ngay cả trên bình diện con người vì có một câu nói rất đúng là “vinh quang bỏ trốn những ai theo đuổi nó và chạy theo những ai đang chạy trốn nó.”

Rõ ràng là chiến thắng của chúng ta đối với thói đạo đức giả sẽ không bao giờ là một chiến thắng ngay từ đầu. Trừ khi chúng ta đạt đến mức độ hoàn hảo rất cao, chúng ta không thể tránh khỏi cảm giác muốn xuất hiện dưới ánh hào quang, tạo ấn tượng tốt và làm hài lòng người khác. Vũ khí của chúng ta là sự điều chỉnh những ý định của chúng ta. Ý định chính đáng được thực hiện thông qua việc điều chỉnh liên tục, hàng ngày các ý định của chúng ta. Ý định của ý chí, chứ không phải cảm giác bên trong, là điều tạo nên sự khác biệt trong đôi mắt Chúa.

Nếu đạo đức giả bao gồm việc phô trương những điều tốt đẹp mà ta không thực sự làm, thì một biện pháp hiệu quả để chống lại xu hướng này là che giấu đi những điều tốt đẹp mà ta thực sự làm, để tạo điều kiện cho những cử chỉ thầm lặng không bị hư hỏng bởi bất kỳ ánh mắt trần thế nào và giữ được tất cả hương thơm của những việc lành phúc đức ấy cho Chúa. Thánh Gioan Thánh Giá nói: “Thiên Chúa hài lòng hơn trước một công việc, dù nhỏ đến đâu, được thực hiện trong thầm lặng, không mong người ta biết đến, hơn cả ngàn công việc được thực hiện với lòng ao ước người ta biết đến chúng.” Thánh nhân nói tiếp rằng: “Ai thực hiện một việc thuần túy và hoàn toàn cho Thiên Chúa đáng được hưởng Nước Trời.”

Chúa Giêsu liên tục khích lệ thực hành này: “Hãy cầu nguyện kín đáo, ăn chay kín đáo, bố thí kín đáo, và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.” (xem Mt 6: 4-18). Những hành động tinh tế này trước mặt Thiên Chúa tăng thêm sinh lực cho linh hồn. Tuy nhiên, vấn đề không phải là làm cho điều này trở nên một quy tắc cứng nhắc bởi vì Chúa Giêsu cũng nói: “ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5:16 ). Vấn đề là sáng suốt phân định khi nào là tốt cho người khác thấy và khi nào tốt hơn là đừng cho họ thấy.

Điều tồi tệ nhất mà người ta có thể làm sau khi nghe hoặc đọc một mô tả về đạo đức giả là sử dụng nó mà phán xét người khác và tố cáo sự giả hình xung quanh chúng ta. Chính những người này là những người Chúa Giêsu đã gọi đích danh là những kẻ giả hình: “Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.” (Mt 7: 5) Đây đúng là trường hợp “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8: 7). Có ai có thể nói rằng họ hoàn toàn miễn dịch với mọi hình thái đạo đức giả không? Có ai dám nói mình không có một chút nào giống như mồ mả tô vôi, bên trong khác với vẻ bên ngoài không? Có thể chỉ có Chúa Giêsu và Đức Mẹ của chúng ta được miễn trừ, một cách vĩnh viễn và tuyệt đối, khỏi mọi hình thái đạo đức giả. Có một sự thật an ủi là ngay sau khi nói: “Tôi đã là một kẻ đạo đức giả,” thói đạo đức giả của người ấy được khắc phục.

“Nếu mắt anh sáng”

Lời Chúa không giới hạn trong việc lên án sự xấu xa của thói đạo đức giả: Lời Chúa cũng thúc giục con người tu luyện nhân đức ngược lại, đó là đức đơn sơ. “Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt anh sáng, thì toàn thân anh sẽ sáng.” (xem Mt 6:22). Từ “đơn sơ” có thể có – và cho đến nay vẫn có - một ý nghĩa tiêu cực của sự cả tin, ngây thơ, hời hợt, và ngu ngốc. Chúa Giêsu đã cẩn thận để loại trừ ý nghĩa này: khi Ngài khuyên các môn đệ hãy “đơn sơ và ngây thơ như chim bồ câu”, nhưng Ngài cũng đưa ra thêm lời mời gọi hãy “khôn khéo như rắn” (xem Mt 10:16).

Thánh Phaolô tiếp nhận và áp dụng giáo huấn phúc âm về đức đơn sơ vào đời sống của cộng đồng Kitô giáo. Trong Thư gửi tín hữu Rôma, ngài viết: “Ai đóng góp, thì hãy làm như thế với đức đơn sơ và chân thành.” (xem Rm 12: 8). Trước tiên, ngài đề cập đến những người trong cộng đồng chịu trách nhiệm cho các công việc bác ái, nhưng lời khuyên này được áp dụng cho tất cả, không chỉ cho những người đóng góp tiền của mà còn cho những ai trao ban ra thời gian và công việc của họ. Điều này có nghĩa là đừng nhấn mạnh điều thiện ta làm cho người khác hoặc thiện ích từ chức vụ của ta. Alessandro Manzoni trong cuốn tiểu thuyết “The Betrothed” [Tiếng Ý “I promessi sposi” – “Người đã hứa hôn” là tiểu thuyết lịch sử của Alessandro Manzoni xuất bản năm 1827. Đây là cuốn tiểu thuyết bằng tiếng Ý được đọc nhiều nhất trong văn học Italia. Tháng Năm, 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khích lệ các cặp hứa hôn đọc cuốn tiểu thuyết gồm 3 tập này – chú thích của người dịch] - đã thể hiện tinh thần phúc âm rất tốt và có một cảnh rất cảm động về vấn đề này liên quan đến người thợ may giỏi của làng:

“Anh tự ngắt lời mình, như thể bị kiểm tra bởi một số suy nghĩ. Anh ngập ngừng giây lát; sau đó bỏ một vài món ăn trên bàn vào một cái dĩa, và thêm vào một ổ bánh mì, anh đặt nó vào một miếng vải, và cột bốn góc lại, rồi nói với cô con gái lớn của mình: ‘Đây, cầm lấy đi’. Rồi anh đặt vào tay kia của cô một bình rượu nhỏ, và nói thêm: ‘Con đi xuống nhà góa phụ Maria, trao cho bà ấy những thứ này, và nói với bà ấy làm chút gì đó đãi mấy đứa con của bà. Nhưng con hãy làm điều đó thật dịu dàng và tế nhị, để bà ấy đừng nghĩ con đang làm một việc bác ái cho bà.’”

Tông đồ Phaolô cũng nói về đức đơn sơ trong một bối cảnh khác mà chúng ta đặc biệt chú ý vì nó có liên quan đến Lễ Vượt Qua. Khi viết thư cho các tín hữu Côrinhtô, thánh nhân nói: “Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ.” (1 Cô 5: 7-8) Lễ mà vị Tông đồ mời mọi người ăn mừng không chỉ là bất kỳ bữa tiệc nào nhưng là bữa tiệc tuyệt vời, bữa tiệc độc đáo mà Kitô giáo đã quen thuộc và được tổ chức trong ba thế kỷ đầu tiên của lịch sử, là Lễ Vượt qua. Vào đêm trước lễ Vượt qua, ngày thứ 13 của tháng Nisan [tháng đầu tiên theo lịch Do Thái - chú thích của người dịch], nghi lễ của người Do Thái đòi buộc các bà nội trợ phải dùng ánh nến soi sáng để quét sạch toàn bộ ngôi nhà, dọn dẹp mọi ngóc ngách để loại bỏ ngay cả những vết tích nhỏ nhất của bánh có men để mừng ngày lễ Vượt qua vào ngày hôm sau với toàn bộ bánh không men. Đối với với người Do Thái, men thực sự đồng nghĩa với băng hoại, và bánh không men là biểu tượng của sự tinh khiết, mới mẻ và toàn vẹn. Chính trong ý nghĩa này mà Chúa Giêsu gọi những kẻ đạo đức giả là “men” khi đề cập đến “men của người Pharisêu” (Lc 12: 1).

Thánh Phaolô xem thực hành nghi lễ này của người Do Thái như một ẩn dụ quan trọng cho đời sống Kitô hữu. Chúa Kitô đã bị hy sinh; Ngài là Lễ Vượt Qua đích thực, mà Lễ Vượt Qua cổ xưa đã tiên báo. Như thế, chúng ta cần soi sáng nội thất ngôi nhà chúng ta – là tâm hồn mình – và loại bỏ tất cả những gì là cũ kỹ và băng hoại để trở thành “một ngọn đèn mới”, để làm một cuộc tổng vệ sinh đón mùa xuân mới trong chính chúng ta. Từ “heilikrineia” trong tiếng Hy Lạp được dịch là “chân thành” chứa đựng ý tưởng về sự chói sáng của ánh mặt trời (helios), cũng như sự thử nghiệm và phán xét (krino), vì vậy nó có nghĩa là tính minh bạch rạng rỡ, là cái gì đó đã được thử nghiệm trong ánh sáng và đã được tìm thấy là tinh khiết.

Đức đơn sơ có mô hình siêu phàm nhất mà bất cứ ai cũng có thể nghĩ đến: chính là Thiên Chúa. Thánh Augustinô viết: “Thiên Chúa là Ba Ngôi, nhưng Ngài không phải là ba.” Ngài chính là đức đơn sơ. Ba Ngôi không phá hủy đức đơn sơ của Thiên Chúa, bởi vì đức đơn sơ liên quan đến bản tính, và bản tính của Thiên Chúa là một và đơn nhất. Thánh Thomas trung thành giữ lại di sản này khi nói rằng đức đơn sơ là thuộc tính đầu tiên của Thiên Chúa.

Kinh Thánh bày tỏ sự thật này một cách rất cụ thể thông qua hình ảnh: “Thiên Chúa là ánh sáng và trong Ngài chẳng hề có sự tối tăm” (1 Ga 1: 5). Sự vắng mặt của bất kỳ hình thái hỗn hợp nào cũng là một trong nhiều ý nghĩa của danh hiệu thần thánh Qadosh, Holy. Sự viên mãn thuần khiết, đức đơn sơ thuần khiết. Thánh Catherine, nhà thần bí vĩ đại thành Genoa chỉ vào khía cạnh này của bản tính Thiên Chúa, mà thánh nữ đã say mê, với những từ như “toàn bộ”, và “trọn vẹn”, là những từ cùng nhau cho thấy sự tinh khiết và đầy đủ, viên mãn tuyệt đối và đồng nhất. Thiên Chúa là “tất cả của một mảnh. Đức đơn sơ của Thiên Chúa là “sự viên mãn thuần khiết”. Kinh Thánh nói về Ngài: “Không có gì có thể được thêm vào hoặc lấy đi” (Sir 42:21). Thiên Chúa là sự viên mãn tối cao, vì thế, không gì có thể thêm vào Ngài; Thiên Chúa là sự thuần khiết tối cao, không có gì được lấy đi khỏi Ngài. Hai điều đó không bao giờ hợp nhất trong chúng ta; cái này mâu thuẫn với cái kia. Sự thuần khiết của chúng ta luôn luôn có được bằng cách loại bỏ một cái gì đó, bằng sự thanh tẩy chính mình, bằng cách “loại bỏ cái ác trong những hành động của chúng ta” (xem Is 1:16).

