PHÚC ÂM: Mt 23, 1-12
“Họ nói mà không làm”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: “Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy, vì thế họ nới rộng thẻ Kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là “thầy”. Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là thầy, vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là cha, vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là người chỉ đạo, vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi. Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên”.
Ðó là lời Chúa.
Clemente Lisi, ngày 25 tháng Giêng, trên GetReligion, có bài viết về cụm từ thời thượng “hãy theo khoa học”.
Nó được sử dụng một cách tự hào bởi các chính trị gia, thường để dạy bảo phần lớn chúng ta khi họ chỉ trích những người bảo thủ chính trị hoặc những người theo tôn giáo về một loạt vấn đề.
Nhưng Thống đốc Andrew Cuomo của New York có “làm theo khoa học” hay không khi lệnh hành pháp của ông vào năm ngoái buộc các bệnh nhân cao niên mắc COVID-19 phải được đưa trở lại nhà dưỡng lão thay vì giữ trong bệnh viện? Cuối cùng, ông đã đảo ngược lệnh đó - nhưng chính quyền của ông vẫn còn trong nước sôi lửa bỏng sau khi thừa nhận rằng họ đã che đậy số người chết ở viện dưỡng lão.
Mặc dù nhận được hết làn sóng này đến làn sóng nọ của báo chí tích cực đưa tin, hành động của Cuomo năm ngoái quả là phản khoa học, vì việc hiểu được cách thức lây lan của vi rút vào thời điểm đó rất quan trọng để ngăn chặn nó trên toàn quốc. Luật sư Liên Bang tại Brooklyn và FBI hiện đang điều tra vụ này.
“Hãy theo khoa học” là một cụm từ đã được sử dụng bởi các chính trị gia và được báo chí chính dòng bắt chước. Một tìm kiếm trên Google News về cụm từ này cho ta 203,000 lượt đề cập. Trong các hãng tin chính dòng, nhất là vào năm ngoái khi Donald Trump còn làm tổng thống, cụm từ này đã trở thành một cuộc tấn công vào việc chính phủ xử lý vi rút. Thời hậu Trump, cụm từ tiếp tục là một trong những cụm từ mà các nhà báo, nhất là trong các tòa soạn như The New York Times háo hức trích dẫn.
Bài - “Các cuộc nghiên cứu đang khảo sát sự xuất hiện các biến thể ở California và Tin tức quả không tốt” - bắt đầu như thế này:
“Hai nghiên cứu mới đã cho thấy một biến thể được phát hiện lần đầu tiên ở California vào tháng 12 dễ lây lan hơn các dạng trước đó của coronavirus, làm dấy lên lo ngại rằng những dạng đột biến mới xuất hiện như thế có thể cản trở sự sụt giảm mạnh số ca bệnh ở khắp tiểu bang và có lẽ ở những nơi khác.
Tiến sĩ Charles Chiu, một nhà virus học tại Đại học California, San Francisco, cho biết: 'Ước gì tôi có tin tốt hơn để cung cấp cho các bạn - rằng biến thể này không đáng kể chút nào. Nhưng thật không may, chúng tôi chỉ làm theo khoa học'".
Đại dịch này có thể đã dẫn đến việc sử dụng rộng rãi cụm từ này, cho phép các viên chức chính phủ (sao chép những gì họ nghe từ các nhà khoa học) để tỏ uy quyền to lớn của họ. Tuy nhiên, các vấn đề chính trị phân cực khác - chẳng hạn như phá thai, quyền của người chuyển giới và biến đổi khí hậu - cũng đã dẫn đến việc sử dụng nó một cách quá mức. Đối với nhiều nhà báo, nó có nghĩa như thế này: Chúng tôi có sự thật về phía chúng tôi, trong khi phần lớn các anh tin vào các thuyết âm mưu. Đó là một cách để ngăn chặn cuộc tranh luận, trong khi đưa ra những tin tức không đúng đắn.
Nó có ý nghĩa gì đối với giới báo chí và đặc biệt là tác động của nó đối với các tiếng nói Công Giáo trong các câu chuyện có tính tin tức? Việc người Công Giáo, và các tín đồ tôn giáo truyền thống nói chung, bị coi là phản khoa học khiến họ mâu thuẫn trực tiếp với những gì các chính trị gia này nói và muốn.
Đó có thể là lý do tại sao Giáo Hội Công Giáo và các tổ chức tôn giáo thường bị bỏ ra ngoài các tường thuật tin tức loại này. Khi họ là thành phần chính của câu chuyện, thì bài báo thường bị báo chí chính dòng chế giễu bằng những thành kiến chống lại các định chế đức tin.
Các cuộc họp báo hàng ngày của nhiều thống đốc trên khắp đất nước đã lập luận rằng “hãy theo khoa học” là cách duy nhất để đánh bại coronavirus. Nhưng “khoa học” trong những trường hợp này thường được dùng để chỉ các chính sách và mô hình y tế công cộng nhằm cố gắng dự đoán sự lây lan trong tương lai. Nhưng các nhà báo luôn cần một liều lượng hoài nghi đáng kể khi tiếp cận một câu chuyện thời sự, nhưng câu thần chú “hãy làm theo khoa học” thường mang ý nghĩa thiên vị chống Công Giáo.
Kể từ khi các nhà thờ đóng cửa vào năm ngoái, một số giáo phận đã đi đầu trong các cuộc đấu tranh pháp lý để mở lại các nhà thờ, nhất là ở New York và San Francisco. Chính vào thời điểm này năm ngoái, tất cả chúng ta đã trải qua một Mùa Chay không giống mùa chay nào trong đời. Trong khi đó, các cửa hàng rượu và cửa hàng bán lẻ lớn vẫn mở cửa.
Các nhà báo chính dòng nên biết rằng Kitô giáo - và đặc biệt Công Giáo - không phản khoa học. Sự thật hoàn toàn ngược lại. Khi Giáo Hội ra tòa để mở lại các nhà thờ, đó không phải là vì họ phản khoa học. Đó chủ yếu là cuộc đấu tranh về những hoạt động được chính phủ cho là thiết yếu.
Khoa học có rất ít hoặc không có gì liên quan đến việc đóng cửa các nhà thờ. Dù sao, Walmart và Target vẫn mở cửa vì thực phẩm là yếu tố thiết yếu. Hàng ngàn người đã bước vào những cửa hàng đó. Khi một trận bão tuyết và mất điện ảnh hưởng đến Texas vào tuần trước, chính các nhà thờ đã cố gắng giúp đỡ những người thiếu thốn nhất.
Nhu cầu cần các cộng đồng Giáo Hội là một chủ đề quan trọng suốt cả năm, nhưng Mùa Chay tập chú rõ ràng hơn vào ý nghĩa của việc tham dự Thánh lễ để chuẩn bị cho Tuần Thánh. Vào mùa hè năm ngoái, sau khi Giáo phận Brooklyn ở New York kiện chống lại tiểu bang, Tối cao Pháp viện đã phán quyết rằng hạn chế COVID-19 “tách các nơi thờ phượng riêng ra để đối xử đặc biệt khắc nghiệt”. Tại Hoa Kỳ, Tối cao Pháp viện, và các việc nại tới Tu chính án thứ nhất, đã cho phép các nhà thờ mở cửa trở lại với đám đông nhỏ hơn và gián cách xã hội.
Tháng Chín năm ngoái, Chủ tịch Hạ viện, Nancy Pelosi, người được A.P. gọi là “người Công Giáo hành đạo” trong câu truyện thời sự của họ, đã kêu gọi các Giáo Hội “hãy theo khoa học” khi đề cập đến các hạn chế. Nhận định của bà được đưa ra để chống lại Đức Tổng Giám Mục Salvatore Cordileone của San Francisco vì vị này chủ trương rằng các vụ đóng cửa là quá nghiêm ngặt.
Trong chính câu chuyện đó, chủ đề về đức tin và khoa học đã được đưa ra. Đây là cách AP viết phần đó của câu chuyện:
"Pelosi nhận định rằng đức tin và khoa học đôi khi được coi là trái ngược nhau.
Bà ấy nói, 'Quanh đây, người ta bảo tôi: Bà là người có đức tin, tại sao bà lại tin khoa học. Tôi trả lời, tôi tin khoa học là câu trả lời cho các lời cầu nguyện của chúng ta. Nó là một sáng tạo của Thiên Chúa, và sáng tạo này đáp lại các lời cầu nguyện của chúng ta'".
Khoa học là câu trả lời cho lời cầu nguyện, vì vậy bà ấy tin nó? Trình thuật tin tức đã kết thúc ở câu trích đó nên không có khám phá sâu hơn về nó. Đi sâu hơn có thể giúp các nhà báo thế tục hiểu được mối nối kết giữa đức tin và khoa học, ít nhất trong bối cảnh Công Giáo, khi xem xét những vấn đề này lúc chúng ta bước vào Năm thứ 2 của đại dịch.
Đây là một ví dụ khác nữa: Tổng thống Joe Biden, người giống như Pelosi vừa là đảng viên Dân chủ vừa theo Công Giáo Rôma, cũng là người thường xuyên sử dụng cụm từ này. Dù sao, ông đã tranh cử về "khoa học và sự thật" như một cách để chống lại cựu Tổng thống Trump. Bây giờ ông ta đã là tổng thống, câu thần chú đó đã va chạm chát chúa với thực tại chính trị.
Một câu chuyện trên tờ Politico ngày 13 tháng 2 đã đưa ra điểm sau liên quan đến vi rút, các biến thể lây lan nhanh của nó và các trường học mở cửa trở lại:
“Nhưng gần một tháng nay kể từ lúc bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống của Biden, nỗ lực mở cửa trở lại các trường học đang lật tẩy thế cân bằng khó khăn giữa khoa học và chính trị. Sau khi hứa sẽ mở cửa trở lại các trường học hạn chót vào ngày thứ 100 của ông tại chức, Biden đã quay trở lui đối với cam kết của mình, chỉ mở các trường tiểu học và trung học đệ nhất cấp, và rồi, như thư ký báo chí Nhà Trắng Jen Psaki cho biết trong tuần này, 'phần lớn các trường học – nghĩa là hơn 50%'.
Các thay đổi này phản ánh các thách thức mà Nhà Trắng phải đối mặt trong việc khôi phục cảm thức bình thường. Lời hứa tổng quát 'hãy theo khoa học' tạo ra các kỳ vọng về một con đường cố định hướng tới việc đánh bại coronavirus, mà không tính đến các yếu chính trị cố hữu.
Rich Besser, cựu quyền giám đốc Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh và Giám đốc điều hành của Quỹ Robert Wood Johnson, cho biết: 'Bạn có thể lấy khoa học và đạt được một số kết luận về định hướng chính sách rất khác nhau, nhưng vẫn đúng với khoa học'”.
Câu chuyện không có góc độ tôn giáo, mặc dù nó có thể có. Trong một bài Ý Kiến đăng ngày hôm trước trên tờ USA Today, Ashley McGuire, một chuyên viên cao cấp của nhóm vận động tự do tôn giáo, tức Hiệp hội Công Giáo, và là tác giả của Sex Scandal: The Drive to Abolish Male and Female đã đưa ra quan điểm sau đây:
“Các trường Công Giáo ở tất cả 50 tiểu bang đã mở vào mùa thu này để học trực tiếp ở những nơi mà các viên chức chính quyền địa phương cho phép. Và ở những nơi không được phép, các trường giáo xứ đã đấu tranh gay gắt để giành quyền mở cửa. Trong khi đó, các công đoàn giáo viên lại có cách tiếp cận ngược lại. Họ đã đấu tranh chống lại mọi cố gắng để đưa trẻ em trở lại trường học và liên tục di chuyển các cột mốc, bất chấp các sự kiện, khoa học và tiếng nói ngày càng lớn và thống nhất của cộng đồng khoa học và y tế cho rằng trẻ em thuộc về trường học".
McGuire kết thúc bài viết của cô với lời kêu gọi dành cho Biden:
“Gần một năm xảy ra đại dịch, các trường học Công Giáo đã chỉ cho quốc gia thấy cách mở cửa an toàn chỉ tốn một đồng xu. Nếu Tổng thống Biden muốn thực hiện tốt lời hứa trong chiến dịch tranh cử của mình là sẽ mở các trường học ở Mỹ trong vòng 100 ngày đầu cầm quyền, ông có thể bắt đầu bằng cách ngồi xuống với những người đứng đầu các trường Công Giáo của Mỹ”.
Các phương tiện truyền thông Công Giáo có thể là câu trả lời nhanh nhất trong việc cố gắng hiểu “phía bên kia” trong các cuộc tranh luận này, xét vì các phương tiện truyền thông này hòa điệu hơn với các vấn đề thần học.
Tháng trước, Catholic World Report, một tạp chí tin tức do Ignatius Press xuất bản, đã đăng một bài về vấn đề này. Đây là phần chủ yếu:
“Các thành công của khoa học, từ ngành kỹ sư đến y học và kỹ thuật, cho chúng ta thấy rằng đức tin của chúng ta đã được đặt đúng chỗ. Nhưng chúng ta không thể quên rằng dữ kiện khoa học không tạo thành những giáo điều mà tất cả mọi người đều phải tin, như các nhà bênh vực nó chủ trương. Mọi dữ kiện thực nghiệm đều đòi phải giải thích, một điều vốn không phải là hành động của khoa học, mà là của lý trí con người, một lý trí có thể sai lầm và chịu ảnh hưởng của các giả định trước đó và các yếu tố bên ngoài. Chúng ta sẽ không tìm kiếm 'ý kiến thứ hai' trong y khoa nếu từ dữ kiện, người ta dễ dàng rút ra các kết luận.
Chúng ta không muốn thừa nhận điều đó, nhưng cách giải thích khoa học của chúng ta đều là hành vi đức tin, tức là hành vi tin tưởng dựa trên những hoàn cảnh hợp lý. Từ đó dẫn đến một kết luận thậm chí còn khó chịu hơn: chúng ta có thể giải thích khoa học một cách không chính xác, như quá nhiều lệnh lạc của chính phủ đối với coronavirus đã dạy chúng ta.
Trong một thế giới mà mọi sự đều bị chính trị hóa, khái niệm “ý kiến thứ hai” chính là điều mà hộp dụng cụ của các nhà báo đòi hỏi dưới hình thức trích dẫn các nhà nghiên cứu, học giả hoặc bất cứ ai khác đại diện cho “mặt khác” của vấn đề.
Đây là phần chủ yếu khác trong lập luận chính của bài đăng:
“Thế giới bị khoa học ám ảnh của chúng ta phải thừa nhận hố phân cách giữa các dữ kiện khoa học và việc giải thích của con người. Những tuyên bố như 'Khoa học cho chúng ta biết phải làm gì' hoặc 'Hãy theo khoa học', che giấu yếu tố diễn giải để loại bỏ những bất đồng chính kiến tiềm ẩn trước khi nó có thể phát sinh. Bằng cách này, 'hãy theo khoa học' thực sự trở thành một hình thức của chủ nghĩa giáo điều cực đoan: giáo điều này đúng; đừng cãi lại. Trớ trêu thay, 'những nhà bênh vực khoa học' không ghét gì hơn chủ nghĩa cực đoan tôn giáo, nhưng họ đã hình thành loại chủ nghĩa cực đoan của riêng họ, trong đó, một ‘Khoa học’ được thần hóa đã thay thế Thiên Chúa".
Ngày 19 tháng 2, tờ National Catholic Register đã đăng một bài tranh luận về sự cần thiết của việc giáo dân giáo xứ phải đích thân trở lại tham dự Thánh lễ và sự cần thiết phải lãnh nhận các bí tích, nhất là Rước lễ. Đây là điều bài báo lập luận:
"Phần quan trọng nhất của Thánh lễ không chỉ đơn giản là nó diễn ra. Nhưng người Công Giáo được mời tham gia vào lễ hy sinh trên bàn thờ, khi họ tiếp nhận Thánh Thể - mình, máu, linh hồn và thần tính của Chúa Giêsu Kitô. Bí tích Thánh Thể quan trọng đến nỗi chính Chúa Giêsu đã truyền lệnh cho chúng ta làm điều đó, khi nói rằng “Các con hãy làm điều này mà nhớ đến Ta”.
Khi người Công Giáo rước lễ, theo nghĩa đen, chúng ta được kết hợp với Chúa và Đấng Cứu Rỗi của chúng ta, như thể chúng ta đang ở đó với Người tại Golgotha, vào Thứ Sáu Tuần Thánh. Các thiên thần và các thánh bao quanh chúng ta khi chúng ta được tràn đầy ơn thánh để sống những cuộc sống xứng đáng với Chúa Kitô.
Nhưng khi chúng ta không thể rước Thánh Thể, thì không điều gì trong số đó diễn ra. Chúng ta thiếu điều chúng ta cần nhất – ơn thánh của Thiên Chúa. Thánh Lễ trực tuyến không những chỉ khác biệt mà còn thấp kém từ trong nội tại".
Bài viết không đề cập đến vấn đề khoa học - nhưng trong đó, nó có nói lên sự tuyệt vọng về phần Giáo Hội trong việc giúp người ta trở lại tham dự Thánh lễ. Không ai chứng tỏ điều đó bằng vị linh mục ở New York, gần đây đã xuống đường kêu gọi người ta trở lại.
Muốn biết một số bối cảnh về Công Giáo và khoa học, có nhiều nơi để xem xét. Năm 2019, trong một thế giới tiền đại dịch, tờ The Conversation đã đăng một bài về Đức Giáo Hoàng Phanxicô và việc Giáo Hội luôn hướng về khoa học. Đây là phần chủ yếu:
"Giáo Hội Công Giáo không phải là một định chế khoa học và sẽ thật ngu ngốc nếu gợi ý như vậy. Mục đích tôn giáo của nó có thể tương hợp với nhiều khía cạnh của khoa học nhưng, không giống như khoa học, các giáo thuyết cốt lõi của nó không bỏ ngỏ để sửa đổi, mặc dù giáo thuyết cốt lõi này xem ra có vẻ dễ uốn nắn qua nhiều thế kỷ.
"Bất chấp điều đó, mối liên hệ giữa khoa học và Giáo Hội hiện đang tốt hơn bao giờ hết. Sự phát triển của mối liên hệ này sẽ có tác động đáng kể đối với sự hiểu biết của công chúng và việc hợp tác với khoa học".
Giáo Hội có thể không phải là một định chế khoa học, nhưng tất cả mọi người từ Hồng Y, giám mục đến những người đi nhà thờ đều có ý kiến về vấn đề này. Nhiều người trong số này cần được phỏng vấn. Gần đây nhất, tức hồi tháng trước, Đức Tổng Giám Mục Cordileone đã viết một bài ý kiến về ý nghĩa của khẩ hiệu "hãy theo khoa học", mặc dù quan điểm của ngài thường được thấy trong các bài bình luận của ngài, chứ không phải trong các câu chuyện thời sự.
Viết trên tờ National Catholic Register vào ngày 28 tháng 1, đây là những gì Đức Tổng Giám Mục Cordileone đã viết liên quan đến phá thai, một vấn đề đã làm rạn nứt các giám mục Hoa Kỳ và mối liên hệ của họ với Biden:
" ‘Bình đẳng’ Đó là một lý tưởng ăn sâu nơi người Mỹ và thậm chí là niềm đam mê quốc gia. Như thế, quả trớ trêu thay, kể từ khi đại dịch COVID-19 xảy ra cách đây gần một năm, các chính phủ đã dựa vào nó để tự quyết định xem ai là người thiết yếu và do đó ngược lại, ai là người không thiết yếu.
“'Người lao động thiết yếu' và 'dịch vụ thiết yếu' là những phạm trù hết sức xa lạ với lý tưởng của chúng ta, nhưng lần đầu tiên trong lịch sử của đất nước chúng ta, chính phủ đang quyết định dịch vụ nào - và do đó người lao động nào - là thiết yếu cho xã hội. Mọi người khác đều bị loại ra ngoài. Vì vậy, chúng ta đã chứng kiến các chính phủ trong năm qua đã quyết định các cửa hàng rượu quan trọng hơn việc thờ phượng và ban hành các sắc lệnh hủy hoại cuộc sống và sinh kế của những người làm việc chăm chỉ mà không có các dữ kiện khoa học rõ ràng để hỗ trợ.
“'Hãy theo khoa học' là một câu nói sáo rỗng khác mà chúng ta nghe thấy khá nhiều ngày nay. Tuy nhiên, quả là kỳ lạ, khi cả khoa học lẫn bình đẳng đều bị bỏ rơi khi chúng trở nên bất tiện. Nhưng điển hình trắng trợn nhất của việc phủ nhận khoa học là chứng thực sự bất bình đẳng của phá thai. Chính khoa học, chứ không phải đức tin, dạy chúng ta rằng sự sống của con người bắt đầu từ lúc thụ thai".
Người Công Giáo đã có những đóng góp to lớn cho khoa học qua nhiều thế kỷ. Đã đến lúc các nhà báo hiểu được vai trò của Giáo Hội trong các cuộc tranh luận nặng tính chính trị này, đặc biệt là khi một chính trị gia thốt ra cụm từ “hãy theo khoa học”.
Các nhà chức trách đang điều tra một vụ nổ súng dẫn đến sự có mặt đông đảo của cảnh sát vào chiều thứ Ba tại Quận Central.
Theo cảnh sát Seattle, khoảng 1 giờ 15 chiều Thứ Ba 23 tháng Hai, một người đàn ông đã gây gỗ với một phụ nữ trong sân của Trung Tâm Dịch Vụ Gia cư và Trung Tâm Dịch Vụ Cộng đồng Công Giáo tại số 100 đại lộ 23 South, góc đường Yesler Way. Người đàn ông đã có mặt tại cơ sở để có một cuộc hẹn tư vấn pháp luật. Anh ta đe dọa người phụ nữ, sau đó rút súng ra và bắn vào thẳng vào người cô ở cự ly rất gần, nhưng may mắn cô ta né được, và không bị thương tích gì.
Cảnh sát cho biết người đàn ông sau đó đã tự sát. Các nhân viên cảnh sát xác nhận rằng nghi phạm đã chết. Một người khác bị thương nhẹ khi đang chạy trốn vì tiếng súng nổ trong khu vực. Các nhân viên cảnh sát đã di tản khoảng 40 đến 50 người bên trong tòa nhà bao gồm các nhân viên bác ái Công Giáo và các khách hàng đến xin giúp đỡ.
