Ngày 24-02-2018
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Thánh lễ Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Chay 25/2/2018 dành cho những người không thể đến nhà thờ
VietCatholic Network
03:13 24/02/2018
Bài Ðọc I: St 22, 1-2. 9a. 10-13. 15-18

"Của hiến tế của Abraham Tổ phụ chúng ta".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: "Abraham, Abraham!" Ông đáp lại: "Dạ, con đây". Chúa nói: "Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi".

Khi hai người đến nơi Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình. Bấy giờ thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: "Abraham, Abraham!" Ông thưa lại: "Dạ, con đây". Người nói: "Ðừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta". Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con mình. Thiên thần Chúa gọi Abraham lần thứ hai và nói rằng: "Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta".

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 115, 10 và 15. 16-17. 18-19

Ðáp: Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh (Tv 114, 9).

Xướng: Tôi đã tin cậy ngay cả trong lúc tôi nói: "Tấm thân tôi trăm phần khổ cực!" Trước mặt Chúa thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài.

Xướng: Ôi lạy Chúa, con là tôi tớ Chúa, con là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tỳ Ngài, Ngài đã bẻ gãy xiềng xích cho con. Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa.

Xướng: Tôi sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài, trong nơi hành lang nhà Chúa, ở giữa lòng ngươi, Giê-rusalem hỡi! .

Bài Ðọc II: Rm 8, 31b-34

"Thiên Chúa không dung tha chính Con mình".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta? Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta, há Người lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Người sao? Ai sẽ tố cáo những kẻ Chúa chọn? (Chẳng lẽ là) chính Chúa, Ðấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án? (Chẳng lẽ là) Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã chết và hơn nữa đã sống lại, đang ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng đang biện hộ cho chúng ta?

Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 17, 5

Từ trong đám mây sáng chói, có tiếng Chúa Cha phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người".

Phúc Âm: Mc 9, 1-9

"Ðây là Con Ta rất yêu dấu".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?"

Ðó là lời Chúa.
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:46 24/02/2018
47. CƯỜI NGƯỜI ÂM DƯƠNG
Có hai người cùng ngồi trên một chiếc thuyền, bỗng thấy trên nước trôi lại một cái xác.
Một người nói:
- “Không biết đây là xác người nam hay người nữ ?”
Người kia trả lời:
- “Nếu nằm sấp là xác nam, nằm ngửa là xác nữ.”
Khi tới gần thì thấy cái tử thi ấy lại nằm nghiêng mà trôi, người ấy liền nói:
- “Đây là tử thi của người âm dương đấy !”
(Hoa Diên Thú Lạc Đàm Tiếu Tửu Lệnh)

Suy tư 47:
Xác chết trôi không nằm sấp và cũng không nằm ngửa nhưng nằm nghiêng, người ta cho là người âm dương.
Đời sống thiêng liêng của người Ki-tô hữu cũng như thế, không nóng không lạnh thì là ươn ươn dở dở, mà đã ươn dở thì dĩ nhiên nuốt không vô cần phải ói ra. Người không nóng không lạnh là người gặp đâu hay đấy, họ cứ lưng chừng giữa sự ác và sự thiện, họ không ham sống trong tội nhưng cũng không tích cực sống thánh thiện, họ không bỏ đạo nhưng không hề đi lễ nhà thờ, họ không phủ nhận Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa không có trong đời sống của họ...
Trong cộng đoàn có người “không nằm sấp không nằm ngửa nhưng nằm nghiêng” thì đúng là một khổ não cho bề trên, một gương xấu cho cộng đoàn và một cái gai trong con mắt của các thành viên, chính họ là người sống lập dị không theo cộng đoàn cũng không bỏ cộng đoàn, họ gây bối rối cho người mới bước vào đường tu đức, họ làm cho cộng đoàn mất đi sự an bình, mất đi hương thơm thánh thiện vốn có, bởi vì họ là cái thây ma âm phủ toả nực mùi bất phục tùng, mùi không tuân thủ luật dòng, mùi phê bình và chỉ trích tha nhân, mùi kiêu ngạo chỉ cho mình là đúng...

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư

-------
http://www.vietcatholicnews.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi Tuần SỐNG Một Câu Lời Chúa (CN 2 MC)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:50 24/02/2018
Chúa Nhật 2 MÙA CHAY

Tin mừng: Mc 9, 2-10.
“Đây là Con Ta yêu dấu.”


Bạn thân mến,
Để củng cố đức tin cho các môn đệ của mình, Đức Chúa Giê-su đã biến mình sáng chói trước mặt các ông, không phải để khoe khoang, nhưng là để chứng minh cho các ông một sự thật được giấu từ tạo thiên lập địa, đó là: Ngài chính là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người để chuộc tội cho thiên hạ. Với biến cố biến hình này, Đức Chúa Giê-su đã hé mở cho chúng ta thấy vinh quang của Thiên Chúa và hạnh phúc Nước Trời.
Mục đích của bạn và tôi sống ở đời này là gì, nếu không phải là tìm hạnh phúc trên thiên đàng mai sau hay sao ? Hạnh phúc đó chính là điều mà hôm nay thánh Mác-cô đã tường thuật cho chúng ta nghe, qua tiếng Chúa Cha phán ra từ đám mây: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài.” Vâng, chỉ cần tin tưởng vâng nghe và thực hành lời của Đức Chúa Giê-su là chúng ta sẽ được vinh quang và hạnh phúc Nước Trời, không những ngày sau mà còn ngay khi ở nơi trần gian này.
Thiên Chúa là tình yêu, tình yêu ấy được bày tỏ rất rõ ràng của Con Một yêu dấu của Ngài là Đức Chúa Giê-su, tình yêu đó đang hiện diện và hành động ở giữa thế gian, tình yêu ấy đang hằng ngày ở với chúng ta nơi bí tích Thánh Thể, và tình yêu ấy cùng đồng hành với chúng ta trong cuộc sống của mỗi người.
Bạn thân mến,
Ngoài Đức Chúa Giê-su ra, thì Chúa Cha chưa từng gọi ai là con yêu dấu của mình, nhưng vì yêu thương, vì Con yêu dấu của Ngài là Đức Chúa Giê-su đã xuống thế làm người, hy sinh mạng sống của mình, để giao hòa thế gian với Ngài, nên tất cả chúng ta đều được trở thành con yêu dấu của Thiên Chúa, đó chính là hạnh phúc vô cùng của bạn và tôi và của những ai tin và nghe lời của Chúa Giê-su mà sống với thân phận làm con Thiên Chúa của mình.
Đức Chúa Giê-su là trưởng tử của Chúa Cha là Anh Cả của bạn và tôi, do đó, bạn và tôi và tất cả mọi người đều là anh em với nhau trong Đức Chúa Giê-su Ki-tô, và là những chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Ngài và Hội Thánh Công Giáo. Cho nên, bạn và tôi không những có bổn phận nghe và thực hành lời của Đức Chúa Giê-su, mà còn có bổn phận giới thiệu Ngài cho mọi người nữa, bằng chính cuộc sống yêu thương, hiền lành, đơn sơ, phục vụ của chính bản thân mình.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
----------
http://www.vietcatholicnews.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:52 24/02/2018

38. Con người trong khi cầu nguyện thì đức tin thường tồn.

(Thánh Leo I Pope)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"

--------
http://www.vietcatholicnews.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Các Giám Mục Đức cho những người phối ngẫu Tin Lành được rước lễ trong các hoàn cảnh nhất định
Đặng Tự Do
17:12 24/02/2018
Các Giám Mục Đức nói rằng các ngài đã bỏ phiếu “áp đảo” để ủng hộ một hướng dẫn cho phép người Tin Lành là phối ngẫu của một người Công Giáo có thể được Rước lễ với những điều kiện nhất định.

Các Giám Mục đồng ý rằng một người trong trường hợp như thế có thể được Rước Lễ sau khi đã “tự vấn lương tâm nghiêm túc” với một linh mục hay một nhân viên mục vụ có trách nhiệm. Họ cũng phải “khẳng định đức tin của Giáo Hội Công Giáo”, và muốn chấm dứt những “đau khổ tinh thần nghiêm trọng” vì lòng “khao khát Thánh Thể”.

Các Giám Mục Đức đã họp phiên khoáng đại Mùa Xuân tại Köln (Cologne) từ hôm thứ Hai 19 tháng Hai.

Đức Hồng Y Reinhard Marx nói rằng đã có một “cuộc tranh luận kịch liệt” về vấn đề này, trong đó các “mối quan tâm nghiêm trọng” đã được nêu ra. Các Giám Mục đã không chấp thuận điều này như một luật chung, và, theo Đức Hồng Y Marx, hướng dẫn này chỉ nhắm đến các tình huống cụ thể. Ngài nói: “Chúng tôi không muốn thay đổi bất cứ tín lý nào.

Theo bộ Giáo Luật Công Giáo

“Trong trường hợp nguy tử hoặc nếu, theo sự nhận định của Giám Mục giáo phận hay của Hội đồng Giám Mục, có một nhu cầu quan trọng khác thúc bách, các thừa tác viên Công Giáo có thể ban cách hợp thức các bí tích trên cho cả những Kitô hữu khác không hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo, khi họ không thể đến được với một thừa tác viên của cộng đoàn mình và khi họ tự ý xin điều đó, miễn là họ biểu lộ đức tin Công Giáo về các bí tích ấy, và miễn là họ đã được chuẩn bị đầy đủ. (Điều 844 triệt 4)”

Đức Hồng Y Marx cũng cho biết tài liệu vừa được thông qua này không nhằm để kêu gọi những người Tin Lành được cho Rước Lễ cải đạo sang Công Giáo, và thêm rằng việc cho “hiệp thông Thánh Thể” như thế còn tùy thuộc quyết định của đấng bản quyền địa phương.

Trong một diễn biến có liên quan, cha Thomas Weinandy, thành viên của Ủy ban Thần học Quốc tế của Vatican, nguyên chủ tịch Ủy ban Tín lý Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ bày tỏ âu lo rằng 4 yếu tính của Công Giáo là “duy nhất, hiệp nhất, tông truyền, và Công Giáo” đang bị tấn công “một cách tinh tế, nhưng rõ rệt.”

Trong một bài phát biểu tại Đại học Notre Dame ở Sydney, Úc vào ngày 24 tháng 2, cha Weinandy kêu gọi “bảo vệ vững chắc” bốn yếu tính trên, nếu không căn tính của Giáo Hội sẽ trở nên “lung tung”, và điều đó sẽ “làm suy yếu” khả năng công bố Tin Mừng của Giáo Hội.

Cha Thomas Weinandy nhận xét rằng: “Chúng ta đang chứng kiến sự tan rã tính Công Giáo của Giáo Hội, đối với các giáo hội địa phương, cả ở cấp giáo phận lẫn cấp quốc gia, vì người ta thường xuyên giải thích các chuẩn mực tín lý và các giới luật về đạo đức theo những cách mâu thuẫn và trái ngược nhau. Do đó, những gì các tín hữu được hướng dẫn để tin tưởng và thực hành trong một giáo phận hoặc một quốc gia có thể không phù hợp với những gì các tín hữu được hướng dẫn để tin tưởng và thực hành trong một giáo phận hay một xứ sở khác”.

Sự thánh thiện của Giáo Hội cũng bị nguy khốn, đặc biệt là đối với Thánh Thể.

Cho phép một số cặp vợ chồng kết hôn dân sự được Rước lễ trong khi vẫn tiếp tục sống trong tình trạng không hợp phép đạo kích hoạt và phát triển phương thức “mục vụ theo tình huống”, mà cuối cùng là “hầu hết các cặp vợ chồng ly dị và tái hôn đều tự cho mình xứng đáng được Rước Lễ.”

Những luật luân lý không còn là những luật tuyệt đối nữa mà chỉ đơn giản là những “lý tưởng”, giữ được thì tốt, không được cũng không cần phải áy náy lương tâm..

Ngài cảnh cáo rằng những linh mục nào cho phép những người vẫn còn sống trong tội lỗi nghiêm trọng được Rước lễ thì vô tình hay hữu ý thừa nhận rằng “tội lỗi vẫn tiếp tục thống trị nhân loại bất kể công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu”.

“Cho phép những người vẫn còn sống trong tội lỗi tỏ tường được Rước lễ, như là một hành động thương xót, chỉ làm hạ giảm việc lên án tính chất nghiêm trọng của tội lỗi và xem thường sức mạnh và quyền năng của Chúa Thánh Thần.”