Bất kỳ loại hành động nào, dù nhỏ đi chăng nữa, nếu được thực hiện với một ý định thuần khiết và đơn sơ, đều khiến chúng ta được “giống hình ảnh và giống như Thiên Chúa”. Một ý định thuần khiết và đơn sơ tập trung năng lượng phân tán trong linh hồn, chuẩn bị tinh thần, và kết hợp nó với Thiên Chúa. Đây là sự khởi đầu, kết thúc và là sự tô điểm cho tất cả các nhân đức. Khi chỉ nghiêng về Thiên Chúa và phán xét mọi thứ liên quan đến Ngài, đức đơn sơ đẩy xa và khước từ tính khoe khoang, đạo đức giả và thói hai lòng. Ý định thuần khiết và công chính là “mắt sáng”, mà Chúa Giêsu đề cập đến trong Tin Mừng, cho phép toàn thân được sáng, nghĩa là, sáng soi tất cả các cuộc sống và hành động của một người, và giữ cho người ấy được miễn dịch đối với tội lỗi.

Đức đơn sơ là một trong những thành tựu gian khổ và tuyệt vời nhất của hành trình tâm linh. Đức đơn sơ thuộc về người đã được thanh luyện bằng một lòng ăn năn thật sự, bởi vì đó là hoa trái của việc tách rời hoàn toàn khỏi chính mình, và là kết quả của tình yêu bất vụ lợi dành cho Chúa Kitô. Người ta đạt được nó từng chút một, không bị nản lòng bởi những cú trượt ngã, nhưng với một quyết tâm vững chắc để tìm kiếm Chúa vì Chúa chứ không phải vì chúng ta.

Nếu tôi có thể được phép đưa ra một gợi ý vào cuối buổi tĩnh tâm này, thì tôi sẽ đề nghị chúng ta tìm trong Thánh Vịnh 139 trong Sách Thánh Vịnh hay trong Sách Các Giờ Kinh Phụng vụ và đọc chậm rãi, lặp đi lặp lại như thể chúng ta đang đọc lần đầu tiên trong đời, thậm chí như thể chúng ta đang tự sáng tác ra bài thi thiên ấy và là người đầu tiên nói ra bài này. Nếu đạo đức giả và thói hai lòng bao gồm việc tìm kiếm ánh mắt của người ta hơn là ánh mắt của Thiên Chúa, thì ở đây chúng ta tìm thấy phương dược hiệu quả nhất. Đọc lại thánh vịnh này giống như trải qua một hình thức soi X quang, giống như phơi mình trước những tia X. Ta cảm nhận được ánh mắt của Chúa vượt qua mọi phần của chúng ta. Tôi luôn nhớ ấn tượng tôi có khi lần đầu tiên đọc thánh vịnh này theo cách tôi đang mô tả. Thánh vịnh ấy bắt đầu như thế này:

[Thánh Vịnh 139 - Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ]

Lạy CHÚA, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi.

Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả.

Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy CHÚA, Ngài đã am tường hết.

Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con.

Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm, cao vời, con chẳng sao vươn tới!

Đi mãi đâu cho thoát thần trí Ngài, lẩn nơi nào cho khuất được Thánh Nhan?

Con có lên trời, Chúa đang ngự đó, nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài.

Dù chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện, đến ở nơi chân trời góc biển phương tây, tại đó cũng tay Ngài đưa dẫn, cánh tay hùng mạnh giữ lấy con.

Con tự nhủ: “Ước gì bóng tối bao phủ tôi và ánh sáng quanh tôi thành đêm tối!”

Nhưng đối với Ngài, tối tăm chẳng có chi mù mịt, và đêm đen sáng tỏ như ban ngày, bóng tối và ánh sáng cũng như nhau.

Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, tấm hình hài trong dạ mẫu thân con.

Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, trình Ngài xiết bao kỳ diệu!

Hồn con đây biết rõ mười mươi.

Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì, con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu.

Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy; mọi ngày đời được dành sẵn cho con đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu của đời con khởi sự.

Lạy Chúa, con thấy tư tưởng Ngài khó hiểu biết bao, tính chung lại, ôi nhiều vô kể!

Đếm sao nổi, vì nhiều hơn cát; dù có đếm xong, con vẫn ở với Ngài.

Lạy Chúa, ước chi Ngài tiêu diệt kẻ gian tà, ước gì bọn khát máu đi cho khuất mắt con!

Chúng nói về Ngài với chủ tâm phỉnh gạt, nổi dậy chống Ngài nhưng uổng công.

Lạy CHÚA, kẻ ghét Ngài, làm sao con không ghét?

Làm sao con không tởm kẻ đứng lên chống Ngài?

Con ghét chúng, ghét cay ghét đắng, chúng trở thành thù địch của chính con.

Lạy Chúa, xin dò xét để biết rõ lòng con, xin thử con cho biết những điều con cảm nghĩ.

Xin Ngài xem con có lạc vào đường gian ác thì dẫn con theo chính lộ ngàn đời.

Amen.


Source:Cantalamessa
 
Giới thiệu vài nét về cha Raniero Cantalamessa, giảng thuyết viên phủ Giáo Hoàng trong 3 triều Giáo Hoàng
Lệ Hằng, F.M.A.
18:43 18/03/2019
Cha Raniero Cantalamessa sinh ra tại Colli del Tronto, Ý vào ngày 22 tháng 7 năm 1934. Ngài được thụ phong linh mục dòng Phanxicô Capuchin vào năm 1958. Ngài có bằng tiến sĩ về thần học và văn học cổ điển. Trước đây, ngài từng là giáo sư lịch sử Kitô giáo cổ đại và là giám đốc của Khoa Khoa học Tôn giáo tại Đại học Cattolica del Sacro Cuore ở Milan, cho đến khi được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chọn là giảng thuyết viên phủ Giáo Hoàng vào năm 1980. Cha Cantalamessa cũng từng là thành viên của Ủy ban Thần học Quốc tế từ năm 1975 đến năm 1981.

Năm 1980, Cantalamessa được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm làm Giảng Thuyết Viên Phủ Giáo Hoàng. Ngài giữ vị trí này suốt 3 triều giáo hoàng của Đức Gioan Phaolô II, Đức Bênêđíctô XVI và Đức Phanxicô. Trong chức vụ này, ngài thuyết giảng các bài suy niệm cho Đức Giáo Hoàng và các vị lãnh đạo cũng như tất cả các viên chức khác trong giáo triều Rôma vào mỗi Thứ Sáu trong Mùa Chay và Mùa Vọng, và là “người duy nhất được phép giảng cho Đức Giáo Hoàng.”

Trong buổi Phụng Vụ tưởng niệm Chúa chịu chết vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh tại Đến thớ Thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng chủ sự các nghi lễ, nhưng ngài là người thuyết giảng.

Danh tiếng ngài lừng lẫy đến mức ngày 24 tháng 11, 2015 ngài đã được mời giảng tại Thượng Hội Đồng Anh Giáo.

Trong dịp này, cha Cantalamessa đã nói một câu để đời với các nhà lãnh đạo Anh giáo nhóm họp tại Westminster rằng “chúng ta không bao giờ có thể để cho một vấn đề luân lý chẳng hạn như vấn đề tính dục có thể chia rẽ chúng ta đến mức là cả tình yêu đối với Chúa Giêsu Kitô cũng không còn có thể liên kết được chúng ta nữa.”

Giáo Hội Anh Giáo đã từng tấn phong Giám Mục cho một người công khai sống đồng tính là giám mục Gene Robisnson của giáo phận Anh Giáo New Hampshire, Hoa Kỳ. Gene Robisnson là người đã có vợ con, nhưng vào năm 1986 đã bỏ vợ, là Isabella Martin, và 2 đứa con để công khai sống với Mark Andrew mà ông ta gọi là “chồng”.

Việc tấn phong Giám Mục cho Gene Robisnson vào năm 2003, cùng với những trào lưu đòi công nhận cái gọi là hôn nhân đồng tính gây chia rẽ sâu sắc Anh Giáo, đến mức hàng loạt giáo xứ bỏ sang Công Giáo.

Từ ngày 2 đến ngày 8 tháng Giêng năm nay, cha Raniero Cantalamessa đã hướng dẫn tuần tĩnh tâm cho các Giám Mục trên toàn cõi Hoa Kỳ tại chủng viện Mundelein ở Chicago. Tuần tĩnh tâm này là sáng kiến của Đức Thánh Cha Phanxicô muốn các Giám Mục Hoa Kỳ tạm dừng mọi việc để cầu nguyện trong khi Giáo Hội tìm cách đáp lại cuộc khủng hoảng lạm dụng tính dục.

Chủ đề của tuần tĩnh tâm này là “Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng” (Mc 3:14).

Bài giảng đầu Mùa Chay năm nay của cha Cantalamessa, có tựa đề “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5: 8), được xem là một phân tích sâu sắc về thói đạo đức giả: nguyên nhân, triệu chứng, tác hại và phương dược chữa trị. Bản dịch Việt ngữ có thể xem ở đây.


Source:Cantalamessa
 
Tin Vatican: các bậc bằng đá hoa cương của Cầu Thang Thánh cạnh Vương Cung Thánh Đường Thánh Gioan ở Laterano sẽ được mở để công chúng leo
Vũ Văn An
19:15 18/03/2019


Dịp đi viếng Cầu Tháng Thánh ở Vatican cuối năm ngoái, người viết bé cái lầm, leo cầu thang tạm mà cứ tưởng là leo Cầu Thang Thánh (Scala Santa) mà mình đã leo năm 2005. Leo xong, đọc thông báo dán ở cửa Đền Thánh mới hay Cầu Thang Thánh đang được sửa chữa, leo cầu thang bên cạnh cũng được hưởng cùng một ơn đại xá!

Hôm nay, đọc tin của Catholic News Service, còn khám phá ra bé cái lầm thứ hai, lớn hơn, đó là Cầu Tháng Thánh leo năm 2005 vẫn không phải là Cầu Thang Thánh thật. Hay nói đúng hơn là Cầu Thang Thánh thật nhưng đã bị phủ một lớp gỗ dầy từ 300 năm nay!