Tòa nhà nói trên là nơi đặt trụ sở của Trung Tâm Dịch Vụ Gia cư và Trung Tâm Dịch Vụ Cộng đồng Công Giáo của tổng giáo phận Seattle. Hai cơ sở này là các cơ quan bác ái của tổng giáo phận giúp đỡ mọi người không phân biệt lương giáo nên không thể chắc chắn là người đàn ông đã tự sát có phải là người Công Giáo hay không. Đương sự dường như có quen biết với người phụ nữ mà ông ta gây gỗ.
Trong một lá thư ngày 23 tháng 2 cho những người Công Giáo của Tổng giáo phận Seattle, Etienne đã báo cáo rằng vào chiều thứ Ba, một “người quẫn trí” đã vào trụ sở Randolph Carter của Trung Tâm Dịch Vụ Gia cư và Trung Tâm Dịch Vụ Cộng đồng Công Giáo ở Seattle.
“Anh ta đã đe dọa tính mạng của một phụ nữ trước khi tự kết liễu mạng sống của mình”, Đức Tổng Giám Mục nói. “Rất may, không ai khác bị hại và tất cả nhân viên đã có thể rời khỏi tòa nhà một cách an toàn”.
Cộng đồng Công Giáo đã “vô cùng đau buồn bởi những sự kiện bi thảm này”, Đức Tổng Giám Mục nói.
“Những lời cầu nguyện và suy nghĩ của chúng ta dành cho người đã khuất và gia đình của anh ấy”, Đức Cha Etienne nói. “Những lời cầu nguyện của chúng tôi cũng dành cho tất cả những ai đã từng là một phần của hoặc chứng kiến những sự kiện đau đớn hôm nay”.
Vị tổng giám mục đã kết nối cái chết của người đàn ông với những căng thẳng của nghèo đói, dịch bệnh coronavirus và sự tuyệt vọng.
“Những sự kiện như thế này nhắc nhở chúng ta về sự căng thẳng và đau đớn mà nghèo đói triền miên có thể mang lại. Những sự kiện như thế này nhắc nhở chúng ta về sự đau khổ và thất vọng thực sự trong tình trạng sức khỏe khẩn cấp hiện nay”, ngài nói. “Những sự kiện như thế này nhắc nhở chúng ta về sự tuyệt vọng và vô vọng mà mọi người cảm thấy trước khi tự kết liễu mạng sống của mình — một xu hướng bi thảm ngày càng trầm trọng hơn do áp lực của dịch COVID-19”.
Đức Tổng Giám Mục cầu nguyện cho tất cả mọi người “nhận thức và nhắc nhở nhau về tình yêu sâu sắc của Thiên Chúa”.
“Tôi cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn chữa lành và an ủi cho gia đình và cộng đồng của chúng ta, đặc biệt là những người nghèo, những người đang sợ hãi và dễ bị tổn thương trong thời gian thử thách cam go này”, ngài nói thêm.
Đức Tổng Giám Mục đặc biệt khen ngợi các nhân viên của Dịch vụ Cộng đồng Công Giáo và Dịch vụ Gia cư Công Giáo.
“Chúng ta được Chúa Giêsu mời gọi đồng hành cùng với người nghèo và chăm sóc cho họ”, ngài nói, và cho biết đây là những gì các nhân viên ở đây làm “mỗi ngày”.
“Họ hành trình với những người mà họ phục vụ vượt qua những khó khăn thử thách - và họ làm như vậy với tình yêu và sự chăm sóc của Đấng Cứu Rỗi của chúng ta”.
Đức Tổng Giám Mục Etienne cho biết ngài rất biết ơn các nhân viên và ban lãnh đạo tại trung tâm dịch vụ đã phản ứng nhanh chóng trong việc tuân thủ các quy trình an toàn. Ngài cũng cảm ơn Sở Cảnh sát Seattle và những người phản ứng đầu tiên khác.
“Tôi khuyến khích bất cứ ai đang gặp khó khăn trong những thời điểm thử thách này, hoặc có người thân đang gặp khó khăn, hãy tìm đến để được giúp đỡ”, Đức Cha Etienne nói. “Cộng đồng Công Giáo của chúng tôi ở đây để hỗ trợ các bạn thông qua các giáo xứ, Dịch vụ Cộng đồng Công Giáo hoặc các chương trình mục vụ sức khỏe tâm thần của chúng tôi. Xin hãy nhớ rằng các bạn không đơn độc”.
Source:Catholic News Agency
Hơn 200 người Công Giáo đã tập trung trên các bậc thềm của nhà thờ chính tòa Đức Bà ở Sydney để quỳ gối cầu nguyện và hát thánh ca để phạt tạ cho một chương trình tạp kỹ LGBTQ có tên là “Live and Queer” được tổ chức ngay bên ngoài nhà thờ vào hôm thứ Bảy 20 tháng Hai vừa qua.
Sự kiện LGBTQ được tổ chức ngay trước nhà thờ chính tòa Đức Bà, trên một khu đất rộng thuộc sở hữu của Thành phố Sydney. Sự kiện này là một phần của một loạt gọi là “Heaps Gay” của các cộng đồng “đồng tính”. Các buổi biểu diễn bao gồm các số nhạc dân gian và nhạc pop thông thường, cho đến các hoạt động khiêu dâm trên sân khấu.
Người Công Giáo Sydney, bao gồm cả Đức Tổng Giám Mục Anthony Fisher, OP, đã thất kinh khi phát hiện ra buổi biểu diễn được tổ chức ngay bên ngoài nhà thờ, và hình ảnh của ngôi nhà thờ được dùng để quảng cáo cho sự kiện này.
Trong một bài đăng trên Facebook hôm Thứ Tư Lễ Tro, Đức Tổng Giám Mục Anthony Fisher đã viết rằng vì Quảng trường Nhà thờ là đất của hội đồng thành phố, nên “rất tiếc quyết định về việc tổ chức buổi hòa nhạc và quảng cáo của nó không đến lượt chúng ta quyết định”.
“Chúng tôi đã yêu cầu Thành phố Sydney xóa hình ảnh Nhà thờ khỏi những quảng cáo”, ngài viết.
“Thật là buồn bực và khó chịu khi nhà thờ chính tòa Đức Bà, nhà thờ mẹ của Úc, đã được sử dụng một cách khiêu khích để quảng bá sự kiện này và sự nhạy cảm đối với những người có đức tin đã không được thể hiện”.
Ngài mô tả hành động này là một một hành vi khiêu khích và xúc phạm tình cảm tôn giáo.
“Trong Mùa Chay trọng đại này, chúng ta cần cầu nguyện để cầu xin Chúa để tại thành phố Sydney vĩ đại và 'khoan dung' của chúng ta, niềm tin tôn giáo được tôn trọng và bảo vệ và tất cả chúng ta sẽ khám phá lại sự trân trọng đối với những gì thánh thiêng”.
Một phát ngôn viên của Thành phố Sydney đã xác nhận rằng tài liệu quảng cáo sử dụng hình ảnh nhà thờ đã bị xóa để “tránh bất kỳ sự nhầm lẫn nào”.
Người phát ngôn bảo vệ quyết định của hội đồng thành phố về việc tổ chức chuỗi buổi hòa nhạc, mà họ cho rằng sẽ giúp hỗ trợ sự phục hồi kinh tế của Sydney từ đại dịch COVID-19.
Thị trưởng Sydney Clover Moore đã tấn công Đức Tổng Giám Mục Anthony Fisher và cho biết Sydney tự hào về sự đa dạng và hòa nhập, và lặp lại một khẩu hiệu mà ta có thể nghe thấy ở bất cứ nơi nào diễn ra một chuyện tương tự.
“ Không có chỗ cho thù hận, bất khoan dung và chia rẽ”, bà ta nói.
Source:Life Site News
Những lo lắng này được khẳng định chỉ một tuần sau đó khi quân khủng bố pháo kích vào thành phố Erbil hôm 15 tháng Hai. Erbil là thành phố nơi Đức Thánh Cha sẽ viếng thăm trong ngày Chúa Nhật 7 tháng Ba.
Một sóng gió khác cũng vừa nổi lên. Đức Tổng Giám Mục Slovenia Mitja Leskovar, Sứ Thần Tòa Thánh tại Iraq, người được tường trình là sẽ tháp tùng Đức Phanxicô trong suốt chuyến tông du từ ngày 5 đến 8 tháng 3, đã xét nghiệm dương tính với COVID-19 vào hôm thứ Bảy 27 tháng Hai và hiện đang bị cách ly.
Tòa Sứ thần Tòa Thánh ở Baghdad, nơi Đức Thánh Cha Phanxicô dự kiến sẽ cư trú trong ba ngày ở Iraq, đã cho biết như trên.
Đây sẽ là chuyến tông du đầu tiên sau 15 tháng gián đoạn của Đức Thánh Cha Phanxicô kể từ khi ngài viếng thăm Thái Lan và Nhật Bản vào tháng 11 năm 2019, và khả năng chuyến đi bị hủy bỏ do đại dịch coronavirus hoặc lo ngại về an ninh luôn có nguy cơ rất cao.
Đầu tháng này, trong một cuộc gặp gỡ với các nhân viên tùng sự tại Rôma của Catholic News Service, hãng thông tấn của Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ, ngài nói rằng ngài thực sự muốn thực hiện chuyến đi và điều duy nhất có thể ngăn cản ngài là sự gia tăng của các trường hợp coronavirus ở Iraq.
Cả Đức Giáo Hoàng và tất cả những người cùng đi với ngài đều đã được tiêm phòng, bao gồm gần 70 phóng viên tháp tùng. Tuy nhiên, những người sẵn sàng chào đón ngài, bao gồm cả Đức Tổng Giám Mục Leskovar, thì chưa được chích.
Vị Tổng Giám Mục hiện đang bị cô lập, không còn ở trong Tòa Sứ thần Tòa Thánh nữa, và tất cả nhân viên đã được kiểm tra coronavirus và cách ly trong khi chờ kết quả. Trong khi đó, Tòa Sứ thần Tòa Thánh đã được làm sạch hoàn toàn, và Vatican không đưa ra tuyên bố chính thức nào về việc có thể hoãn chuyến tông du do những diễn biến mới nhất này hay không.
Nếu chuyến tông du vẫn được thực hiện theo dự trù, Đức Phanxicô sẽ trở thành vị Giáo Hoàng đầu tiên trong lịch sử đến thăm Iraq, một nơi đã từng nằm trong chương trình nghị sự của cả Thánh Gioan Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI, nhưng các cuộc đàm phán đã thất bại vào phút cuối, hay tình hình chiến sự đã không cho phép.
Trong chuyến thăm bốn ngày của mình, Đức Phanxicô dự kiến sẽ cầu nguyện cho các nạn nhân chiến tranh, có bài phát biểu trước cộng đồng tôn giáo địa phương, các linh mục và giám mục trong cùng một nhà thờ, nơi mà vào năm 2010, năm kẻ khủng bố đã sát hại 48 người, trong đó có hai linh mục, trong Lễ Vọng Kính Các Thánh Nam Nữ.
Đức Tổng Giám Mục Leskovar không phải là người đầu tiên tham gia vào việc chuẩn bị chuyến tông du đã có kết quả xét nghiệm dương tính trong những ngày gần đây: Ahmed Al Safi, phát ngôn viên của Đại Giáo Trưởng Ali Al Sistani của Hồi Giáo Shiite, người sẽ tiếp đón Đức Giáo Hoàng tại dinh thự riêng của mình, cũng có kết quả dương tính với coronavirus vào tuần trước.
Iraq đang trải qua làn sóng virus thứ hai khi lần đầu tiên, sau nhiều tuần lễ, số ca nhiễm coronavirus hàng ngày vượt quá 4,000 trường hợp.
Đức Phanxicô sẽ gặp al-Sistani ở thành phố phía nam Najaf, được coi là thành phố linh thiêng thứ ba của Hồi giáo Shiite sau Mecca và Medina.
Sự gia tăng số ca nhiễm coronavirus, không xa so với mức cao nhất là 5,025 ca một ngày từ cuối tháng 9, đã buộc chính quyền địa phương phải thực thi lại các biện pháp nghiêm ngặt trên toàn quốc bao gồm lệnh giới nghiêm hoàn toàn vào các ngày thứ Sáu, thứ Bảy và Chúa Nhật.
Đối với các ngày còn lại trong tuần, giới nghiêm bắt đầu lúc 8 giờ tối và kết thúc lúc 5 giờ sáng. Các trường học bị đình chỉ cho đến khi có thông báo mới, và tất cả các nơi thờ phượng, bao gồm cả đền thờ Hồi Giáo và các nhà thờ Kitô Giáo, đều bị đóng cửa.
Chuyến đi của Đức Giáo Hoàng nhằm gửi một thông điệp khích lệ tới những người Iraq vẫn đang vật lộn để phục hồi sau cuộc chiến chống lại tổ chức khủng bố Hồi giáo ISIS, trong khi họ ngày càng mất niềm tin vào chính phủ hiện tại.
Trong chuyến đi kéo dài 4 ngày, Đức Giáo Hoàng dự kiến sẽ gặp thủ tướng Iraq, các nhà lãnh đạo tôn giáo và các thành viên của cộng đồng Kitô Giáo Iraq, là những người đã chịu đựng sự đàn áp và bức hại chết người dưới thời IS vào năm 2014.
Ngoài Najaf, Đức Phanxicô dự kiến sẽ đến thăm vùng đồng bằng Ur, được coi là vùng đất của Tổ Phụ Abraham, Tổ Phụ chung của người Do Thái, các Kitô hữu giáo và người Hồi giáo. Ngài cũng viếng thăm vùng đồng bằng Niniveh, từng là nơi sinh sống của một cộng đồng Kitô hữu, ngày nay là nơi vẫn đang phải vật lộn để phục hồi sau khi ISIS đã gây ra tội ác diệt chủng chống lại những người theo đạo Kitô Giáo, người Yazidis và các dân tộc thiểu số khác.
Source:Crux
Việc thoái vị ngôi giáo hoàng của Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16, có hiệu lực cách đây tám năm, vào ngày 28 tháng 2 năm 2013, là một “lựa chọn khó khăn”, nhưng được thực hiện “với lương tâm đầy đủ” - một điều mà ngài không hề hối tiếc.
Một lần nữa, Đức Giáo Hoàng Danh dự, mặc dù với một giọng rất yếu, đã lặp lại những gì ngài đã nói nhiều lần để loại bỏ những “người bạn có phần cuồng nhiệt”, những người tiếp tục ủng hộ “các thuyết âm mưu” đằng sau quyết định rời khỏi ngai tòa Thánh Phêrô bằng cách nghỉ hưu vì lý do tuổi già.
Điều này đã được Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 nhắc lại trong một cuộc phỏng vấn với tờ Corriere della Sera.
Một quyết định khó khăn nhưng đúng đắn
“Đó là một quyết định khó khăn,” Đức Giáo Hoàng danh dự giải thích, “nhưng tôi đã thực hiện nó với lương tâm ngay thẳng, và tôi tin rằng mình đã làm tốt. Một số bạn bè của tôi, những người hơi 'cuồng nhiệt' vẫn còn tức giận; họ không muốn chấp nhận sự lựa chọn của tôi. Tôi đang suy nghĩ về các thuyết âm mưu theo sau nó: những người nói đó là vì vụ bê bối Vatileaks, những người khác nói đó là vì trường hợp của nhà thần học bảo thủ theo phái Lefebvre, Richard Williamson. Họ không muốn tin rằng đó là một quyết định có ý thức, nhưng lương tâm của tôi rất rõ ràng”.
Chuyến thăm của Giáo hoàng tới Iraq
Trong cuộc phỏng vấn, Đức Bênêđíctô XVI cũng nói về chuyến tông du sắp tới của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Iraq.
“Tôi nghĩ đây là một chuyến đi rất quan trọng,” ngài nói, “Thật không may, nó đến vào một thời điểm rất khó khăn, khiến nó trở thành một chuyến đi nguy hiểm vì lý do an ninh và cả vì Covid-19. Ngoài ra còn có tình hình bất ổn ở Iraq. Tôi sẽ đồng hành với Đức Phanxicô qua những lời cầu nguyện của mình”.
Source:Vatican News
Các giám mục Công Giáo trên khắp châu Âu đã chỉ trích một nghị quyết của Nghị viện Âu Châu về luật phá thai của Ba Lan.
Trong một bức thư được công bố vào ngày 25 tháng 2, các giám mục nói rằng nghị quyết, được thông qua vào ngày 26 tháng 11 năm 2020, sẽ có “tác động rất tiêu cực” đối với cách nhìn nhận của Liên minh Âu Châu đối với các quốc gia thành viên.
Nghị viện Âu Châu, cơ quan xây dựng luật của Liên Minh Âu Châu, đã thông qua nghị quyết với số phiếu 455 phiếu thuận sau khi tòa án cấp cao nhất của Ba Lan ra phán quyết rằng luật năm 1993 cho phép phá thai vì những bất thường của thai nhi là vi hiến.
Nghị quyết phàn nàn về cái mà nó gọi là “lệnh cấm trên thực tế đối với quyền phá thai ở Ba Lan”.
Trước phán quyết của Tòa án Hiến pháp vào ngày 22 tháng 10, luật pháp Ba Lan chỉ cho phép phá thai trong các trường hợp hiếp dâm hoặc loạn luân, hay trong trường hợp có nguy cơ đến tính mạng của người mẹ hoặc những bất thường của thai nhi.
Sau khi phán quyết được công bố vào ngày 27 tháng Giêng, phá thai sẽ tiếp tục hợp pháp trong các trường hợp hiếp dâm hoặc loạn luân và có nguy cơ đến tính mạng của người mẹ nhưng cấm phá thai vì những bất thường của thai nhi.
Trong lá thư đề ngày 22 tháng 2, các giám mục đã phản bác khái niệm “quyền phá thai” của Liên minh Âu châu: “Từ góc độ pháp lý, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng cả luật pháp của Liên minh Âu Châu và Công ước Âu Châu về Nhân quyền đều không quy định quyền phá thai. Vấn đề này phụ thuộc vào hệ thống pháp luật của các quốc gia thành viên”.
Bức thư đã được gửi đến David Maria Sassoli, chủ tịch Nghị viện Âu Châu, và có chữ ký của các thành viên trong ủy ban thường trực của Ủy ban Hội đồng Giám mục của Liên minh Âu Châu.
Trong một tuyên bố ngày 2 tháng 12, Đức Tổng Giám Mục Gądecki chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Ba Lan nói rằng không thể có sự thỏa hiệp về quyền được sống.
Ngài nói: “Quyền sống là quyền cơ bản của con người. Quyền này luôn phải được ưu tiên hơn bởi vì không ai có thể cho phép một cách có thẩm quyền khả năng giết người khác”.
Các giám mục Âu Châu nhấn mạnh sự hỗ trợ của Giáo Hội Công Giáo đối với những phụ nữ gặp khó khăn khi mang thai cũng như bảo vệ sự sống của thai nhi.
Các ngài chỉ trích nghị quyết đã hạ thấp “một nguyên tắc cơ bản của Liên minh Âu Châu” được gọi là “nguyên tắc đồng thuận”, hạn chế Liên Minh Âu Châu chỉ có quyền hành động trong giới hạn mà các quốc gia thành viên nhất trí.
Các ngài cũng nhận định rằng nghị quyết xem ra đang muốn đặt vấn đề đối với quyền phản đối lương tâm.
“Điều này đặc biệt đáng lo ngại vì trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, những người phản đối vì lương tâm trong nhiều trường hợp bị phân biệt đối xử. Theo quan điểm của chúng tôi, không nên thúc đẩy sự kỳ thị vô cớ như vậy”.
Source:Catholic News Agency
Đức Tổng Giám Mục Luis Gerardo Cabrera Herrera, Dòng Anh Em Hèn Mọn, của tổng giáo phận Guayaquil đã bày tỏ nỗi buồn của ngài về vụ bạo loạn diễn ra hôm thứ Ba 23 tháng Hai khiến ít nhất 79 tù nhân bị thiệt mạng, trong đó có nhiều người bị phanh thây. Đức Cha đã thường xuyên cảnh báo chính quyền về tình trạng quá đông trong các nhà tù và than phiền rằng các nhà tù tại Ecuador chỉ đơn thuần là các tầng đầu địa ngục trong đó con người bị trừng phạt thay vì được giáo dục để tái hội nhập vào đời sống xã hội.
Bạo loạn đã diễn ra trong 4 nhà tù với ít nhất 79 người chết, trong đó có 18 tù nhân bị phanh thây tại cùng một địa điểm. Đây là một trong những đợt bùng phát bạo lực trong tù đẫm máu nhất trong lịch sử nước này.
Ngay khi các nhà chức trách cho biết họ đã giành lại quyền kiểm soát sau cuộc bạo động ban đầu, người đứng đầu cảnh sát quốc gia Ecuador đã viết trên Twitter vào đêm thứ Tư rằng một cuộc binh biến mới vừa diễn ra trong nhà tù của thành phố Guayaquil.
Cảnh sát và quân đội đã đóng quân tại các trung tâm giam giữ ở các thành phố Guayaquil, Cuenca và Latacunga, nơi các băng đảng hôm thứ Ba giao chiến với nhau bằng vũ khí thủ công trong điều kiện mà các nhà chức trách cho là một sự bùng phát bạo lực phối hợp.
Các băng đảng bắt đầu cuộc chiến giành quyền lãnh đạo trong hệ thống nhà tù vào tháng 12 khi một thủ lĩnh của Los Choneros, là băng nhóm quyền lực nhất của hệ thống du đảng tại Ecuador, bị giết trong một trung tâm mua sắm vài tháng sau khi được thả ra.
Bạo loạn hôm thứ Ba đã diễn ra trong các khu vực an ninh tối đa của nhà tù Guayaquil và Cuenca.
Cơ quan quản lý nhà tù SNAI cho biết tất cả những người thiệt mạng trong vụ bạo loạn đều là tù nhân, với các báo cáo đầu tiên cho biết 50 người chết, trước khi tăng lên 62 và cuối cùng là 79 trong báo cáo mới nhất. Theo dữ liệu chính thức, có thêm hàng chục tù nhân và cảnh sát bị thương.
Trong một bài phát biểu trên truyền hình, Tổng thống Lenin Moreno thừa nhận hệ thống nhà tù có dân số quá đông khoảng 130% so với sức chứa và thiếu kinh phí và nhân sự.
Bạo loạn diễn ra sau khi nhà chức trách phá dỡ các phòng thí nghiệm chế biến cocaine và thu giữ 128 tấn ma túy vào năm 2020, một kỷ lục đối với Ecuador, tổng thống Moreno cho biết.