Cha Weinandy kết luận rằng “Bản sắc của Giáo Hội, sự hiệp thông trong Giáo Hội của chúng ta, đang bị tấn công, và bởi vì Giáo Hội là hiền thê của Chúa Kitô, chính Chúa Kitô và công cuộc cứu độ của Người cũng đang bị xem thường.”


Source: Catholic Herald - German bishops’ guidelines allow Communion for Protestant spouses in ‘certain circumstances’; Fr Weinandy: Church teaching under ‘subtle, but well-defined attack’
 
Thành quả và tương lai của Ủy Ban Giáo Hoàng Bảo Vệ Vị Thành Niên
Vũ Văn An
18:52 24/02/2018
Ủy Ban Giáo Hoàng Bảo Vệ Vị Thành Niên được Đức Phanxicô thiết lập ngày 22 tháng Ba năm 2014. Hơn một năm sau, Ủy Ban này mới có qui chế. Tuy nhiên trong tự sắc thiết lập, Đức Phanxicô đã nói rõ mục đích của Ủy Ban: đề nghị các sáng kiến để bảo vệ trẻ em khỏi những người ấu dâm trong Giáo Hội. Qui chế nói rõ hơn: Ủy Ban là một cơ chế hoàn toàn có tính cố vấn cho Đức Giáo Hoàng nhằm các mục đích cổ vũ trách nhiệm địa phương trong các giáo hội đặc thù để bảo vệ mọi vị thành niên và người lớn dễ bị tổn thương.

Ủy Ban gồm 18 thành viên kể cả vị chủ tịch, nhiệm kỳ 3 năm. Nhiệm kỳ đầu đã chấm dứt cuối năm 2017 và việc triển hạn không công bố thành viên mới đã khiến dư luận xôn xao bàn tán, nhất là vì có những vụ từ chức của một số thành viên giáo dân.

Từ chức vì không được đa số ủy viên ủng hộ

Vụ từ chức của Peter Saunders và Marie Collins đã được nhiều người nói đến, ở đây, chúng tôi chỉ nhắc đến vụ từ chức thứ ba trong nhiệm kỳ đầu của Ủy Ban. Đó là bà Catherine Bonnet, một nhà phân tâm học người Pháp.

Theo nữ ký giả Claire Giangravè của Tạp Chí Crux, Catherine Bonnet vừa lên tiếng cho rằng Đức Phanxicô đã không coi việc bảo vệ trẻ em như một ưu tiên. Bà đệ đơn từ chức hồi tháng Sáu năm ngoái sau khi không thuyết phục được đa số thành viên đưa ra các thay đổi mà bà cho là cần thiết.

Trong cuộc phỏng vấn của tờ L’Express (Pháp), bà nói: “tôi đích thân bênh vực việc các giám mục và bề trên các dòng tu buộc phải phúc trình các vụ hoài nghi lạm dụng tình dục cho các nhà cầm quyền dân sự, 1 việc vốn đã được thực hiện tại Hoa Kỳ... Nhưng hồi tháng Sáu, khi tôi thấy tôi không thể thuyết phục được 2 phần 3 các ủy viên, như qui định đòi hỏi, tôi đã viết thư từ chức”.

Có tường trình cho hay: Đức Phanxicô không chấp nhận thư từ chức của bà, nhưng khi ủy ban hết nhiệm kỳ và các ủy viên mới được bổ nhiệm, tên bà không có trên danh sách. Điều đáng nói ở đây là lý do của việc từ nhiệm.

Dường như cả ba ủy viên giáo dân từ chức đều không nắm vững vai trò và mục đích của Ủy Ban. Nhất là Catherine Bonnet khi bà nhấn mạnh đến việc 2 phần 3 Ủy Ban đã không ủng hộ sáng kiến của bà buộc các giám mục và các bề trên dòng tu phải phúc trình các vụ hoài nghi lạm dụng tình dục trẻ em cho nhà cầm quyền dân sự.

Theo Teresa Kettelkamp, một cựu đại tá cảnh sát của Tiểu Bang Illinois, cựu giám đốc Bảo Vệ Trẻ Em của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, một chuyên gia từng làm việc xưa nay cho Ủy Ban trong việc soạn thảo các hướng dẫn và là ủy viên mới vừa được Đức Phanxicô cử vào Ủy Ban, thì nhiệm vụ chính của Ủy Ban là khai triển các hướng dẫn chống lại việc lạm dụng khắp nơi trên thế giới. Các hướng dẫn này phải có thể áp dụng khắp trong Giáo Hội với rất nhiều các truyền thống văn hóa, chính trị khác nhau.

Thành thử Ủy Ban “cần cung cấp cho Đức Thánh Cha một số ý tưởng vững chắc về việc phải bảo vệ trẻ em ra sao. Đó là sứ mệnh của Ủy Ban: cố vấn cho ngài các phương cách để bảo vệ trẻ em tốt nhất... trong khi lưu ý tới các nền văn hóa đa dạng và khác nhau. Điều làm được ở thế giới Tây Phương có thể không làm được đối với một số quốc gia khác, nên Ủy Ban phải đạt tới những chuẩn mẫu (templates) thực sự vững chắc. Ủy Ban đã có các hướng dẫn, nhưng các hướng dẫn không luôn áp dụng được ở mọi nơi trên thế giới. Một số áp dụng được, một số không, trong số các qui định của hướng dẫn. Ủy Ban cần tập chú vào sứ mệnh của mình, và sứ mệnh này là cố vấn cho Đức Thánh Cha và nhấn mạnh tới trách nhiệm địa phương... Công việc hàng đầu của họ là cố vấn cho Đức Thánh Cha, và các giải pháp phải đa dạng, không thể thiển cận, chỉ xem xét một bộ dân luật” hay một hệ thống công lý tại các quốc gia khác nhau. Cần phải có tính hoàn cầu và áp dụng cho giáo hội hoàn vũ”.

Phúc trình các vụ hoài nghi lạm dụng có thể áp dụng được ở Hoa Kỳ hay các nước Tây Phương nói chung. Nhưng biện pháp ấy có thể không hữu dụng ở một nơi khác trên thế giới, nên không được đa số các ủy viên đồng thuận. Chuyện ấy, đâu có chi đến phải quyết định viết thư xin từ chức!

Thành công hay thất bại

Nhân dịp trả lời phỏng vấn ngày 23 tháng Hai năm 2018 của tạp chí Crux, Kettelkamp quả quyết rằng “đôi khi, người ta muốn Giáo Hội thất bại. Nhưng Giáo Hội không thất bại trong vấn đề này. Giáo Hộ rất năng nổ giải quyết nó... có lẽ không nhanh như nhiều người khác mong muốn, nhưng đã có sự thay đổi trong văn hóa, trong khá nhiều nền văn hóa. Không phải chỉ trong nền văn hóa của Giáo Hội đã thay đổi ở nhiều nơi, mà cả nền văn hóa thế tục nữa... Những người muốn sự việc thay đổi nhanh hơn là không thực tiễn...”

Nói về thành công hay thất bại, Ký Giả John Allen thuật lại lời Tổng Thống Kennedy nói sau thảm họa Vịnh Con Heo năm 1961 “Chiến thắng có cả ngàn ông bố, nhưng thất bại là đứa con mồ côi”, một câu nói nhái lời hiền triết Tacitus ngày xưa. Oái oăm một điều, truyền thông ngày nay có quan điểm ngược hẳn lại: thất bại là người nổi tiếng, thành công chẳng là ai cả!

Nghĩa là được coi là tin tức khi chiến tranh nổ ra, máy bay rớt, hệ thống bị ngưng trệ, và các nhà lãnh đạo gặp rắc rối. Còn khi
Hoà bình ổn định, máy bay hạ cánh an toàn, ngân phiếu đến đúng lúc, và các nhà lãnh đạo âm thần hoàn thành nghĩa vụ thì nào có ai lưu ý!

Đối với Ủy Ban Giáo Hoàng Bảo Vệ Vị Thành Niên cũng thế: trước tấm phông những thất bại “hoành tráng” và những tranh cãi ầm ỹ về mặt trận chống lạm dụng tình dục, các thành công từ từ và nho nhỏ chẳng làm sao át được cái ầm ĩ kia.

Thực ra, theo Kattelkamp và Allen, “trong gần 4 năm hiện hữu, Ủy Ban đã âm thầm tạo được một tác dụng có thực chất trong việc làm cho Giáo Hội Công Giáo thành một nơi an tòan hơn cho trẻ em tại nhiều nơi trên thế giới.

“Chỉ xin đơn cử một việc, các ủy viên của Ủy Ban đã đi khắp thế giới để tổ chức các buổi tập huấn về việc phòng ngừa, khám phá và đáp ứng lạm dụng cho các nhà lãnh đạo Giáo Hội, kể cả ở những vùng trước đây vốn đề kháng việc nhìn nhận toàn bộ ý niệm cho rằng lạm dụng trẻ em là một nguy cơ thật sự trầm trọng trong Giáo Hội Công Giáo. Với thời gian, nhiều lời mời tổ chức các sáng kiến như thế cho thấy ý thức về và việc tiếp nhận sự lãnh đạo của Ủy Ban càng ngày càng gia tăng.

Hơn nữa, có những tiêu chí cho thấy điển hình của Ủy Ban đang gây ra hiệu quả lên men nơi các giáo hội địa phương. Năm 2016, Đức Hồng Y Oswald Gracias của Mumbai, Ấn Độ, một thành viên của Hội Đồng 9 Hồng Y Cố Vấn cho Đức Phanxicô và là Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Ấn Độ, đã thiết lập ủy ban bảo vệ trẻ em tại Mumbai và ngài cho tạp chí Crux hay ngài làm thế là theo tinh thần của Ủy Ban cùng tên của Tòa Thánh.

Ủy Ban cũng đã đóng góp đáng kể vào việc duyệt lại các hướng dẫn chống lạm dụng tại các nước đã có các hướng dẫn này, đồng thời thúc đẩy và trợ giúp các nước chưa có các hướng dẫn này soạn thảo chúng bằng cách khai triển các khuôn mẫu để địa phương thích ứng.

Ủy Ban cũng đã khai triển “Ngày Cầu Nguyện” cũng như các ngày giáo dục về việc các giáo hội khác nhau có thể hành động ra sao để đấu tranh chống nạn lạm dụng trong cộng đồng của họ. Ủy Ban cũng đã đưa ra các suy tư thần học về tầm quan trọng của cuộc khủng hoảng lạm dụng đối với cái hiểu thần học về Giáo Hội và các xác tín thiêng liêng nòng cốt của Giáo Hội.

Đúng như nhận định của Kettelkamp: những điều người ta biết về thành quả của Ủy Ban chỉ là một phần rất nhỏ, một vết cào nhỏ ở ngoài mặt.

Hướng đi tương lai

Với thành phần mới vừa được công bố, người ta thấy đây là một điểm mạnh của Đức Phanxicô đối với Ủy Ban. Ngài đã mở rộng phạm vi và tầm hoạt động hoàn cầu của nó với các thành viên từ Ethiopia, Ấn Độ, Tonga và Ba Tây, cả Úc Châu, Anh và Hoa Kỳ nữa.

Đức Hồng Y O’Malley, tiếp tục được sự tín nhiệm của Đức Phanxicô trong chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban, cho hay: “Đức Thánh Cha bảo đảm tính liên tục trong việc làm của Ủy Ban chúng tôi, là trợ giúp các giáo hội địa phương xuyên suốt việc làm của họ trong các cố gắng nhằm bảo vệ mọi trẻ em, thanh thiếu niên, và người lớn tuổi dễ bị thương tổn khỏi bị hãm hại”.

Điều đáng lưu ý là trong số các giáo dân ủy viên mới, có những người là nạn nhân bị lạm dụng, nhưng họ chỉ chia sẻ trải nghiệm của họ trong Ủy Ban hơn là nơi công cộng. Không như một số ủy viên bị lạm dụng trước đây lợi dụng tư cách thành viên để gây thanh thế cá nhân.

Theo Gerard O’Connell của Tạp Chí America, thông báo ngày 17 tháng Hai của Ủy Ban tiết lộ Ủy Ban đang thiết lập “Một Ban Cố Vấn Quốc Tế” gồm các cựu nạn nhân bị lạm dụng theo mẫu của Ủy Ban Công Giáo Bảo Vệ Toàn Quốc của Anh và Wales. Đây là một cơ chế mới, đặt dưới sự điều khiển của Nữ Bá Tước Hollins, người Anh, là cựu thành viên của Ủy Ban. Ban này có nhiệm vụ “nghiên cứu việc ngăn ngừa lạm dụng theo viễn tượng nạn nhân”.