Thực vậy, theo Catholic News Service, lần đầu tiên trong 300 năm nay, các bậc bằng đá hoa cương của Cầu Tháng Thánh sẽ được giải phóng khỏi các tấm gỗ dày được lắp ráp năm 1723 để bảo vệ cầu thang và che mắt công chúng.

Trong khoảng ít nhất 40 ngày, người ta sẽ có thể chạm và trèo lên những phiến đá trần mà, theo truyền thống, vốn là những phiến đá Chúa Giêsu đã leo khi Phôngxiô Philatô đưa Người ra trước đám đông và trao Người để chịu đóng đinh.

Các bậc sắp được rửa sạch và cầu thang mới được khôi phục có hình họa sẽ được mở cho công chúng vào ngày 11 tháng 4, 1 tuần trước Tuần Thánh, trong một buổi lễ làm phép đặc biệt tại Đền Cầu Thang Thánh. Các bậc đá hoa cương sẽ tạm thời được mở cho công chúng trước khi các tấm gỗ nguyên thủy và được phục hồi sẽ được ráp trở lại.

Quyết định được đưa ra trong giai đoạn cuối cùng của việc phục hồi khu Đền Thánh - một dự án kéo dài 20 năm được Viện Bảo tàng Vatican giám sát và tài trợ với sự giúp đỡ của các nhà tài trợ tư nhân, các qũy và Hội Bảo trợ Nghệ thuật tại Viện Bảo tàng Vatican.

Paolo Violini, người cầm đầu việc phục hồi Bích Họa của Viện Bảo tàng Vatican, và nhóm của ông đã rất ngạc nhiên và xúc động khi họ thấy mức độ bị hao mòn của các bậc đá, nên ông thấy các tín hữu ngày nay cần nhìn thấy và trải nghiệm chứng từ đức tin bị ẩn giấu này - dù chỉ tạm thời.

Cha Francesco Guerra, một cha dòng Khổ Nạn, quản nhiệm đền thánh, nói với Catholic News Service hôm 15 tháng 3: "Đây là một dịp đặc biệt để chạm vào cùng những bậc thang như Chúa Giêsu và chứng kiến đức tin của tất cả những người từng đến trước chúng ta".

Ngài nói: "Và đó là một cách cụ thể để được liên kết với những người đến trước chúng ta trong lịch sử và đức tin, những người đã truyền lại đức tin cho chúng ta".

Truyền thống cho rằng Thánh Helen, mẹ của Hoàng đế Constantine, đã đưa cầu thang về Rôma từ Giêrusalem năm 326 CN.

Đền thánh này, có tường và trần nhà được vẽ những bức tranh trang trí mới và những bức bích họa mô tả cuộc khổ nạn của Chúa Kitô và các biến cố trong Cựu Ước, được xây dựng riêng cho cầu thang được công chúng tôn sùng vào cuối những năm 1580, theo lệnh của Đức Giáo Hoàng Sixtô V.

Kể từ đó, hàng triệu người leo các bậc thang này bằng đầu gối của họ, từ từ và vô tình đã gây nên những vết lún và rãnh cắt nhấp nhô sâu vào phiến đá mềm. Một trong 28 bậc bị xói mòn bởi mũi giày của người ta đến nỗi đã tạo ra một cái lỗ xuyên qua phiến đá dày.

Ông Violini cho biết: Điều đó xảy ra, vì đó là bậc được các người hành hương dừng lại lâu hơn, cúi xuống và hôn "bậc quan trọng nhất" ở phía trên, là bậc bị nứt ở giữa và được trang trí bằng một cây thánh giá bằng kim loại và một tấm lưới kim loại được nâng lên. Theo truyền thống, Chúa Giêsu ngã ở bước thứ 11, làm nứt nó bằng đầu gối của Người. Ông Violini cho hay: Thánh giá đánh dấu điểm đụng ấy, và tấm lưới lộ thiên để phủ điều người ta cho là giọt máu của Người.

Một công nhân thò ngón tay qua lưới để lấy ra một ít mảnh vụn và cho thấy phiến đá đã bị cọ xát như thế nào bởi hàng thế kỷ người đụng vào chỗ ấy. Một thánh giá cũng đánh dấu một bậc nữa ở đầu cầu thang, chỉ nơi, theo truyền thống, là một giọt máu khác.

Cho đến bây giờ, người ta chỉ có thể nhìn – cứ không chạm vào - những khu vực này qua các tấm kính nhỏ trong các rãnh gỗ.
Một vài bậc vẫn chưa được mở vào ngày 15 tháng 3. Hai công nhân đang đục bỏ một số mảnh gạch dọc theo các bức tường cầu thang để lấy đi các móc kim loại rỉ sét vốn dùng để giữ yên vị cho các thanh gỗ óc chó 300 tuổi.

Các ghi chú viết tay, thẻ thánh, hình ảnh màu, đồng xu nhỏ, nút áo và đống bụi đen tràn ra từ dưới tấm ván nặng, lấm tấm với những lỗ mối mọt và dính đầy tơ nhện.

Các công nhân cẩn thận cho vào bao các lời xin cầu nguyện viết tay và vật lưu niệm, đã bị mắc kẹt trong các dây hở ở cột dẫn điện ở cầu thang. Tất cả đã được trao cho các cha Dòng Khổ Nạn trông coi Đền Thánh để lập danh mục và nghiên cứu. Ông Violini nói rằng: các đồ vật này có trước thập niên 1950, một điều đã khiến các người phục hồi tin rằng cầu thang có lẽ đã được làm sạch cho Năm Thánh 1950.

Mei Wen, một thành viên của Hội Bảo Trợ Nghệ Thuật của Viện Bảo tàng Vatican, đến từ quê hương Perth, Australia, để xem các bậc được tiết lộ.

Bà nói với CNS rằng bà trở thành một nhà tài trợ chính cho việc phục hồi cầu thang sau khi bà và chồng lần đầu tiên leo chúng vào năm 2013.

Bà nói: "Năm đó, những gì chúng tôi cầu xin và suy niệm nay phần nào đã trở thành sự thật, vì vậy, tôi đã cam kết rằng tôi sẽ quyên góp cho việc phục hồi dự án này, cho những tín hữu muốn leo cầu thang vì bất cứ lý do gì, vì lý do tâm linh hoặc gia đình".

Bà nói thêm: Khôi phục "một nơi đặc biệt" như thế này "cũng là vì nghệ thuật và lịch sử của nó."

Bà nói rằng bà rất xúc động khi được nhìn và chạm vào những vật kỷ niệm và rãnh trong đá cẩm thạch "được tạo ra bởi những con con người leo lên bằng đầu gối của họ. Điều này rất có thực chấtt và đó là lịch sử đã được tạo ra từ nhiều thế kỷ trước, làm thế nào bạn không cảm nhận được điều gì?"
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Gx. Lạc quang: Lễ Mừng kính Thánh Giuse. Bổn mạng Giáo họ 3
Đức Dũng
15:57 18/03/2019
Gx. Lạc quang: Lễ Mừng kính Thánh Giuse. Bổn mạng Giáo họ 3

Trước khi vào Thánh lễ, vị đại diện Cộng doàn Giáo họ 3 đã mời gọi Cộng doàn suy niệm về cuộc đời Thánh cả Giuse

Giáo xứ Lạc Quang: "Thánh Giuse là bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Maria, là người tài đức, khiêm cung, thuộc dòng dõi con vua Đavít, chính tại đây xuất hiện Vua cứu tinh đó là Đức Kitô" - Cha Phanxicô Xaviê Trần Văn Thi đã giảng về Thánh cả Giuse như là mẫu gương cho đời sống tín hữu trong thánh lễ mừng bổn mạng của Đền Thánh Giuse thuộc Giáo họ 3 vào lúc 19g00 ngày 18.03.2019

Xem Hình

Thánh lễ trọng thể do cha sở Phanxicô Xaviê Trần Văn Thi chủ tế. Đến hiệp dâng Thánh lễ có quý soeur, quý chức tân cựu HĐMV, quý Ban Hành giáo, quý hội đoàn cùng cộng đoàn dân Chúa giáo xứ Lạc Quang.

Đầu lễ, cha chủ tế mời gọi cộng đoàn chúc mừng bổn mạng giáo họ 3 với các gia trưởng và 12 ông trương, ông trùm và những ai trong giáo xứ nhận Thánh Giuse làm quan thầy, cả cộng đoàn vỗ tay chúc mừng. Và nói lên mục đích ý nghĩa của ngày Lễ bổn mạng

Phần chia sẻ Tin Mừng. Cha chủ tế đã chia sẻ:

Mừng lễ Thánh Giuse là bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Maria. Thánh Giuse là người tài đức. khiêm cung, thuộc dòng dõi con vua David, chính tại đây xuất hiện Vua cứu tinh đó là Đức Kytô.

Gia đình Ngài đã sắp xếp Ngài đính hôn với Maria, khi biết Maria có thai, Nếu là người đàn ông bình thường, rất tức giận sẽ di tố cáo để Maria bị ném đá đến chết, nhưng ông rất công chính, vì vậy Ngài đã âm thầm trinh khiết sống theo ý Thiên Chúa, trong sâu thẳm tâm can, khao khát sống trọn đời đồng trinh. Thiên Chúa đã báo mộng cho Ngài biết không phải Maria ngoại tình mà là do quyền năng của Chúa Thánh Thần làm ra, Thánh Giuse tuân thủ theo thánh ý của Thiên Chúa. Ngài đã đón nhận Trinh nữ Maria về nhà làm vợ mình, làm bạn mình. Trong suốt cả cuộc đời. Ngài đã giúp Maria tránh tiếng không chồng mà có con, giúp Đức Giêsu có một gia dình, có cha, có mẹ, như bao gia đình khác, như thế Thánh Giuse tham dự vào công trình cứu độ của Thiên Chúa.

Với vai trò làm bạn, Thánh giuse đã đưa Maria về Giêrusalem, làm khai sổ kiểm tra dân số theo lệnh của hoàng đế Augustô, dọc đường Maria đã hạ sanh Chúa hài nhi xuống thế làm người, với tinh thần tuân phục vâng lời ở Thánh Giuse là khi Thiên Thần báo mộng, người ta sẽ giết hại hài nhi, đang đêm Thánh Giuse đã chổi dậy đưa Maria trốn sang Ai cập, thời đó đường đi xa xôi, khó khăn đầy hiểm trở như thế nào. Khi trốn sang được Ai cập chẳng bao lâu Sứ Thần lại báo mộng để trở về Nazaret, lại một lần nữa Thánh Giuse tuân phục theo Thánh ý Chúa, bất chấp đường xá xa xôi, đầy nguy hiểm, vô vàn khó khăn mà Ngài không một lời than vãn, cho thấy sự công chính, sự tuân phục một cách khiêm tốn, không điều kiện của Ngài. Ngay cả sự tuân phục trong đạo đức, khi dâng Chúa Giêsu trong đền thờ khi mà Chúa Giêsu là con Thiên Chúa, đồng thời dâng cả Đức Maria. Trong dịp đó Ngài gặp ông già Symêon nói tiên tri “về sứ mạng của Chúa Giêsu và Mẹ Maria” trong công trình cứu độ.