Tổng thống Moreno đã tuyên bố hệ thống nhà tù của Ecuador đang trong tình trạng khẩn cấp vào năm 2019 sau làn sóng các vụ bạo loạn khiến 24 người thiệt mạng.
Source:Reuters
Hạ Viện Hoa Kỳ hôm thứ Năm đã thông qua Đạo luật Bình đẳng, mà các giám mục Hoa Kỳ đã cảnh báo sẽ chà đạp các biện pháp bảo vệ tự do tôn giáo trong khi hệ thống hóa ý thức hệ giới tính trong luật liên bang.
Bằng một cuộc bỏ phiếu với tỷ số 224 trên 206, Hạ viện đã thông qua Đạo luật Bình đẳng chỉ sáu ngày sau khi nó được đề nghị vào ngày 18 tháng 2. Đạo luật, được bảo trợ bởi Dân biểu David Cicilline thuộc đảng Dân Chủ đơn vị Illinois, công nhận việc bảo vệ bằng pháp lý khuynh hướng tình dục và bản sắc giới tính, và cấm phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính tự nhận trong một số lĩnh vực.
Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, gọi tắt là USCCB, đã phản đối đạo luật này, nói rằng nó đề cao ý thức hệ giới tính và định nghĩa lại hôn nhân và coi giới tính đơn giản là một “cấu trúc xã hội”. Hơn nữa, nó sẽ “ trừng phạt” các nhóm tôn giáo chống lại những tin tưởng kỳ quái này.
Một bức thư ngày 23 tháng 2 của năm chủ tịch các ủy ban USCCB đã được gửi đến các thành viên của Quốc hội. Bức thư cảnh báo rằng thông qua dự luật này nghĩa là Quốc hội đang áp đặt các “quan điểm mới lạ và gây chia rẽ liên quan đến” giới tính “đối với các cá nhân và tổ chức”.
Các giám mục ký tên trong thư bao gồm Đức Cha Michael Barber, của Oakland, chủ tịch ủy ban giáo dục USCCB; Đức Tổng Giám Mục Paul Coakley của thành phố Oklahoma, chủ tịch ủy ban tư pháp quốc nội USCCB; Đức Hồng Y Timothy Dolan của New York, chủ tịch ủy ban tự do tôn giáo của USCCB; Đức Cha David Konderla của Tulsa, chủ tịch tiểu ban hôn nhân; và Đức Tổng Giám Mục Joseph Naumann của Thành phố Kansas, chủ tịch ủy ban phò sinh của USCCB.
Các vị nhận định rằng:
“Đạo luật Bình đẳng sẽ áp đặt các quy định sâu rộng gây tổn hại cho toàn xã hội. Chỉ riêng các định nghĩa của Đạo luật sẽ loại bỏ phụ nữ và trẻ gái khỏi sự tồn tại được luật pháp bảo vệ. Chúng ta trân trọng các quyền tự do ngôn luận, lập hội, tự do lương tâm và tự do tôn giáo của Tu Chính án Thứ nhất. Đạo luật Bình đẳng khiến những điều này gặp nguy cơ bằng cách đòi hỏi sự đồng thuận bắt buộc độc dạng đối với những tin tưởng mới về bản sắc con người, trái ngược với những niềm tin được nhiều người tin tưởng - cả những người theo các tín ngưỡng đa dạng lẫn những người không có tín ngưỡng.”
Source:Catholic News Agency
Iraq: Cái nhìn tổng thể về Giáo hội và các cộng đồng Kitô giáo ở Iraq.
Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ khởi hành cuộc tông du đầu tiên đến Iraq từ ngày 5 đến ngày 8 tháng Ba. Sau đây là một cái nhìn tổng thể về các cộng đồng của một Giáo hội cổ xưa và đa dạng của đất nước Iraq, hoàn cảnh và những thách đố của họ.
(Tin Vatican - Lisa Zengarini)
Kitô giáo đã có mặt ở Iraq từ những thời kỳ đầu tiên, như sách Tông đồ công vụ đã ghi lại. Nguồn gốc bắt nguồn từ việc rao giảng của Thánh Thomas Tông đồ và các môn đệ của ông là Addai và Mari vào thế kỷ đầu tiên sau Công nguyên, kéo dài từ Iraq đến Đông Á. Do đó, theo kinh thánh và lịch sử, Iraq là một vùng đất quan trọng đối với tất cả những người theo đạo Thiên Chúa, những người đã đóng góp một vai trò quan trọng trong lịch sử của nó.
Một lịch sử bắt bớ và bị đối xử khác biệt
Cộng đồng Kitô giáo ở Iraq, ngày nay bao gồm người Chaldean, người Assyria, người Armenia, người Công Giáo Latinh, người Melkites, Chính thống giáo và người Tin lành, đã bị đàn áp và đối xử phân biệt từ khi Hồi giáo xuất hiện và ngay cả sau khi Iraq độc lập. Dưới chế độ độc tài của Saddam Hussein, những người theo đạo Thiên chúa đã tìm ra một phương thức để Giáo hội được tồn tại và thực hiện các hoạt động của mình là các công việc từ thiện. Tuy nhiên, vào thời điểm đó - đặc biệt là sau khi các cuộc chiến tranh liên tiếp bắt đầu vào những năm Tám mươi - ngày càng nhiều người theo đạo Thiên Chúa ở Iraq bắt đầu phải di cư và ở hải ngoại họ đã thành lập ra các cộng đồng Iraq hải ngoại.
Những con số bị xụt giảm: Những cuộc di cư năm 2003 và những năm 2014 tới 2017
Một cuộc di tản lớn nhất xảy ra sau cuộc can dự quân sự của Hoa Kỳ vào năm 2003, tạo ra sự mất an ninh, bạo lực và các cuộc tấn công, cũng như từ năm 2014 đến năm 2017, sau khi thành lập “Nhà nước Hồi giáo” (IS - DAESH) ở phía bắc của Iraq.
Vào trước cuộc chiến vùng Vịnh lần thứ hai, người theo đạo Thiên chúa ở Iraq ước tính từ 1 đến 1,4 triệu (khoảng 6% dân số). Sau đó, con số đã bị tụt giảm xuống chỉ còn 300-400.000, theo ước tính gần đây nhất của tổ chức Cứu trợ Tòa Thánh cho các Giáo hội cần thiết (ACN).
Từ năm 2003 đến tháng 3 năm 2015, có khoảng 1.200 Kitô hữu bị giết, bao gồm Đức Tổng Giám Mục Paulos Rahho của Mosul, bị sát hại vào năm 2008, cùng với 5 linh mục và 48 nạn nhân của một cuộc thánh chiến tàn phá Nhà thờ Đức Mẹ Phù hộ ở Baghdad vào ngày 31 tháng 10 năm 2010) và 62 nhà thờ khác bị hư hại hoặc bị phá hủy bình địa.
Việc IS chiếm đóng miền Đồng bằng Nineveh, vốn là cái nôi Kitô giáo vùng Lưỡng Hà, đã khiến người Kitô giáo trong khu vực này bị xóa sổ! Hơn 100.000 người đã buộc phải rời bỏ nhà cửa của họ cùng với các nhóm thiểu số bị đàn áp khác như nhóm người thiểu số Yazidis. Nhiều gia đình trong số những gia đình này đã phải ẩn náu ở các vùng của những người Kurdistan ở Iraq, cụ thể là ở Ankawa, khu vực của người Kitô giáo ở Erbil, trong các trại tị nạn dọc theo biên giới Jordan, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ và Lebanon, hoặc được đi tị nạn ở châu Âu và các nước khác. Trong những năm gần đây, ít nhất 55.000 người theo đạo Thiên chúa Iraq cũng đã rời bỏ vùng Kurdistan ở Iraq. Nhiều nhà thờ và tài sản của người theo đạo Thiên Chúa bị phá hủy và bị tịch thu. Một phần di sản lịch sử Kitô giáo được Đức Tổng Giám Mục Najib Mikhael Moussa ở Mosul lưu giữ không bị phá hủy, trong đó có hơn 800 bản thảo lịch sử. Nỗ lực này vào năm 2020, đã được Liên minh Châu Âu trao tặng cho ngài Giải thưởng Sakharov.
Tình trạng bất ổn và chủ nghĩa bè phái là mối đe dọa liên tục đối với những người theo đạo Thiên chúa ở Iraq
Sau cuộc tập hợp quân sự của tướng Caliphate ở Iraq vào năm 2017, các Kitô đã dần dần trở lại Đồng bằng Nineveh, và với sự trợ giúp của Tòa Thánh và đặc biệt của Thánh bộ lo cho các Giáo hội khó khăn cần sự hỗ trợ (ACN). Ngày nay, gần 45% Kitô hữu của vùng đồng bằng Nineveh đã hồi hương, và 80% nhà thờ ở vùng Đồng bằng này đã và đang trong quá trình xây dựng lại (ngoại trừ ở thành phố Mosul, vì luật Hồi giáo…)
Cho đến nay, khoảng 57% số nhà của các gia đình theo đạo Thiên chúa trong vùng bị hư hại đã và đang nằm trong kế hoạch tái thiết sửa chữa, 35% trong số đó với sự hỗ trợ tài chính của Tòa Thánh (ACN), Thánh bộ Tòa Thánh cũng tạo điều kiện thành lập Ủy ban Tái thiết vùng đồng bằng Nineveh (NRC ) với mục đích khuyến khích các Kitô hữu quay trở về xây dựng cộng đồng và đảm bảo họ cũng như các nhóm thiểu số khác được bảo vệ.
Tuy nhiên, tình trạng thiếu an ninh và các hành động quấy nhiễu, đe dọa liên tục của dân quân địa phương và các nhóm thù địch vẫn tiếp tục đe dọa các cộng đồng Kitô hữu ở Iraq, đặc biệt ở khu vực này. Điều này đã được ACN, và Tổ chức "Open Doors", một tổ chức Kitô giúp đỡ những Kitô hữu bị đàn áp trên thế giới cũng như "Trung tâm Hy vọng" ở Iraq xác nhận: "Cuộc sống sau thời Isis: Những thách thức mới đối với Kitô giáo ở Iraq", được phát hành vào mùa thu năm 2020…
Khát vọng tôn trọng quyền lợi của người dân, sống hòa bình và chấp nhận đa nguyên
Ngoài tình trạng mất an ninh, bất ổn chính trị, chủ nghĩa bè phái, còn nạn tham nhũng, nạn khủng hoảng kinh tế, vốn đã trở tồi tệ lại trở nên tồi tệ hơn vì đại dịch Covid-19, làm cho các Kitô hữu lưỡng lự quay về hay ở lại đất nước họ đang tạm dung.
Để đảm có một bảo tương lai, một Iraq thống nhất và không có những cuộc thánh chiến, trên hết đất nước này phải công nhận và bảo vệ quyền công dân đầy đủ của người dân. Đây là lý do tại sao các Giáo hội từ lâu nay vẫn cương quyết đòi hỏi có một Hiến pháp và một vai trò tích cực hơn trong đời sống chính trị và xã hội ở Iraq. Bản Hiến chương được thông qua năm 2005 chính thức đảm bảo tôn trọng tự do tôn giáo, nhưng điều 2 lại xác định Hồi giáo là quốc giáo chính thức và là nguồn luật pháp. Hồi giáo tiếp tục là một tôn giáo có đặc quyền trong hệ thống Iraq đã gây nhiều khó khăn cho các giáo hội thiểu số.
Đức Thượng Phụ Chaldean H.B. Louis Raphaël Sako đã nhiều lần đưa ra vấn đề này, khi ngài nhấn mạnh đến tầm quan trọng của một cuộc đối thoại cởi mở giữa tất cả mọi bên để xây dựng một Nhà nước đa nguyên và vững mạnh, tôn trọng mọi người công dân, không phân biệt tôn giáo và nguồn gốc của họ. Điều này cũng được nhắc lại tại Thượng hội đồng cuối cùng của Giáo hội Chaldean vào tháng 8 năm 2019, kêu gọi một Nhà nước dựa trên "bình đẳng, công lý, luật pháp" công nhận sự đại diện công bằng cho các Kitô nhân trong các tổ chức chính phủ.
Các Giáo hội Iraq đã tìm thấy sự hỗ trợ về những vấn đề này từ Thủ tướng Mustafa al-Kadhimi. Kể từ khi ông lên nắm quyền vào ngày 7 tháng 5 năm 2020, al-Kadhimi đã nhiều lần bày tỏ mong muốn ngăn chặn cuộc di cư của những tín hữu Kitô và kêu mời họ ở lại hay trở về xây dựng lại đất nước, cũng như nhấn mạnh cho họ biết rằng họ đại diện cho một thành phần quan trọng cho xã hội Iraq. Những lời này đã được đi đôi với hành động. Một cử chỉ quan trọng là Quốc hội Iraq gần đây đã tiến hành công nhận lễ Giáng sinh là một ngày lễ nghỉ toàn quốc. Và gần đây hơn, ngay cả thủ lĩnh người Shiite Muqtada al Sadr, người đứng đầu Đảng Sadrist quyền lực, đã thể hiện sự sẵn sàng đối thoại với cộng đồng Kitô giáo ở Iraq, bằng cách trả lại những tài sản đã bị các nhóm Shite đánh cắp trong nhiều năm được trao trả cho chủ sở hữu hợp pháp của chúng.
Mối quan tâm của Tòa thánh đối với các Kitô hữu ở Iraq
Hoàn cảnh của các Kitô hữu ở Iraq luôn được Tòa thánh quan tâm đặc biệt, đặc biệt là sau cuộc Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai năm 2003, mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kịch liệt phản đối, và năm 1991, Ngài đã cảnh báo về “những hậu quả to lớn mà một hoạt động quân sự quốc tế trợ giúp cho người Iraq và cho sự cân bằng ở khu vực Trung Đông” (Angelus, ngày 16 tháng 3 năm 2003). Đức Thánh Cha hoàn toàn nhận thức được những hậu quả mà cuộc xung đột vũ trang lần thứ hai này sẽ gây ra cho các cộng đồng Kitô giáo ở Iraq và khắp khu vực.
Việc thành lập Nhà nước Hồi giáo ở Iraq và Syria vào năm 2014 càng khiến tình hình thêm rối ren. Trong bối cảnh đó, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã không ngừng nói lên sự gần gũi của ngài "với những người Iraq thân yêu". Mối quan tâm này đã được tái khẳng định bởi Đức Hồng Y Pietro Parolin, nhân chuyến công du tới Quốc gia này vào tháng 12 năm 2018. Trong chuyến thăm của mình, Ngoại trưởng Vatican nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc vượt qua hận thù và bày tỏ lòng biết ơn của Giáo hội đối với nhân chứng Kitô giáo người Iraq đã sống và làm chứng, nó đã trở thành "một tấm gương sống cho tất cả các Kitô hữu trên thế giới".
Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc lại hy vọng rằng Iraq “có thể đối diện với tương lai thông qua việc theo đuổi những lợi ích chung một cách hài hòa cho tất cả các thành phần trong xã hội, bao gồm cả tôn giáo” như ĐTC đã phát biểu vào ngày 10 tháng 6 năm 2019, trong Cuộc họp mặt của các Cơ quan Viện trợ cho các Giáo hội Đông Phương (ROACO), khi Ngài bày tỏ mong muốn đến thăm Iraq vào năm 2020.
Tầm quan trọng của việc duy trì sự hiện diện lịch sử của các tín đồ Kitô hữu ở Quốc gia này và nhu cầu đảm bảo an ninh cho họ là một ưu tư hàng đầu cho tương lai của Iraq mà ĐTC đã bày tỏ nhân chuyến thăm Vatican lần thứ hai của Tổng thống Barham Salih, vào ngày 25 tháng 1, năm 2020, tập trung vào những thách đố mà Quốc gia này phải đối diện và tầm quan trọng của việc thúc đẩy ổn định và quá trình tái thiết.
Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh về sự cần thiết phải bảo vệ "sự hiện diện của Kitô giáo" ở Iraq và trong toàn bộ khu vực trong cuộc họp trực tuyến về cuộc khủng hoảng nhân đạo ở Syria và Iraq do Thánh bộ Phát triển Con người Toàn diện tổ chức với hàng chục tổ chức phi chính phủ Công Giáo, ngày 10 tháng 12 năm 2020. "Chúng ta phải làm việc để đảm bảo sự hiện diện của Kitô hữu ở những vùng đất này được tiếp tục: đó là một dấu hiệu của hòa bình, tiến bộ, phát triển và hòa giải giữa các dân tộc", Đức Thánh Cha nói trong một thông điệp video, kêu gọi cộng đồng quốc tế khuyến khích các cộng đồng di dân vì chiến tranh nên hồi hương...
”Trong bối cảnh đó, việc công bố vào ngày 7 tháng 12 năm 2020 về cuộc hành trình tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đã được Giáo hội Iraq nhiệt tình hoan nghênh. Chuyến đi của Giáo hoàng diễn ra sau 21 năm sau “chuyến viếng thăm” của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đến thăm Đất nước, nhân chuyến hành hương Năm Thánh theo dấu chân của Abraham, Moses, Chúa Giêsu và thánh Phaolô vào năm 2000, bị hủy bỏ do tình hình chính trị ở Iraq.
Nhân chuyến viếng thăm Iraq của Đức Thánh Cha, Vatican News đã đưa ra một tổng quan về tình trạng Giáo hội và đất nước Iraq. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Iraq: An overview of the Church and of the country's Christian communitiesBy Lisa Zengarini
Iraq: Tổng quan về Giáo hội và các cộng đồng Kitô của đất nước này.
Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ thực hiện chuyến tông du đầu tiên của một vị Giáo Hoàng đến Iraq từ ngày 5 đến ngày 8 tháng Ba. Chúng tôi xin trình bày một cái nhìn tổng thể về các cộng đồng Kitô Giáo cổ xưa và đa dạng của quốc gia này, hoàn cảnh và những thách đố họ phải đối diện.
Kitô Giáo đã có mặt ở Iraq từ những thời kỳ đầu tiên, như sách Công vụ Tông đồ đã làm chứng. Nguồn gốc của Kitô Giáo tại quốc gia này bắt nguồn từ việc rao giảng của Thánh Tôma Tông đồ và các môn đệ của ngài là Addai và Mari vào thế kỷ thứ nhất sau Chúa Giáng Sinh, kéo dài đến Đông Á. Do đó, theo Kinh Thánh và lịch sử, Iraq là một vùng đất quan trọng đối với tất cả Kitô hữu, những người đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử của Iraq.
Lịch sử bị ngược đãi và phân biệt đối xử
Cộng đồng Kitô Giáo Iraq, ngày nay bao gồm người Chanđê, người Assyriô, người Armenia, người Latinh, người Melkite, Chính thống giáo và người Tin lành, đã bị đánh dấu bởi sự đàn áp và phân biệt đối xử kể từ khi Hồi giáo xuất hiện và thậm chí sau khi Iraq độc lập. Dưới chế độ thế tục của Saddam Hussein, các Kitô hữu đã tìm ra một phương thức cho phép Giáo hội thực hiện các hoạt động của mình, cũng như trong lĩnh vực bác ái. Tuy nhiên, vào thời điểm đó - đặc biệt là sau khi các cuộc chiến tranh liên tiếp bắt đầu vào những năm 1980 - ngày càng nhiều người các tín hữu Kitô Iraq bắt đầu di cư thành lập một số cộng đồng ở nước ngoài.
Những con số lao dốc. Cuộc di cư sau năm 2003 và giữa năm 2014 và 2017
Cuộc di cư lớn nhất xảy ra sau cuộc can thiệp quân sự do Hoa Kỳ dẫn đầu vào năm 2003, do mất an ninh, bạo lực và các cuộc tấn công và đặc biệt từ năm 2014 đến năm 2017, sau khi quân khủng bố Hồi Giáo IS thành lập “Nhà nước Hồi giáo” ở phía bắc Iraq.
Trước Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai, các tín hữu Kitô Iraq ước tính có từ 1 đến 1.4 triệu (khoảng 6% dân số). Kể từ đó, dân số Kitô Giáo đã giảm xuống chỉ còn 300,000 đến 400,000, theo ước tính gần đây nhất của tổ chức tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ, gọi tắt là ACN.
Từ năm 2003 đến tháng 3 năm 2015, khoảng 1,200 Kitô hữu đã bị giết, bao gồm Đức Tổng Giám Mục Paulos Rahho của tổng giáo phận Mosul nghi lễ Chanđê, người bị sát hại vào năm 2008, 5 linh mục và 48 anh chị em giáo dân bị thánh chiến Hồi Giáo xả súng thảm sát ở Nhà thờ Đức Mẹ Giải Thoát ở Baghdad vào ngày 31 tháng 10 năm 2010 và 62 nhà thờ bị hư hại hoặc phá hủy.
Việc IS chiếm đóng vùng đồng bằng Ninivê, vốn là cái nôi của Kitô Giáo vùng Lưỡng Hà, đã khiến khu vực này của người Kitô Giáo bị xóa sổ theo đúng nghĩa đen. Hơn 100,000 người đã bị buộc phải rời bỏ nhà cửa của họ cùng với các nhóm thiểu số bị bách hại khác như người Yazidi. Nhiều gia đình trong số này đã tìm thấy nơi ẩn náu trong vùng Kurdistan ở Iraq, cụ thể là ở Ankawa, là khu Kitô Giáo của Erbil, hay trong các trại tị nạn ở Jordan, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ và Libăng, hoặc xin tị nạn ở Âu Châu và các nước khác. Trong những năm gần đây, ít nhất 55,000 Kitô hữu Iraq cũng đã rời Kurdistan. Nhiều nhà thờ và tài sản của Kitô hữu cũng bị phá hủy hoặc hư hại nghiêm trọng. Một phần quan trọng của di sản lịch sử Kitô Giáo đã được Đức Tổng Giám Mục Najib Mikhael Moussa của tổng giáo phận Mosul nghi lễ Chanđê cứu khỏi bị phá hủy. Ngài đã lưu giữ hơn 800 bản thảo lịch sử và vì điều này, vào năm 2020, ngài đã được Liên minh Châu Âu trao tặng Giải thưởng Sakharov.