Đức Hồng Y O’Malley, một lần nữa, nhấn mạnh tới thách đố lớn nhất của Ủy Ban là “tạo ra một nền văn hóa bảo vệ”. Theo ngài, “nhiệm vụ chuyên biệt” của Ủy Ban “là đề xuất với Đức Thánh Cha các sáng kiến thực hành tốt nhất để bảo vệ các vị thành niên và người lớn dễ bị thương tổn khỏi tội ác lạm dụng tình dục và phát huy trách nhiệm địa phương nơi các giáo hội đặc thù để bảo vệ mọi trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn tuổi dễ bị thương tổn”.

Nhân dịp này, ngài chính thức cho hay: từ năm 2014, Ủy Ban đã làm việc với gần 200 giáo phận và cộng đồng tu trì khắp thế giới để gây ý thức và giáo dục người ta về nhu cầu bảo vê trong nhà, trong giáo xứ, trường học, bệnh viện và các định chế khác.
 
Đức Thánh Cha cám ơn linh mục Jose Tolentino de Mendonca, sau khóa Linh Thao
Bùi Hữu Thư
19:15 24/02/2018
Vatican Ngày 23/2/2108, (Zenit.org) Ngày 23 tháng 2, 2018, Đức Thánh Cha Phanxicô cám ơn linh mục Jose Tolentino de Mendonca, vị giảng phòng Khóa Linh Thao Mùa Chay cho ngài và cho giáo triều. Cha Jose Tolentino là Phó Viện Trưởng Đại Học Công Giáo ở Lisbon, và là tư vấn của Hội Đồng Giáo Hòang về Văn Hóa, Đức Thánh Cha đã cám ơn cha Jose vào cuối khóa Linh Thao tại Aricia.

Lời Đức Thánh Cha:

Thưa cha, thay mặt cho tất cả mọi người tôi cám ơn cha đã đến với chúng tôi trong những ngày qua, và ngày hôm nay được kéo dài với Ngày Ăn Chay Hãm Mình để cầu nguyện cho Nam Sudan, Congo và Syria.

Cám ơn cha đã nói với chúng tôi về Giáo Hội, và làm cho chúng tôi phải lắng nghe Giáo Hội, Cha cũng yêu cầu chúng tôi không được làm cho Giáo Hội nhỏ bé hơn bằng thể chế quan liêu trần thế của chúng ta! Cám ơn cha đã nhắc nhớ chúng tôi rằng Giáo Hội không phải là nơi giam giữ Chúa Thánh Thần; và Thánh Thần phải có thể tung bay đẻ họat động bên ngòai.

Với các trình thuật và những gì cha đã nói, cha đã làm cho chúng tôi thấy cách thức Chúa Thánh Thần họat động nơi những người không tin và vô thần, và nơi những người thuộc các tôn giáo khác: Thánh Thần là hòan vũ, Người là Thánh Thần của Thiên Chúa, và là của tất cả mọi người.

Ngày nay cũng có các “Cornelius,” “các đội trưởng”, những người canh gác nhà giam Thánh Phêrô; họ đang sống với sự tìm kiếm nội tâm và cũng có thể nhận biết khi có một điều gì kêu gọi họ.

Cám ơn cha về lời kêu gọi này để chúng tôi không sợ hãi mở lòng, không cứng rắn, và mềm dẻo, trong Thánh Thần không bị ướp xác qua cấu trúc cứng rắn của chúng ta, vì điều này khiến chúng tôi khép kín.

Cám ơn cha, xin cha tiếp tục cầu nguyện cho chúng tôi. Như Mẹ Bề Trên đã nói với các nữ tu” “Chúng ta đều là những con người tội lỗi!” Cám ơn cha, và xin Chúa chúc lành cho cha.

Bùi Hữu Thư
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Ngưỡng Cửa Vatican Và Các Vùng Ngoại Biên
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
10:18 24/02/2018
HAY VATICAN CÓ NGHE TIẾNG CHÚA: “EM NGƯƠI ĐÂU RỒI ?”. St 4,9

Ngày 25 tháng 2 tới đây, phái đoàn Hội Đồng Giám Mục Việt Nam sẽ lên đường về giáo đô Rôma để thực hiện một cuộc “hành hương đặc biệt” mà danh từ chuyên môn gọi một cách đầy đủ là: VIẾNG MỘ HAI THÁNH TÔNG ĐỒ PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ (VISITA “AD LIMINA SANCTORUM APOSTOLORUM PETRI ET PAULI”) hay thường gọi tắt là “Đi Ad Limina”[1].

Từ vùng Á Châu xa xôi, các “đấng kế vị các Tông Đồ thuộc dòng con cháu tiên rồng” lại được một lần “chạm ngưỡng cửa từ đường của mẹ Hội Thánh Công Giáo[2]. Lần “chạm cửa” nầy của các Tổng Giám Mục và Giám Mục Việt Nam diễn ra trong một bối cảnh mục vụ khá tế nhị của Giáo Hội mà trọng điểm chính là cuộc “lùm xùm-lời qua tiếng lại” giữa một số “quan chức cấp cao của Vatican và một ít Giám Mục hàng đầu Trung Quốc xoay quanh nội dung: sự chọn lựa nào cho cuộc hiệp thông của Giáo Hội Trung Quốc với nhau và với Giáo Hội Mẹ.[3]

Như một chút “cảm nhận mục vụ” nhân cuộc Ad Limina lần này của các Giám Mục Việt Nam, xin được bày tỏ “một góc nhìn về mối hiệp thông của Hội Thánh” từ vị trí của một kẻ nhỏ nhất trong dân Chúa.

I. Ý NGHĨA NỀN TẢNG CỦA VIỆC AD LIMINA:

Sự gặp gỡ “định kỳ” giữa các Tông Đồ với nhau, và đặc biệt, giữa các Tông Đồ với Vị “Tông Đồ Trưởng Phêrô”, là một truyền thống đã in dáu vết ngay từ thuở khai sinh Giáo Hội, thời “Công Vụ Tông Đồ”, như được ghi lại trong thư của Thánh Tông Đồ Phaolô gởi giáo đoàn Galat: “Ba năm sau tôi mới lên Giêrusalem diện kiến ông Kê-pha, và ở lại với ông mười lăm ngày”. (Gl 1,18).

Trải qua dòng thời gian, sau hai mươi thế kỷ, sinh hoạt đặc biệt của các vị “kế vị các Tông Đồ” nầy đã được quy định hẳn hoi trong Giáo Luật và với các chỉ thị trong các văn kiện Huấn Quyền:

- Bộ Giáo Luật 1983, trong hai khoản 399 triệt 1 và 400 triệt 1,2,3 ghi rõ. Xin trích:

“Cứ năm năm một lần, giám mục giáo phận phải đệ nạp lên Đức Giáo Hoàng bản phúc trình về tình trạng của giáo phận đã được ủy thác cho ngài, theo biểu mẫu và vào thời điểm theo Tông Tòa ấn định”. (BGL 399,1).

“(1) Vào đúng năm đệ nạp bản phúc trình lên Đức Giáo Hoàng, nếu Tông Tòa không ấn định cách khác, giám mục giáo phận phải về Rôma để viếng mộ các thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô và phải yết kiến Đức Giáo Hoàng. (2) Giám mục phải tự mình chu toàn nghĩa vụ nói trên, trừ khi bị ngăn trở chính đáng; trong trường hợp này, ngài phải nhờ giám mục phó, nếu có, hoặc Giám Mục Phụ Tá, hay một tư tế khác có khả năng xứng hợp thuộc linh mục đoàn hiện đang cư ngụ trong giáo phận của ngài để thay thế ngài chu toàn nghĩa vụ đó. (3) Vị đại diện tông tòa có thể nhờ một người đại diện để thay thế ngài chu toàn nghĩa vụ đó, ngay cả khi họ đang ở Rôma; vị phủ doãn tông tòa không có nghĩa vụ này” (BGL 400,1-3).

- Tông Hiến Pastor Bonus:

“Các cuộc viếng Mộ Hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô cũng liên hệ tới các Bộ và các cơ quan khác của Giáo Triều Rôma. Quả thế, nhờ các cuộc tiếp xúc này, mà một cuộc đối thoại giữa các giám mục và Tòa Thánh được tiến triển và đào sâu, các thông tin hỗ tương từ hai bên cũng được trao đổi, các lời cố vấn cũng như gợi ý thiết thực cũng được đưa ra từ hai phía để mưu cầu lợi ý lớn nhất và sự tiến triển cũng như việc tuân thủ kỷ luật chung của Giáo Hội”[4]

- Chỉ thị của Bộ Giám Mục về các cuộc viếng thăm Ad Limina:

“Các Cuộc viếng thăm này phải được chuẩn bị kỹ lưỡng, làm sao để 3 giai đoạn chính làm nên Cuộc Viếng thăm này – hành hương và tôn kính mộ Thánh Tông Đồ cả, cuộc gặp Đức Thánh Cha và các buổi trao đổi tại các Bộ của Giáo Triều Rôma được thể hiện một cách tốt đẹp và đem lại kết quả tích cực”[5]

Qua các trình bày của Giáo Luật cũng như văn bản Huấn Quyền trên, chúng ta có thể nói được rằng: sinh hoạt “Ad Limina” của Hội Thánh Công Giáo vừa là một dấu chỉ rõ nét vừa là một phương thế đúng đắn và hữu hiệu để phát triển, điều chỉnh và củng cố đời sống đức tin, đặc biệt, về phương diện hiệp nhất, cho dân Chúa.

II. TẦM QUAN TRỌNG VÀ CƠ HỘI THUẬN TIỆN:

Khi nhìn sự kiện “Ad Limina” nầy qua lăng kính của những “tín đồ tin học” hay “chuyên gia bàn phím”, thì chắc sẽ gặp được một cái bĩu môi: “Bày chuyện rườm rà, tốn tiền vô ích”. Trong thời đại công nghệ giao tiếp viễn liên tân tiến và khả dụng này, chỉ cần “ngồi nhà nhấp chuột” là đủ; đỡ tốn kém bao nhiêu thời gian, sức khỏe, chi phí và bao dịch vụ “ăn theo”.

Nhưng Hội Thánh Chúa Kitô lại không phải là một “công ty”, một “tổ hợp kinh tế, thương mại, văn hóa...hay gì gì đó nữa...” mà là một “dấu chỉ và phương thế hiệp thông” như minh định của Công Đồng chung Vatican II trong Hiến Chế Giáo Hội:

“Trong Đức Kitô, Giáo Hội như là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và phương tiện hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa và hợp nhất mọi người, vì thế Giáo Hội muốn trình bày rõ ràng hơn cho các tín hữu và toàn thế giới chính bản tính và sứ mệnh phổ quát của mình, dựa trên giáo huấn của các Công Đồng trước đây. Thực trạng thế giới càng trở nên khẩn thiết, để con người ngày nay, khi đã gắn kết với nhau chặt chẽ hơn nhờ những mối liên hệ đa dạng trong lãnh vực xã hội, kỷ thuật và văn hóa, phải đạt đến sự hợp nhất trọn vẹn trong Chúa Kitô” (GH 1).[6]

Nội dung ý nghĩa trên còn được cắt nghĩa thêm về sự hiệp nhất giữa Giáo Hội địa phương và Giáo Hội phổ quát, giữa Đức Thánh Cha và hàng Giám Mục trong Tông Hiến Sacrae Disciplinae Leges” (Các luật lệ của kỷ luật thánh):

“Giáo Hội như mối hiệp thông và do đó ấn định những mối liên hệ hỗ tương phải có giữa Giáo Hội địa phương và Giáo Hội phổ quát, giữa tập đoàn tính và quyền tối thượng”.[7]

Chính vì thế, ad limina đối với các Giám Mục thuộc Giáo Hội địa phương chính là một “cơ hội thuận tiện” và quý báu để sống và thể hiện cụ thể chiều kích “Hiệp Thông” nầy, như cách trình bày của cố Đức ông Phanxicô Trần Văn Khả:

“Tại nước mình, các giám mục đã họp nhau trong các buổi họp của Hội Đồng Giám mục và các dịp khác, các ngài cũng có những ngày sống huynh đệ, tuy nhiên ở trong một bối cảnh khác, được giới hạn của một Giáo Hội địa phương, còn trong thời gian Thăm Viếng ad limina những ngày sống huynh đệ này mang một chiều kích sâu đậm hơn, với chính Đức Thánh Cha, với các cộng sự viên của Đức Thánh Cha trong việc cai quản Giáo Hội và qua Đức Thánh Cha, các ngài hiệp thông với các giám mục khác trên thế giới”.[8]

III. ĐÃ CHUẨN BỊ VÀ TẬN DỤNG ĐỦ CHƯA ?

Với một “cơ cấu phẩm trật” tối hảo được chính Chúa Kitô thiết lập và thường xuyên được hướng dẫn bới Chúa Thánh Thần, cùng được phù trợ bởi những phương thế khả dụng và đầy kinh nghiệm khôn ngoan của bề dày lịch sử...chắc nhiều người trong chúng ta không khỏi có những lúc đâm xao xuyến, trở trăn trước những sự kiện “không mấy đẹp mắt” xảy ra đây đó trong Hội Thánh liên quan đến các Giám Mục (Vụ án xử “lạm dụng tình dục” của tòa án Melbourne tại úc và Đức Hồng Y Bell, về tình trạng của giáo phận Ahiara, Nigeria và việc từ chức của Đức Cha Peter Ebere Okpaleke, về các bất đồng giữa các Giám Mục (Giáo Hội Hiệp thông hay thầm lặng) Trung Hoa về lộ trình chuẩn bị thiết lập bang giao giữa Vatican và nhà nước Cọng sản Trung quốc…).