Thánh Giuse luôn luôn công chính, thánh thiện, đi đầu trong việc đạo đức, và luôn gương mẫu trong gia đình thật tuyệt vời. Ngài âm thầm sống ở Nazaret. Ngài rất cần cù, siêng năng chăm lo cho gia đình, và Ngài đã chết lúc nào? Và ở đâu? Không ai biết! chúng ta suy luận Ngài chết sau khi Chúa Giêsu được 12 tuổi, chắc chắn Ngài chết trước khi Chúa Giêsu bị khổ hình trên Thập Giá. Chính vì vậy Ngài được Thiên Chúa mời gọi tham dự vào công trình cứu độ của Thiên Chúa với vai trò làm bạn trăm năm, trung thành với Đức Maria, sau đó được Thiên Chúa thưởng công bội hậu trên Thiên Đàng, nên ta gọi Ngài là Thánh cả Giuse. Trong các Thánh. Nói lên cái quý giá như vậy, nên Giáo Hội chọn Thánh Giuse là Bổn mạng của Giáo Hội và của tất cả mọi người mang tên Thánh là Giuse.

Nhờ lời cẩu bầu của Ngài cùng Chúa ban cho chúng ta, nhiều ơn lành phần hồn, phần xác, nhất là ban cho chúng ta nhiều sức khỏe, cho tất cả mọi quý chức trong Giáo họ, trong Giáo xứ, và trong mỗi người chúng ta, sống một đòi sống như Ngài, để chúng ta sống hòa thuận, hiệp nhất, xây dựng Giáo Hội, từng ngày càng phát triển vững vàng, ngày càng thăng tiến hơn. Cách riêng tại Giáo họ 3 (Đền Thánh Giuse)

Một lần nữa xin Thánh cả Giuse cầu bầu cùng Thiên Chúa ban muôn ơn lành cho tất cả mọi người hiện diện trong Thánh lễ hôm nay. Amen.

Sau lời nguyện hiệp lễ, Vị đại diện cho giáo họ đã có lời cảm ơn quý cha cũng như toàn giáo xứ, vì tình thương yêu đã đến hiệp dâng Thánh lễ cầu nguyện cho giáo họ. Ông cũng có những lời chúc tốt đẹp gửi đến quý cha cùng quý cộng đoàn.

Buổi lễ kết thúc lúc 20 giờ cùng ngày, mọi người ra về trong hân hoan, nguyện sống như Thánh cả Giuse và như lòng Chúa mong ước.

Bài. Ảnh Đức Dũng (Truyền Thông TGPSG)

Kính mời đọc thêm:

Kinh khấn Thánh Giuse Bảo trợ những vụ khó khăn (*)

Lạy Thánh Giuse, xưa nay không ai kêu cầu Cha mà vô hiệu, Cha có thần thế trước mặt Đức Chúa Trời, đến nỗi người ta có thể nói rằng: "Trên trời, Thánh Giuse truyền lệnh hơn là van xin."

Lạy Cha hiền, xin cầu bầu cùng Chúa Giêsu cho chúng con. Khi ở thế gian này, Cha đã từng là Cha Nuôi và là vị bảo hộ trung thành của Chúa Con chí thánh, nay xin Cha bào chữa cho chúng con bên tòa Chúa. Chúng con trao phó cho Cha vụ khó khăn này (kể ra...). Xin Cha giải gỡ giúp chúng con, để thêm một vinh quang mới vào bao nhiêu vinh quang sẵn có của Cha.

Lạy Thánh Giuse nhân từ, chúng con tin tưởng - vâng, chúng con tin tưởng, Cha có thể chấp nhận lời nguyện của chúng con, và giải thoát chúng con khỏi những khổ cực u sầu mà chúng con đang gặp phải. Hơn nữa, chúng con vững lòng trông cậy, Cha không bỏ qua điều gì giúp ích cho những người sầu khổ kêu cầu Cha, chúng con sấp mình dưới chân Cha, tha thiết nài xin Cha đoái thương đến những than van khóc lóc của chúng con. Xin Cha lấy tình thương như áo choàng che phủ chúng con, và chúc lành cho chúng con - Amen.

Imprimatur

P.X Trần Thanh Khâm

Tổng Đại Diện GP Saigon

Sàigòn ngày 9.3.1974

Nguồn: dịch từ Revue de St. Joseph

(*) Kinh này do Tổng hội (Archiconfrérie) Thánh Giuse và tạp chí Thánh Giuse ở Aldex (Pháp) phổ biến. Bản dịch có phép Giáo quyền Địa phận Sàigòn ngày 9/3/1974.

Nguồn: Trung Tâm Mục Vụ TGP SG
 
Văn Hóa
Lễ thánh cả Giuse: Cây Hương Nam Đại Phúc
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
08:58 18/03/2019
Một thoáng suy tư từ Kinh Cầu Thánh Giuse

Hỡi “Người Cha yên lặng”,
Đời bể dâu qua mấy vạn thu rồi.
Nhọc nhằn thế sự, tội lỗi, tanh hôi,
Nhờ tay cha,
Nhà Thánh Hội vẫn “yên bề gia thất” !

Nhớ chuyện cũ, chuyện Tin Mừng rất thật,
Giấc mơ nào xui khiến chuyện trái ngang !
Tuổi hoa niên, ôm mộng ước thiên đàng,
Giờ phải nhận,
Phận làm cha, làm chồng “bất đắc dĩ” !

Đời công chính, ưu tiên là “Thánh Ý”,
Xin cúi đầu tuỳ Thiên định dẫn đưa.
Biển Thiên ân, đáp lại mấy cho vừa,
Thân bé bỏng, dại khờ, thôi nín lặng !

Kể từ đó, mặc dãi dầu mưa nắng,
Đồng không mông quạnh, sa mạc hoang vu…,
Lạnh lẽo Bê lem hay đất khách tản cư…,
“Đấng thanh sạch,
giữ gìn Đức Nữ Đồng Trinh” Thánh Mẫu.

“Cha giả”, “chồng hờ”,
mặc cuộc đời có “bôi tro trét trấu”,
Nguyện một đời làm người canh giữ Thánh Gia.
Trán đượm mồ hôi, chai sạn bàn tay,
Danh “Nghĩa phụ”, đức “Phu quân” vẹn toàn đôi ngã.

Đường thế gian, vẫn trần gian sỏi đá,
Lắm lọc lừa, nhiều quỷ mị, dối gian…
Nghĩa phu thê, tình gia đạo… lắm nẻo gian nan,
Ơn khiết tịnh, nẻo trinh tu…đôi đàng oan khúc !

Xin Thánh Cả, “Cây Hương Nam đại phúc”,
Toả xuống đời rợp bóng mát xanh tươi.
Nhà Hội Thánh an yên vang rộn tiếng cười,
Đời dâng hiến, bậc bậc tu trì, bình yên thánh đức.

“Thánh Giuse che chở kẻ giữ mình đồng trinh”
Xin cầu thay nguyện giúp !

Sơn Ca Linh
Lễ Thánh Giuse 2019

 
Thánh Cả Giuse
Đinh Văn Tiến Hùng
16:12 18/03/2019
Đại Lễ Mừng Kính ngày 19/3 hàng năm

*Hồng Ân Thiên Chúa bao la,

Thiên đàng trần thế ngợi ca danh Ngài.

Hàng năm Giáo Hội giành tháng 3 dâng kính Thánh Giuse và 2 ngày Lễ đặc biệt tôn vinh Ngài :

- 19/3 Quan Thày Hội Thánh và các gia trưởng.

- 1/5 Quan Thày công nhân hay thường gọi là Lễ Thanh Giuse Thợ ( cũng là ngày Quốc Tế Lao Động )

Cùng dâng kinh nguyện Thứ tư trong tuần.

Vị Đại Thánh lãnh nhận trọng trách vinh dự cao sang tột đỉnh :

- Gia Trưởng Thánh Gia.

- Phu Quân Trinh Nữ Maria.

- Dưỡng Phụ Đấng Cứu Thế.

Nhưng cuộc đời Ngài rất trầm lặng khiêm tốn, không nói một lời, không ghi lại ngày sinh và lúc từ trần… mà Phúc Âm chỉ ghi lại vài dòng như một hình bóng thoáng qua :

-Theo gia phả Chúa Giêsu, Thánh Giuse thuộc dòng dõi vua Đa-vít.

“…Giacóp sinh Giuse chồng của Maria, người sinh ra Đức Giêsu gọi là Kitô.

Tổng cộng các đời lại, thì từ Abraham đến Đavít là 14 đời, từ Đavít đến thời lưu đầy Babylon là 14 đời, từ thời lưu đầy Babylon đến Đức Kitô là 14 đời.” ( Mt.1 : 16 & 17 )

-Giuse đính hôn với Maria ( Báo mộng lần 1 ).

“Đây là chuyện Đức Giêsu sinh ra : Maria Mẹ Ngài đã đính hôn với Giuse, trước khi ông bà về chung sống với nhau, thì bà đã có thai do tự Thánh Thần. Giuse chồng bà là người công chính, không muốn tố giác bà, định âm thầm ly dị. Sau khi ông đã quyết tâm như vậy, thì Thiên Thần hiện ra với ông trong giấc mộng bảo rằng ‘Giuse con vua Đavít, chớ sợ rước Maria về nhà, vì thai nơi bà do tự Thánh Thần, bà sẽ sinh con trai và ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi.” (Mt.1 : 18- 21 )

-Giuse đi Belem và Chúa Giáng Sinh.

“Trong những ngày ấy, Hoàng đế Augustô ra sắc lệnh kiểm tra toàn thể thiên hạ. Việc kiểm tra này đã thi hành lần đầu thời Quirintô trấn nhiệm xứ Syri và mọi người phải đi khai sổ bộ, ai về thành nấy. Ông Giuse thuộc xứ Galilê , cũng từ thành Nazareth lên xứ Giuđê, tới thành của Đavít gọi là Belem vì ông thuộc dòng dõi Đavít để khai sổ bộ cùng Maria đã đính hôn với ông và hiện bà đang thai nghén. Xảy ra là khi hai ông bà đang ở đó, thì đã mãn những ngày thai nghén đến buổi lâm bồn. Bà đã sinh con trai đầu lòng và lấy tã vấn con đặt nằm trong máng cỏ, vì không có chỗ cho ông bà trong quán trọ,” ( Lc.2 : 1- 7 )

- Dâng Chúa trong Đền Thờ.