Tình trạng bất an và chủ nghĩa bè phái là mối đe dọa liên tục đối với những Kitô hữu ở Iraq
Sau thất bại quân sự của Nhà nước Hồi Giáo ở Iraq vào năm 2017, các Kitô hữu Iraq đã dần dần bắt đầu quay trở lại vùng đồng bằng Ninivê, với sự giúp đỡ của Giáo hội hoàn vũ và đặc biệt là của tổ chức tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ. Ngày nay, gần 45% Kitô hữu của Ninivê đã trở về nhà của họ, trong khi 80% các nhà thờ ở đồng bằng Ninivê đang trong quá trình xây dựng lại, ngoại trừ Mosul, do các vấn đề về giấy tờ hành chính.
Cho đến nay, khoảng 57% các ngôi nhà bị hư hại của các gia đình Kitô hữu trong vùng và nằm trong kế hoạch tái thiết đã được sửa chữa, 35% trong số đó với sự hỗ trợ tài chính của ACN. Tổ chức này cũng đã tạo điều kiện thành lập Ủy ban Tái thiết Ninivê với mục đích khuyến khích các Kitô hữu quay trở lại cộng đồng của họ và bảo đảm cho họ cũng như các nhóm thiểu số khác được bảo vệ.
Tuy nhiên, tình trạng thiếu an ninh và các cuộc quấy rối, đe dọa và các hành động quấy rối liên tục của dân quân địa phương và các nhóm thù địch tiếp tục đe dọa cộng đồng Kitô hữu Iraq, đặc biệt là ở khu vực này. Điều này đã được xác nhận bởi Báo cáo “Cuộc sống sau ISIS: Những thách thức mới đối với Kitô Giáo ở Iraq”, được công bố vào mùa thu năm 2020 bởi ACN, và “Open Doors”, một tổ chức Kitô giúp đỡ những Kitô hữu bị đàn áp trên khắp thế giới. Open Doors cũng đã quảng bá sáng kiến “Trung tâm Hy vọng” ở Iraq.
Khát vọng có đầy đủ quyền công dân ở một Iraq hòa bình và đa nguyên
Tình trạng mất an ninh, bất ổn chính trị, chủ nghĩa bè phái, còn được đi kèm với nạn tham nhũng và khủng hoảng kinh tế, vốn đã trở nên tồi tệ hơn với đại dịch COVID-19, tiếp tục ngăn trở các Kitô hữu quay trở lại hoặc ở lại đất nước mình. Để bảo đảm tương lai của họ ở một Iraq thống nhất và không có thánh chiến, trên hết họ cần được công nhận quyền công dân đầy đủ của mình. Đây là lý do tại sao các Giáo Hội Kitô từ lâu đã khăng khăng đòi một Hiến pháp thế tục và một vai trò tích cực hơn trong đời sống chính trị và xã hội Iraq. Bản Hiến Pháp được thông qua năm 2005 chính thức bảo đảm việc tôn trọng tự do tôn giáo, nhưng Điều 2 lại thực sự xác định Hồi giáo là quốc giáo chính thức và là căn cứ chính yếu để hình thành luật pháp. Hồi giáo tiếp tục là một tôn giáo đặc quyền trong hệ thống Iraq gây bất lợi cho các nhóm thiểu số.
Đức Thượng Phụ Louis Raphaël Sako của Công Giáo nghi lễ Chanđê đã nhiều lần nêu vấn đề này, nhấn mạnh tầm quan trọng của một cuộc đối thoại cởi mở giữa tất cả các bên liên quan để xây dựng một Nhà nước đa nguyên và mạnh mẽ, tôn trọng mọi công dân, bất kể tôn giáo và dân tộc của họ. Điều này cũng được nhắc lại tại Thượng Hội Đồng cuối cùng của Giáo hội Chanđê vào tháng 8 năm 2019, kêu gọi một Nhà nước dựa trên “bình đẳng, công lý, luật pháp” công nhận sự đại diện công bằng cho các Kitô hữu trong các cơ quan chính phủ.
Các Giáo hội Iraq đã tìm thấy sự hỗ trợ về những vấn đề này từ Thủ tướng Mustafa al-Kadhimi. Kể từ khi lên nắm quyền vào ngày 7 tháng 5 năm 2020, ông al-Kadhimi đã nhiều lần bày tỏ mong muốn ngăn chặn cuộc di cư của những người theo Kitô Giáo và lôi kéo họ vào việc xây dựng lại đất nước, nhấn mạnh rằng họ đại diện cho một thành phần quan trọng của xã hội Iraq. Những lời này đã được đi kèm với hành động. Một cử chỉ quan trọng là Quốc hội Iraq gần đây đã tiến hành công nhận Giáng sinh là một ngày lễ chung trên toàn quốc trên cơ sở cố định. Gần đây hơn, ngay cả thủ lĩnh người Shiite là ông Muqtada al Sadr, người đứng đầu Đảng Sadrist đầy quyền lực, đã thể hiện sự sẵn sàng đối thoại với cộng đồng Kitô Giáo Iraq, bằng cách trả lại những tài sản bị các nhóm Shiite đánh cắp trong nhiều năm qua cho chủ sở hữu hợp pháp của họ.
Mối quan tâm của Tòa thánh đối với các Kitô hữu ở Iraq
Hoàn cảnh của các Kitô hữu ở Iraq luôn được Tòa thánh quan tâm đặc biệt, nhất là kể từ sau cuộc Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai năm 2003, mà Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kịch liệt phản đối, như ngài đã làm vào năm 1991. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 16 tháng Ba, 2003, vị Thánh Giáo Hoàng Ba Lan đã cảnh báo về “những hậu quả to lớn mà một hoạt động quân sự tầm mức quốc tế sẽ gây ra cho người dân Iraq và cho sự cân bằng trong khu vực Trung Đông, và cho các hành động cực đoan có thể xuất phát từ đó”. Đức Giáo Hoàng hoàn toàn nhận thức được những hậu quả mà cuộc xung đột vũ trang lần thứ hai này sẽ gây ra đối với các cộng đồng Kitô Giáo ở Iraq và khắp khu vực.
Việc thành lập Nhà nước Hồi giáo ở Iraq và Syria vào năm 2014 càng khiến tình hình của họ thêm trầm trọng. Trong bối cảnh này, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã không ngừng nói lên sự gần gũi của mình “với những người Iraq thân yêu”. Mối quan tâm này đã được tái khẳng định bởi Đức Hồng Y Pietro Parolin, nhân chuyến công du tới quốc gia này vào tháng 12 năm 2018. Trong chuyến thăm của mình, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh đã nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc vượt qua hận thù và bày tỏ lòng biết ơn của Giáo hội đối với chứng tá Kitô của người Iraq mà - ngài nói - đã trở thành “một tấm gương sống động cho tất cả các Kitô hữu trên thế giới”.
Vào ngày 10 tháng 6 năm 2019, trong cuộc họp mặt của các Cơ quan Viện trợ cho các Giáo Hội Đông phương, gọi tắt là ROACO, khi bày tỏ mong muốn đến thăm Iraq vào năm 2020, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc lại hy vọng rằng Iraq “có thể đối mặt với tương lai thông qua việc theo đuổi lợi ích chung một cách hòa bình và được chia sẻ từ phía tất cả các thành phần của xã hội, bao gồm cả tôn giáo”
Tầm quan trọng của việc duy trì sự hiện diện lịch sử của các tín đồ Kitô Giáo ở quốc gia này và nhu cầu bảo đảm an ninh cho họ và một vị trí trong tương lai của Iraq một lần nữa được nhấn mạnh nhân chuyến thăm chính thức Vatican lần thứ hai của Tổng thống Barham Salih, vào ngày 25 tháng Giêng, 2020, tập trung vào những thách thức mà đất nước phải đối mặt và tầm quan trọng của việc thúc đẩy ổn định và quá trình tái thiết.
Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh về sự cần thiết phải bảo vệ “sự hiện diện của Kitô Giáo” ở Iraq và trong toàn bộ khu vực trong cuộc họp trực tuyến về cuộc khủng hoảng nhân đạo ở Syria và Iraq do Bộ Dịch Vụ Phát Triển Nhân Bản Toàn Diện của Tòa Thánh tổ chức với hàng chục tổ chức phi chính phủ và Công Giáo, vào ngày 10 tháng 12 năm 2020. “Chúng ta phải làm việc để bảo đảm rằng sự hiện diện của Kitô hữu ở những vùng đất này tiếp tục là những gì nó đã luôn là: một dấu chỉ của hòa bình, tiến bộ, phát triển và hòa giải giữa các dân tộc”, Đức Giáo Hoàng đã đưa ra lập trường trên trong một thông điệp video kêu gọi cộng đồng quốc tế khuyến khích sự trở lại của các cộng đồng bị phân tán vì chiến tranh.
Trong bối cảnh đó, việc công bố vào ngày 7 tháng 12 năm 2020 về hành trình tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đã được Giáo hội Iraq nhiệt liệt hoan nghênh. Chuyến đi của Đức Giáo Hoàng sẽ diễn ra 21 năm sau khi Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bày tỏ mơ ước được đến thăm quốc gia này, nhân dịp hành hương Năm Thánh 2000 của ngài theo bước chân của Tổ Phụ Abraham, Môisê, Chúa Giêsu và Thánh Phaolô. Chuyến đi đã bị hủy bỏ do tình hình chính trị ở Iraq.
Các con số thống kê về quốc gia Iraq
Theo thống kê vào tháng 7, 2020, Iraq có 39,650,000 dân trên một diện tích là 438,317 km2 trong đó có 950 km2 là lãnh hải, xếp thứ 60 trên thế giới. 69.36% dân số sống trong các thành thị và 30.64% sống trong các vùng nông thôn. Tỉ lệ người nhập cư ước tính 1.0% dân số.
Mức độ tham nhũng của các công chức trong bộ máy công quyền (Level of Public Corruption) đứng hàng 166. Để so sánh, các quốc gia có mức độ tham nhũng của các công chức trong bộ máy công quyền cao nhất thế giới, tức là xếp hạng 176 là Bắc Hàn, Yemen, Nam Sudan, và Somalia. Việt Nam đứng hàng 117. Trung Quốc xếp thứ 87.
Trung bình một phụ nữ Iraq có từ 4 đến 5 đứa con.
Số trẻ em không sống quá 5 tuổi lên đến 3.20%
Tuổi thọ trung bình 70 tuổi.
Tỷ lệ biết đọc biết viết là 79.25%
Số người dùng Internet chiếm 11%
Bình quân thu nhập đầu người là 6,500 Mỹ Kim.
Các con số thống kê về Giáo Hội Iraq
Tại Iraq, chúng ta có các Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Latinh, Chanđê, Armenia, Syria, và Melkite. Các Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Chanđê, Armenia, Syria, và Melkite đều hiệp thông trọn vẹn với Tòa Thánh.
Tổng cộng tại Iraq có 17 giáo phận và tổng giáo phận, trong đó có một tổng giáo phận Công Giáo Latinh ở Baghdad, 10 giáo phận và tổng giáo phận theo nghi lễ Chanđê, bốn giáo phận theo nghi lễ Syria, một giáo phận nghi lễ Armenia, và một giáo phận theo nghi lễ Melkite.
Tổng giáo phận Công Giáo Latinh ở Baghdad do Đức Tổng Giám Mục Jean Benjamin Sleiman, 74 tuổi cai quản bao gồm 3 giáo xứ, với 11 linh mục dòng, 11 linh mục triều, 171 nữ tu và 13 nam tu sĩ không có chức linh mục. Tổng cộng có khoảng 2,500 người Công Giáo.
Theo niên giám 2019 trong đó tính chung tất cả các nghi lễ, tổng cộng có 145 linh mục, 345 nữ tu, 124 giáo xứ. Giáo Hội điều hành 8 bệnh viện Công Giáo.
Source:Vatican News
1. Thủ đô Baghdad
Baghdad (tiếng Ả Rập: بغداد ), nơi Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ cư ngụ trong suốt chuyến tông du từ ngày 5 đến 8 tháng Ba, là thủ đô của Iraq và là một trong những thành phố lớn nhất trong thế giới Ả Rập. So sánh với dân số đông đúc trên một một diện tích nhỏ bé chỉ có 673 km vuông, Baghdad là thành phố có mật độ dân cư lớn nhất trong vùng Trung Đông.
Nằm dọc theo sông Tigris, gần tàn tích của thành phố Babylon ở Akkadian và thủ đô Ctesiphon của Iran cổ đại, Baghdad được thành lập vào thế kỷ thứ 8 và trở thành thủ đô của đế chế Abbasid. Tuy nhiên, trước khi Baghdad trở thành một thành phố, vùng này đã có dân cư. Tên Baghdad đã có từ trước và trong tiếng Aramaic là ngôn ngữ Chúa Giêsu nói khi xuống thế làm người nó có nghĩa là “Được Chúa Ban”.
Trong một thời gian ngắn, Baghdad đã phát triển thành một trung tâm văn hóa, thương mại và tri thức quan trọng của thế giới Hồi giáo. Ngoài việc có một số cơ sở học thuật quan trọng, Baghdad cũng có một môi trường đa sắc tộc và đa tôn giáo, tạo cho thành phố danh tiếng trên toàn thế giới như là “Trung tâm Học tập”.
Baghdad là thành phố lớn nhất trên thế giới trong phần lớn thời đế chế Abbasid, là thời kỳ Hoàng kim của Hồi giáo, với dân số đạt đến mức cao nhất là hơn một triệu người. Thành phố đã bị phá hủy phần lớn dưới tay của Đế chế Mông Cổ vào năm 1258, dẫn đến sự suy tàn kéo dài qua nhiều thế kỷ do thường xuyên xảy ra dịch bệnh và sự thay đổi của nhiều đế chế kế tiếp nhau. Với việc Anh công nhận Iraq là một quốc gia độc lập vào năm 1932, Baghdad dần dần lấy lại một số vị trí nổi bật trước đây như một trung tâm văn hóa Ả Rập quan trọng, với dân số ước tính khoảng 6 hoặc hơn 7 triệu người.
Trong thời hiện đại, thành phố thường xuyên phải đối mặt với những thiệt hại nghiêm trọng về cơ sở hạ tầng, gần đây nhất là do cuộc xâm lược Iraq năm 2003 do Hoa Kỳ lãnh đạo, và Chiến tranh Iraq tiếp theo kéo dài đến tháng 12 năm 2011. Trong những năm gần đây, thành phố thường xuyên là địa bàn của của các cuộc biểu tình, và các cuộc tấn công khủng bố, làm mất đi đáng kể các di sản văn hóa và hiện vật lịch sử. Tính đến năm 2018, Baghdad được xếp vào danh sách những nơi nguy hiểm nhất để sinh sống.
2. Thành phố Najaf
Najaf (tiếng Ả Rập: ٱ لنجف), còn được gọi là Baniqia (tiếng Ả Rập: بانيقيا ), là một thành phố ở miền trung Iraq khoảng 180 km về phía nam Baghdad. Dân số ước tính là 1 triệu người. Đây là thủ phủ của tỉnh Najaf. Theo dự trù, sáng thứ Bẩy, 6 tháng Ba, Đức Thánh Cha sẽ đáp máy bay đi Najaf để có cuộc gặp gỡ với Grand Ayatollah, tức là Đại Giáo Trưởng, của Hồi Giáo Shiite, là Ali al-Sistani.
Najaf được coi là thành phố linh thiêng thứ ba của Hồi giáo Shiite, sau Mecca và Medina, thủ đô tâm linh của thế giới Hồi giáo Shiite và là trung tâm quyền lực chính trị của người Shiite ở Iraq.
Để hiểu tại sao Najaf quan trọng đối với người Hồi giáo Shiite, chúng tôi xin trình bày như sau. Tất cả người Hồi giáo tin rằng không có Chúa nào khác ngoài Allah, và rằng Mohammed là vị tiên tri cuối cùng của Ngài. Họ tin rằng kinh Koran là Lời Chúa mạc khải cho Mohammed. Bên cạnh niềm tin chung đó, họ cũng rất tương đồng trong cách thức thờ phượng. Tuy nhiên, người Hồi Giáo Sunni, chiếm khoảng 80 phần trăm người Hồi giáo, và người Shiite, từ 15-20 phần trăm, thường tiến hành những cuộc chiến tranh tôn giáo kinh hoàng chống lại nhau.
Sự khác biệt quan trọng giữa hai hệ phái Hồi Giáo này là một điều thuộc về tín lý: Người Shiite tin rằng sau khi Mohammed qua đời vào năm 632, quyền lãnh đạo tôn giáo do ông thành lập phải được truyền cho con cháu của ông bắt đầu với Ali, là con rể của ông ta. Họ cũng tin rằng hàng lãnh đạo tôn giáo, tức là các imams, phải được thần thánh lựa chọn. Trong khi đó, người Hồi Giáo Sunni tin rằng quyền lãnh đạo tôn giáo phải được trao cho những đồng chí thân cận nhất của tiên tri Mohammed. Khi thế hệ các đồng chí này qua đi, thì người ta bình bầu lên các vị Caliph, tức là những người được cho là ưu tú, và có đạo đức nổi bật, được người ta tôn lên làm các nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị, trực hệ hay không với tiên tri Mohammed không phải là vấn đề.
Sự khác biệt về tín lý này gây ra những hậu quả bi thảm. Mỗi nhánh Hồi Giáo nhìn nhánh khác như là những kẻ đi theo các nhà lãnh đạo giả mạo, và do đó, họ là những người bội giáo - những kẻ phản bội Hồi giáo. Những người cực đoan ở cả hai phía tin rằng những người Hồi Giáo phía bên kia phải bị tận diệt để “thanh tẩy đức tin”.
Ngay những từ đầu sau khi Mohammed qua đời, những imams Shiite đều bị hàng lãnh đạo Sunni tìm mọi cách tiêu diệt, và tất cả 11 nhà lãnh đạo đầu tiên của Hồi Giáo Shiite đều đã chết một cách thê thảm, thường là do bị ám sát.
Trong lịch sử, chính tại Iraq, người Hồi Giáo Shiite đã bị đại bại trong những trận đánh lớn diễn ra trong các thế kỷ thứ 7, thứ 8 và thứ 9, và do đó, mà cũng chính tại Iraq, người Hồi Giáo Shiite có các đền thờ lớn nhất – để vinh danh các nhà lãnh đạo bị thảm sát của họ.
Ali, con rể của tiên tri và cũng là Imam đầu tiên của người Hồi Giáo Shiite, đã bị tấn công và giết chết trong lúc đang cầu nguyện; và sau đó được chôn cất ở Najaf. Con trai của ông là Hussein, vị Imam thứ ba, cũng đã bị giết trong trận Karbala và được chôn cất ở đó.
Cho đến ngày nay, nhiều người Shiite vẫn mang theo bên cạnh họ một viên gạch nhỏ làm bằng đất sét lấy từ đất ở Karbala, nơi máu của Hussein đổ ra. Họ đặt viên gạch xuống đất ở bất cứ nơi nào họ cầu nguyện và nhấn trán của mình lên đó.
Al-Najaf được người Hồi giáo dòng Shiite coi là linh thiêng vì là nơi chôn cất Ali, con rể và anh họ của tiên tri Muhammad. Thành phố hiện là một trung tâm hành hương trên khắp thế giới của Hồi giáo Shiite. Người ta ước tính rằng chỉ có Mecca và Medina là hai nơi nhận được nhiều người hành hương Hồi giáo hơn.
Đền thờ Hồi Giáo Imam Ali nằm trong một công trình kiến trúc vĩ đại với mái vòm mạ vàng và nhiều đồ vật quý giá trên tường. Gần đó là nghĩa trang Wadi-us-Salaam, lớn nhất thế giới. Nó chứa các ngôi mộ của một số nhà tiên tri và nhiều người tín hữu Hồi Giáo từ khắp nơi trên thế giới mong muốn được chôn cất ở đó, để được sống lại từ cõi chết cùng với Imam Ali vào ngày Phán xét. Qua nhiều thế kỷ, nhiều nhà tế bần, trường học, thư viện và viện nghiên cứu đã được xây dựng xung quanh đền thờ để biến thành phố trở thành trung tâm học tập và thần học của Hồi giáo Shiite.
Chủng viện Al-Najaf là một trong những trung tâm giảng dạy quan trọng nhất trong thế giới Hồi giáo. Ayatollah Khomeini giảng dạy ở đó từ năm 1964 đến năm 1978. Nhiều nhân vật hàng đầu của phong trào Hồi giáo mới nổi lên ở Iraq, Iran và Li Băng trong những năm 1970 đã học tại Najaf.
Najaf, cùng với Karbala, được coi là một điểm đến hành hương đông đúc của người Hồi giáo Shiite và ngành công nghiệp hành hương trong thành phố bùng nổ sau khi kết thúc sự cai trị của Saddam Hussein. Tuy nhiên, do lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Iran, số lượng người hành hương Iran đã giảm đáng kể.
3. Thành phố Nasiriyah
Nasiriyah (tiếng Ả Rập: ٱ لناصرية ) là một thành phố ở miền Nam Iraq cách thủ đô Baghdad 350km về phía Đông Nam, cách Najaf 250km về phía Đông Đông Nam. Nó nằm dọc theo bờ sông Euphrates, khoảng 360 km về phía đông nam Baghdad, gần những tàn tích của thành phố cổ Ur. Dân số ở đây vào khoảng 560,000 người, khiến nó trở thành thành phố lớn thứ tư ở Iraq. Vào đầu thế kỷ 20, thành phố có một dân số đa dạng về tôn giáo gồm người Hồi giáo, người Manda và người Do Thái, nhưng ngày nay cư dân của thành phố này chủ yếu là người Hồi giáo Shiite.
Nasiriyah được thành lập bởi bộ tộc Muntafiq vào cuối thế kỷ 19 trong thời kỳ Ottoman. Nó đã trở thành một trung tâm giao thông vận tải lớn. Nasiriyah là trung tâm của khu vực trồng cây chà là. Các ngành công nghiệp tiểu thủ công của thành phố bao gồm đóng thuyền, làm mộc và làm các đồ trang trí bằng bạc. Viện bảo tàng thành phố có một bộ sưu tập lớn các hiện vật của người Sumer, Assyriô, Babylon và Abbasid. Tàn tích của các thành phố cổ đại Ur và Larsa nằm gần đó.
Vào ngày thứ Bẩy, 6 tháng Ba, sau cuộc viếng thăm xã giao với Đại Giáo Trưởng Ali al-Sistani của Hồi giáo Shiite, Đức Thánh Cha sẽ khởi hành bằng máy bay đi Nasiriyah.
Vùng đồng bằng Ur là quê hương ban đầu của tổ phụ Abraham trước khi ngài lên đường theo tiếng Chúa gọi để xây dựng quê hương mới ở Canaan.