Trong thời đại “thế giới bỗng dưng gần lại” như hôm nay, không thể đỗ thừa: sự kiện xảy ra quá đột xuất, mau lẹ khiến Tòa Thánh và các HĐGM trở tay không kịp để có những biện pháp tối ưu kịp thời giải quyết. Dĩ nhiên, cho dù thuộc về Thiên Chúa, Giáo Hội lại mang đầy đủ các nhân tố thuộc giới hạn con người, cho nên “Giáo Hội lại luôn có những tội nhân, vừa thánh thiện vừa luôn cần được thanh tẩy, nên không ngừng bước theo con đường sám hối và canh tân” (GH 8).

Xác nhận chân lý nền tảng trên về Giáo Hội không có nghĩa để biện minh cho những cách “hành xử mục vụ” không mang lại hiệu quả hoặc gây ra những đổ vỡ và rạn nứt giữa lòng Hội Thánh mà trách nhiệm không nhỏ cuối cùng thuộc về Tòa Thánh và các Hội Đồng Giám Mục địa phương.

Đối với công cuộc truyền giáo tại Á Châu cách đây hơn ba thế kỷ, một sự kiện liên quan đến Giáo Hội tại Trung Hoa: nghi lễ thờ cúng tổ tiên[9], đã trở thành một “vết đen” vẫn còn ảnh hưởng tiêu cực cho đến mãi hôm nay đối với đông đảo người dân Á Châu, trong đó có Việt Nam. Trách nhiệm đầu tiên của vụ việc nầy phải công nhận thuộc về những quyết sách mục vụ không “thích dụng” của Tòa Thánh, đến đổi, vị linh mục chuyên về truyền giáo học, cha F.Gomez, đã kết luận “một câu xanh rờn”: “Không một biến cố nào trong lịch sử Giáo hội đã phương hại trầm trọng đến hoạt động truyền giáo cho bằng vụ này”.[10]

Không khéo, “sự cố Trung Hoa” có thể tái diễn một lần nữa ngay trong thời hiện đại. Vì chưng, nếu dựa vào những đánh giá, bình luận và thông tin trong những ngày nầy, chúng ta đang chứng kiến một sự “bất đồng thuận” khá nghiêm trọng giữa thẩm quyền tối cao của Hội Thánh hoàn vũ-Tòa Thánh Vatican và một số Giám mục thuộc Giáo Hội tại Trung Hoa, đặc biệt “Giáo Hội hầm trú” về các động thái mục vụ liên quan.

Sau đây là nhận xét của cha Cervellera[11]:

“Theo Cha Cervellera, những người Công Giáo thầm lặng, là những người đã bị sách nhiễu và khổ đau vì quyết tâm trung thành với Tòa Thánh, e sợ rằng Vatican sẽ hy sinh họ để đạt được một thỏa thuận với Bắc Kinh. Họ nhận xét rằng Vatican đã dàn xếp các cuộc họp và các cuộc trao đổi quan yếu với các đại diện của Giáo Hội “chính thức” do nhà nước ủng hộ, mà chưa có một hành động tương ứng nào như thế với các giáo sĩ thuộc Giáo Hội thầm lặng…

Theo những báo cáo được lưu hành rộng rãi, Tòa Thánh và nhà nước cộng sản Trung Quốc đang tiến gần đến một thỏa thuận trong đó Tòa Thánh sẽ chấp nhận các vị “giám mục” đã được “tấn phong” bởi bọn cầm quyền Trung Quốc mà không cần sự chuẩn y của Vatican. Đổi lại, Bắc Kinh sẽ công nhận quyền của Tòa Thánh bổ nhiệm các giám mục mới. Tuy nhiên, những giám mục này sẽ được chọn từ một danh sách do Hội Công Giáo Yêu nước đưa ra. Theo Đức Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân, nguyên Giám Mục Hương Cảng, nếu điều này xảy ra, bọn cầm quyền Trung Quốc có thể kiểm soát các bổ nhiệm giám mục và chỉ giới thiệu các ứng viên nào sẵn sàng công nhận uy quyền của chính phủ. Ngoài ra, những thỏa thuận này không đề cập đến tình trạng của các giám mục “thầm lặng” và các linh mục hiện đang chịu sự sách nhiễu của chính phủ, nhiều người đang bị bắt giữ. “[12]

Cũng trong viễn tượng khá tiêu cực đó khi nhìn về sự kiện nầy, giáo sư Richard Madsen[13] đã nhận xét:

“Điều đáng quan tâm và có tính chất định đoạt đối với các cuộc đàm phán giữa Vatican và Trung Quốc là liệu hai bên có thể đồng ý với nhau hay không về tình trạng của các giám mục và các tín hữu thuộc Giáo Hội thầm lặng. Nếu các tín hữu thầm lặng cảm nhận rằng Vatican đang bỏ rơi họ, thì họ có thể xem đây là một sự phản bội của Tòa Thánh đối với Giáo Hội Công Giáo tại Trung Quốc và sẽ gây ra những chia rẽ nghiêm trọng trong Giáo Hội Công Giáo Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc rất hồ hởi phấn khởi trước viễn tượng này. Các hành động của nhà cầm quyền Bắc kinh trong những năm qua cho thấy nó thèm khát muốn nhìn thấy Giáo Hội tại đất nước này suy yếu, và những chia rẽ sâu đậm hơn trong Giáo Hội sẽ giúp nó thực hiện điều này.”[14]

Nói đến người lại nghĩ đến ta. Cách đây 8 năm (2010), Giáo Hội tại Việt Nam cũng đã một thời “sóng gió” với sự kiện Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt từ chức và bị “bứng khỏi” thủ đô Hà Nội với bao nhiêu kết án và xúc phạm của truyền thông nhà nước Cọng Sản Việt Nam, để nhường chỗ cho Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, được tiếp đón bằng một rừng chống đối và đánh phá tơi bời hoa lá của cộng đoàn giáo dân thủ đô. Đây cũng được xem là một hậu quả tai hại của “quyết sách mục vụ nóng vội đến từ Vatican” mà thành phần phải gánh chịu hy sinh chẳng đáng có chính là đoàn dân Chúa Việt Nam. Chúng ta có thể đọc thấy nội dung phản ảnh “bi kịch mục vụ” nầy qua bài diễn văn của Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh. Xin trích:

“Quyết định của Đức Thánh Cha có thể không đáp ứng được sự chờ đợi nhân loại của một số con cái, nhưng vẫn là quyết định của Đấng Đại Diện Đức Kitô trên trần gian. Giáo Hội chỉ là Giáo Hội, Toà Thánh chỉ là Toà Thánh một khi chúng ta có khả năng chấp nhận chiều kích siêu phàm của Giáo Hội. Điều đó đòi buộc chúng ta phải hiến tế quan điểm riêng của mình để đón nhận và tuân phục Thánh Ý đấng thay mặt Chúa Giêsu, Đấng thiết lập Giáo Hội.”[15]

Vào chính thời điểm nóng bỏng đó, có một tác giả đã nhận xét như sau:

“Chúng ta không thể trách Tòa Thánh là không hiểu rõ bản chất trí trá của nhà cầm quyền Cọng Sản Việt Nam nên đã có những quyết định không thích thích hợp; mà chúng ta hãy tự đấm ngực để nhận lấy thiếu sót vì chưa tích cực và trách nhiệm đủ trong việc phản ảnh đúng mức và tiên liệu chính xác những thực trạng mục vụ, chính trị và xã hội Việt nam để giúp Tòa Thánh đưa ra những định hướng và quyết định đúng đắn và ích lợi cho Giáo Hội cũng như đất nước Việt Nam.

Giáo Hội Việt Nam hôm nay nói được là có quá nhiều những mục tử khoa bảng. Giáo phận nào cũng đầy dẫy các linh mục, tu sĩ đi du học nước ngoài. Tuy nhiên, gần như không có những nhóm chuyên viên để làm việc chung và nghiên cứu tới nơi tới chốn các chuyên đề mục vụ nóng bỏng và cần thiết để tư vấn cho HĐGM, hầu có cơ sở vững chắc để đáp ứng các yêu cầu bức thiết đang tác động lên đời sống của dân Chúa. Trong khi đó, mỗi năm HĐGM chỉ gặp nhau có 2 lần mà phần lớn nghị trình chỉ là để bàn thảo những vấn đề mang tính đạo đức truyền thống và nội bộ, không phản ảnh được những trọng điểm mục vụ mang chiều kích “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ”. Phải chăng đó là lý do thứ ba để Giáo Hội Công Giáo Việt nam trở thành người thua cuộc.”[16]

Đơn cử một vài sự cố tiêu biểu đó để chúng ta nhận thức tầm quan trọng và cơ hội tuyệt vời của cuộc hành hương “Ad Limina” của các Giám Mục.

Thật vậy, nếu cả hai phía, Vatican với Đức Giáo Hoàng và các Thánh Bộ cùng với phái đoàn Giám Mục của Giáo Hội địa phương nỗ lực tận dụng cơ hội ad limina để bàn thảo và giải quyết rốt ráo các hồ sơ mục vụ liên quan đến Giáo Hội địa phương, chắc chắn sẽ hạn chế thật nhiều những rủi ro và thất bại mục vụ.

Có thể giả thiết điều nầy: Giáo Hội vẫn còn làm việc theo cung cách “quan lại” và “bàn giấy”: các Giám Mục yên tâm với một đống những bản báo cáo phúc trình vô hồn và gần như “tách biệt khỏi cộng đồng dân Chúa”; trong khi ĐGH và các Thánh Bộ tiếp đón trịnh trọng với những bài huấn đức mượt mà, những lời khen có cánh, những nhận xét đôi khi vô thưởng vô phạt. Trong khi những sự kiện quan trọng của Giáo Hội địa phương sẽ được “ngâm cứu giải quyết” theo các “kênh riêng” hoặc “ngoài luồng” do hệ thống chuyên viên cung cấp…. Nếu quả thật diễn ra như thế, thì e rằng, sau cuộc ad limina lần nầy rồi mọi sự cũng “theo chân ngài vũ như cẩn”.