“Và khi đã đầy ngày, lúc phải tẩy uế cho các đấng theo luật Môsê, thì ông bà đem Hài Nhi lên Đền thờ Jerusalem tiến dâng cho Thiên Chúa như đã viết trong lề luật là mọi con trai đầu lòng được gọi là của thánh dâng kính Chúa, chiếu theo điều dạy trong luật để dâng làm lễ tế với một cặp chim gáy hay hai bồ câu tơ.” ( Lc.2 : 22- 24 )

-Trốn sang Ai-Cập ( Báo mộng lần 2 ).

“Họ lui về rồi, thì Thiên Thần hiện ra trong giấc mộng bảo Giuse ‘Hãy chỗi dậy đem Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập và cứ ở đó cho đến khi ta báo lại, vì Hêrôđê đang lùng bắt Hài Nhi để giết’

Chỗi dậy ông đã đem Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn qua Ai Cập và ở đó đến mãn đời Hêrôđê, ngõ hầu được trọn lời Chúa phán với vị tiên tri : Từ Ai Cập ta đã gọi Con Ta về.” ( Mt.2 : 13- 15 )

-Trở về Nazareth ( Báo mộng lần 3 ).

“Hêrôđê chết rồi, thì Thiên Thần Chúa lại hiện ra trong mộng với Giuse và bảo ‘ Hãy chỗi dậy đem Hài Nhi và Mẹ Ngài về Israel, vì những kẻ tìm hại tính mạng Hài Nhi đã chết rồi’ Ông liền chỗi dậy và đem Hài Nhi cùng Mẹ Ngài về Isarel. Nhưng nghe tin Akhêlaô lên làm vua Giuđê thay cha là Hêrôđê, ông sợ không dám về đó, được báo mộng ông lui về

miền Galilê và lập cư tại thành Nazareth, hầu ứng nghiệm lời các tiên tri đã nói ‘Ngài sẽ được gọi là Nazareth’ “ ( Mt.3 : 19- 23 )

-Tìm thấy Chúa trong Đền Thờ.

“Hàng năm cha mẹ Ngài lên Jerusalem vào dịp lễ Vượt Qua. Khi Ngài lên 12 tuổi, ông bà cũng đi theo thông lệ để dự lễ. Khi các ngày ấy đã mãn, ông bà trở về, thì trẻ Giêsu ở lại Jerusalem mà cha mẹ Ngài không hay, nghĩ là Ngài có trong đoàn lữ hành, nên ông bà đi một ngày đàng, rồi cố tìm Ngài trong đám bà con họ hàng quen thuộc, nhưng không tìm ra, ông bà mới quay trở lại Jerusalem để tìm Ngài.

Xảy ra sau 3 ngày, ông bà đã gặp Ngài trong Đền Thờ, ngồi giữa các tấn sĩ nghe và hỏi họ. Mọi kẻ nghe Ngài đều sửng sốt về trí thông minh và về các lời Ngài đối đáp. Thấy Ngài, ông bà thất kinh và Mẹ Ngài nói với Ngài ‘Này con, sao con làm thế ? Này cha con và mẹ phải đau khổ tìm con. Nhưng Ngài đáp lại ‘Tại sao tìm con, lại không biết con phải ở nơi nhà cha con sao ?” Nhưng ông bà không hiểu lời Ngài nói với họ. Ngài đã xuống với ông bà về Nazareth và tùng phục hai ông bà. Còn Mẹ Ngài thi giữ kỹ các điều ấy trong lòng. Và Đức Giêsu tấn tới thêm về khôn ngoan, vóc dáng cùng ân sủng, trước mặt Thiên Chúa và người ta.” ( Lc.2 : 41- 52 )

*Cuộc đời Thánh Giuse được tường thuật qua Tin Mừng chỉ gom lại vỏn vẹn trong một trang giấy nhỏ, nhưng từ đó đã khơi nguồn cho một kho tàng vô biên – như một dòng suối trong lành đổ vào đại dương Tình yêu bao la - về cuộc đời gương mẫu tuyệt vời của vị Đại Thánh mà mọi người cúi đầu tôn kính :

-Một số hệ phái tôn giáo Chính Thống và Anh Giáo cũng tôn kính Ngài.

-Từ thế kỷ 4, các Giáo phụ Đông Phương như Ephraem, Gioan Damasceno, Gioan Kim Khẩu đề cao đời sống thanh khiết

của Thánh Giuse qua câu nói bất hủ của Thánh Ephraem ‘ Không ai có thể ca ngợi Thánh Giuse cho xứng đáng ‘

-Còn các Giáo phụ La tinh như Thánh Hierônimô và Augustinô nhấn mạnh đến sự công chính của Ngài.

-Việc tôn kính Thánh Giuse phảt triển mạnh với phong trào Thập Tự Quân còn ghi lại nơi các Thánh đường tại Nazareth.

-Nhiều quốc gia nhận Ngài là Đấng bảo trợ như Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Peru, Áo, Bỉ, Việt nam …

-Nhiều Vị Thánh đã sống theo gương mẫu của Ngài

-Thánh Teresa Avila dâng kính Dòng Cát Minh cho Thánh Phụ và đã xác quyết trong câu ‘Tôi xin Thánh Giuse điều gì cũng được. Nếu ai không tin hãy thử xem. ‘

-Năm 1479, Giáo Hoàng Sixto đã đưa Lễ kính 19/3 vào sách nguyện Roma.

-Năm 1621, Giáo Hoàng Gregoriô 15 ban Sắc chỉ Lễ Kính Thánh Giuse là Lễ buộc và kiêng việc phần xác.

-Ngày 19/3/1661, vua Louis 14 hiến dâng nước Pháp cho Thánh Phụ.

-Giáo Hoàng Ubrano 7 nâng thành ngày lễ buộc kính Thánh Giuse. -Năm 1677, Công tước Áo Leopoldo 6 tôn Thánh Cả là Đấng bảo vệ quốc gia.

-Năm 1870, Giáo Hoàng Piô 9 tôn vinh Thánh nhân là Quan Thày toàn thể Giáo Hội.

-Năm 1889, Giáo Hoàng Lêô 13 ban hành Thông điệp chọn tháng 3 kính Thánh Giuse.

-Năm 1989, Thánh GH Gioan Phaolô 2 ban hành Tông huấn Redemtoris Custom (Người Giám Hộ Đấng Cứu Thế)

-Năm 1955, ĐTC Piô 12 công nhận ngày 1/5 Lễ kính Thánh Giuse Thợ.

-Ngày 19/12/2010, Giáo Hoàng Biển Đức 16 phó dâng Thế giới cho Thánh Giuse.

-Gần đây nhất, ngày 12/2/17 báo Le Soir đã viết về lòng mến mộ và dâng hiến mọi khó khăn của Đức Thành Cha Phanxicô đối với Thánh Cả Giuse như sau : “ …Thật vậy, ĐTC cho biết là Ngài đã viết trên những miếng giấy nhỏ những vấn đề nan giải và trao cho Thánh Giuse, để dưới chân tượng nhỏ của Thánh. Bây giờ thì tượng này đè trên một đống thư tràn ra như tấm thảm. ĐGH người Á-căn-đình, tuổi đã trên bát tuần kể tiếp : ‘Do vậy mà tôi ngủ ngon giấc’ và Ngài còn nhấn mạnh :

‘Tôi không uống thuốc an thần đâu’.

-Trên thế giới nhiều thánh đường, dòng tu, tổ chức từ thiện, địa điểm hành hương, du lịch mang tên Thánh Giuse.

-Từ năm 1950, ba trung tâm thần học Giuse được thành lập tại Valladolid (Tây ban Nha)- St Joseph Oratory (Montreal)-

Logate Viterbo (Ý).

-Cùng các địa danh du lịch nổi tiếng như San Jose, California – San Jose, Costa Rica – San Jose, Dimaget (Quần đảo thuộc

Phi luật Tân )

-Nhưng có hai địa điểm hành hương nổi tiếng nhất, mỗi năm thu hút hàng triệu người đến thăm viếng cầu nguyện,xin ơn lành đã được toại nguyện, đó là :

Đại Thánh Đường Thánh Giuse tại Montreal, Canada và Chiếc thang kỳ diệu nơi nguyện đường Loretto, Santa Fe, New

Mexico, Hoa Kỳ mà người ta tin rằng chính Bác Thợ Mộc Giuse đã hoàn thành.

*Riêng tại Việt Nam Thánh Cả Giuse rất được tôn kính như một truyền thống lâu đời :

-Ngày 14/2/1670, Giám Mục Pierre Lambert de la Motte họp cộng đồng tại Phố Hiến, Hưng Yên long trọng tôn nhận Thánh Giuse là Bổn Mạng Giáo hội Đàng ngoài.

-Ngày 17/8/1678, ĐTC Innocente 11 đáp ứng thỉnh nguyện của các Giám Mục ban hành Tông huấn Sacrosancti Apostolatus (Thánh vụ Tông đồ) công nhận Thánh Cả là Quan Thày các Địa phận truyền giáo tại Trung Hoa và Việt Nam.

-Ngày 6/11/1997, Hội nghị các Giám Mục tại Hà Nội tôn vinh thánh Giuse làm Bổn Mạng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

-Ngày 9/10/2013, Ủy ban Phụng Tự Hội đồng Giám Mục ra thông báo việc đọc tên Thánh Giuse trong các kinh nguyên Thánh Thể.

-Các Giáo phận Hà Nội, Đà Lạt, Xuân Lộc, Thanh Hóa nhận Ngài là Bổn Mạng.

-Ngài cũng là Quan Thày Dòng Mến Thánh Giá VN.

-Tại Nha Trang có Dòng Anh Em hèn mọn Giuse.

-Ba Đại chủng viện mang tên Ngài tại Hà Nội, Sài Gòn và Xuân Lộc.

-Nhà thờ cổ kính Hà Nội mang danh Ngài.

-Tại nhiều Giáo xứ, Giáo họ trong nước có nhiều nhà thờ hay nguyện đường kính Thánh Nhân.

-Nam giới rất nhiều người nhận Thánh Bổn Mạng Giuse.

*Chúng ta có thể noi gương nhiều nhân đức nơi Thánh Cả Giuse, nhưng 3 nhân đức nổi bật nhất :

-Trầm lặng : Suốt cả cuộc đời không có một lời nói nào của Ngài được các Thánh Sử ghi lại, chỉ thinh lặng lắng nghe tiếng nói nội tâm, chân thành với Thánh ý hướng dẫn .