Tại Nasiriyah, Đức Thánh Cha sẽ có cuộc gặp gỡ liên tôn với các tôn giáo lớn tại Iraq.
4. Thành phố Erbil
Erbil (tiếng Ả Rập:ھ ە ول ێ ر) được biết đến trong lịch sử cổ đại với danh xưng là Arbela, là thủ phủ và là thành phố đông dân cư nhất trong khu vực Kurdistan của Iraq. Thành phố có khoảng 1.5 triệu dân. Đây là thủ phủ của khu tự trị Kurdistan Iraq, cách Baghdad 370km về phía Bắc.
Con người đã có mặt tại Erbil từ thiên niên kỷ thứ 5 trước Chúa Giáng Sinh. Như thế, Erbil là một trong những khu vực có người sinh sống liên tục lâu đời nhất trên thế giới.
Thành phố có dân số đa dạng về sắc tộc gồm người Kurd, người Thổ, người Assyriô, người Ả Rập và người Armenia. Nó cũng đa dạng về tôn giáo không kém, với các tín đồ của Hồi giáo Sunni, Hồi giáo Shiite, Kitô Giáo, và các tín hữu Yazidi.
Sáng Chúa Nhật, 7 tháng 3, Đức Thánh Cha sẽ khởi hành bằng máy bay từ thủ đô Baghdad để bay đến Erbil.
Khi đến sân bay Irbil, ngài aẽ có cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo tôn giáo và dân sự của Khu tự trị người Kurdistan trong phòng khánh tiết của sân bay.
Sau cuộc gặp gỡ tại đây, Đức Thánh Cha sẽ khởi hành bằng trực thăng đến Mosul.
5. Thành phố Mosul
Mosul (tiếng Ả Rập: الموصل ) là một thành phố lớn ở miền bắc Iraq, nằm cách thủ đô Baghdad khoảng 400 km về phía bắc, và cách Erbil 80km về phía Tây Tây Bắc. Mosul nằm trên bờ tây của sông Tigris, đối diện với thành phố Ninivê cổ của người Assyriô ở bờ đông. Khu vực đô thị đã phát triển bao gồm các khu vực đáng kể ở cả hữu ngạn và tả ngạn của con sông Tigris.
Mosul, cùng với đồng bằng Ninivê gần đó, là một trong những trung tâm lịch sử của người Assyriô và các Giáo Hội của họ bao gồm Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Chanđê, Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Syria và các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương của người Assyriô, có lăng mộ của một số nhà tiên tri trong Cựu ước như tiên tri Giôna, một số đã bị bọn khủng bố Hồi Giáo IS phá hủy vào tháng 7 năm 2014.
Mosul là thành phố lớn thứ hai của Iraq sau thủ đô Baghdad, và là nơi đã diễn ra một trận chiến kỳ lạ nhất trong lịch sử cận đại. Trước sự ngỡ ngàng của thế giới, đêm 9 rạng 10 tháng 6, 2014 30,000 quân Iraq đồn trú trong thành phố Mosul, cùng với gần 30,000 cảnh sát liên bang, tức là gần 60,000 quân đã bỏ chạy tán loạn trước sức tấn công của một lực lượng chỉ từ 800 đến 1,500 quân khủng bố Hồi Giáo IS. Kho bạc, các kho vũ khí, các chiến xa và các khí tài chiến tranh khác được bỏ lại gần như nguyên vẹn.
Chiến thắng Mosul tạo ra một thanh thế rất lớn cho bọn khủng bố Hồi Giáo IS đến mức nhiều thành phố, làng mạc khác lần lượt rơi vào tay chúng. Trong thời cực thịnh của IS, một nửa nước Iraq và một phần ba Syria rơi vào tay chúng. Có lúc, chúng đã áp sát được đến tận thủ đô Baghdad.
Hơn 2 năm sau thất bại tại Mosul, quân Iraq mới hoàn hồn và mới dám mở cuộc tấn công giải phóng Mosul từ ngày 16 tháng 10, 2016 và đến ngày 9 tháng 7, 2017 mới chính thức giải phóng được thành phố này.
Khi đến Mosul, Đức Thánh Cha sẽ cầu nguyện tưởng niệm các nạn nhân chiến tranh tại Hosh al-Bieaa, nghĩa là quảng trường nhà thờ.
Trong trận chiến tại Mosul, quân Iraq thiệt mất 1,200 quân và 5,000 quân nhân bị thương. Quân Kurd tham chiến bên cạnh quân Iraq thiệt mất 30 quân và 100 quân nhân bị thương. Hoa Kỳ có 2 quân nhân bị giết và 20 người khác bị thương, Quân Iran chiến đấu bên cạnh lực lượng dân quân Hồi giáo Shiite có 3 người bị giết.
Về phía thường dân có 6,400 người thiệt mạng và 17, 124 người bị thương.
6. Thành phố Bakhdida
Bakhdida (tiếng Ả Rập: بخديدا ) còn được gọi là Baghdeda, hay Qaraqosh, là một thành phố của người Assyriô ở miền bắc Iraq trong tỉnh Ninivê, tọa lạc khoảng 39 km về phía Đông Nam thành phố Mosul và 60 km về phía tây Erbil trong bối cảnh đất nông nghiệp, gần đống đổ nát của các thành phố Assyriô cổ đại Nimrud và Ninivê. Nó được kết nối với thành phố Mosul bằng hai con đường chính. Tuyến đầu tiên nối vào trục đường Mosul - Erbil chạy qua các thị trấn Bartella và Karamles. Tuyến thứ hai được xây dựng những năm 1990, dẫn thẳng đến Mosul.
Qaraqosh là tên do người Thổ Nhĩ Kỳ đặt dưới thời đế quốc Ottoman. Từ đầu vùng này có tên là Bakhdida, theo tiếng Aramaic có nghĩa là “Vùng đất của loài chim Kite”. Dân chúng trong vùng gần như toàn tòng theo Công Giáo nghi lễ Syria hay theo Chính Thống Giáo Syria. Đến nay họ vẫn dùng tiếng Aramaic là ngôn ngữ Chúa Giêsu nói khi xuống thế làm người.
Ngày 6 tháng 8, 2014, trước sức tấn công của bọn khủng bố Hồi Giáo IS, toàn bộ dân chúng dưới sự hướng dẫn của các linh mục dắt nhau bỏ chạy về thành phố Erbil. Thành phố không còn một ai nên có thời gọi là thành phố ma. Quân IS sau khi chiếm được thành phố đã nổi lửa đốt cháy toàn bộ các nhà thờ trong vùng. Ngày 19 tháng 10, 2016 thành phố mới được giải phóng.
Đức Thánh Cha sẽ có cuộc gặp gỡ với cộng đoàn địa phương tại nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ở Qaraqosh.
Ngôi nhà thờ này có một kỷ niệm đặc biệt với vị Hồng Y người Pháp nguyên Tổng Giám Mục Lyon là Đức Hồng Y Philippe Barbarin.
Ngày 29 tháng 7, 2014 tức là khi bọn khủng bố Hồi Giáo IS đã chiếm được Mosul hơn một tháng, Đức Hồng Y Philippe Barbarin đến thăm vùng này và dâng lễ với họ. Chỉ một tuần sau, dân chúng bỏ chạy về thành Erbil. Ngài ngậm ngùi gặp lại họ ở đó.
Ngay sau khi Mosul vừa được giải phóng, Đức Hồng Y đã quay lại gặp gỡ anh chị em giáo dân ở đây vào ngày 25 tháng 7, 2017.
Giảng trong thánh lễ, Đức Hồng Y ngậm ngùi nói: “Lần chót tôi đến đây là vào ngày 29 tháng 7 năm 2014. Nhà thờ thật huy hoàng, lộng lẫy, có cả một ca đoàn, lúc đó nhà thờ còn chật đầy người. Hôm nay trở lại sau bao nhiêu những bạo lực và cướp bóc, lòng tôi buồn khôn tả. Nhưng đồng thời thấy vùng đất đang được hồi sinh, tôi cũng tràn trề hy vọng.”
Bên ngoài một nhà thờ tại Mosul, ngài đã nhờ những người Iraq công kênh ngài lên để ngài tự tay đặt một tượng Đức Mẹ do ngài mang từ Lyon sang.
Đức Hồng Y nói: “Bức tượng nhỏ này là một biểu tượng đẹp cho tình huynh đệ mạnh mẽ mà tôi hy vọng đã thêm vào một điều gì đó mà trong trường hợp nào cũng có thể chuyển hoá chúng ta. Chúng tôi nhận thức rằng ta không thể sống bằng cách nhìn mọi thứ từ xa và đọc xem người ta đau khổ như thế nào trên báo chí. Chúng ta phải sống với họ.”
Mosul (Thông tấn xã Fides 1/3/2021) – Đất nước Iraq đang chuẩn bị chào đón Đức Thánh Cha Phanxicô thì các tín hữu ở Iraq cũng tưởng nhớ ĐTGM Paulos Faraj Rahho, Tổng giám mục Giáo phận Mosul, kỷ niệm mười ba năm ngày ngài bị bắt cóc và bị sát hại, và nhiều người yêu cầu chính phủ mở cuộc điều tra để làm sáng tỏ những bí ẩn chung quanh cái chết của ĐTGM.
Vào ngày 29 tháng 2 năm 2008, chiếc xe mà Đức Tổng Giám Mục dùng, đã bị tấn công bởi một nhóm người vũ trang không rõ danh tính. Lúc đó Đức Tổng Giám Mục Rahho, vừa rời khỏi nhà thờ Chúa Thánh Thần, nơi ngài cử hành Đàng Thánh Giá. Người lái xe và hai người đồng hành với ĐTGM bị chết ngay lập tức, còn Đức Tổng Giám Mục thì bị bọn họ bắt đi. Sau nhiều ngày thương lượng căng thẳng để giải cứu ĐTGM ra, thì thi thể bất động của Ngài được tìm thấy vào ngày 12 tháng 3, gần một nghĩa trang bỏ hoang ở vùng Karama. Nguyên nhân cái chết của Ngài chưa bao giờ được làm sáng tỏ.
Giờ đây, trong khi Mosul đang chuẩn bị chào đón Đức Thánh Cha Phanxicô trong chuyến tông du sắp tới, thì hãng thông tin ankawa.com đưa ra lời kêu gọi chính quyền hãy mở lại hồ sơ điều tra vụ bắt cóc này, để đưa những kẻ có tội ra trước pháp luật và hành động tội ác này phải được phân xử!
Hậu quả của cuộc can thiệp quân sự do Hoa Kỳ dẫn đầu vào năm 2003, nhằm lật đổ chế độ Saddam Hussein, thì thành phố Mosul trở thành nơi leo thang bạo lực, tội ác và bắt các Kitô hữu.
Thượng Hội đồng Giám mục Chaldean vào tháng 9/2016 (xem Fides, 2/9/2016) đã đề nghị mở hồ sơ phong chân phước cho Đức Tổng Giám Mục Rahho và linh mục Chaldean Raghiid Aziz Ganni và Sơ Cecilia Moshi Hanna, bị giết ở Baghdad trong năm 2002.
Vào tháng 5 năm 2018 (xem Fides, 14/5/2018), Bộ Phong thánh đã chấp thuận để thu thập những gì cần thiết cho quá trình phong thánh cho Cha Raghiid Ganni và ba phó tế - Basman Yousef Daud, Wahid Hanna Isho và Gassan Isam Bidawid - bị giết cùng với cha Ganni vào ngày 3 tháng 6 năm 2007 khi bọn khủng bố tấn công vào nhà thờ Chúa Thánh Thần ở Mosul.
Và cuối tháng 10 năm 2019, tiến trình phong thánh cấp giáo phận được hoàn tất để phong nên hàng Chân phước và Tuyên bố sự Tử đạo của 48 tôi tớ của Chúa, những người đã bị giết vào ngày 31 tháng 10 năm 2010 tại Baghdad do một cuộc tấn kích khủng bố vào nhà thờ Công Giáo Syria dâng kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở Baghdad. (GV) (Agenzia Fides, 1/3/2021)
*ĐTC Phanxicô ban Tông thư Patris Corde (Trái tim Người Cha)
Công bố Năm Đặc biệt Kính thánh Giuse từ 8/12/20- 8/12/21.
Thiên đàng trần thế ngợi ca danh Ngài.
Ngài là Dưỡng Phụ tuyệt vời,
Cần lao cầu nguyện suốt đời tín trung.
Hàng năm Giáo Hội giành 3 Lễ dâng kính và tôn vinh Thánh Cả Giuse:
- 19/3 Quan Thày Hội Thánh và các gia trưởng.
- 1/5 Quan Thày công nhân hay thường gọi là Lễ Thánh Giuse Thợ ( cũng là ngày Quốc Tế Lao Động )
- 27/12 Kính Thánh Gia
và dâng kinh nguyện Thứ tư trong tuần.
Vị Đại Thánh lãnh nhận trọng trách vinh dự cao sang tột đỉnh:
- Gia Trưởng Thánh Gia.
- Phu Quân Trinh Nữ Maria.
- Dưỡng Phụ Đấng Cứu Thế.
Nhưng cuộc đời Ngài rất trầm lặng khiêm tốn, không nói một lời, không ghi lại ngày sinh và lúc từ trần… mà Phúc Âm chỉ ghi lại vài dòng như một hình bóng thoáng qua:
-Theo gia phả Chúa Giêsu, Thánh Giuse thuộc dòng dõi vua Đa-vít.
“…Giacóp sinh Giuse chồng của Maria, người sinh ra Đức Giêsu gọi là Kitô.
Tổng cộng các đời lại, thì từ Abraham đến Đavít là 14 đời, từ Đavít đến thời lưu đầy Babylon là 14 đời, từ thời lưu đầy Babylon đến Đức Kitô là 14 đời.” ( Mt.1: 16 & 17 )
-Giuse đính hôn với Maria ( Báo mộng lần 1 ).
“Đây là chuyện Đức Giêsu sinh ra: Maria Mẹ Ngài đã đính hôn với Giuse, trước khi ông bà về chung sống với nhau, thì bà đã có thai do tự Thánh Thần. Giuse chồng bà là người công chính, không muốn tố giác bà, định âm thầm ly dị. Sau khi ông đã quyết tâm như vậy, thì Thiên Thần hiện ra với ông trong giấc mộng bảo rằng ‘Giuse con vua Đavít, chớ sợ rước Maria về nhà, vì thai nơi bà do tự Thánh Thần, bà sẽ sinh con trai và ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi.” (Mt.1: 18- 21 )
-Giuse đi Belem và Chúa Giáng Sinh.
“Trong những ngày ấy, Hoàng đế Augustô ra sắc lệnh kiểm tra toàn thể thiên hạ. Việc kiểm tra này đã thi hành lần đầu thời Quirintô trấn nhiệm xứ Syri và mọi người phải đi khai sổ bộ, ai về thành nấy. Ông Giuse thuộc xứ Galilê, cũng từ thành Nazareth lên xứ Giuđê, tới thành của Đavít gọi là Belem vì ông thuộc dòng dõi Đavít để khai sổ bộ cùng Maria đã đính hôn với ông và hiện bà đang thai nghén. Xảy ra là khi hai ông bà đang ở đó, thì đã mãn những ngày thai nghén đến buổi lâm bồn. Bà đã sinh Con Trai đầu lòng và lấy tã vấn con đặt nằm trong máng cỏ, vì không có chỗ cho ông bà trong quán trọ,” ( Lc.2: 1- 7 )
- Dâng Chúa trong Đền Thờ.
“Và khi đã đầy ngày, lúc phải tẩy uế cho các đấng theo luật Môsê, thì ông bà đem Hài Nhi lên Đền thờ Jerusalem tiến dâng cho Thiên Chúa như đã viết trong lề luật là mọi con trai đầu lòng được gọi là của thánh dâng kính Chúa, chiếu theo điều dạy trong luật để dâng làm lễ tế với một cặp chim gáy hay hai bồ câu tơ.” ( Lc.2: 22- 24 )
-Trốn sang Ai-Cập ( Báo mộng lần 2 ).
“Họ lui về rồi, thì Thiên Thần hiện ra trong giấc mộng bảo Giuse ‘Hãy chỗi dậy đem Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập và cứ ở đó cho đến khi ta báo lại, vì Hêrôđê đang lùng bắt Hài Nhi để giết’
Chỗi dậy ông đã đem Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn qua Ai Cập và ở đó đến mãn đời Hêrôđê, ngõ hầu được trọn lời Chúa phán với vị tiên tri: ” Từ Ai Cập ta đã gọi Con Ta về.” ( Mt.2: 13- 15 )
-Trở về Nazareth ( Báo mộng lần 3 ).
“Hêrôđê chết rồi, thì Thiên Thần Chúa lại hiện ra trong mộng với Giuse và bảo ‘ Hãy chỗi dậy đem Hài Nhi và Mẹ Ngài về Israel, vì những kẻ tìm hại tính mạng Hài Nhi đã chết rồi’ Ông liền chỗi dậy và đem Hài Nhi cùng Mẹ Ngài về Isarel. Nhưng nghe tin Akhêlaô lên làm vua Giuđê thay cha là Hêrôđê, ông sợ không dám về đó, được báo mộng ông lui về
miền Galilê và lập cư tại thành Nazareth, hầu ứng nghiệm lời các tiên tri đã nói ‘Ngài sẽ được gọi là Nazareth’ “ ( Mt.3: 19- 23 )
-Tìm thấy Chúa trong Đền Thờ.
“Hàng năm cha mẹ Ngài lên Jerusalem vào dịp lễ Vượt Qua. Khi Ngài lên 12 tuổi, ông bà cũng đi theo thông lệ để dự lễ. Khi các ngày ấy đã mãn, ông bà trở về, thì trẻ Giêsu ở lại Jerusalem mà cha mẹ Ngài không hay, nghĩ là Ngài có trong đoàn lữ hành, nên ông bà đi một ngày đàng, rồi cố tìm Ngài trong đám bà con họ hàng quen thuộc, nhưng không tìm ra, ông bà mới quay trở lại Jerusalem để tìm Ngài.
Xảy ra sau 3 ngày, ông bà đã gặp Ngài trong Đền Thờ, ngồi giữa các tấn sĩ nghe và hỏi họ. Mọi kẻ nghe Ngài đều sửng sốt về trí thông minh và về các lời Ngài đối đáp. Thấy Ngài, ông bà thất kinh và Mẹ Ngài nói với Ngài ‘Này con, sao con làm thế? Này cha con và mẹ phải đau khổ tìm con.’ Nhưng Ngài đáp lại ‘Tại sao tìm con, lại không biết con phải ở nơi nhà cha con sao?” Nhưng ông bà không hiểu lời Ngài nói với họ. Ngài đã xuống với ông bà về Nazareth và tùng phục hai ông bà. Còn Mẹ Ngài thi giữ kỹ các điều ấy trong lòng. Và Đức Giêsu tấn tới thêm về khôn ngoan, vóc dáng cùng ân sủng, trước mặt Thiên Chúa và người ta.” ( Lc.2: 41- 52 )
*Cuộc đời Thánh Giuse được tường thuật qua Tin Mừng chỉ gom lại vỏn vẹn trong một trang giấy nhỏ, nhưng từ đó đã khơi nguồn cho một kho tàng vô biên – như một dòng suối trong lành đổ vào đại dương Tình yêu bao la - về cuộc đời gương mẫu tuyệt vời của vị Đại Thánh mà mọi người cúi đầu tôn kính:
-Một số hệ phái tôn giáo Chính Thống và Anh Giáo cũng tôn kính Ngài.
-Từ thế kỷ 4, các Giáo phụ Đông Phương như Ephraem, Gioan Damasceno, Gioan Kim Khẩu đề cao đời sống thanh khiết
của Thánh Giuse qua câu nói bất hủ của Thánh Ephraem ‘ Không ai có thể ca ngợi Thánh Giuse cho xứng đáng ‘
-Còn các Giáo phụ La tinh như Thánh Hierônimô và Augustinô nhấn mạnh đến sự công chính của Ngài.
-Việc tôn kính Thánh Giuse phảt triển mạnh với phong trào Thập Tự Quân còn ghi lại nơi các Thánh đường tại Nazareth.
-Nhiều quốc gia nhận Ngài là Đấng bảo trợ như Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Peru, Áo, Bỉ, Việt nam …
-Nhiều Vị Thánh đã sống theo gương mẫu của Ngài.
-Thánh Teresa Avila dâng kính Dòng Cát Minh cho Thánh Phụ và đã xác quyết trong câu ‘Tôi xin Thánh Giuse điều gì cũng được. Nếu ai không tin hãy thử xem. ‘
-Năm 1479, Giáo Hoàng Sixto đã đưa Lễ kính 19/3 vào sách nguyện Roma.
-Năm 1621, Giáo Hoàng Gregoriô 15 ban Sắc chỉ Lễ Kính Thánh Giuse là Lễ buộc và kiêng việc phần xác.
-Ngày 19/3/1661, vua Louis 14 hiến dâng nước Pháp cho Thánh Phụ.
-Giáo Hoàng Ubrano 7 nâng thành ngày lễ buộc kính Thánh Giuse. -Năm 1677, Công tước Áo Leopoldo 6 tôn Thánh Cả là Đấng bảo vệ quốc gia.
-Năm 1870, Giáo Hoàng Piô 9 tôn vinh Thánh Nhân là Quan Thày toàn thể Giáo Hội.
-Năm 1889, Giáo Hoàng Lêô 13 ban hành Thông điệp chọn tháng 3 kính Thánh Giuse.
-Năm 1989, Thánh GH Gioan Phaolô 2 ban hành Tông huấn Redemtoris Custom (Người Giám Hộ Đấng Cứu Thế)
-Năm 1955, ĐTC Piô 12 công nhận ngày 1/5 Lễ kính Thánh Giuse Thợ.
-Ngày 19/12/2010, Giáo Hoàng Biển Đức 16 phó dâng Thế giới cho Thánh Giuse.
-Mấy năm trước, ngày 12/2/17 báo Le Soir đã viết về lòng mến mộ và dâng hiến mọi khó khăn của Đức Thành Cha Phanxicô đối với Thánh Cả Giuse như sau: “ …Thật vậy, ĐTC cho biết là Ngài đã viết trên những miếng giấy nhỏ những vấn đề nan giải và trao cho Thánh Giuse, để dưới chân tượng nhỏ của Thánh. Bây giờ thì tượng này đè trên một đống thư tràn ra như tấm thảm. ĐGH người Á-căn-đình, tuổi đã trên bát tuần kể tiếp: ‘Do vậy mà tôi ngủ ngon giấc’ và Ngài còn nhấn mạnh: ‘ Tôi không uống thuốc an thần đâu ‘.