Nói đến việc “tách biệt khỏi cộng đồng dân Chúa” là có ý muốn nói rằng: với một sự kiện mục vụ to tát như thế, nhưng thử hỏi, các Đức Giám Mục Việt Nam lần nầy không biết mang về Tòa Thánh được bao nhiêu ý nguyện của cộng đoàn dân Chúa Việt Nam; sợ rằng, cho đến hôm nay, chỉ có một số rất ít là đọc được bức thư chúc tết của Đức Tổng Gám Mục Giuse Nguyễn Chí Linh để biết có sự kiện “Ad Limina” và biết ngài hứa sẽ trình lên Đức Thánh Cha những điều tốt đẹp của dân Chúa Việt Nam. Xin trích:

“Tôi cũng xin anh chị em cầu nguyện cho chuyến đi viếng mộ Thánh Phêrô tại Roma của Hội đồng Giám mục từ ngày 25/02/2018 đến ngày 09/03/2018 được tốt đẹp. Trong cuộc hành hương này, Hội đồng Giám mục Việt Nam sẽ được Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp kiến. Chắc chắn chúng tôi sẽ kính trình ngài lòng yêu mến và sự trung thành của con cái Việt Nam đối với ngài và đối với Giáo hội hoàn vũ. Cạnh mồ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, chúng tôi cũng sẽ hiệp ý với anh chị em để xin các ngài bầu cử cách đặc biệt cho quê hương, đất nước, dân tộc và mọi Kitô hữu Việt Nam.”[17]

Trong khi đó, Văn kiện Các chỉ thị của Bộ Giám Mục viết:

“Các cuộc vìếng thăm này có tầm mức quan trọng đặc biệt trong đời sống Giáo Hội, bởi vì chúng đạt tới tột đỉnh của các liên hệ giữa các mục tử của các Giáo Hội địa phương và Đức Giáo Hoàng. Quả vậy khi Đức Giáo Hoàng tiếp các giám mục, là anh em trong hàng giám mục, cùng với các giám mục bàn về các vấn đề liên hệ tới lợi ích của Giáo Hội và liên hệ tới sứ vụ mục tử của các giám mục, Đức Giáo Hoàng cũng làm cho các giám mục được kiên vững và nâng đỡ các ngài trong đức tin và trong đức ái. Như vậy hai bên tăng cường mối liên hệ hiệp thông phẩm trật và làm cho rõ nét tính cách “Công Giáo” của Giáo Hội và sự hiệp nhất của Giám mục đoàn”[18]

LỜI KẾT: “EM NGƯƠI ĐÂU RỒI ?”. St 4,9

Được biết, trong cuộc tĩnh tâm của Giáo Triều Rôma năm nay, Cha Josè Tolentino Mendonça đã khai triển nội dung bài suy niệm số 9 với chủ đề: Lắng nghe khát vọng của vùng ngoại biên theo gợi ý của một câu Chúa phán với Cain trong sách Sáng Thế: “Aben em ngươi đâu rồi” (St 4,9).

Cứ tạm cho các Giám Mục Việt Nam là những đứa em đi, thì không biết Đức Thánh Cha và các quan chức của Thánh Bộ, sau khi nghe bài suy niệm nầy, có nghe vọng một lời nhắc bảo: “Em ngươi đâu rồi”.

Nếu Giáo Triều quyết tâm thực hiện định hướng “Đi Ra” của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, hay lời gọi mời tĩnh tâm “Lắng nghe khát vọng của vùng ngoại biên” thì hy vọng các cộng đoàn Giáo Hội như Trung Hoa, Việt Nam, Myanmar, Nigeria…chắc chắn sẽ nhận được những giải pháp và định hướng mục vụ tối ưu để củng cố và phát triển đời sống đức tin.

Cũng vậy, nếu các Giám Mục đi hành hương ad limina mà hành trang mang theo là những túi đầy những ước nguyện, thao thức của những cộng đoàn “vùng goại biên” của đất nước mình, giáo phận mình, thì ngày trở về, Giáo Hội địa phương sẽ vui mừng biết mấy.

Vâng, nếu tất cả cùng hướng về cuộc ad limina như cách nhìn của cố đức ông Phanxicô Trần Văn Khả, thì sự sống thần linh sẽ qua dịp nầy tuôn tràn trên dân Chúa, như dòng máu nóng lưu chảy khắp châu thân Nhiệm Thể:

“Các nhà thần học ví Cuộc Viếng thăm ad limina này như một việc lưu chuyển của máu, đi đi lại lại, có nhận có cho, và làm cho sự sống trong con người luôn ở thế phát triển, lưu hành và đổi mới, từ phía Người Kế Vị Thánh Phêrô, là Đức Giáo Hoàng, và các người Kế Vị các Thánh Tông Đồ, là các giám mục”[19].

Riêng người viết, xin dâng ba kinh Kính Mừng ngay tối hôm nay, để cầu nguyện cho các Đức Cha ngày mai lên đường đi ad limina được bình an.

LM.Giuse Trương Đình Hiền

Tối Thứ Bảy, 24/2/2018.

[1] Xin xem thêm bài viết của Đ.Ô. Phanxicô B. Trần Văn Khả: VIẾNG MỘ HAI THÁNH TÔNG ĐỒ PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ (VISITA “AD LIMINA SANCTORUM APOSTOLORUM PETRI ET PAULI”).

Nguồn: http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/Ad-Limina/02YNghiaVaMucDich.htm.

[2] Limina: từ tiếng Latinh Limens, liminis: ngưỡng cửa.

[3] Để tiếp cận và đào sâu các nội dung thuộc đề tài “thời sự mục vụ nóng bỏng” nầy, xin giới thiệu một số các bài viết, bình luận sau đây được đăng trên trang mạng vietcatholic.org:

- Hà Minh Thảo: Tòa Thánh sắp tái lập bang giao với Tàu ? 21/Feb/2018.

- Vũ Văn An: Chuyên gia về Trung Hoa cho rằng thỏa thuận của Vatican với Trung Hoa là ''khập khiễng''; 20/Feb/2018.

- Vatican Insider: Một giám mục của Giáo hội thầm lặng Trung Quốc: “Chúng tôi sẽ vâng phục Đức Giáo Hoàng”. Minh Đức chuyển ngữ. Nguồn: trang web của HĐGMVN, 18.02.2018:

- Đặng Tự Do: Đức Hồng Y Trần Nhật Quân cảnh báo: Cộng sản muốn bắt Giáo Hội làm nô lệ; 17/Feb/2018.

- George Weigel: Những đề nghị mà Trung Quốc đưa ra hiện nay đã từng bị Đức Gioan Phaolô II và Đức Bênêđíctô thứ 16 bác bỏ; dịch giả: Đặng Tự Do; 16/Feb/2018.

- Đặng Tự Do: Công Giáo Hương Cảng tổ chức cầu nguyện suốt đêm để phản đối thỏa thuận giữa Vatican và Bắc Kinh; 15/Feb/2018.

- Giáo sư Richard Madsen: Trung Quốc theo đuổi các cuộc đàm phán với Vatican là nhằm tiêu diệt Giáo Hội tại Hoa Lục, J.B. Đặng Minh An dịch; 15/Feb/2017

- Vũ Văn An: Hoạt động ngoại giao của Tòa Thánh với Trung Hoa; 06/Feb/2018.

- Vũ Văn An: Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Pietro Parolin lên tiếng về cuộc đối thoại Vatican - Trung Hoa; 02/Feb/2018.

- Vũ Văn An: Hai vị Hồng Y lên tiếng về vấn đề đối thoại Vatican-Trung Hoa; 01/Feb/2018.

- Vũ Văn An: Tin thêm về hiện tình Giáo Hội tại Trung Hoa; 31/Jan/2018.

- Đặng Tự Do: Giáo Hội thầm lặng tại Trung Quốc gần tuyệt vọng với Tòa Thánh và quay ra làm liều; 08/Nov/2016

[4] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông hiến Pastor Bonus, 28-6-1988, về việc cải tổ Giáo triều Rôma, điều. 28-32 + Annexe, trong AAS 80, 1988, tr. 831-934; L’Osservatore Romano, 29-06-1988.

[5] X. Bộ Giám Mục, Chỉ Nam về Cuộc viếng thăm “Ad limina”, nt. 29-6-1988, s. II.

[6] CÁC VĂN KIỆN CỦA CÔNG ĐỒNG VATICAN II, bản dịch của ỦY BAN GIÁO LÝ ĐỨC TIN trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, nxb Tôn giáo, 2012. Tr. 69-70.

[7] ĐGH Gioan Phaolô II: Tông hiến ban hành Bộ Giáo Luật năm 1983, Sacrae Disciplinae Leges” (Các luật lệ của kỷ luật thánh) trong Bộ Giáo Luật 1983, nt., tr. 12.

[8] Tài liệu đã dẫn: Đ.Ô. Phanxicô B. Trần Văn Khả: VIẾNG MỘ HAI THÁNH TÔNG ĐỒ PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ (VISITA “AD LIMINA SANCTORUM APOSTOLORUM PETRI ET PAULI”).

[9] “Trong vụ tranh luận về “nghi lễ,” nhiều (tám vị) giáo hoàng đã lên tiếng. Ðức Clêmentê XI kết án “nghi lễ” hai lần vào các năm 1704 và 1715. Thấy thế, hoàng đế Khang Hy đã lên tiếng can thiệp. Vị này đã nhận nhiều tu sĩ Dòng Tên – như Adam Schall, Ferdinand Verbiest, Giuseppe Castiglione, v.v. – vào làm việc tại một số dịch vụ ở Bắc kinh, và nhờ họ mà Kitô giáo được phép sinh hoạt tự do khắp trong nước (1692). Phật lòng đến cực độ khi nhận được sắc lệnh của giáo hoàng, hoàng đế đã lập tức trục xuất khỏi Trung quốc Maillard de Tournon, là vị đại diện Tòa thánh đã mang sắc lệnh đến, và đến năm 1706 thì ra lệnh buộc tất cả các thừa sai không đồng quan điệm với Dòng Tên, phải rời khỏi Trung quốc. Như vậy, dư luận Châu Âu phân biệt rõ hai phía: một bên là Dòng Tên với lương dân, và bên kia là các Dòng Ða minh, Phanxicô, v.v. với Tòa Thánh! Cuối cùng, năm 1742, đức đã Biển Ðức XIV dứt khoát kết án các “nghi lễ” và cấm chỉ các cuộc tranh luận liên quan đến vấn đề. Trọng sắc năm 1715 buộc phải dùng danh từ “Thiên Chúa” và cấm dùng các từ “Thiên” và “Thượng đế,” để xưng danh “Ðức Chúa Trời”; ngoài ra, còn cấm cả việc tôn kính tổ tiên và buộc phải cất bỏ bàn thờ trong các gia đình, cất khỏi các nhà thờ tấm bảng ghi chữ “Kính Thiên” chính hoàng đế đã đích thân truyền viết.”. Nguồn: HỢP TUYỂN THẦN HỌC SỐ 31, NĂM THỨ 11 (2001). Chủ đề: Thiên khảo luận Truyền Giáo Học, số 1. Tác giả: F. Gomez – Ngô Minh. NGUỒN: http://www.htth.org/so31/chuong2.htm.

[10] HỢP TUYỂN THẦN HỌC SỐ 31, NĂM THỨ 11 (2001). Chủ đề: Thiên khảo luận Truyền Giáo Học, số 1. Tác giả: F. Gomez – Ngô Minh. NGUỒN: http://www.htth.org/so31/chuong2.htm.

[11] Cha Bernardo Cervellera, giám đốc thông tấn xã AsiaNews, nguyên giám đốc thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc và là người đã từng sống và dạy học tại Đại Chủng Viện Bắc Kinh trong nhiều năm. Nguồn: http://www.vietcatholic.org/News/Html/201776.htm.

[12] Bài viết: Đặng Tự Do: Giáo Hội thầm lặng tại Trung Quốc gần tuyệt vọng với Tòa Thánh và quay ra làm liều; 08/Nov/201. Nguồn: http://www.vietcatholic.org/News/Html/201776.htm.

[13] Giáo sư Richard Madsen, là một nhà xã hội học về tôn giáo của Đại học San Diego (California), đã từng hợp tác lâu dài với Đại học Phục Đán (复旦大学) ở Thượng Hải.

[14] Giáo sư Richard Madsen: Trung Quốc theo đuổi các cuộc đàm phán với Vatican là nhằm tiêu diệt Giáo Hội tại Hoa Lục, J.B. Đặng Minh An dịch; 15/Feb/2017. Nguồn: http://www.vietcatholic.org/News/Html/214338.htm.

[15] Diễn từ chúc mừng của Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Phó chủ tịch HĐGMVN nhân ngày Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn ra mắt cộng đoàn dân Chúa tại Nhà thờ chính toà Hà Nội, 07-05-2010.

[16] Trần Đoan Hùng. Tác giả bài viết: CUỘC THẮNG THUA TRONG VÁN BÀI GIÁM MỤC. Nguồn: Trang mạng vietcatholic. Đường dẫn: http://www.vietcatholic.org/News/html/80329.htm.

[17] Tổng Giám Mục Giuse Nguyễn Chí Linh. Lời chúc tết Mậu Tuất – 2018 của Đức Tổng Giám Mục Giuse Nguyễn Chí Linh Tổng giám mục Huế Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam. Nguồn: Trang web HĐGMVN.