-Cần lao : Tuy thuộc dòng dõi vương giả, nhưng Ngài vui nhận cuộc đời khó nghèo vất vả để dưỡng nuôi Chúa Cứu Thế và Mẹ Maria, làm trọn bổn phận gia trưởng.

-Vâng phục: Cả 3 lần chỉ được Thiên Thần báo trong giấc mộng, Ngài đã vâng lời nhận Trinh Nữ Maria về nhà mình, mau

mắn không quản ngại đường xa gian nguy khổ cực, đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cấp và hồi hương về Nazareth.

Có một số người cho rằng tên Joseph đã gói trọn các nhân đức của Thánh Cả như sau :

Justitia ( Công chính ) - Oboedictia ( Vâng lời ) - Sapientia ( Khôn ngoan )- Experienta ( Kinh nghiệm )-Patientia (Kiên nhẫn) Humilitas ( Khiêm nhu )

*Điểm đặc biệt về cuộc đời Thánh Giuse lúc sinh thời sống một đời rất đơn giản như mọi người, làm nghề tầm thường để

nuôi Thánh gia, không làm phép lạ như nhiều Vị Thánh và người dân gọi với tên đơn sơ thân mật ‘Bác Thợ Mộc’,nhưng lúc chết lại trở thành cao trọng và quyền thế trước mặt Thiên Chúa. Biết bao ơn phúc Thiên Chúa ban cho nhân loại qua lời bầu cử của Ngài, trong đó có 7 ơn rất cần cho đời sống thiêng liêng của mỗi người chúng ta :

1-Ơn lướt thắng những cám dỗ trái ngược đức khiết tịnh.

2-Ơn được xám hối bỏ đàng tội lỗi.

3-Ơn tôn sùng Đức Mẹ Đồng Trinh,

4-Ơn khỏe mạnh phần xác.

5-Ơn được an ủi nâng đỡ lúc đau khổ.

6-Ơn được chết lành.

7-Ơn có người thừa tự xứng đáng trong gia đình Công Giáo.

*Tôi nhớ mãi những kỷ niệm về Thánh Giuse trong những tháng năm tuổi thơ nơi quê nhà. Họ đạo tôi có ngôi Thánh Đường kính Thánh Giuse, tháp chuông cao vút nổi bật giữa làng quê nghèo. Mỗi chiều thứ tư hàng tuần, tiếng chuông mời gọi, giáo dân vội vàng rời ruộng vườn qui tụ về Thánh đường đọc kinh cầu nguyện, ca hát dâng kính Thánh Cả.

Đặc biệt mỗi năm, trước Lễ Quan Thày họ đạo một tuần, có Cha từ Nhà Chung Giáo Phận về mở Tuần Đại Phúc. Không khí

vui tươi nhộn nhịp như ngày Tết, Thánh Lễ tôn nghiêm trọng thể, ánh đèn nến lung linh bao quanh kiệu rước Thánh Quan Thày vòng quanh nhà thờ. Tiếng kinh cầu nguyện, tiếng hát dâng cao, hòa trong tiếng chiêng trống rên vang…khiến bày chim sẻ bay lượn trên mái giáo đường cũng ríu rít chung vui. Cuôc thi Giáo lý sôi nổi giành cho thiếu nhi có phần thưởng

và tiệc vui phấn khởi mừng Lễ Thánh Quan Thày, cùng chia tay cảm động tiễn đưa Linh Mục về Giáo phận.

Ôi giờ đây, dù xa quê hương nửa vòng cầu nhưng kỷ niệm êm đềm về Họ đạo vẫn còn in dấu trong tôi không thể phai mờ.

*Lạy Thánh Cả Giuse !

Mùa Chay Thánh, xin soi dẫn tâm hồn tội lỗi con, biết ăn năn thống hối để xứng đáng đón nhân ơn lành Chúa ban xuống

trong Mùa Chay Hồng Phúc này - Amen.

ĐINH VĂN TIẾN HÙNG
 
Thánh Giuse, thánh quan thầy của Giáo Hội
Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
16:19 18/03/2019
Thánh Giuse, thánh quan thầy của Giáo Hội

Trong dân gian có câu ngạn ngữ đạo đức chan chứa lòng tin tưởng cậy trông: An Gottes Segen ist alles gelegen - Tất cả tùy thuộc vào chúc lành của Chúa!

Để nhận được chúc lành của Chúa, người tín hữu Chúa Kitô luôn hằng cầu nguyện xin Chúa ban cho, và còn cậy nhờ Đức Mẹ, Thánh bổn mạng phù giúp nguyện cầu cho.

Cậy nhờ Thánh bổn mạng phù giúp cho là tập tục tốt lành, cung cách sống đức tin phải đạo và chính đáng trong Giáo hội Chúa Kitô ở trần gian.

Giáo hội nhận Thánh Giuse, cha nuôi Chúa Giêsu ngày xưa trên trần gian, là vị Thánh quan thầy cho toàn Giáo Hội, và lấy ngày 19. Tháng Ba hằng năm là ngày lễ mừng kính Thánh cả Giuse.

Ngày 13.10.1917 trước mặt mọi người bên Fatima, hai em mục đồng Phanxico và Jacinta, bây giờ là Thánh trong Giáo hội, đã nhìn thấy Thánh Giuse trên tay bồng ẵm hài nhi Giêsu đang giơ tay chúc lành cho toàn thế giới.

Thánh Giuse ngày xưa đã cùng với Đức Mẹ Maria gìn giữ che chở hài nhi Giêsu, Đấng là chúc lành của Chúa cho con người.

Trên tay Thánh Giuse, hài nhi Giêsu, con Thiên Chúa, ban chúc lành cho thế giới. Cũng vậy Thánh Giuse là vị thánh quan thầy bảo trợ cho toàn Giáo Hội của Chúa Giêsu ở trần gian trong mọi hoàn cảnh. Nhờ thế Giáo Hội, dù có trải qua những khó khăn chao đảo khủng hoảng từ hơn hai ngàn năm nay, không bị nhận chìm phá hủy, nhưng được chúc lành của Chúa che chở gìn giữ cho đứng vững, canh tân lại trung thành với Chúa.

Giáo Hội xưa nay luôn hằng đề cao, khuyến khích học noi theo gương Thánh Giuse về nếp sống vâng lời Chúa.

Phúc âm chỉ thuật lại những biến cố đời sống Thánh Giuse, và không có lời nào của Thánh nhân nói ra ghi chép lại. Thánh nhân chỉ đơn giản im lặng vâng nghe theo sự chỉ dẫn của Chúa qua lời Thiên Thần báo cho biết phải làm gì, dù là hòan cảnh rất khó xử cùng không hiểu nổi, như nhận Maria làm người bạn đường, đưa gia đình đi tỵ nạn sang Ai Cập, đưa gia đình trở về làng Nazareth…

Im lặng vâng lời thi hành những chỉ dẫn của Chúa với con người là vấn đề rất khó, hầu như không thể hiểu tưởng tượng nổi. Nhưng với Thánh Giuse đó là khuôn vàng thước ngọc cho nếp sống thực hành lòng đạo đức, như trong Kinh Thánh đã đề ra nơi Sách Jesus Sirach - Sách Huấn Ca ( 3, 21-23):

„ Đừng tìm những điều khó quá đối với con,

những điều vượt sức con, con đừng xét tới.

Những gì đã ấn định cho con, con hãy suy cho kỹ,

cần chi phải hiếu kỳ!

Đừng dây mình vào những việc quá sức con,

vì những điều con trông thấy

đã vượt quá trí hiểu của loài người.“

Nếp sống vâng lời noi theo những chỉ dẫn của Chúa nơi Thánh quan thầy Giuse nhắc nhớ giúp mọi người trong Giáo Hội vững tin sống trung thành vào Chúa Giêsu con nuôi của Thánh Giuse.

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Phút Suy Tư
Sr. Huyền Trân
08:25 18/03/2019
PHÚT SUY TƯ
Ảnh của Sr. Huyền Trân

Xin Ngài làm cơn gió cuốn đời con chơi vơi.
Xin Ngài là nguồn cội hướng đời con trôi xuôi.
Xin Ngài làm con sóng cho đời con biển rộng.
Xin Ngài làm bến sông để đời con neo buông.
(Trích thơ của Nguyễn Mộng Huỳnh)
 
VietCatholic TV
Giáo Hội Năm Châu 18/03/2019: Những tấn kích nhắm vào Giáo Hội tại Pháp qua vụ Đức Hồng Y Barbarin
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
02:43 18/03/2019
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Một tòa án Pháp hôm thứ Năm 7 tháng Ba đã kết án một Hồng Y người Pháp vì đã không báo cáo với chính quyền tội lỗi lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên của một linh mục.

Tòa án Lyon đã phán quyết Đức Hồng Y Philippe Barbarin, Tổng giám mục Lyon, sáu tháng tù treo vì không báo cáo các trường hợp lạm dụng tính dục trong khoảng thời gian từ tháng 7 năm 2014 đến tháng 6 năm 2015.

Đức Hồng Y 68 tuổi đã không phải hiện diện tại phiên tòa ở Lyon hôm thứ Năm để nghe lời kết tội ngài. Jean-Felix Luciani, luật sư của ngài, cho biết ông sẽ kháng cáo: “Những lý do của tòa án không thuyết phục được tôi. Chúng tôi muốn tranh luận về quyết định này”. Theo luật sư Luciani tòa án đã chịu áp lực do các bộ phim tài liệu và một bộ phim đầy tính hư cấu về vụ án.

Chương trình Giáo Hội Năm Châu kỳ này xin được trình bày với quý vị và anh chị em những chi tiết về phán quyết này của Tòa Tiểu Hình Lyon qua một bài tường trình của thông tín viên Jeanne Smits từ Paris.

Tuy nhiên, trước hết, xin được giới thiệu vài nét về Đức Hồng Y Barbarin.

1. Vài nét về Đức Hồng Y Philippe Barbarin

Đức Hồng Y Philippe Barbarin sinh ngày 17 tháng 10 năm 1950 tại Rabat, Marốc, lúc đó còn là một thuộc địa của Pháp. Đức Hồng Y là con thứ năm trong một gia đình 11 người con.

Ngài được thụ phong linh mục vào năm 1977 tại giáo phận Créteil.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngài làm giám mục Moulins, miền trung nước Pháp năm 1998. 4 năm sau đó, vị Giáo Hoàng Ba Lan lại bổ nhiệm ngài làm tổng giám mục Lyon vào tháng 7 năm 2002 ở tuổi 51. Ngài được vinh thăng Hồng Y một năm sau đó, vào năm 2003.