-Trên thế giới nhiều thánh đường, dòng tu, tổ chức từ thiện, địa điểm hành hương, du lịch mang tên Thánh Giuse.
-Từ năm 1950, ba trung tâm thần học Giuse được thành lập tại Valladolid (Tây ban Nha)- St Joseph Oratory (Montreal)-
Logate Viterbo (Ý).
-Cùng các địa danh du lịch nổi tiếng như San Jose, California – San Jose, Costa Rica – San Jose, Dimaget (Quần đảo thuộc
Phi luật Tân )
-Nhưng có hai địa điểm hành hương nổi tiếng nhất, mỗi năm thu hút hàng triệu người đến thăm viếng cầu nguyện,xin ơn lành đã được toại nguyện, đó là:
Đại Thánh Đường Thánh Giuse tại Montreal, Canada và Chiếc thang kỳ diệu nơi nguyện đường Loretto, Santa Fe, New
Mexico, Hoa Kỳ mà người ta tin rằng chính Bác Thợ Mộc Giuse đã hoàn thành.
*Riêng tại Việt Nam Thánh Cả Giuse rất được tôn kính như một truyền thống lâu đời:
-Ngày 14/2/1670, Giám Mục Pierre Lambert de la Motte họp cộng đồng tại Phố Hiến, Hưng Yên long trọng tôn nhận Thánh Giuse là Bổn Mạng Giáo hội Đàng ngoài.
-Ngày 17/8/1678, ĐTC Innocente 11 đáp ứng thỉnh nguyện của các Giám Mục ban hành Tông huấn Sacrosancti Apostolatus (Thánh vụ Tông đồ) công nhận Thánh Cả là Quan Thày các Địa phận truyền giáo tại Trung Hoa và Việt Nam.
-Ngày 6/11/1997, Hội nghị các Giám Mục tại Hà Nội tôn vinh Thánh Giuse làm Bổn Mạng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.
-Ngày 9/10/2013, Ủy ban Phụng Tự Hội đồng Giám Mục ra thông báo việc đọc tên Thánh Giuse trong các kinh nguyên Thánh Thể.
-Các Giáo phận Hà Nội, Đà Lạt, Xuân Lộc, Thanh Hóa nhận Ngài là Bổn Mạng.
-Ngài cũng là Quan Thày Dòng Mến Thánh Giá VN.
-Tại Nha Trang có Dòng Anh Em hèn mọn Giuse.
-Ba Đại chủng viện mang tên Ngài tại Hà Nội, Sài Gòn và Xuân Lộc.
-Nhà thờ cổ kính Hà Nội mang danh Ngài.
-Tại nhiều Giáo xứ, Giáo họ trong nước có nhiều nhà thờ hay nguyện đường kính Thánh Nhân.
-Nam giới rất nhiều người nhận Thánh Bổn Mạng Giuse.
*Chúng ta có thể noi gương nhiều nhân đức nơi Thánh Cả Giuse, nhưng 3 nhân đức nổi bật nhất:
-Trầm lặng: Suốt cả cuộc đời không có một lời nói nào của Ngài được các Thánh Sử ghi lại, chỉ thinh lặng lắng nghe tiếng nói nội tâm, chân thành với Thánh ý hướng dẫn.
-Cần lao: Tuy thuộc dòng dõi vương giả, nhưng Ngài vui nhận cuộc đời khó nghèo vất vả với nghề thợ mộc để dưỡng nuôi Chúa Cứu Thế và Mẹ Maria, làm trọn bổn phận gia trưởng.
-Vâng phục: Cả 3 lần chỉ được Thiên Thần báo trong giấc mộng, Ngài đã vâng lời nhận Trinh Nữ Maria về nhà mình, mau
mắn không quản ngại đường xa gian nguy khổ cực, đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cấp và hồi hương về Nazareth.
Có một số người cho rằng tên Joseph đã gói trọn các nhân đức của Thánh Cả như sau:
Justitia ( Công chính ) - Oboedictia ( Vâng lời ) - Sapientia ( Khôn ngoan )- Experienta ( Kinh nghiệm )-Patientia (Kiên nhẫn) Humilitas ( Khiêm nhu )
*Điểm đặc biệt về cuộc đời Thánh Giuse lúc sinh thời sống một đời rất đơn giản như mọi người, làm nghề tầm thường để
nuôi Thánh gia, không làm phép lạ như nhiều Vị Thánh và người dân gọi với tên đơn sơ thân mật ‘Bác Thợ Mộc’,nhưng lúc chết lại trở thành cao trọng và quyền thế trước mặt Thiên Chúa. Biết bao ơn phúc Thiên Chúa ban cho nhân loại qua lời bầu cử của Ngài, trong đó có 7 ơn rất cần cho đời sống thiêng liêng của mỗi người chúng ta:
1-Ơn lướt thắng những cám dỗ trái ngược đức khiết tịnh.
2-Ơn được xám hối bỏ đàng tội lỗi.
3-Ơn tôn sùng Đức Mẹ Đồng Trinh,
4-Ơn khỏe mạnh phần xác.
5-Ơn được an ủi nâng đỡ lúc đau khổ.
6-Ơn được chết lành.
7-Ơn có người thừa tự xứng đáng trong gia đình Công Giáo.
*Tôi nhớ mãi những kỷ niệm về Thánh Giuse trong những tháng năm tuổi thơ nơi quê nhà. Họ đạo tôi có ngôi Thánh Đường kính Thánh Giuse, tháp chuông cao vút nổi bật giữa làng quê nghèo. Mỗi chiều thứ tư hàng tuần, tiếng chuông mời gọi, giáo dân vội vàng rời ruộng vườn qui tụ về Thánh đường đọc kinh cầu nguyện, ca hát dâng kính Thánh Cả.
Đặc biệt mỗi năm, trước Lễ Quan Thày họ đạo một tuần, có Cha từ Nhà Chung Giáo Phận về mở Tuần Đại Phúc. Không khí
vui tươi nhộn nhịp như ngày Tết, Thánh Lễ tôn nghiêm trọng thể, ánh đèn nến lung linh bao quanh kiệu rước Thánh Quan Thày vòng quanh nhà thờ. Tiếng kinh cầu nguyện, tiếng hát dâng cao, hòa trong tiếng chiêng trống rên vang…khiến bày chim sẻ bay lượn trên mái giáo đường cũng ríu rít chung vui. Cuôc thi Giáo lý sôi nổi giành cho thiếu nhi có phần thưởng
và tiệc vui phấn khởi mừng Lễ Thánh Quan Thày, cùng chia tay cảm động tiễn đưa Linh Mục về Giáo phận.
Ôi giờ đây, dù xa quê hương nửa vòng cầu nhưng kỷ niệm êm đềm về Họ Đạo vẫn còn in dấu trong tôi không thể phai mờ.
*KINH THÁNH GIUSE.
Chúng con đội ơn Thánh Giuse, thuở xưa Thiên Thần hiện đến an ủi Ngài rằng: Giuse là con vua Đavít, chớ lo sợ sự làm bạn cùng Rất Thánh Đồng Trinh Maria, vì trưng Con Người đã chịu thai trong lòng Bà, do bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà có.
Vậy Bà sẽ sinh một Con Trai đặt tên là Giêsu.
Chúng con xin Thánh Giuse cầu cho chúng con.
Đấng chịu lấy những sự Chúa Kitô đã hứa- Amen.
*Lời nguyện.
Lạy ơn Đức Chúa Trời là Đấng Thương Trí vô cùng, đã chon Thánh Giuse làm bạn cùng Rất Thánh Đức Mẹ. Xin giúp sức cho chúng con biết lòng kính mến Thánh Giuse là Đấng Bảo Trợ cho chúng con ở thế gian này, nhát là cất khỏi chúng con những khốn khó trong mùa đại dịch này, để đáng được ơn Ngài cầu bầu cho chúng con trước mặt Thiên Chúa. Vì Đức Giêsu Kitô là Chúa chúng con.
ĐINH VĂN TIẾN HÙNG
Phải giam trong nhà, cả ngày ai cũng ôm cái TV và mạng lưới. Suốt ngày toàn tin Cô Vít 19, tin tân vương Biden và cựu vương Trump, tin quân đội Miến Điện làm đảo chính và dân xuống đường, tin các tàu chiến quốc tế tới Biển Đông... Đúng phải vậy không cơ?
Xin bỏ qua các chuyện này để các cụ bớt nhức đầu, tôi xin kể hầu các cụ những chuyện khác nha. Tin đầu tiên là cuối năm vừa qua, Canada vừa tìm ra một mỏ vàng và kim cương lớn ở vùng Nunavut miền cực bắc. Vàng và kim cương lẫn với nhau. Mỏ này lớn như mỏ vàng Witwatersand Goldfield ở Nam Phi hiện nay. Canada đã giầu nay sẽ giầu thêm nữa các cụ ơi. Tin thứ hai là tin Canada vừa được đứng đầu danh sách số 1 về chất lượng cuộc sống trong năm 2020 vừa qua, đây là lần thứ 5 Canada được xếp hạng như vậy. Trong danh sách ‘Top 10’, sau Canada là Đan Mạch, Thụy Điển và Na Uy…Canada ngon lành như vậy hèn chi mà bà Kamala Harris phó vương bên Hoa Kỳ thuở thập niên 1970 đã sang học 4 năm Trung học ở đây, miền Montreal của tinh bang Quebec đấy các cụ ạ.
Nghe tôi nói vậy thì ông bồ chữ Từ Hòe cười hà hà. Ông bảo không biết tương lai của bà phó vương này sẽ ra sao, nhưng xem buổi lễ bà tuyên thệ nhậm chức phó tổng thống thì thấy cũng kỳ lạ. Quốc vương Biden tuyên thệ xong thì đến lượt bà. Bà cũng như Vua Biden đều đặt tay trên sách Thánh Kinh. Có điều kỳ lạ là bà để ví tiền trên cuốn thánh kinh. Tay bà, rồi ví tiền, rồi mới tới cuốn Thánh Kinh. Kỳ ha.
Xin hết chuyện Hoa Kỳ, xin được nói về tin quốc tế : Theo các nguồn bí mật cho biết : hiện Trung Cộng đã đổ vào Canada 800 tỷ đô la. Họ tràn ngập miền tây, con cái họ đi học toàn lái các loại xe xịn nhất. Họ chọn mua những cơ sở thương mại to nhất, ở những căn nhà sang trọng nhất. Họ sống vương giả trên miền đất hạnh phúc này.
Ông ODP bồ chữ của làng An lạc chúng tôi nói ngay : Họ đang trả thù cho mối hận ngày xưa đấy mà. Nhiều hội viên trong làng không hiểu gì nên ông bồ chữ giải thích : Hồi Canada lập quốc, giới da trắng là vua kì thị trên đất nước này. Những năm 1881-85 có khoảng 15.000 người Hoa đến đây thì 6.500 người phải đi làm cho đường sắt Canadian Pacific Railway. Họ là những nhân công cực khổ nhất, làm việc nặng nhọc nhất, và được người da trắng gọi là cu-ly. Khi đường sắt nối liền đông-tây Canada làm xong thì Da Trắng làm luật cấm người Hoa đến Canada. Trong 38 năm liền, người Hoa muốn vào Canada phải đóng thuế đầu người. Năm 1885 thuế đầu người là 50$, năm 1900 tăng lên 100$, năm 1903 tăng lên 500$. Sổ thuế còn ghi rõ ràng : Từ năm 1885 đến 1923 Canada đã thu thuế ‘head tax’ được 23 triệu đồng, lúc đó lương công nhân là 5$ một tuần. Phong trào chống người Hoa rất mạnh. Năm 1907 Hơn 5 ngàn người da trắng xuống đường chống người Hoa và đuổi người Hoa về nước. Họ vừa hò hét vừa ném đá vào người Hoa. Nhiều cơ sở của người Hoa bị phá. Nhiều người Hoa từ Vancouver đã trốn sang Toronto. Thế chiến thứ I, người Hoa được nhập lính Canada, nhưng là lính bậc 2, không cầm súng mà chỉ cầm cuốc xẻng để đào hầm cho lính da trắng. Thế chiến thứ hai, người Hoa đóng góp rất nhiều cho Canada về nhân lực lẫn tài lực, do đó người da trắng mới bắt đầu nể người Hoa. Phải đợi đến đời thủ tướng Pierre Trudeau làm ra luật Đa Văn Hóa, Policy of Multiculturalism, người Hoa mới được dễ dàng đoàn tụ với gia đình ở Canada.
Sau người Tàu, người Ấn Độ cũng bị kỳ thị ở Canada. Năm 1908 có hơn 5 ngàn người Ấn Độ tới Canada, nhưng toàn là đàn ông và phải trả 200$ một đầu người. Năm 1911 Canada chỉ nhận thêm 2.342 người Ấn, trong khi nhận 100.000 người da trắng Ukranian. Mãi tới năm 1947 Canada mới thôi đuổi người Ấn Độ, và họ mới có quyền đi bầu. Thời đó báo chí ghi rằng dân Canada nhìn ai thì đầu tiên họ nhìn tới màu da, rồi tới phái tính. Báo chí Canada thời đó chê người Ấn Độ là dân ‘cà ri hôi hám’. Kẹt và xui một cái là người Ấn Độ luôn chia rẽ nhau vì tôn giáo : đạo Sikh, đạo Muslim, đạo Hindu.
Ngoài người Tàu và người Ấn Độ, người Nhật cũng bị nạn nữa. Năm 1941 Nhật ném bom Trân Châu Cảng, lúc đó ở Canada có vào khoảng 20.000 người Nhật. Do áp lực của Mỹ, Canada đã bắt gom những người Nhật này vào các trại tập trung ở B.C. miền tây. Năm 1988 thủ tướng Canada là ông Mulroney đã chính thức xin lỗi người Nhật về sự bất công này…
Nghe ông ODP kể đến đây thì Chị Ba Biên Hòa lên tiếng : Người Việt chúng ta thật là có phước và may mắn. Năm 1975, người Việt tỵ nạn đã được Canada mở cửa đón tiếp thân ái nồng nàn. Chúng ta thế hệ thứ nhất đã hội nhập và phát triển, đã sinh hoa kết trái rực rỡ trên mảnh đất phì nhiêu và đầy tình người này.
Rồi Chị Ba miên man sang lãnh vực con cháu, tức thế hệ thứ hai. Chị kể năm ngoái khi chưa có dịch Cô Vít, chị đến thăm một bà bạn. Bà đẻ thêm tới ba người con trai lận. Bà chỉ vào hình chụp 3 cậu con trai đã lập gia đình. Bà chỉ vào ông con trai thứ nhất rồi kể : Tôi có bầu thằng này rồi vượt biên. Ôi chuyến đi hãi hùng, nhưng rồi cũng tới được Thái Lan. Sống lây lất ở trại mấy tháng rồi do tổ tiên phù hộ chúng tôi được Canada nhận, cháu sinh ở Canada nhưng có gốc ở Việt nam. Chỉ thằng này có gốc ở VN nên mặt mũi trông cứng rắn hơn hai em nó. Đây là Út Hai, đây là Út Ba. Cả ba thằng đều là kỹ sư cơ khí, làm cho hải quân. Ông xã tôi gốc hải quân mà.Tôi hỏi thằng Út bốn đâu thì chị bạn cười khì khì : cột rồi ! Dân Canada có ai đông con như bọn tôi đâu ! Bà bạn tôi có tới 6 con lận, 3 gái sinh ở VN, 3 trai sinh ở Canada.
Cụ B.95 nghe xong chuyện này thì quay vào anh John: Chi Ba đã kể xong, bây giờ đến lượt anh. Anh kể chuyện gì hay hay của Canada đi. Anh John liền gãi đầu rồi thưa : Canada thì nhiều chuyện lắm, cháu chưa biết chọn chuyện gì. Nhân nghe bác Từ Hòe nói tới thời sự Miến Điện, phe quân nhân đảo chính, cháu liền nghĩ tới chuyện sợ vợ ở Miến Điện. Sách chép là chuyện gốc Miến Điện, có người bảo chuyện này gốc bên Lào, nhưng không sao, gốc nước nào cũng được, ý chuyện mới là chính. Rằng ngày xưa có một ông vua Miến Điện, rất hiền lành và đạo đức nổi tiếng. Ông hay ngồi thiền, và mỗi lần thiền thi ông thấy mình chưa hạnh phúc hoàn toàn vì ông có tật sợ vợ. Ông nghĩ : trên đời này, anh chồng nào không sợ vợ mới là người có hạnh phúc thật. Ông muốn được xem con người hạnh phúc này mặt mũi ra sao, khác ông chỗ nào. Trong dinh ông có một con bạch mã rất đẹp mà ông rất quý. Ông liền gọi một cận thần lại và bảo : Ngươi hãy đi khắp nước tìm cho ta một người chồng nào không sợ vợ, rồi hãy nhân danh ta thưởng cho người đó con bạch mã quý báu này. Vị cận thần này đi hầu như khắp nước mà không tìm được ai. Nhưng may là ngày cuối cùng khi ông toan dắt con bạch mã về trả lại cho vua thì anh gặp được quý nhân. Ai cũng bảo anh này không bao giờ sợ vợ. Chính anh ta cũng tự nhận như vậy. Thế là vị cận thận bèn thay mặt vua thưởng cho anh ta con bạch mã. Và vị cận thần này sung sướng ra về vì đã chu toàn phận sự. Anh phải đi mất một tuần mới về tới dinh vua. Anh vào trình vua về sứ mạng hoàn tất. Lúc anh vừa bước ra khỏi cung thì cái anh không sợ vợ kia cỡi con bạch mã cũng vừa tới. Anh trình rằng vợ anh không thích con bạch mã, vợ anh muốn trả lại con bạch mã để đổi lấy con hồng mã cơ. Nghe xong, vị cận thần này liền xây xẩm mặt mũi rồi té xuống đất bất tỉnh.
Cả làng khen chuyện hay và vỗ tay rất lâu. Được hứng, anh John xin kể một chuện thứ hai, và anh bảo chuyện này có gốc Canada. Rằng trong ngày cuối năm khi các táo thần về chầu, ngọc hoàng liền nảy ra cái ý kiến tìm hiểu. Ngọc hoàng phán rằng hôm nay ta muốn biết một việc mà ta nghe nói chỉ ở trần gian mới có, đó là vấn đề sợ vợ. Bây giờ các ngươi hãy chọn đứng vào một chỗ cho đúng : Ai có tật sợ vợ thì đứng bên phải ta, còn ai không bao giờ sợ vợ thì đứg bên trái. Tức thì các sứ thần trần gian răm rắp chạy qua phía bên phải hết, trừ có một sứ thần hình như gốc Việt Nam, cứ lúng túng không biết đứng chỗ nào. Ngọc hoàng liền hỏi : Nhà ngươi có sợ vợ không? Anh ta thưa rằng có. Ngọc hoàng bèn hỏi sao ngươi không đứng về bên phải. Táo thần này bèn quỳ xuống rồi tâu : Vợ thần dặn rằng hễ thấy chỗ nào đông người thì phải tránh xa ngay !
Cả làng liền vỗ tay râm ran khen hay. Mấy cô trong phe các bà nói thêm : Anh John hãy xem lại tài liệu đi, chắc ông sứ thần này không phải gốc VN đâu. Dám cũng gốc Miến Điện quá !
Bà Cụ B.95 tỏ ý không muốn nghe chuyện sợ vợ nữa, anh John liền thưa rằng sở dĩ đàn ông có bệnh sợ vợ là vì đàn bà lý sự giỏi lắm nên đàn ông không cãi lại được. Sử còn ghi chuyện này để chứng minh. Rằng có một ông phú hộ kia lấy phải vợ già nên ông chán, bỏ bê nhà cửa, quay ra ăn chơi cờ bạc, hút xách và gái gung. Một bữa kia ông nghe tin từ bạn thân là vợ ông ngủ với một tên ăn mày. Ông giận lắm, ông liền về nhà làm dữ với vợ :
Thật là hết nói ! tại sao bà lại làm cái việc động trời này? Hết người rồi sao mà bà lại làm cái việc đó với thằng ăn mày?
Bà vợ già thản nhiên đáp :
Tại nó năn nỉ tôi quá nên tôi xiêu lòng!
Nó năn nỉ thế nào khiến bà xiêu lòng?
Nó nói : Lạy bà, xin bà thương, bà thấy trong nhà cái gì không xài nữa thì bà cho con !
Mấy bà cười rũ ra. Cô Huế Tôn Nữ lên tiếng : Liền bà có hư là vì liền ông nhiều máu dê quá. Tôi xin kể chuyện này để chứng minh : Rằng có một chàng công tử nhà giàu độc thân kia đi Huế nghỉ hè. Qua bạn bè giới thiệu, chàng được ở trọ một gia đình quý tộc. Gia đình này có 3 cô con gái rất đẹp. Chàng công tử này trổ tài chinh phục và cả 3 cô đều thích anh ta. Anh đã có một tháng hè hạnh phúc. Hết hè anh trở lại Saigon. Một tháng sau anh nhận được điện tín ông bố ba cô gái gửi khẩn cho anh với nội dung như thế này : Con gái tôi mang bầu, yêu cầu anh trở ra Huế gấp để thu xếp sự việc. Chàng công tử Saigon liền phúc đáp ngay : Xin Bác cho cháu biết cô nào có bầu. Cháu sẽ ra ngay.
Bà cụ B.95 nghe xong liền cười rồi lắc đầu. Thấy vậy, Cụ Chánh tiên chỉ làng nói : Thôi, chuyện liền ông với liền bà, nói mãn đời không hết, ai cũng có lý cả. Vì đây là luật thiên nhiên, âm dương hút nhau mà.
Anh John tiếp lời : Thôi, ta không nói chuyện sơ vợ hay chuyện bắt nạt vợ nữa, bây giờ tôi xin nói chuyện nhà thờ, chuyện nghiêm chỉnh nha. Rằng bữa trước xem lễ trực tuyến khi nghe bài phúc âm nói về chuyện Chúa Giêsu bữa đó về thăm sinh quán của ngài. Làng xóm kéo đến nghe rất đông. Ai cũng háo hức vì nghe ngài làm nhiều phép lạ khắp nơi. Họ xin ngài làm một phép lạ cho dân làng coi. Ngài không làm phép lạ gì hết vì biết họ có ý chế nhạo và không tin. Ngài bảo : xưa nay các nhà tiên tri đều bị sinh quán coi rẻ. Cả 4 Phúc m đều chép lời Chúa nói y như vậy. Lời tiếng Anh là: ‘ No man is a prophet in his country ’. Đọc xong câu này thì tôi giật mình và vô cùng sửng sốt vì câu này có gốc từ thành ngữ tiếng VN : ‘Bụt nhà không thiêng’.