Đường dẫn: http://www.hdgmvietnam.org/loi-chuc-tet-mau-tuat-2018-cua-duc-tong-giam-muc-giuse-nguyen-chi-linh/9462.63.8.aspx

[18] X. Bộ Giám Mục, Chỉ Nam, nt. s. V. X. Hiến chế tín lý về Giáo Hội Ánh sáng muôn dân, s. 29.

[19] Tài liệu đã dẫn: Đ.Ô. Phanxicô B. Trần Văn Khả: VIẾNG MỘ HAI THÁNH TÔNG ĐỒ PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ (VISITA “AD LIMINA SANCTORUM APOSTOLORUM PETRI ET PAULI”).
 
Rước Lễ Bằng Miệng Hay Bằng Tay?
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
10:36 24/02/2018
Nhân đọc bản tin trên Vietcatholic về chuyện Đức Hồng Y Sarah, Bộ Trưởng Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật các Bí Tích,về việc "rước Lễ bằng tay".

Nhân ngày Lễ Mình Máu Chúa Kitô, xin được có đôi thiển ý về cách thức rước Lễ hay theo cách nói trước đây là “chịu Lễ”.

Một hiện tượng cần ghi nhận: Tại Việt Nam, hình thức rước Lễ bằng tay như đã phổ biến cách “đại trà”, kể cả với các em thiếu nhi. Trong khi đó Giáo Hội cho phép rước Lễ theo hình thức này với một vài điều kiện và xem đây là một phép “ngoại thường”. Huấn Thị Redemptionis Sacramentum số 92 ghi: “Mọi tín hữu, theo họ chọn, luôn luôn có quyền rước lễ bằng miệng. Nếu người rước lễ muốn nhận Thánh Thể bằng tay, trong những miền mà Hội Đồng Giám Mục cho phép, với sự xác nhận của Tông Toà, có thể ban Mình Thánh cho họ. Nhưng, trong trường hợp này, phải chăm chú theo dõi Mình Thánh Chúa được người rước lễ rước bánh thánh ngay trước mặt thừa tác viên, tránh không để một ai cầm Mình Thánh trong tay mà đi ra khỏi đó. Nếu có nguy cơ xúc phạm, không được cho các tín hữu rước lễ bằng tay”. Theo văn mạch của Huấn Thị thì rước Lễ bằng miệng là một quyền lợi, còn rước Lễ bằng tay là một ân xin với một vài điều kiện đi kèm. Chuyên gia về Phụng Vụ của Hội Thánh khẳng định đây là đặc ân ngoại thường.

Hội Đồng Giám Mục Việt Nam sau khi xin Tòa Thánh cho phép tín hữu được rước Lễ bằng tay đã ra thông báo rằng: Tín hữu được quyền chọn lựa hình thức rước lễ bằng miệng theo truyền thống hoặc rước Lễ bằng tay, nhưng vẫn khuyến khích rước Lễ theo hình thức cũ.

Để áp dụng thêm một hình thức rước Lễ mới là bằng tay thì vào năm 1994 Hội đồng Giám Mục Việt Nam đã chỉ thị cho các chủng viện, các tu viện áp dụng thử trước một thời gian. Và đến đầu năm 1996 mới phổ biến cho tín hữu. Khi phổ biến thì yêu cầu các linh mục tập cho tín hữu cách thức rước Lễ bằng tay. Các linh mục cứ thế tập cho đoàn tín hữu từ già đến trẻ đều rước Lễ bằng tay một thời gian. Và thế là hình thức rước Lễ mới được xem như là “thời thượng”, là “tiến bộ”, là “trí thức”, là “trưởng thành” vì có các chủng sinh, các nam nữ tu sĩ đi tiên phong. Và tại Việt Nam nếu có giáo xứ nào căn cứ lời dạy của Giáo Hội, của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cổ võ việc rước Lễ theo hình thức cũ thì bị xem như là cổ lỗ sĩ, là bảo thủ, là đi ngược thời đại…

Sau một thời gian, cũng có nhiều vị phản ánh về sự lạm dụng trong hình thức rước Lễ mới, và cách riêng có thể làm suy giảm lòng tôn kính nơi các em thiếu nhi, và một số người, thì tôi đã từng nghe nhiều linh mục Việt Nam cổ võ cho cách thế “chịu Lễ” bằng tay với những lý luận như sau:

1. Không biết tay hay lưỡi, bộ phận nào “sạch” hơn. Theo các ngài thì “tay” có lẽ sạch hơn “lưỡi” nhiều.

2. Hình thức rước Lễ bằng tay thì “vệ sinh” hơn hình thức rước Lễ bằng miệng.

3. Rước Lễ bằng tay mà trang nghiêm cung kính thì vẫn hơn rước Lễ bằng miệng mà thiếu ý thức.

4. Chúa Kitô truyền là hãy cầm lấy mà ăn; Hãy cầm lấy mà uống… thì chúng ta làm theo lời Chúa truyền mà thôi.

5. Giáo Hội đã cho phép thì chúng ta cứ tự nhiên thi hành. Đừng có bảo hoàng hơn cả vua, đừng có khó hơn cả Tòa Thánh Rôma.

Xin có một vài nhận định, kiểu bắt giò lái và tuần tự theo các luận lý ở trên.

1. Không biết tay hay lưỡi, bộ phận nào “sạch” hơn. Theo các ngài thì tay có lẽ sạch hơn lưỡi nhiều.

* Người ta dễ đánh lừa kẻ khác về đối tượng so sánh. Thoặt nghĩ thì ta dễ cho rằng cái lưỡi chưa chắc đã sạch bằng bàn tay, vì theo khoa học, trong vòm miệng chúng ta chứa rất nhiều vi khuẩn. Hơn nữa, xét về khía cạnh luân lý thì người ta cũng dễ dè chừng cái bộ phận “lắm đường lắt léo” này. Tuy nhiên nếu nghĩ lại một chút thì chúng ta nhận ra ngay rằng những người chọn rước lễ bằng tay cũng không thể bỏ qua cái lưỡi của họ. Không lẽ Mình Thánh Chúa từ bàn tay họ đi thẳng vào bụng họ? Chắc chắn từ bàn tay phải qua cái lưỡi. Như thế, xét về quảng đường đi của Thánh Thể, thì cách thế rước Lễ bằng tay lại qua nhiều trung gian hơn cách thế rước Lễ bằng miệng.

2. Hình thức rước Lễ bằng tay thì “vệ sinh” hơn hình thức rước Lễ bằng miệng.

* Có lẽ đây là một trong những lý do chính yếu mà Hội Đồng Giám Mục một số quốc gia, trong đó có Hội Đồng Giám Mục Việt Nam xin Tòa Thánh cho tín hữu được rước Lễ theo cách mới (bằng tay).

Với tâm thức hiện nay, người ta vốn dễ dị ứng với những hình thức xem ra “thiếu vệ sinh”, mà việc rước Lễ bằng miệng là một điển hình. Vấn đề đặt ra là giữ vệ sinh cho mình hay cho tha nhân.

Theo tôi, nếu nhắm đến việc giữ vệ sinh cho mình, thì cách thức rước Lễ bằng tay không đạt mục đích mà trái lại còn thua cách thức rước Lễ bằng miệng. Lý do là vì theo kỷ luật Phụng vụ, đoàn tín hữu tham dự Thánh Lễ không được tự mình cầm lấy Thánh Thể để rước mà phải nhận từ tay thừa tác viên. Như thế nếu có vi khuẩn từ tay thừa tác viên thì người rước Lễ bằng tay xem ra “mất vệ sinh” hơn người rước Lễ bằng miệng, vì Thánh Thể phải từ tay thừa tác viên qua tay họ rồi mới vào miệng của họ.

Nếu nhằm giữ vệ sinh cho tha nhân, thì cách thức rước Lễ bằng tay xem ra có lý do chính đáng. Họ không muốn có sự lây lan vi khuẩn từ miệng của họ đến tha nhân, nếu giả như tay của thừa tác viên vô tình chạm vào lưỡi của họ. Theo thiển ý của tôi, nếu căn cứ vào lý do này thì cũng chính đáng, nhưng trong thực tế lại có đó hiện tượng phản cảm. Bởi chưng ở các nước tiên phong xin được rước Lễ bằng tay như Mỹ, Canada, Pháp thì người ta sợ lây nhiểm vi khuẩn cho tha nhân mà tránh không rước Lễ bằng miệng, sợ có sự cố tay thừa tác viên chạm vào lưỡi của mình, thế mà ngay sau đó, khi tan Lễ người ta không ngại ngần ôm hôn chùn chụt (une bise, deux ou trois bises). Xin đừng quên dù chỉ áp má mà thôi thì nhiều virus như virus cúm cũng rất dễ dàng lây nhiễm. Ngoài ra, khi chúng ta rước Thánh Thể Chúa, thì một điều kiện ắt phải có là niềm tin. Nếu quá chú trọng đến khía cạnh vệ sinh thì những bệnh nhân mắc bệnh truyền nhiễm ắt là cô đơn lắm lắm.

3. Quan trọng là tấm lòng. Rước Lễ bằng tay mà trang nghiêm cung kính thì vẫn hơn rước Lễ bằng miệng mà thiếu ý thức.

* Lối lập luận này thoặt xem ra rất hữu lý, nhưng xét kỹ thì nó hàm hồ kiểu đánh lận con đen. Người ta đánh lận con đen nơi đối tượng so sánh. Nghe lý luận thì chúng ta dễ đồng ý với chuyện người này rước Lễ bằng tay mà nghiêm trang kính cẩn thì vẫn hơn người kia rước Lễ bằng miệng mà thiếu ý thức hay sự trang nghiêm. So sánh người này với người kia thì không chuẩn, mà phải so sánh hai cách thế rước Lễ của cùng một người mới chuẩn. Nếu một người nào đó rước Lễ bằng tay mà nghiêm trang thì người ấy khi rước Lễ bằng miệng cũng sẽ nghiêm trang cung kính không kém và nhiều khi còn hơn nữa. Trái lại một người đã rước Lễ bằng miệng mà thiếu cung kính nghiêm trang, thì chắc chắn người ấy khi rước Lễ bằng tay sẽ thiếu nghiêm trang cung kính hơn nhiều.

4. Chúa Kitô truyền là hãy cầm lấy mà ăn; Hãy cầm lấy mà uống… thì chúng ta làm theo lời Chúa truyền mà thôi.

* Có ý kiến cho rằng lối dịch Việt ngữ chưa chuẩn về lời truyền phép như sau: “Accipite et manducate ex hoc omnes, hoc est enim corpus meum”. Accipite (ở thể imperatif của động từ accipere) phải dịch là “các con hãy nhận lấy”. Bản dịch Nghi Thức Thánh Lễ của Ủy Ban Phụng Vụ Các Giờ Kinh năm 1992 quả thật có dịch là “Hãy cầm lấy…”. Nhưng bản dịch mới của UB Phụng Tự HĐGMVN năm 2005 đã dịch là: “Hãy nhận lấy…”

Khi Giáo Hội truyền dạy trong Thánh Lễ, các tín hữu tham dự không được tự tiện cầm lấy Mình Thánh (Huấn Thị Redemptionis Sacramentum số 94), chắc hẳn muốn nhấn mạnh đến chiều kích lãnh nhận. Quả thật, không một ai tự mình có khả năng “chiếm hữu” Thiên Chúa. Chúa Kitô yêu thương tự trao hiến Thân Mình Người và phần chúng ta chỉ đón nhận.

Ngoài ra có những chi tiết mà chúng ta không thể căn cứ Kinh Thánh theo sát mặt chữ để thực hành như một vài vị đã từng “Bẻ bánh” ngay khi đọc lời truyền phép.

5. Giáo Hội đã cho phép thì chúng ta cứ tự nhiên thi hành. Đừng có bảo hoàng hơn cả vua, đừng có khó hơn cả Tòa Thánh Rôma.

* Như đã nói ở trên, dù rằng Giáo Hội đã cho phép, nhưng phép ấy là phép thuộc hàng ngoại thường, có thể xem như là phép chuẩn, vì thế không thể thực hành cách tràn lan. Trong huấn thị Redemptionis Sacramentum số 92, Giáo Hội đã minh nhiên nói rõ việc rước Lễ bằng miệng là một quyền lợi của tín hữu và thừa tác viên không được từ chối, trái lại hình thức rước Lễ bằng tay có thể bị từ chối nếu thấy có nguy cơ xúc phạm. Xin lưu ý hai từ “nguy cơ”, vốn mang ý nghĩa phòng xa, ngăn ngừa.