Đức Hồng Y Philippe Barbarin được mô tả là một người hết mình vì sứ vụ. Ngài bị một cơn đau tim khi đang trên chuyến bay từ Lyon đến Ngày Giới trẻ Thế giới 2013 ở Brazil và cần phải nhập viện ở Cayenne; và ngay sau đó lại bị thêm lần nữa tại Martinique, nơi ngài đã trải qua một cuộc phẫu thuật ba vòng. Nhưng điều này chỉ có thể làm ngài chậm lại trong một một thời gian ngắn.

Đức Hồng Y Barbarin là một người hâm mộ cuồng nhiệt anh hùng truyện tranh người Bỉ, Tintin, và là một vận động viên chạy đường dài.

Ngài nổi bật với những sáng kiến mục vụ, và sự quan tâm sâu sắc đến sự hiện diện của các tín hữu Kitô Trung Đông xuất phát từ kinh nghiệm bốn năm làm linh mục Fidei Donum ở Madagascar (1994-1998) [linh mục Fidei Donum là linh mục truyền giáo hải ngoại vẫn thuộc về giáo phận gốc của mình. Fidei Donum – Hồng ân đức tin – là thông điệp của Đức Giáo Hoàng Piô XII công bố ngày 21/4/1957 khích lệ các Giám Mục gởi các linh mục đi truyền giáo ở hải ngoại]. Vào năm 2014, khi bọn khủng bố Hồi Giáo IS chiếm được Mosul, Iraq, ngài đã không ngần ngại đi thăm và sống với các Kitô hữu tị nạn tại Erbil.

Vào ngày 9 tháng 7 năm 2017, Thủ tướng Iraq Haider al-Abadi đã đến Mosul để tuyên bố chiến thắng bọn khủng bố Hồi Giáo IS và tuyên bố Mosul hoàn toàn giải phóng. Chỉ hai tuần sau đó, Đức Hồng Y Barbarin đã là giáo sĩ cao cấp nhất từ hải ngoại đến thăm các ngôi thánh đường bị tàn phá tại Mosul để đánh giá mức độ thiệt hại và nhu cầu tái thiết.

2. Bài tường trình của Jeanne Smits từ Paris

Đức Hồng Y Philippe Barbarin, tổng giám mục Lyon và Giáo chủ Công Giáo xứ Gauls, đã phải nhận bản án sáu tháng tù treo vì không báo cáo trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến 2015 các hành vi “đối xử tệ bạc, tước đoạt hoặc lạm dụng tình dục” đối với trẻ vị thành niên dưới 15 tuổi, mặc dù các tội ác bị cáo buộc này diễn ra vào năm 1991, nghĩa là từ 21 năm trước khi ngài trở thành tổng giám mục Lyon. Tòa án hình sự của Lyon đồng loạt tha bổng cho tất cả 5 cộng tác viên hoặc cựu cộng tác viên của ngài, về bất kỳ hành vi sai trái nào trong vụ án. Chỉ có một mình Đức Hồng Y là gặp rắc rối. Các luật sư bào chữa tuyên bố rằng họ sẽ kháng cáo, và chính Đức Hồng Y tiếp tục tuyên bố mình vô tội.

Tribunal correctionnel de Lyon – Tòa tiểu hình thành phố Lyon - (ở Pháp, tội phạm nghiêm trọng được xét xử bởi Cour d'assises, Tòa lưu động) đã ra phán quyết rằng: “Mặc dù các chức năng của bị cáo cho phép bị cáo truy cập vào mọi thông tin và bị cáo có khả năng phân tích chúng và trình báo một cách hữu ích, Philippe Barbarin quyết định trong lương tâm là giữ thể diện cho thể chế mà mình thuộc về, chứ không thông báo với cơ quan tư pháp.”

3. Phản ứng của Đức Hồng Y Barbarin

Khi nhận được phán quyết của tòa án, Đức Hồng Y Barbarin tuyên bố quyết định sẽ nộp đơn từ chức của ngài lên Đức Thánh Cha Phanxicô.

“Tôi ghi nhận quyết định của tòa án. Bất kể số phận cá nhân của tôi, tôi nhắc lại lòng thương cảm của tôi đối với các nạn nhân và gia đình của họ. Tôi đã quyết định triều yết Đức Thánh Cha để xin từ chức. Ngài sẽ gặp tôi trong một vài ngày tới. Cám ơn,” Đức Hồng Y nói.

Tin tức này được đưa ra hai tuần sau khi Hồng Y George Pell của Úc bị kết án lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên. Các nhà phê bình đã tố cáo tiến trình truy tố và kết án Đức Hồng Y Pell như là một cuộc săn phù thủy chống Công Giáo do giới truyền thông và cảnh sát xúi giục. Cả Đức Hồng Y Pell và Đức Hồng Y Barbarin đều khẳng định sự vô tội của mình và sẽ kháng cáo bản án.

Đức Hồng Y Barbarin đã nộp đơn từ chức lên Đức Thánh Cha vào năm 2016, vài tháng sau khi trường hợp của cha Bernard Preynat, một linh mục của giáo phận Lyon bị buộc tội lạm dụng tình dục 9 cậu bé hơn 25 năm trước được đưa ra công luận. Vào thời điểm đó, Đức Thánh Cha Phanxicô đã từ chối đơn từ chức của ngài, và nói rằng “đó là điều vô nghĩa” và cấu thành một sự “thiếu thận trọng” trong một cuộc phỏng vấn với nhật báo La Croix, là tờ báo không chính thức của Hội Đồng Giám Mục Pháp. “Chúng ta sẽ xem lại việc này sau khi phiên tòa kết thúc. Nhưng bây giờ, làm như thế có nghĩa là thừa nhận mình có tội,” ngài giải thích.

“Theo những thông tin mà tôi đã được cung cấp, tôi tin rằng Đức Hồng Y Barbarin ở Lyon đã thực hiện các biện pháp cần thiết và ngài có thể kiểm soát được tình hình. Ngài là một người can đảm, sáng tạo và hăng say với sứ vụ. Bây giờ chúng ta phải chờ kết quả của vụ kiện tại tòa án dân sự”, Đức Thánh Cha nói thêm.

4. Tuyên bố của Hội Đồng Giám Mục Pháp

Hội Đồng Giám Mục Pháp ghi nhận phán quyết của tòa án vào ngày hôm nay đối với Đức Hồng Y Barbarin vì tội không tố cáo. Hội Đồng Giám Mục Pháp không bình luận về phán quyết này. Hội Đồng Giám Mục Pháp nhắc lại rằng, như mọi công dân Pháp, Đức Hồng Y Barbarin có quyền sử dụng những phương thức kháng cáo khả thi đối với ngài. Đó là điều ngài đã thực hiện và chúng tôi chờ đợi kết quả của tiến trình mới này.

Về quyết định của ngài nộp đơn từ chức lên Đức Thánh Cha Phanxicô, điều này tùy thuộc hoàn toàn lương tâm cá nhân của ngài. Điều đó cũng không gợi lên một lời bình luận nào từ phía Hội Đồng Giám Mục Pháp. Điều này tùy thuộc Đức Thánh Cha quyết định cho Đức Hồng Y theo cách mà Đức Thánh Cha cảm thấy thích hợp.

Hội Đồng Giám Mục Pháp tái khẳng định quyết tâm chống mọi sự tấn công tình dục các trẻ vị thành niên bởi các giáo sĩ.

Đức Cha Georges Pontier, tổng giám mục Marseille và là Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Pháp, đã có dịp cam kết với Đức Hồng Y Barbarin về lời cầu nguyện của ngài dành cho Đức Hồng Y và cho giáo phận Lyon.

5. Tiến trình tố tụng

Dù Đức Hồng Y Barbarin đã bị kết án tù treo, các thủ tục tư pháp chắc chắn chưa kết thúc. Điều đáng chú ý trong trường hợp này là công tố viện đã bác bỏ vụ án chống lại ngài sau cuộc điều tra đầu tiên vào năm 2016. Họ nói rằng không có lý do gì để có thể tin rằng Đức Hồng Y Barbarin đã cản trở tư pháp và vào năm 2014, khi Đức Hồng Y được thông báo về các tội ác do linh mục Preynat gây ra vào năm 1991, thời hạn hồi tố đã trôi qua từ rất lâu.

Thời hạn hồi tố ba năm đã được sửa đổi vào năm 2016; nhưng về nguyên tắc, một khoản luật hình sự nghiêm trọng hơn không thể được sử dụng một cách hồi tố theo hệ thống tư pháp của Pháp.

Thất bại trong việc yêu cầu công tố viện kết án Đức Hồng Y Barbarin, chín người “tự xưng là các nạn nhân của cha Preynat” đã tìm cách truy tố Đức Hồng Y theo trình tự khởi tố tư (citation directe). Cụm từ “tự xưng là các nạn nhân của cha Preynat” không có ý bỉ báng vì về mặt luật học khi tòa chưa tuyên án chung thẩm không thể mặc nhiên coi linh mục Preynat là người có tội và chín nguyên cáo là những người thực sự đã bị lạm dụng tính dục, linh mục Preynat đến nay vẫn chưa bị xét xử vì những tội ác bị cáo buộc đã gây ra trước năm 1991. Luật của Pháp cho phép các cá nhân và tổ chức có thể khởi tố theo trình tự khởi tố tư trong các trường hợp vi phạm không nghiêm trọng. Khi một vụ khởi tố tư diễn ra, công tố viên không tham gia vào bất kỳ cuộc điều tra nào, bên nguyên cáo phải đưa ra các bằng chứng hay các yếu tố nào đó khả dĩ biện minh được cho hành động của họ.

Trong phiên điều trần hồi tháng Giêng, tình huống này đã được xác nhận bởi thực tế là công tố viên không yêu cầu một án phạt tiền hay phạt tù đối với Đức Hồng Y. Họ khẳng định rằng họ muốn giữ sự khác quan. “Công tố viện không phản đối nguyên đơn dân sự, cũng không mặc nhiên ủng hộ bị cáo”, công tố viên Charlotte Trabut nói.

Theo quy định, công tố viện ở Pháp được giao trách nhiệm bảo vệ trật tự công cộng và lợi ích của xã hội. Sự thận trọng của cơ quan này trong vụ kiện Đức Hồng Y Barbarin đã được nhiều người diễn giải rằng không thể buộc ngài phải chịu trách nhiệm về các hành vi đã diễn ra từ lâu trước khi ngài lãnh trách nhiệm coi sóc giáo phận Lyon vào năm 2002, hơn nữa cho đến năm 2015 chưa có ai từng nộp đơn khiếu nại chống lại linh mục Preynat.