Các cụ đã thấy cái anh John rể VN này thông thái chưa.
Ông ODP liền góp ý ngay : Anh nói như vậy thật là đúng. Chuyện Chúa Giêsu về làng là chuyện ngày xưa và cả 4 tác giả Phúc m đều chép như vậy. Câu ‘bụt nhà không thiêng’ là lời dịch đúng nhất và hay nhất. Rồi từ chuyện Kinh Thánh này làm tôi nhớ tới một chuyện VN, cũng mang một thông điệp như vậy, ta có của quý mà ta không biết, đó là chuyện nhà ái quốc Phạm Hồng Thái. Xưa nay nói về lòng ái quốc thì sách báo ở VN đều nhắc tới Kinh Kha, một điều Kinh Kha, hai điều Kinh Kha. Kinh Kha là ai, thưa là người được tiến cử cho vua nước Yên là Thái Tử Đan. Ông được Thái tử Đan hứa sẽ trọng thưởng nếu giết được Tần Thủy Hoàng. Cuộc lên đường của Kinh Kha được diễn ra linh đình bên bờ sông Dịch. Nhưng Kinh Kha đã thất bại, đã giết hụt, Tần Thủy hoàng thoát chết. Kinh Kha liền bị bắt và bị tử hình. Chuyện chỉ có thế. Trong khi sử VN ghi chuyện anh hùng Phạm Hồng Thái hay hơn nhiều nhưng ít được sách vở nói tới vì nó chạm tới uy tín sự cai trị của đế quốc Pháp thời bấy giờ. Chàng tuổi trẻ họ Phạm gốc ở Nghệ An, lớn lên trong thời quê hương bị giặc Pháp đô hộ tàn ác. Ông đã bỏ học đi tìm đường cứu nước. Nghe tin bên Tàu có nhóm người VN ở Quảng Châu đang bí mật lập đảng cách mạng và tìm cách về VN diệt thù, Phạm Hồng Thái tìm mọi cách tới được nơi này, và đúng lúc đó Toàn Quyền Pháp ở Đông Dương là Merlin cũng đang có mặt ở đây. Nhân có bữa tiệc tiếp rước Merlin, Phạm Hồng Thái đóng vai ký giả và lọt vào được bên trong. Khi tiệc vừa bắt đầu thì Phạm Hồng Thái tung một trái tạc đạn vào bàn tiệc của Merlin. Nhiều người chết nhưng Merlin chỉ bị thương. Phạm Hồng Thái chạy thoát được ra ngoài nhưng chạy đến sông Tô Giang thì hết đường. Vì không muốn sa vào tay giặc Pháp, ông liền nhảy xuống sông tự tử. Báo chí Trung Hoa và thế giới loan tin ầm ĩ về biến cố long trời lở đất này. Lúc đó Trung Hoa chưa rơi vào tay CS. Lãnh tụ Tôn Trung Sơn đã cho mai táng nhà anh hùng VN tại Nghĩa Trang 72 Liệt Sĩ Cách Mạng Trung Quốc ở Hoàng Hoa Cương. Pháp phản đối việc này nhưng Trung Hoa lờ đi. Tin anh hùng Phạm Hồng Thái giết Merlin bị bưng bít hoàn toàn ở VN. Ngay cả các sách sử VN cũng không ghi chép nhiều về việc này. Phạm Hông Thái của VN anh dũng và vinh quang hơn Kinh Kha của Tàu nhiều chứ, một đàng vì lòng ái quốc, một đàng vì danh lợi, khác nhau rất nhiều chứ.
Xin các cụ nhắc con cháu rằng anh hùng Phạm Hồng Thái của VN vĩ đại hơn Kinh Kha của Tàu nhiều, hãy tôn kính anh hùng Phạm Hồng Thái hơn Kinh Kha, và hãy nhớ câu Chúa nói trong Kinh Thánh rất giống câu thành ngữ ‘Bụt nhà không thiêng’ của VN nha.
TRÀ LŨ
Ảnh của Sr. Huyền Trần (SSpS)
Quên đi lạc thú đời này
Theo chân Thánh gía thanh nhàn đời sau
(bt)
Conservative Political Action Conference, gọi tắt là CPAC, là một hội nghị chính trị hàng năm có sự tham dự của các nhà hoạt động bảo thủ và các quan chức được bầu từ khắp Hoa Kỳ và trên thế giới nhằm cổ vũ các lập trường và các giá trị truyền thống. CPAC được tổ chức bởi Liên minh Bảo thủ Hoa Kỳ. Hội nghị được thành lập vào năm 1974 bởi Liên minh Bảo thủ Hoa Kỳ và Những người Mỹ trẻ vì Tự do. Tổng thống Ronald Reagan đã có bài phát biểu khai mạc tại CPAC vào năm 1974.
Hôm 28 tháng Hai, cựu Tổng thống Donald Trump đã có bài phát biểu để chia sẻ viễn kiến của mình đối với tình trạng của đất nước và hướng phát triển trong tương lai.
Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ phần ông phản bác tin giả nói rằng ông sẽ thành lập một đảng mới.
Vì vậy, bất kể chính giới tại Washington và các thế lực, những nhóm lợi ích đặc biệt có thể muốn bịt miệng chúng ta đến mức nào, thì chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng và nước Mỹ sẽ hùng mạnh và vĩ đại hơn bao giờ hết. Tôi muốn cảm ơn những người các bạn tuyệt vời của tôi, Matt và Mercedes Schlap, Matt, cảm ơn. Mercedes, cảm ơn các bạn rất nhiều. Và Liên minh Bảo thủ Hoa Kỳ đã đăng cai tổ chức sự kiện phi thường này. Họ đang nói về nó trên toàn thế giới. Trên toàn thế giới. Tôi cũng muốn bày tỏ tình yêu và sự kính trọng đến Rush Limbaugh vĩ đại, người từ trời cao đang theo dõi sát sao và mỉm cười với chúng ta. Anh ấy đang xem và anh ấy yêu mến chương trình này và anh ấy yêu Catherine. Catherine, cảm ơn vì đã ở đây. Quá tuyệt. Cảm ơn Catherine. Anh ấy yêu bạn Catherine, tôi muốn nói với bạn điều đó. Tuyệt diệu. Cảm ơn Catherine rất nhiều. Đối với tất cả các bạn ở đây tại CPAC, tôi biết ơn các bạn nhiều hơn các bạn có thể tưởng.
Chiều nay, chúng ta tụ họp để nói về tương lai của phong trào, tương lai của đảng và tương lai của đất nước thân yêu của chúng ta. Trong bốn năm tới, những người Cộng hòa dũng cảm trong căn phòng này sẽ là trọng tâm của nỗ lực chống lại những Đảng viên Dân chủ cấp tiến, các phương tiện truyền thông đưa tin tức giả và thứ văn hóa triệt tiêu độc hại của họ, một điều gì đó mới lạ vừa đến tai chúng ta, văn hóa triệt tiêu. Và tôi muốn các bạn biết rằng tôi sẽ tiếp tục chiến đấu ngay bên cạnh các bạn. Chúng ta sẽ làm những gì chúng ta đã làm ngay từ đầu, đó là giành chiến thắng. Chúng ta không bắt đầu các đảng phái mới. Họ liên tục nói, “Ông ta sẽ bắt đầu một đảng hoàn toàn mới”. Chúng ta có đảng Cộng hòa, đảng này sẽ đoàn kết và mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Tôi không bắt đầu một đảng mới. Đó là tin giả, tin giả hoàn toàn. Không đúng chút nào. Có sáng suốt không khi làm như thế? Bắt đầu một đảng mới và chia phiếu bầu của chúng ta để các bạn không bao giờ có thể chiến thắng. Không, chúng ta không quan tâm đến điều đó. Ông McLaughlin vừa đưa cho tôi những con số mà chưa ai từng nghe thấy trước đây, chúng ta được ưa chuộng hơn bất kỳ ai. Đó là về tất cả chúng ta, về tất cả chúng ta. Đó là những con số tuyệt vời và tôi muốn cảm ơn các bạn rất nhiều. Đó là những con số đáng kinh ngạc. Tôi đến đây và anh ấy đã cho tôi 95%, 97%, 92%. Và tôi nói, “Thật tuyệt vời.” Và tôi muốn cảm ơn tất cả mọi người trong căn phòng này và tất cả mọi người trên khắp đất nước, trên toàn thế giới nếu các bạn muốn thực sự biết sự thật.
Cảm ơn các bạn. Cảm ơn các bạn. Chúng ta sẽ đoàn kết và mạnh mẽ hơn bao giờ hết, chúng ta sẽ cứu và củng cố nước Mỹ. Chúng ta sẽ chống lại sự tấn công của chủ nghĩa cấp tiến, chủ nghĩa xã hội, và thực sự tất cả chúng đều dẫn đến chủ nghĩa cộng sản một lần và mãi mãi. Đó là những gì nó dẫn đến. Các bạn sẽ ngày càng nghe nhiều hơn về điều đó khi chúng diễn ra, nhưng đó là những gì nó sẽ dẫn đến. Các bạn đều biết như thế. Tất cả chúng ta đều biết rằng chính quyền Biden đã trở nên tồi tệ, nhưng không ai trong chúng ta thậm chí tưởng tượng được họ sẽ tồi tệ đến mức nào và họ sẽ đi đến bao xa. Ông ta chưa bao giờ nói về điều này. Chúng tôi đã có những cuộc tranh luận tuyệt vời, nhưng ông ấy không bao giờ nói về điều này. Thực ra chúng ta không biết ông ta đang nói cái quái gì. Chiến dịch của ông ta chỉ toàn là dối trá.
Với tài năng và sự cống hiến của tất cả mọi người ở đây ngày hôm nay… Và các bạn có rất nhiều, không chỉ có sự cống hiến, tài năng to lớn trong căn phòng này. Tôi biết nhiều người trong số các bạn. Đó chính xác là những gì chúng ta sẽ làm. Chúng ta sẽ đi đến chiến thắng. Chúng ta sẽ triệu tập tinh thần của các thế hệ người Mỹ yêu nước đi trước chúng ta, giống như những anh hùng đã vượt qua Delaware, chinh phục dãy núi Rockies, xông pha các bãi biển, chiến thắng trong các trận chiến và chinh phục các biên giới vô hình. Chúng ta sẽ kiên trì và chúng ta sẽ thắng thế. Chúng ta mạnh mẽ hơn họ. Chúng ta kiên trì hơn họ. Cùng nhau, trong những năm tới, chúng ta sẽ giơ cao ngọn đuốc của tự do Hoa Kỳ. Chúng ta sẽ dẫn dắt phong trào bảo thủ và Đảng Cộng hòa trở lại chiến thắng hoàn toàn. Và chúng ta đã có những chiến thắng to lớn. Đừng bao giờ quên điều đó. Với sự giúp đỡ của các bạn, chúng ta sẽ lấy lại Hạ viện. Chúng ta sẽ giành được Thượng viện. Và sau đó một Tổng thống Đảng Cộng hòa sẽ chiến thắng trở lại Tòa Bạch Ốc. Và tôi tự hỏi đó sẽ là ai? Tôi tự hỏi đó sẽ là ai. Đó sẽ là ai? Tôi tự hỏi.
Đứng trước các bạn hôm nay, tôi cực kỳ tin tưởng rằng đối với phong trào của chúng ta, đối với đảng của chúng ta và đối với đất nước chúng ta, những ngày tươi sáng nhất của chúng ta đang ở phía trước. Và rằng cùng nhau, chúng ta sẽ làm cho nước Mỹ tự hào hơn, tự do hơn, mạnh mẽ hơn và vĩ đại hơn bao giờ hết. Cảm ơn các bạn, CPAC. Chúa phù hộ cho các bạn và Chúa phù hộ nước Mỹ. Cảm ơn tất cả. Cảm ơn các bạn. Cảm ơn các bạn.
1. Cảnh sát cho biết một người đàn ông bắn vào một phụ nữ tại Trung Tâm Công Giáo Seattle trước khi tự kết liễu đời mình
Các nhà chức trách đang điều tra một vụ nổ súng dẫn đến sự có mặt đông đảo của cảnh sát vào chiều thứ Ba tại Quận Central.
Theo cảnh sát Seattle, khoảng 1 giờ 15 chiều Thứ Ba 23 tháng Hai, một người đàn ông đã gây gỗ với một phụ nữ trong sân của Trung Tâm Dịch Vụ Gia cư và Trung Tâm Dịch Vụ Cộng đồng Công Giáo tại số 100 đại lộ 23 South, góc đường Yesler Way. Người đàn ông đã có mặt tại cơ sở để có một cuộc hẹn tư vấn pháp luật. Anh ta đe dọa người phụ nữ, sau đó rút súng ra và bắn vào thẳng vào người cô ở cự ly rất gần, nhưng may mắn cô ta né được, và không bị thương tích gì.
Cảnh sát cho biết người đàn ông sau đó đã tự sát. Các nhân viên cảnh sát xác nhận rằng nghi phạm đã chết. Một người khác bị thương nhẹ khi đang chạy trốn vì tiếng súng nổ trong khu vực. Các nhân viên cảnh sát đã di tản khoảng 40 đến 50 người bên trong tòa nhà bao gồm các nhân viên bác ái Công Giáo và các khách hàng đến xin giúp đỡ.
Tòa nhà nói trên là nơi đặt trụ sở của Trung Tâm Dịch Vụ Gia cư và Trung Tâm Dịch Vụ Cộng đồng Công Giáo của tổng giáo phận Seattle. Hai cơ sở này là các cơ quan bác ái của tổng giáo phận giúp đỡ mọi người không phân biệt lương giáo nên không thể chắc chắn là người đàn ông đã tự sát có phải là người Công Giáo hay không. Đương sự dường như có quen biết với người phụ nữ mà ông ta gây gỗ.
Source:Fox News
2. Sau vụ tự sát tại Trung Tâm Dịch Vụ Công Giáo, Đức Tổng Giám Mục Seattle nhấn mạnh đến đức cậy trong hoàn cảnh bi thảm hiện nay
Sau khi xảy ra vụ tự tử tại trụ sở của Trung Tâm Dịch Vụ Gia cư và Trung Tâm Dịch Vụ Cộng đồng Công Giáo của tổng giáo phận Seattle, Đức Tổng Giám Mục Paul Etienne nói rằng các Kitô hữu nên nhớ đến một thực trạng được thể hiện nơi những người tự tử là “sự tuyệt vọng và vô vọng”, nhưng cũng nên nhớ đến “tình yêu sâu sắc của Chúa”.
Trong một lá thư ngày 23 tháng 2 cho những người Công Giáo của Tổng giáo phận Seattle, Etienne đã báo cáo rằng vào chiều thứ Ba, một “người quẫn trí” đã vào trụ sở Randolph Carter của Trung Tâm Dịch Vụ Gia cư và Trung Tâm Dịch Vụ Cộng đồng Công Giáo ở Seattle.
“Anh ta đã đe dọa tính mạng của một phụ nữ trước khi tự kết liễu mạng sống của mình”, Đức Tổng Giám Mục nói. “Rất may, không ai khác bị hại và tất cả nhân viên đã có thể rời khỏi tòa nhà một cách an toàn”.
Cộng đồng Công Giáo đã “vô cùng đau buồn bởi những sự kiện bi thảm này”, Đức Tổng Giám Mục nói.
“Những lời cầu nguyện và suy nghĩ của chúng ta dành cho người đã khuất và gia đình của anh ấy”, Đức Cha Etienne nói. “Những lời cầu nguyện của chúng tôi cũng dành cho tất cả những ai đã từng là một phần của hoặc chứng kiến những sự kiện đau đớn hôm nay”.
Vị tổng giám mục đã kết nối cái chết của người đàn ông với những căng thẳng của nghèo đói, dịch bệnh coronavirus và sự tuyệt vọng.
“Những sự kiện như thế này nhắc nhở chúng ta về sự căng thẳng và đau đớn mà nghèo đói triền miên có thể mang lại. Những sự kiện như thế này nhắc nhở chúng ta về sự đau khổ và thất vọng thực sự trong tình trạng sức khỏe khẩn cấp hiện nay”, ngài nói. “Những sự kiện như thế này nhắc nhở chúng ta về sự tuyệt vọng và vô vọng mà mọi người cảm thấy trước khi tự kết liễu mạng sống của mình — một xu hướng bi thảm ngày càng trầm trọng hơn do áp lực của dịch COVID-19”.
Đức Tổng Giám Mục cầu nguyện cho tất cả mọi người “nhận thức và nhắc nhở nhau về tình yêu sâu sắc của Thiên Chúa”.
“Tôi cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn chữa lành và an ủi cho gia đình và cộng đồng của chúng ta, đặc biệt là những người nghèo, những người đang sợ hãi và dễ bị tổn thương trong thời gian thử thách cam go này”, ngài nói thêm.
Đức Tổng Giám Mục đặc biệt khen ngợi các nhân viên của Dịch vụ Cộng đồng Công Giáo và Dịch vụ Gia cư Công Giáo.
“Chúng ta được Chúa Giêsu mời gọi đồng hành cùng với người nghèo và chăm sóc cho họ”, ngài nói, và cho biết đây là những gì các nhân viên ở đây làm “mỗi ngày”.
“Họ hành trình với những người mà họ phục vụ vượt qua những khó khăn thử thách - và họ làm như vậy với tình yêu và sự chăm sóc của Đấng Cứu Rỗi của chúng ta”.
Đức Tổng Giám Mục Etienne cho biết ngài rất biết ơn các nhân viên và ban lãnh đạo tại trung tâm dịch vụ đã phản ứng nhanh chóng trong việc tuân thủ các quy trình an toàn. Ngài cũng cảm ơn Sở Cảnh sát Seattle và những người phản ứng đầu tiên khác.
“Tôi khuyến khích bất cứ ai đang gặp khó khăn trong những thời điểm thử thách này, hoặc có người thân đang gặp khó khăn, hãy tìm đến để được giúp đỡ”, Đức Cha Etienne nói. “Cộng đồng Công Giáo của chúng tôi ở đây để hỗ trợ các bạn thông qua các giáo xứ, Dịch vụ Cộng đồng Công Giáo hoặc các chương trình mục vụ sức khỏe tâm thần của chúng tôi. Xin hãy nhớ rằng các bạn không đơn độc”.
Source:Catholic News Agency
3. Người Công Giáo Sydney quỳ gối đền tạ cho buổi biểu diễn LGBT được tổ chức bên ngoài các bậc thềm nhà thờ
Hơn 200 người Công Giáo đã tập trung trên các bậc thềm của nhà thờ chính tòa Đức Bà ở Sydney để quỳ gối cầu nguyện và hát thánh ca để phạt tạ cho một chương trình tạp kỹ LGBTQ có tên là “Live and Queer” được tổ chức ngay bên ngoài nhà thờ vào hôm thứ Bảy 20 tháng Hai vừa qua.
Sự kiện LGBTQ được tổ chức ngay trước nhà thờ chính tòa Đức Bà, trên một khu đất rộng thuộc sở hữu của Thành phố Sydney. Sự kiện này là một phần của một loạt gọi là “Heaps Gay” của các cộng đồng “đồng tính”. Các buổi biểu diễn bao gồm các số nhạc dân gian và nhạc pop thông thường, cho đến các hoạt động khiêu dâm trên sân khấu.
Người Công Giáo Sydney, bao gồm cả Đức Tổng Giám Mục Anthony Fisher, OP, đã thất kinh khi phát hiện ra buổi biểu diễn được tổ chức ngay bên ngoài nhà thờ, và hình ảnh của ngôi nhà thờ được dùng để quảng cáo cho sự kiện này.
Trong một bài đăng trên Facebook hôm Thứ Tư Lễ Tro, Đức Tổng Giám Mục Anthony Fisher đã viết rằng vì Quảng trường Nhà thờ là đất của hội đồng thành phố, nên “rất tiếc quyết định về việc tổ chức buổi hòa nhạc và quảng cáo của nó không đến lượt chúng ta quyết định”.
“Chúng tôi đã yêu cầu Thành phố Sydney xóa hình ảnh Nhà thờ khỏi những quảng cáo”, ngài viết.
“Thật là buồn bực và khó chịu khi nhà thờ chính tòa Đức Bà, nhà thờ mẹ của Úc, đã được sử dụng một cách khiêu khích để quảng bá sự kiện này và sự nhạy cảm đối với những người có đức tin đã không được thể hiện”.
Ngài mô tả hành động này là một một hành vi khiêu khích và xúc phạm tình cảm tôn giáo.
“Trong Mùa Chay trọng đại này, chúng ta cần cầu nguyện để cầu xin Chúa để tại thành phố Sydney vĩ đại và 'khoan dung' của chúng ta, niềm tin tôn giáo được tôn trọng và bảo vệ và tất cả chúng ta sẽ khám phá lại sự trân trọng đối với những gì thánh thiêng”.
Một phát ngôn viên của Thành phố Sydney đã xác nhận rằng tài liệu quảng cáo sử dụng hình ảnh nhà thờ đã bị xóa để “tránh bất kỳ sự nhầm lẫn nào”.
Người phát ngôn bảo vệ quyết định của hội đồng thành phố về việc tổ chức chuỗi buổi hòa nhạc, mà họ cho rằng sẽ giúp hỗ trợ sự phục hồi kinh tế của Sydney từ đại dịch COVID-19.
Thị trưởng Sydney Clover Moore đã tấn công Đức Tổng Giám Mục Anthony Fisher và cho biết Sydney tự hào về sự đa dạng và hòa nhập, và lặp lại một khẩu hiệu mà ta có thể nghe thấy ở bất cứ nơi nào diễn ra một chuyện tương tự.
“ Không có chỗ cho thù hận, bất khoan dung và chia rẽ”, bà ta nói.
Source:Life Site News
4. Huấn đức của Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật thứ Hai Mùa Chay
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế.
Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ.
Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.
Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: “Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?”
Anh chị em thân mến,
Chào anh chị em!