Không thể minh nhiên đặt hai cách thế rước Lễ ngang hàng với nhau, kiểu cách nào cũng được, miễn là có ý thức và sự trang nghiêm cung kính. Chắc chắn có một vài khác biệt theo truyền thống phong tục tập quán của từng miền trong cung cách ứng xử, trong kiểu cách biểu lộ các tâm tình. Tuy nhiên, có những kiểu cách ứng xử hay tư thế biểu lộ mà người ta dù khác văn hóa cũng có thể đồng thuận về mức độ hơn kém về tâm tình. Chẳng hạn tư thế đứng thì ai cũng đồng ý là biểu lộ sự tôn kính hơn là tư thế ngồi. Chính vì thế khi nghe công bố Tin Mừng thì Giáo Hội dạy tín hữu là phải đứng. Lý do là vì để tỏ lòng tôn kính chính những Lời của Chúa Kitô hay là những Lời trực tiếp nói về Chúa Kitô. Và chúng ta không thể biện luận rằng đứng hay ngồi cũng được, miễn là có lòng tôn kính. Dĩ nhiên có những trường hợp ngoại thường có thể ngồi nghe Tin Mừng, chẳng hạn như những người bệnh tật, những người già yếu…

Đã nói là trường hợp ngoại thường thì không thể phổ biến tràn lan như nhiều nước đã xin phép và được phép cho tín hữu tham dự Thánh Lễ, được rước Lễ bằng tay như hiện nay, trong đó có Việt Nam chúng ta.

Một vài thiển ý kính gửi các Đấng bậc có trách nhiệm trong Giáo Hội, cách riêng Giáo Hội Việt Nam:

- Cần giải thích lại cho đúng vị trí của đặc ân được rước Lễ bằng tay. Hình thức rước Lễ này không phải là một quyền lợi mà là một đặc ân ngoại thường đi kèm một vài điều kiện, chẳng hạn như phải được Hội Đồng Giám Mục trực tiếp xin, người rước Lễ phải rước Chúa tại chỗ…

- Xin phổ biến lại văn thư trước đây của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về vấn đề cho phép được rước Lễ bằng tay, vì có thể rất nhiều linh mục hiện nay không có.

- Hiện tượng rước Lễ bằng tay nay như đã phổ biến tràn lan có một nguyên do chính là vì các giáo xứ theo lệnh trên đã tập cho tất cả đoàn tín hữu thực hiện một thời gian. Chuyện gì mà cần phải tập một thời gian dài thì dễ được xem như là tiến bộ, là tốt đẹp hơn cái cũ. Vậy xin Hội Đồng Giám Mục ra lệnh cho các linh mục các giáo xứ cho toàn thể tín hữu tập lại hình thức rước Lễ bằng miệng trong vòng một thời gian dài tương tự, rồi sau đó trình bày, giải thích cách đúng đắn Huấn Thị Redemptionis Sacramentum và để cho tín hữu tự ý chọn lựa cách thức rước Lễ.

- Tín hữu Công Giáo nói chung và tín hữu Công Giáo Việt Nam nói riêng vốn trân trọng bậc tu trì. Hễ quý thầy, quý sơ hành xử như thế nào thì họ sẽ cho cách thế ấy là tốt đẹp. Từ cái lệnh truyền cho các chủng viện và tu viện áp dụng thử cách thức rước Lễ bằng tay, nên cách thức ấy đã thành chuyện bình thường trong các chủng viện và tu viện. Nếu các chủng sinh, các tu sĩ nam nữ rước Lễ bằng miệng như truyền thống thì có lẽ rất nhiều tín hữu giáo dân sẽ noi gương các vị ấy.

- Theo thiển ý là với các em thiếu nhi, xét chung thì chưa ý thức đủ, do đó nên hạn chế hoặc chưa cho các em sử dụng ân ban rước Lễ bằng tay.

Một vài nhận định và đề nghị liên quan đến việc rước Lễ trên đây hẳn còn nhiều thiếu sót và bất cập, nhưng chỉ với ước mong Kitô hữu chúng ta sống lời chỉ dạy của Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là chúng ta cần phải tôn thờ Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể cho cân xứng và phải đạo, vì Đấng hiện diện trong Thánh Thể không chỉ là người Anh, người Bạn của chúng ta mà còn là Vị Thầy Chí Thánh, là Thiên Chúa Tối Cao.

Lễ Mình Máu Chúa Kitô năm 2010

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

Ghi chú: 93. “ Phải duy trì việc dùng dĩa hứng khi cho các tín hữu rước lễ, để tránh Bánh Fhánh, hay một mảnh Bánh Thánh, rơi xuống đất”. Hạn từ “phải” ở số 93 của Huấn Thị dường như đã bị xem thường ở nhiều nhà thờ !
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Bình Minh Dịu Dàng
Nguyễn Đức Cung
09:51 24/02/2018
BÌNH MINH DỊU DÀNG
Ảnh của Nguyễn Đức Cung
Chưa vừng đông, chẳng mây hồng
Bình minh an tịnh ân cần nơi đây..
(nđc)
 
VietCatholic TV
Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới Năm 2018 của Đức Thánh Cha Phanxicô
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
13:42 24/02/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Năm 1985 là Năm Thanh Niên Quốc tế được công bố bởi Liên Hiệp Quốc, và 300,000 người trẻ đã gặp gỡ Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tại quảng trường Thánh Phêrô vào Chúa Nhật Lễ Lá. Cuộc gặp gỡ tốt đẹp này đã linh hứng cho vị Giáo Hoàng Ba Lan ý tưởng tổ chức những ngày hội cho Thanh Thiếu Niên, và ngài đã công bố ý định tổ chức hằng năm các Ngày Thanh Niên Thế Giới, mỗi năm vào dịp lễ Lá.

Chúa Nhật Lễ Lá năm 1986 đã đi vào lịch sử như là Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ nhất. Mỗi hai hay ba năm, một Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới được tổ chức trên quy mô quốc tế, những năm còn lại Ngày Giới Trẻ Thế Giới được tổ chức ở cấp giáo phận.

Ngày Giới Trẻ Thế Giới năm nay là Ngày Giới Trẻ Thế Giới thứ 33 được tổ chức ở cấp giáo phận vào ngày Chúa Nhật Lễ Lá 25 tháng Ba. Sứ điệp cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới năm nay được Đức Thánh Cha ký vào ngày 11 tháng Hai, Lễ Đức Mẹ Lộ Đức, và vừa được Tòa Thánh chính thức công bố hôm 21 tháng Hai. Sứ điệp có tựa đề là:

“Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1:30)

Trong sứ điệp, Đức Thánh Cha viết:

Các bạn trẻ thân mến,

Ngày Giới trẻ Thế giới năm 2018 là một bước chuẩn bị cho Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới sẽ diễn ra tại Panama vào tháng Giêng năm 2019. Giai đoạn mới này trong cuộc hành hương của chúng ta rơi vào cùng năm với Thượng Hội Đồng Giám Mục Thường Lệ về chủ đề: Người Trẻ, Đức Tin Và Sự Phân Định Ơn Gọi. Đây là một sự trùng hợp ngẫu nhiên đáng mừng. Trọng tâm, lời cầu nguyện và suy tư của Giáo hội sẽ hướng về các bạn trẻ, với mong muốn nhận được và, trên hết, là đón nhận món quà quí báu mà các bạn dành cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội và cho thế giới.

Như các bạn đã biết, chúng ta đã chọn để cuộc hành trình này của chúng ta được đồng hành bằng gương sáng và sự cầu bầu của Mẹ Maria, người phụ nữ trẻ xứ Nazareth mà Chúa đã chọn làm Mẹ của Con Ngài. Mẹ cùng đi với chúng ta hướng tới Thượng Hội đồng Giám mục và hướng tới Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới ở Panama. Nếu năm ngoái, chúng ta được dẫn dắt bởi những lời ca khen của Mẹ - “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều trọng đại” (Lc 1,49) – là những lời dạy bảo chúng ta hãy nhớ đến quá khứ, thì năm nay chúng ta cùng lắng nghe với Mẹ tiếng Chúa, Đấng khích lệ lòng can đảm và ban cho ta những ân sủng cần thiết để đáp trả lời mời gọi của Người: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1:30). Đây là những lời được sứ thần Thiên Chúa, là Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel nói cùng Đức Maria, một cô gái bình thường trong một ngôi làng nhỏ ở Galilee.

1. Đừng sợ!

Chúng ta có thể hiểu được là sự xuất hiện đột ngột của Thiên Thần và lời chào bí ẩn của Ngài: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1:28), đã làm cho Đức Maria bối rối, Mẹ đã rất ngạc nhiên trước sự mặc khải lần đầu tiên về căn tính và ơn gọi của mình, mà đến lúc ấy Mẹ vẫn chưa biết. Đức Maria, giống như những người khác trong Kinh Thánh, run rẩy trước mầu nhiệm trong lời mời gọi của Thiên Chúa, là Đấng trong giây phút ấy đã đặt trước Mẹ sự bao la trong kế hoạch của chính Người và làm cho Mẹ cảm thấy tất cả sự nhỏ bé của mình như một sinh vật khiêm tốn. Thánh Thiên Thần, nhìn thấu sâu thẳm con tim Mẹ, nên nói: “Đừng sợ!” Thiên Chúa cũng đọc thấu tận cùng tâm hồn của chúng ta. Người biết rõ những thách đố mà chúng ta phải đối mặt trong cuộc sống, đặc biệt là khi chúng ta phải đối mặt với những lựa chọn cơ bản quyết định chúng ta sẽ là gì và sẽ làm gì trong thế giới này. Đó là cái “rùng mình” mà chúng ta cảm thấy khi phải đối mặt với những quyết định về tương lai, điều kiện sống, và ơn gọi của chúng ta. Trong những giây phút như thế chúng ta thấy mình bối rối và bị tóm lấy bởi bao nhiêu những nỗi sợ.

Và hỡi các bạn trẻ, nỗi lo sợ của các bạn là gì? Điều gì làm các bạn lo lắng nhất? Một nỗi sợ hãi “tiềm tàng” của nhiều bạn là lo sợ mình không được yêu, không được ái mộ hay không được chấp nhận trong tình trạng như mình hiện là. Ngày nay, có rất nhiều người trẻ cảm thấy cần phải khác với những gì họ thực sự đang có, trong một nỗ lực để thích ứng với một tiêu chuẩn thường khi là giả tạo và không thể vươn tới được. Họ liên tục “photo-shop” hình ảnh của mình, núp đằng sau những mặt nạ và những bản sắc giả, đến mức gần như làm giả chính bản thân mình. Nhiều người bị ám ảnh bởi việc càng nhận được nhiều cái “likes” càng tốt. Nhiều nỗi sợ hãi và những bất định xuất hiện từ cảm thức thấy mình không thích hợp này. Những người khác sợ rằng họ sẽ không thể tìm thấy một sự an toàn về tình cảm và rằng họ sẽ mãi mãi cô đơn. Nhiều người, đối diện với sự bấp bênh của công ăn việc làm, sợ không thể tìm được một vị trí nghề nghiệp thỏa đáng, hoặc không thể hoàn thành ước mơ của họ. Ngày nay, một số lượng lớn thanh thiếu niên cảm thấy đầy những nỗi sợ, cả những người có niềm tin lẫn những người vô tín ngưỡng. Thật vậy, những người đã đón nhận hồng ân đức tin và tìm kiếm ơn gọi của mình một cách nghiêm túc cũng không được miễn trừ khỏi những nỗi sợ. Một số người nghĩ: có lẽ Chúa đang yêu cầu hoặc sẽ đòi hỏi nơi tôi quá nhiều; hay có lẽ là, nếu tôi đi theo con đường Người đã vạch ra cho tôi, tôi sẽ không thực sự được hạnh phúc, hoặc tôi sẽ không thể làm những gì Người yêu cầu nơi tôi. Những người khác lại nghĩ: nếu tôi đi theo con đường mà Chúa chỉ cho tôi, ai có thể đảm bảo rằng tôi sẽ có thể đi đến tận cùng trên con đường đó? Liệu tôi sẽ nản lòng chăng? Liệu tôi có đánh mất đi nhiệt tình của mình không? Liệu tôi có thể bền đỗ suốt trọn đường đời tôi không?