Những người “tự xưng là các nạn nhân của cha Preynat” giải thích dài dòng rằng họ gặp khó khăn khi muốn nói về những kinh nghiệm họ đã phải chịu, ngay cả trong gia đình họ. Tất cả diễn ra khi họ còn là những thiếu niên hướng đạo sinh trong một giáo xứ của tổng giáo phận Lyon. Cha Preynat là tuyên úy hướng đạo sinh vào thời điểm đó. Lúc đó, có những nghi ngờ về vị linh mục này vào thời điểm đó và vào năm 1991, Đức Hồng Y Albert Decourtray của tổng giáo phận Lyon đã đình chỉ cha Preynat trong sáu tháng, trước khi quyết định đưa linh mục này đến một khu vực khác. Cha Preynat sau đó đã được tiếp tục chuyển đến các giáo xứ khác, bởi vì không có khiếu nại nào đã được đệ trình chống lại đương sự kể từ năm 1991.

6. Một bản án bất công

Năm 2016, Đức Hồng Y Barbarin nói với tờ La Croix rằng ngài đã nghe phong phanh về tội lạm dụng của linh mục Preynat vào khoảng năm 2007-2008. Ngài nói: “Tôi đã có cuộc gặp gỡ với ông và hỏi liệu có xảy ra vấn đề gì hay không kể từ năm 1991 đến nay,” cha Preynat đã thề hoàn toàn không có gì, trong khi sẵn sàng thừa nhận ngay sự lạm dụng mà ông đã phạm phải trước đó. Đức Hồng Y Barbarin cho biết lúc đó ngài đã kiểm tra kỹ lưỡng có ai khiếu nại không và thực tế là không có ai khiếu nại cả.

Đến năm 2014, những lời tố cáo mới nổi lên và cảnh sát mới tung ra các cuộc điều tra nhưng đến nay vẫn không có ai đưa ra được bằng chứng cụ thể nào.

Năm 2016, Đức Hồng Y Barbarin đã nói với La Croix rằng nếu các thủ tục tố tụng dân sự hiện tại chống lại linh mục Preynat không dẫn đến một sự lên án nào, ngài sẽ tự mình mở một cuộc điều tra giáo luật bằng cách xin Rôma cho gia hạn thời gian hồi tố.

Với tất cả những hành động và ý chí của Đức Hồng Y nhằm làm sáng tỏ vụ việc này, có thể nào nói ngài muốn che đậy cho linh mục Preynat hay không? Dù đúng hay sai, cả hai vị tiền nhiệm của Đức Hồng Y Barbarin đều quyết định để cho cha Preynat tiếp tục làm mục vụ, các ngài nghĩ rằng vị linh mục này sẽ không tái phạm, và thực tế là không có khiếu nại nào, dù là dân sự hay trước Giáo hội. Để cho cha Preynat tiếp tục làm mục vụ có phải là một quyết định thận trọng hay không là một việc có thể bàn cãi nhưng ở một mức độ nào đó, khi bắt một mình Đức Hồng Y Barbarin phải chịu trách nhiệm, thì theo một nghĩa nào đó, Đức Hồng Y là một vật tế thần.

Lời buộc tội chính thức đầu tiên xảy ra vào tháng 7 năm 2014 khi Alexandrealeighot-Hezez báo cho tổng giáo phận Lyon biết về trường hợp bị lạm dụng tính dục của mình, khi biết rằng cha Preynat vẫn còn sống, và đang hoạt động mục vụ tại một giáo xứ địa phương, với trách nhiệm dạy giáo lý cho các học sinh.

Ngay lập tức Đức Hồng Y Barbarin viết thư cho Tòa Thánh để báo cáo về lời cáo buộc này. Sau khi nhận được câu trả lời của Tòa Thánh, Đức Hồng Y đã đình chỉ thừa tác vụ linh mục của cha Preynat vào tháng 9 năm 2015, mặc dù vụ việc đã diễn ra 24 năm trước. Câu trả lời bao gồm một khuyến nghị của Bộ Giáo Lý Đức Tin nên “tránh tai tiếng công khai” chẳng hạn như một vụ án dân sự chống linh mục Preynat.

Sau đó, chín người khác cũng ra mặt chỉ chứng cha Preynat và thành lập một hiệp hội lấy tên là “La Parole libérée” nhằm truy tố Đức Hồng Y Barbarin, bất chấp thực tế do chính họ công nhận trong một tuyên bố trực tuyến vào sáng thứ Năm 7 tháng Ba, ngay sau phán quyết của tòa án về 6 tháng tù treo dành cho Đức Hồng Y Barbarin, rằng chín người khiếu nại này nhất trí thừa nhận rằng những lời buộc tội của họ đã được tổng giáo phận Lyon và chính Đức Hồng Y đón nhận một cách nghiêm chỉnh với lòng thương cảm, và đã được chấp nhận mà không có lời chất vấn nào đối với những gì họ cáo buộc. Bên cạnh đó, Alexandrealeighot-Hezez, là người khiếu nại ban đầu, cảm thấy mục tiêu của nhóm “La Parole libérée” không phù hợp với anh, nên rút lại khiếu nại của mình. Tất cả điều anh muốn là tổng giáo phận thận trọng với cha Preynat, chứ không phải là việc truy tố Đức Hồng Y Barbarin.

Francois Devaux, một trong số chín người “tự xưng là nạn nhân của cha Preynat” và là Chủ tịch Hiệp hội, đã gọi phán quyết của tòa án tiểu hình Lyon là bước đầu tiên hướng tới việc “phá vỡ một hệ thống.” Ông kêu gọi Đức Thánh Cha Phanxicô không chỉ buộc hồi tục những kẻ phạm tội mà còn phải buộc hồi tục tất cả những người bị buộc tội về việc che đậy cho các tội ác này. Ông ta nói: “Đó là mới thật sự là không khoan nhượng.”

7. Những tấn kích vào Giáo Hội

Kể từ khi tin tức về phán quyết của Đức Hồng Y được công khai vào sáng thứ Năm, báo chí thế tục Pháp đã tấn công tới tấp Giáo hội. Trong bối cảnh chống Công Giáo và tam điểm sâu sắc của Cộng hòa Pháp, các cáo buộc lạm dụng tình dục đối với một số ít linh mục phạm tội, và sự phẫn nộ chính đáng các vụ che đậy thực sự đã xảy ra, đã được dùng như một khí cụ để bôi nhọ các giáo sĩ và Giáo Hội Công Giáo.

Điều này dẫn đến sự lên án một chiều chống lại Giáo Hội vì lạm dụng tính dục xảy ra tương tự tại các trường công lập không được dư luận chú ý, và các giáo viên vi phạm thường chỉ đơn giản là bị điều đi một cơ sở giáo dục khác khi nội vụ bị đổ bể. Chuyện này chắc chắn không biện minh được tội lỗi lạm dụng tính dục trong Giáo Hội nhưng cách thức truyền thông hành xử đối với các lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên là hoàn toàn một chiều tại Pháp.

Một vấn đề khác là sự can thiệp của công lý thế tục bên trong Giáo hội trong trường hợp Đức Hồng Y Barbarin, đó là việc đả phá nhắm vào ấn tín của bí tích hòa giải. Hơn thế nữa, về mặt kỹ thuật cha Preynat phải được coi là vô tội cho đến khi được xét xử, nhưng thực tế nhà nước, cùng với áp lực truyền thông nặng nề, đang ra lệnh hoặc cố gắng áp đặt các biện pháp giáo luật vượt quá phạm vi công lý của con người.

Jean-Félix Luciani, một trong những luật sư của Đức Hồng Y Barbarin, nói sau khi phán quyết của tòa án được đưa ra là bản án này không thuyết phục. Ông nói thêm: “Thật khó để tòa án chống lại áp lực của các phim tài liệu, và một bộ phim hư cấu. Tất cả những điều này đặt ra những câu hỏi thực sự về sự tôn trọng xứng đáng công lý.”

Vài tuần qua ở Pháp đã có rất nhiều áp lực bài hàng giáo sĩ. Đầu tiên, là cuốn sách của Frédéric Martel có tựa đề “In the Closet of Vatican”, được phát hành vào ngày 20 tháng 2, trong đó mô tả hàng giáo phẩm của Giáo Hội như những kẻ đạo đức giả, những kẻ lạm dụng hoặc che đậy lạm dụng. Hai tuần trước phiên tòa, một bộ phim hư cấu về cha Preynat được chiếu trên tất cả các rạp hát tại Pháp để gây công phẫn dư luận. Cuốn phim có tựa đề “Grâce à Dieu” (“Cám ơn Chúa”) [Trong cuộc họp báo tại Lộ Đức vào tháng Tư 2016, khi được hỏi về cáo buộc liên quan đến cha Preynat, Đức Hồng Y Barbarin nói: “Hầu hết các cáo buộc đều đã hết thời hạn hồi tố.” Rồi theo thói quen, ngài buộc miệng nói: “Grâce à Dieu” (“Cám ơn Chúa”), trước khi giật nẩy mình biết mình nói hớ rồi.] Cuốn phim rõ ràng chà đạp một nguyên tắc quan trọng của luật pháp là nguyên tắc giả định bị cáo là vô tội cho đến khi bị kết án. Chiều thứ Ba 5 tháng Ba, buổi chiều trước Thứ Tư Lễ Tro, một bộ phim tài liệu khác được chiếu trên đài truyền hình nhà nước dựa vào các tin đồn để đưa ra các cáo buộc Giáo Hội bao che cho các linh mục lạm dụng tính dục các nữ tu.

Đức Hồng Y Barbarin luôn phủ nhận chưa bao giờ có ý muốn che giấu tội lỗi lạm dụng “khủng khiếp”. Ngài cũng chưa bao giờ phủ nhận là những tội lỗi ấy không hề xảy ra. Trách nhiệm cá nhân của Đức Hồng Y, ngay cả như phán quyết của tòa án cũng chỉ là án treo. Tất cả điều này cho thấy các cuộc tấn công kết hợp chống lại Giáo hội là một cuộc tấn công có chủ ý và phối hợp. Đức Hồng Y Barbarin đã can đảm chiến đấu với “hôn nhân” đồng giới và hiện diện cả trong những buổi cầu nguyện công khai chống phá thai cùng với một nhóm nhỏ SOS Tout-petits do bác sĩ phò sinh anh hùng Xavier Dor lãnh đạo.

Vụ án này thật là một nghịch lý. Truyền thông chính thống và các chương trình giảng dạy chính thức không ngừng phân phối những tuyên truyền về văn hóa sự chết, ý thức hệ giới tính và tự do tình dục - và một tòa án hình sự của Pháp thậm chí còn tha bổng cho một kẻ hiếp dâm là người di dân vài tháng trước với lý do là nền văn hóa Bangladesh của anh ta đã cản trở anh ta nhận ra rằng nạn nhân mới 15 tuổi của hắn ta có đồng ý hay không. Chính sách không khoan dung không dành cho tất cả.
 
Hội thoại về trường hợp các Đức Hồng Y Philippe Barbarin và George Pell
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
06:04 18/03/2019