Chúa Nhật II Mùa Chay này mời gọi chúng ta chiêm ngắm việc Chúa Giêsu biến hình trên núi, trước ba môn đệ của Người (x. Mc 9: 2-10). Ngay trước đó, Chúa Giêsu đã loan báo rằng tại Giêrusalem, Ngài sẽ phải chịu đựng rất nhiều, bị chống đối và bị xử tử. Chúng ta có thể tưởng tượng những gì đã xảy ra trong lòng bạn bè của Ngài, những người bạn thân thiết, các môn đệ của Ngài: hình ảnh của Đấng Mêsia mạnh mẽ và khải hoàn bị rơi vào khủng hoảng, ước mơ của họ tan tành, và họ bị bao vây bởi nỗi thống khổ khi nghĩ rằng người Thầy mà họ tin tưởng sẽ bị giết như những kẻ gây ra những chuyện gian ác tồi tệ nhất. Và ngay trong giây phút đó, với tâm hồn sầu khổ, Chúa Giêsu gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan và đưa họ lên núi cùng với Ngài.
Phúc âm cho biết: Ngài đã “dẫn họ lên một ngọn núi cao” (câu 2). Trong Kinh thánh, ngọn núi luôn có một ý nghĩa đặc biệt: nó là nơi được nâng lên, nơi trời và đất tiếp xúc với nhau, nơi mà Môisê và các tiên tri đã có trải nghiệm phi thường khi gặp Chúa. Leo lên ngọn núi là phần nào đến gần với Chúa. Chúa Giêsu cùng ba môn đệ leo lên và họ dừng lại ở đỉnh núi. Tại đây, ngài biến hình trước mặt họ. Gương mặt rạng rỡ và trang phục lấp lánh, cho họ hình dung ra trước hình ảnh Đấng Phục sinh, cung cấp cho những người sợ hãi đó ánh sáng, ánh sáng của hy vọng, ánh sáng xuyên qua bóng tối: cái chết sẽ không phải là kết thúc của mọi thứ, bởi vì nó sẽ mở ra cho vinh quang của Đấng Phục sinh. Như vậy, khi Chúa Giêsu loan báo về cái chết của Người; Người đưa họ lên núi và cho họ thấy điều gì sẽ xảy ra sau đó, là sự Phục sinh.
Như Tông đồ Phêrô đã thốt lên (x. câu 5), thật tốt khi tạm dừng với Chúa trên núi, để sống “bản xem trước” đầy ánh sáng này ngay giữa Mùa Chay. Điều cần ghi nhớ, đặc biệt khi chúng ta trải qua một thử thách khó khăn - và rất nhiều người trong anh chị em biết ý nghĩa của việc vượt qua một thử thách khó khăn – là Chúa Phục sinh không cho phép bóng tối có tiếng nói cuối cùng.
Đôi khi chúng ta phải trải qua những khoảnh khắc tăm tối trong cuộc sống cá nhân, gia đình hay xã hội và sợ hãi rằng không có lối thoát. Chúng ta cảm thấy sợ hãi trước những bí ẩn lớn như bệnh tật, nỗi đau vô cớ hay mầu nhiệm của cái chết. Trên hành trình đức tin, chúng ta thường vấp ngã khi đối diện với tai tiếng của thập giá và những đòi hỏi của Tin Mừng, là những điều kêu gọi chúng ta dành cuộc đời mình để phục vụ và sẵn sàng đánh mất mạng sống mình vì tình yêu, hơn là giữ gìn và bảo vệ nó. Vì thế, chúng ta cần một cái nhìn khác, hướng đến một ánh sáng soi rọi sâu sắc mầu nhiệm của cuộc sống và giúp chúng ta vượt ra ngoài khuôn mẫu của mình, cũng như vượt ra ngoài những tiêu chí của thế giới này. Chúng ta cũng được mời gọi leo lên núi, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Đấng Phục Sinh, Đấng đã thắp lên những tia sáng lấp lánh trong mọi mảnh vỡ của cuộc đời chúng ta và giúp chúng ta giải thích lịch sử bắt đầu bằng chiến thắng vượt qua của Người.
Tuy nhiên, chúng ta hãy cẩn thận: cảm giác của Phêrô rằng “thật tốt khi chúng ta ở đây” không được trở thành sự lười biếng tâm linh. Chúng ta không thể ở trên núi và tận hưởng vẻ đẹp của cuộc gặp gỡ này một mình. Chính Chúa Giêsu đưa chúng ta trở lại thung lũng, giữa anh chị em của chúng ta và vào cuộc sống hàng ngày. Chúng ta phải đề phòng sự lười biếng tâm linh: chúng ta hài lòng, với những lời cầu nguyện và phụng vụ của chúng ta, và điều này là đủ đối với chúng ta. Không! Lên núi không có nghĩa là quên đi thực tại; cầu nguyện không bao giờ có nghĩa là trốn tránh những khó khăn của cuộc sống; ánh sáng của đức tin không phải để mang lại những cảm giác tâm linh đẹp đẽ. Không, đây không phải là thông điệp của Chúa Giêsu. Chúng ta được mời gọi trải nghiệm cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô để được ánh sáng của Người soi sáng, để chúng ta có thể mang ánh sáng ấy đi và làm cho nó tỏa sáng khắp mọi nơi. Thắp ngọn đèn nhỏ trong lòng người; trở thành những ngọn đèn nhỏ của Tin Mừng mang theo một chút tình yêu và hy vọng: đây là sứ mệnh của một Kitô hữu.
Chúng ta hãy cầu nguyện với Mẹ Maria Rất Thánh, để Mẹ có thể giúp chúng ta đón nhận ánh sáng của Chúa Kitô với sự kinh ngạc, bảo vệ và chia sẻ ánh sáng đó.
Sau khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói tiếp:
Anh chị em thân mến! Tôi hợp tiếng với các Giám mục Nigeria lên án vụ bắt cóc tồi tệ đến 317 nữ sinh, đưa họ ra khỏi trường học, đến Jangebe, ở phía tây bắc của đất nước. Tôi cầu nguyện cho những cô gái này, để họ có thể sớm trở về nhà. Tôi gần gũi với gia đình của họ và với chính các cô gái. Chúng ta hãy cầu nguyện với Đức Mẹ xin Mẹ bảo vệ họ. Kính mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ.Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử, Amen.Hôm nay là Ngày Thế giới các Bệnh Hiếm. Anh chị em đang ở đây. Tôi chào mừng các thành viên của một số hiệp hội dấn thân trong lĩnh vực này, những người đã đến Quảng trường này. Trong trường hợp bệnh hiếm gặp, mạng lưới hỗ trợ giữa các thành viên trong gia đình, được các hiệp hội ủng hộ, quan trọng hơn bao giờ hết. Nó giúp các bệnh nhân không cảm thấy đơn độc và có cơ hội trao đổi kinh nghiệm và lời khuyên. Tôi khuyến khích các sáng kiến hỗ trợ nghiên cứu và điều trị, và tôi bày tỏ sự gần gũi của mình với người bệnh, với gia đình, đặc biệt là với trẻ em. Hãy gần gũi với trẻ em bệnh tật, trẻ em đau khổ, cầu nguyện cho họ, giúp họ cảm nhận được sự âu yếm của Chúa. Hãy chăm sóc trẻ em cùng với lời cầu nguyện. Khi xảy ra những căn bệnh mà không ai biết những bệnh ấy là gì, hoặc khi đối diện với một chẩn đoán tàn bạo, chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả những người mắc những căn bệnh hiếm gặp này; chúng ta hãy cầu nguyện đặc biệt cho những trẻ em đang đau khổ.
Tôi hết lòng chào đón tất cả anh chị em, những tín hữu Rôma và những người hành hương từ nhiều quốc gia khác nhau. Chúc mọi người có một hành trình Mùa Chay tốt đẹp. Và tôi khuyên anh chị em chay tịnh, một thứ chay tịnh không khiến anh chị em đói: đó là chay tịnh để tránh những lời đàm tiếu và vu khống. Đó là một cách chay tịnh đặc biệt. Trong Mùa Chay này, tôi sẽ không nói xấu người khác; tôi sẽ không nói chuyện phiếm. Và tất cả chúng ta đều có thể làm được điều này, tất cả mọi người. Đây là một cách giữ chay tốt. Và đừng quên rằng sẽ rất hữu ích khi đọc một đoạn Tin Mừng, hãy mang theo một cuốn Tin Mừng nhỏ trong túi, trong ví của bạn và cầm lên đọc khi có thể, bất kỳ đoạn nào. Điều này sẽ làm cho lòng chúng ta rộng mở đối với Chúa.
Và xin đừng quên cầu nguyện cho tôi. Chúc ngày Chúa Nhật vui vẻ và một bữa trưa ngon miệng. Xin tạm biệt!
Source:Holy See Press Office
1. Romney thừa nhận Tổng thống Trump sẽ giành được đề cử tổng thống năm 2024 của Đảng Cộng hòa 'một cách long trời lở đất'
Thượng nghị sĩ Mitt Romney của bang Utah đã thừa nhận rằng tổng thống Donald Trump nắm thế thượng phong trong cuộc nội chiến đang diễn ra bên trong Đảng Cộng hòa.
Romney từ lâu đã là một đối thủ quyết liệt của cựu tổng thống Trump và đã bỏ phiếu kết tội trong cả hai phiên tòa luận tội tại Thượng viện.
Hôm thứ Ba, bàn về các quyết định của mình, Romney nói rằng ông ta bỏ phiếu theo lương tâm của mình và bất chấp “những hậu quả sẻ xảy ra” để giúp ông ta “ngủ ngon vào ban đêm”.
Mặc dù tiếp tục chỉ trích cựu tổng thống, thượng nghị sĩ đã thừa nhận rằng Tổng thống Trump vẫn có sự ủng hộ to lớn trong Đảng Cộng Hòa.
“Liệu Tổng thống Trump có tiếp tục đóng một vai trò nào đó trong đảng của tôi không? Tôi chắc chắn là ông ấy sẽ làm được. Ông ấy cho đến nay là người có tiếng nói lớn nhất và có ảnh hưởng lớn nhất trong đảng của tôi”, ông nói với trong một hội nghị ảo do tờ The New York Times tổ chức.
Ông nhấn mạnh rằng: “Tôi không biết liệu ông ấy có tranh cử vào năm 2024 hay không, nhưng nếu ông ấy ra tranh cử, tôi chắc chắn rằng ông ấy sẽ giành được sự đề cử”.
Nhà lập pháp Romney cho biết nếu Trump có tên trong danh sách, “ông ấy sẽ thắng đậm.”
Romney đưa ra nhận xét tương tự sau cuộc bầu cử vào tháng 11 năm ngoái, nói với NBC's Meet the Press: “Không nghi ngờ gì nữa, Tổng thống Trump là người có tiếng nói mạnh mẽ nhất trong đảng của chúng tôi. Ông ấy sẽ có tác động to lớn đối với đảng của chúng ta trong tương lai”.
“Tôi tin rằng tuyệt đại đa số những người đã bỏ phiếu cho Donald Trump muốn bảo đảm rằng các nguyên tắc và chính sách của ông ấy sẽ được theo đuổi.”
Một số nhà lập pháp Đảng Cộng hòa chống Tổng thống Trump đã phải chịu đựng những lời chỉ trích từ những người trung thành với Tổng thống Trump.
Trong cuộc trò chuyện với các thành viên Đảng Dân chủ tại Hạ viện Utah hôm thứ Ba, như được Deseret News đưa tin, Romney được đảng Dân Chủ cảm ơn vì đã bỏ phiếu để kết tội Tổng thống Trump.
Thượng nghị sĩ Mitt Romney từ lâu đã ngắm nghé việc ra tranh cử tổng thống và đã hai lần tìm cách kết tội Tổng thống Trump.
Trong phiên tòa luận tội Tổng thống Trump đầu tiên tại Thượng viện, Romney là đảng viên Cộng hòa duy nhất bỏ phiếu kết tội. Trong phiên tòa thứ hai trong tháng này, ông là một trong bảy thượng nghị sĩ Đảng Cộng Hòa đã làm như vậy. Mười thành viên đảng Cộng hòa tại Hạ viện đã bỏ phiếu để luận tội Tổng thống Trump vào tháng trước.
Tổng thống Trump đã không loại trừ khả năng tái tranh cử vào năm 2024. Phát biểu trên Newsmax vào đầu tháng này, ông nói: “Tôi chưa nói chắc, nhưng chúng tôi có sự ủng hộ to lớn. Tôi đang xem xét các con số thăm dò đang diễn ra”.
Source:Newsweek
2. Các giám mục Công Giáo Âu Châu chỉ trích nghị quyết của Nghị viện Âu Châu về luật phá thai của Ba Lan
Các giám mục Công Giáo trên khắp châu Âu đã chỉ trích một nghị quyết của Nghị viện Âu Châu về luật phá thai của Ba Lan.
Trong một bức thư được công bố vào ngày 25 tháng 2, các giám mục nói rằng nghị quyết, được thông qua vào ngày 26 tháng 11 năm 2020, sẽ có “tác động rất tiêu cực” đối với cách nhìn nhận của Liên minh Âu Châu đối với các quốc gia thành viên.
Nghị viện Âu Châu, cơ quan xây dựng luật của Liên Minh Âu Châu, đã thông qua nghị quyết với số phiếu 455 phiếu thuận sau khi tòa án cấp cao nhất của Ba Lan ra phán quyết rằng luật năm 1993 cho phép phá thai vì những bất thường của thai nhi là vi hiến.
Nghị quyết phàn nàn về cái mà nó gọi là “lệnh cấm trên thực tế đối với quyền phá thai ở Ba Lan”.
Trước phán quyết của Tòa án Hiến pháp vào ngày 22 tháng 10, luật pháp Ba Lan chỉ cho phép phá thai trong các trường hợp hiếp dâm hoặc loạn luân, hay trong trường hợp có nguy cơ đến tính mạng của người mẹ hoặc những bất thường của thai nhi.
Sau khi phán quyết được công bố vào ngày 27 tháng Giêng, phá thai sẽ tiếp tục hợp pháp trong các trường hợp hiếp dâm hoặc loạn luân và có nguy cơ đến tính mạng của người mẹ nhưng cấm phá thai vì những bất thường của thai nhi.
Trong lá thư đề ngày 22 tháng 2, các giám mục đã phản bác khái niệm “quyền phá thai” của Liên minh Âu châu: “Từ góc độ pháp lý, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng cả luật pháp của Liên minh Âu Châu và Công ước Âu Châu về Nhân quyền đều không quy định quyền phá thai. Vấn đề này phụ thuộc vào hệ thống pháp luật của các quốc gia thành viên”.
Bức thư đã được gửi đến David Maria Sassoli, chủ tịch Nghị viện Âu Châu, và có chữ ký của các thành viên trong ủy ban thường trực của Ủy ban Hội đồng Giám mục của Liên minh Âu Châu.
Trong một tuyên bố ngày 2 tháng 12, Đức Tổng Giám Mục Gądecki chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Ba Lan nói rằng không thể có sự thỏa hiệp về quyền được sống.
Ngài nói: “Quyền sống là quyền cơ bản của con người. Quyền này luôn phải được ưu tiên hơn bởi vì không ai có thể cho phép một cách có thẩm quyền khả năng giết người khác”.
Các giám mục Âu Châu nhấn mạnh sự hỗ trợ của Giáo Hội Công Giáo đối với những phụ nữ gặp khó khăn khi mang thai cũng như bảo vệ sự sống của thai nhi.
Các ngài chỉ trích nghị quyết đã hạ thấp “một nguyên tắc cơ bản của Liên minh Âu Châu” được gọi là “nguyên tắc đồng thuận”, hạn chế Liên Minh Âu Châu chỉ có quyền hành động trong giới hạn mà các quốc gia thành viên nhất trí.
Các ngài cũng nhận định rằng nghị quyết xem ra đang muốn đặt vấn đề đối với quyền phản đối lương tâm.
“Điều này đặc biệt đáng lo ngại vì trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, những người phản đối vì lương tâm trong nhiều trường hợp bị phân biệt đối xử. Theo quan điểm của chúng tôi, không nên thúc đẩy sự kỳ thị vô cớ như vậy”.
Source:Catholic News Agency
3. Bạo loạn trong các nhà tù Ecuador: 79 tù nhân bị giết, nhiều người bị phanh thây
Đức Tổng Giám Mục Luis Gerardo Cabrera Herrera, Dòng Anh Em Hèn Mọn, của tổng giáo phận Guayaquil đã bày tỏ nỗi buồn của ngài về vụ bạo loạn diễn ra hôm thứ Ba 23 tháng Hai khiến ít nhất 79 tù nhân bị thiệt mạng, trong đó có nhiều người bị phanh thây. Đức Cha đã thường xuyên cảnh báo chính quyền về tình trạng quá đông trong các nhà tù và than phiền rằng các nhà tù tại Ecuador chỉ đơn thuần là các tầng đầu địa ngục trong đó con người bị trừng phạt thay vì được giáo dục để tái hội nhập vào đời sống xã hội.
Bạo loạn đã diễn ra trong 4 nhà tù với ít nhất 79 người chết, trong đó có 18 tù nhân bị phanh thây tại cùng một địa điểm. Đây là một trong những đợt bùng phát bạo lực trong tù đẫm máu nhất trong lịch sử nước này.
Ngay khi các nhà chức trách cho biết họ đã giành lại quyền kiểm soát sau cuộc bạo động ban đầu, người đứng đầu cảnh sát quốc gia Ecuador đã viết trên Twitter vào đêm thứ Tư rằng một cuộc binh biến mới vừa diễn ra trong nhà tù của thành phố Guayaquil.
Cảnh sát và quân đội đã đóng quân tại các trung tâm giam giữ ở các thành phố Guayaquil, Cuenca và Latacunga, nơi các băng đảng hôm thứ Ba giao chiến với nhau bằng vũ khí thủ công trong điều kiện mà các nhà chức trách cho là một sự bùng phát bạo lực phối hợp.
Các băng đảng bắt đầu cuộc chiến giành quyền lãnh đạo trong hệ thống nhà tù vào tháng 12 khi một thủ lĩnh của Los Choneros, là băng nhóm quyền lực nhất của hệ thống du đảng tại Ecuador, bị giết trong một trung tâm mua sắm vài tháng sau khi được thả ra.
Bạo loạn hôm thứ Ba đã diễn ra trong các khu vực an ninh tối đa của nhà tù Guayaquil và Cuenca.
Cơ quan quản lý nhà tù SNAI cho biết tất cả những người thiệt mạng trong vụ bạo loạn đều là tù nhân, với các báo cáo đầu tiên cho biết 50 người chết, trước khi tăng lên 62 và cuối cùng là 79 trong báo cáo mới nhất. Theo dữ liệu chính thức, có thêm hàng chục tù nhân và cảnh sát bị thương.
Trong một bài phát biểu trên truyền hình, Tổng thống Lenin Moreno thừa nhận hệ thống nhà tù có dân số quá đông khoảng 130% so với sức chứa và thiếu kinh phí và nhân sự.
Bạo loạn diễn ra sau khi nhà chức trách phá dỡ các phòng thí nghiệm chế biến cocaine và thu giữ 128 tấn ma túy vào năm 2020, một kỷ lục đối với Ecuador, tổng thống Moreno cho biết.
Tổng thống Moreno đã tuyên bố hệ thống nhà tù của Ecuador đang trong tình trạng khẩn cấp vào năm 2019 sau làn sóng các vụ bạo loạn khiến 24 người thiệt mạng.
Source:Reuters
4. Hạ Viện Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Bình đẳng, mà các giám mục cảnh báo sẽ 'trừng phạt' các nhóm tôn giáo
Hạ Viện Hoa Kỳ hôm thứ Năm đã thông qua Đạo luật Bình đẳng, mà các giám mục Hoa Kỳ đã cảnh báo sẽ chà đạp các biện pháp bảo vệ tự do tôn giáo trong khi hệ thống hóa ý thức hệ giới tính trong luật liên bang.
Bằng một cuộc bỏ phiếu với tỷ số 224 trên 206, Hạ viện đã thông qua Đạo luật Bình đẳng chỉ sáu ngày sau khi nó được đề nghị vào ngày 18 tháng 2. Đạo luật, được bảo trợ bởi Dân biểu David Cicilline thuộc đảng Dân Chủ đơn vị Illinois, công nhận việc bảo vệ bằng pháp lý khuynh hướng tình dục và bản sắc giới tính, và cấm phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính tự nhận trong một số lĩnh vực.
Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, gọi tắt là USCCB, đã phản đối đạo luật này, nói rằng nó đề cao ý thức hệ giới tính và định nghĩa lại hôn nhân và coi giới tính đơn giản là một “cấu trúc xã hội”. Hơn nữa, nó sẽ “ trừng phạt” các nhóm tôn giáo chống lại những tin tưởng kỳ quái này.
Một bức thư ngày 23 tháng 2 của năm chủ tịch các ủy ban USCCB đã được gửi đến các thành viên của Quốc hội. Bức thư cảnh báo rằng thông qua dự luật này nghĩa là Quốc hội đang áp đặt các “quan điểm mới lạ và gây chia rẽ liên quan đến” giới tính “đối với các cá nhân và tổ chức”.
Các giám mục ký tên trong thư bao gồm Đức Cha Michael Barber, của Oakland, chủ tịch ủy ban giáo dục USCCB; Đức Tổng Giám Mục Paul Coakley của thành phố Oklahoma, chủ tịch ủy ban tư pháp quốc nội USCCB; Đức Hồng Y Timothy Dolan của New York, chủ tịch ủy ban tự do tôn giáo của USCCB; Đức Cha David Konderla của Tulsa, chủ tịch tiểu ban hôn nhân; và Đức Tổng Giám Mục Joseph Naumann của Thành phố Kansas, chủ tịch ủy ban phò sinh của USCCB.
Các vị nhận định rằng:
“Đạo luật Bình đẳng sẽ áp đặt các quy định sâu rộng gây tổn hại cho toàn xã hội. Chỉ riêng các định nghĩa của Đạo luật sẽ loại bỏ phụ nữ và trẻ gái khỏi sự tồn tại được luật pháp bảo vệ. Chúng ta trân trọng các quyền tự do ngôn luận, lập hội, tự do lương tâm và tự do tôn giáo của Tu Chính án Thứ nhất. Đạo luật Bình đẳng khiến những điều này gặp nguy cơ bằng cách đòi hỏi sự đồng thuận bắt buộc độc dạng đối với những tin tưởng mới về bản sắc con người, trái ngược với những niềm tin được nhiều người tin tưởng - cả những người theo các tín ngưỡng đa dạng lẫn những người không có tín ngưỡng.”
Source:Catholic News Agency