Trong những khoảnh khắc khi những hoài nghi và nỗi sợ hãi tràn ngập con tim chúng ta, sự phân định là cần thiết. Nó cho phép chúng ta khống chế sự hoang mang trong những suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta, để chúng ta có thể hành động một cách chính đáng và thận trọng. Trong quá trình này, bước đầu tiên để vượt qua những nỗi sợ là xác định chúng một cách rõ ràng, để không thấy mình lãng phí thời gian và sức lực đương đầu với những bóng ma hư vô. Và vì vậy, tôi mời gọi tất cả các bạn nhìn sâu trong tâm hồn mình và gọi “đích danh” những nỗi sợ hãi của các bạn. Hãy tự hỏi: điều gì làm tôi phiền lòng, điều gì làm tôi sợ nhất trong thời điểm cụ thể này của cuộc sống hôm nay? Điều gì cản trở tôi và ngăn cản tôi tiến lên phía trước? Tại sao tôi thiếu can đảm để đưa ra những lựa chọn quan trọng tôi cần phải làm? Đừng sợ phải đối mặt với những nỗi sợ của các bạn một cách trung thực, để nhận ra chúng là những gì và đối phó với chúng ra sao. Kinh Thánh không bỏ qua kinh nghiệm của con người về sự sợ hãi cũng chẳng bỏ qua những nguyên nhân đa dạng của chúng. Tổ phụ Ápraham đã sợ (xem Sáng-thế Ký 12: 10), Giacóp cũng từng sợ (xem Sáng thế Ký 31:31, 32: 7), Môise (xem Cô-rinh-tô 2:14, 17: 4), Thánh Phêrô (xem Mt. 26: 69ff) và các Thánh Tông Đồ (xem Mc 4: 38-40; Mt 26:56) cũng từng lo buồn. Chính Chúa Giêsu, mặc dù trong một cách thế không thể so sánh được, cũng từng sợ hãi và buồn sầu thống thiết (xem Mt 26:37, Lc 22:44).

“Sao nhát thế? Sao anh em vẫn chưa có lòng tin như thế?” (Mc 4:40). Khi khuyên nhủ các môn đệ của mình, Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu được lý do tại sao trở ngại chính cho đức tin thường không phải là sự hoài nghi nhưng chính là sự sợ hãi. Như thế, chúng ta hiểu được rằng việc phân định giúp nhận ra những nỗi sợ của chúng ta, và sau đó, có thể giúp chúng ta vượt qua chúng, mở đường cho chúng ta đến với sự sống và giúp chúng ta bình tĩnh đối mặt với những thách thức đang xảy đến với mình. Đối với chúng ta đặc biệt là các Kitô hữu, những nỗi sợ không bao giờ có tiếng nói chung cuộc nhưng trái lại nên là một dịp tốt để thể hiện đức tin nơi Thiên Chúa ... và nơi cuộc sống! Điều này có nghĩa là tin tưởng vào sự tốt lành cơ bản của sự hiện hữu mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta và tin tưởng rằng Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta đến một kết thúc tốt đẹp, thậm chí dù có phải vượt qua những hoàn cảnh và những thăng trầm làm chúng ta hoang mang. Tuy nhiên, nếu chúng ta che giấu những nỗi sợ, chúng ta sẽ trở nên hướng nội và đóng cửa để bảo vệ bản thân khỏi mọi thứ và mọi người, và chúng ta sẽ bị tê liệt. Chúng ta phải hành động! Không bao giờ tự chôn kín chính mình! Trong Kinh Thánh, cụm từ “Đừng sợ” được lặp đi lặp lại đến 365 lần với các biến thể khác nhau, như để nói với chúng ta rằng Chúa muốn chúng ta thoát khỏi sợ hãi, mỗi ngày trong năm.

Sự phân định là không thể thiếu được khi chúng ta tìm kiếm ơn gọi của mình trong cuộc đời. Thường khi ơn gọi của chúng ta không rõ ràng hoặc hiển nhiên ngay lúc đầu nhưng là một cái gì đó chúng ta dần dần mới hiểu được. Sự phân định trong trường hợp này không nên được xem như là một nỗ lực tự nhận thức cá nhân, nhằm mục đích hiểu rõ hơn về cấu trúc nội tâm của chúng ta để củng cố chúng ta và đạt được một sự cân bằng nào đó. Trong những trường hợp như vậy, người đó có thể trở nên mạnh hơn, nhưng vẫn còn bị hạn chế trong một chân trời giới hạn bởi những khả năng và viễn tượng của mình. Tuy nhiên ơn gọi là một lời mời gọi từ trên cao, và sự phân định trong bối cảnh này chủ yếu có nghĩa là tự mở lòng mình ra cho một Đấng khác đang mời gọi. Vì thế, cần phải thinh lặng cầu nguyện để nghe tiếng Chúa vang lên trong lương tâm của chúng ta. Thiên Chúa gõ cửa chúng ta, như Ngài đã làm với Đức Maria; Ngài mong muốn thiết lập tình bạn với chúng ta thông qua cầu nguyện, muốn nói với chúng ta qua Sách Thánh, muốn ban cho chúng ta lòng thương xót trong Bí Tích Hòa Giải, và muốn nên một với chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể.

Điều quan trọng là phải đối thoại và gặp gỡ người khác, những anh chị em của chúng ta trong đức tin, những người có nhiều kinh nghiệm, vì họ giúp chúng ta nhìn thấy mọi sự tốt hơn và biết lựa chọn khôn ngoan từ những khả thể khác nhau. Khi chàng trai trẻ Samuên nghe tiếng Chúa, anh không nhận ra điều đó ngay. Ba lần anh chạy đến gặp ông Elia, vị tư tế lớn tuổi hơn, là người cuối cùng đã đưa ra một câu trả lời đúng đắn cho lời mời gọi của Chúa: “Nếu Người gọi con, con hãy thưa: 'Lạy Chúa, xin hãy phán bảo, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe'“ (1 Sam. 3: 9). Trong những nghi nan của các bạn, hãy biết rằng các bạn có thể tin cậy vào Giáo Hội. Tôi biết có rất nhiều linh mục, những người nam nữ thánh thiện và các tín hữu giáo dân, nhiều người trong số họ còn trẻ, họ là những người có thể nâng đỡ các bạn như những anh chị em trong đức tin. Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, họ sẽ giúp bạn hiểu rõ những nghi nan của các bạn và hiểu được kế hoạch Chúa dành cho các bạn trong ơn gọi của mình. Tha nhân không chỉ là một hướng dẫn tinh thần, mà còn là người giúp chúng ta mở rộng chính mình cho sự giàu có vô hạn trong cuộc sống mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Điều quan trọng là tạo ra không gian trong các thành phố và cộng đồng để phát triển, mơ ước và hướng đến những chân trời mới! Đừng bao giờ mất đi sự nhiệt tình trong việc được hưởng sự tháp tùng và tình bạn, cũng như niềm vui khi được cùng nhau mơ ước, khi được đồng hành với nhau. Kitô hữu đích thực không sợ mở lòng mình ra với người khác và chia sẻ với họ những không gian quan trọng của mình, để biến những không gian ấy thành những không gian của tình huynh đệ.

Các bạn trẻ thân mến, đừng để cho tính năng động của tuổi trẻ bị dập tắt trong bóng tối của một căn phòng khép kín trong đó cửa sổ duy nhất thông ra thế giới bên ngoài là máy tính và điện thoại thông minh. Hãy mở rộng cánh cửa của cuộc sống các bạn! Cầu xin cho thời gian và không gian của các bạn tràn ngập những mối quan hệ có ý nghĩa, những người thực, là những người các bạn chia sẻ kinh nghiệm thực và cụ thể của bạn về cuộc sống hàng ngày.

2. Đức Maria!

“Ta đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi” (Is 43: 1). Lý do đầu tiên để đừng sợ là Thiên Chúa đã gọi chúng ta đích danh. Thiên Thần, là sứ giả của Thiên Chúa, đã gọi đích danh Mẹ Maria. Quyền được đặt tên thuộc về Thiên Chúa. Trong công trình sáng tạo, Người đặt tên cho mọi loài Người đã tác tạo. Có một căn tính đằng sau một cái tên, một cái gì là duy nhất trong mọi thứ, trong mỗi người; một yếu tính thân mật mà chỉ có Thiên Chúa mới thực sự thấu hiểu. Quyền thánh thiêng này đã được Chúa chia sẻ với con người khi Người mời gọi con người đặt tên cho thú vật, chim chóc và cả con cái của mình (Sáng thế ký 2: 19-21, 4: 1). Nhiều nền văn hoá chia sẻ tầm nhìn sâu sắc trong Kinh Thánh; họ nhận ra trong mỗi cái tên một sự mặc khải mầu nhiệm sâu sắc của cuộc sống và ý nghĩa của sự hiện hữu.

Khi Thiên Chúa kêu gọi ai đó bằng tên của người ấy, Người cũng mạc khải cho người ấy biết ơn gọi, kế hoạch thánh thiện và viên mãn mà Người thiết kế riêng cho người ấy để qua đó người ấy trở thành ân sủng cho người khác. Và khi Thiên Chúa muốn mở rộng chân trời của cuộc sống, Người đưa ra một cái tên mới cho người mà Ngài kêu gọi, như Ngài đã từng làm với Simon, người mà Ngài gọi là “Phêrô”. Từ đây có một phong tục lấy tên mới khi bước vào một tu hội, để cho thấy một căn tính và một sứ mệnh mới. Vì lời mời gọi của Thiên Chúa là duy nhất và cá vị, chúng ta cần can đảm để giải thoát chúng ta khỏi áp lực phải được định hình theo những khuôn mẫu phải theo, để cuộc sống của chúng ta thật sự có thể trở thành món quà đích thực và không thể thay thế được cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội và cho tất cả mọi người.

Các bạn trẻ thân mến, được gọi đích danh là dấu chỉ của phẩm giá cao trọng trước mắt Thiên Chúa và là dấu chỉ của tình yêu Ngài dành cho chúng ta. Thiên Chúa kêu gọi đích danh mỗi người trong các bạn. Tất cả các bạn là “mình” trước mặt Thiên Chúa, quý giá trong đôi mắt của Người, đáng trân trọng và mến thương (xem Is 43: 4). Hãy chào đón với niềm vui cuộc đối thoại này mà Thiên Chúa ban cho các bạn, lời kêu gọi mà Người gửi đến cho các bạn, đích danh từng người.

3. Bà đẹp lòng Thiên Chúa

Lý do chính Đức Maria không phải sợ là vì Mẹ đẹp lòng Chúa. Từ “ân sủng” nói đến tình yêu trao ban cách nhưng không, chứ không phải thủ đắc được. Chúng ta được khích lệ biết ngần nào khi thấy rằng chúng ta không cần phải mưu cầu sự thân mật với Thiên Chúa và sự phù giúp của Người, bằng cách chìa ra một “Lý lịch Nghề nghiệp”, đầy những lời khen thưởng và thành công! Thiên Thần nói với Đức Maria rằng Mẹ đã đẹp lòng Thiên Chúa rồi, chứ không phải là Mẹ sẽ đạt được điều đó trong tương lai. Và những lời của thiên thần trong cùng một công thức như thế giúp chúng ta hiểu rằng ân sủng của Thiên Chúa là liên tục chứ không phải là một cái gì đó đi qua hay thoáng qua; vì lý do này, ân sủng Chúa sẽ không bao giờ cạn kiệt. Ngay cả trong tương lai, ân sủng của Thiên Chúa sẽ luôn ở đó để dưỡng nuôi chúng ta, đặc biệt trong những giây phút thử thách và tối tăm.

Sự hiện diện liên tục của ân sủng Chúa khuyến khích chúng ta đón nhận ơn gọi của chúng ta với sự tự tin; ơn gọi của chúng ta đòi hỏi một sự cam kết trung thành cần được làm mới lại mỗi ngày. Con đường ơn gọi của chúng ta không phải là không có những thập giá của nó: không chỉ là những nghi ngờ ban đầu của chúng ta thôi đâu, mà còn có cả những cám dỗ thường xảy ra trên đường đi. Cảm giác không thích hợp tháp tùng với các môn đệ Chúa Kitô cho đến cùng. Tuy nhiên, người đó biết mình được nâng đỡ bằng ân sủng của Thiên Chúa.

Những lời của Thiên Thần rơi xuống trên những những nỗi sợ của con người, giải thể chúng bằng quyền năng của Tin Mừng mà chúng ta là những người loan báo: cuộc sống của chúng ta không chỉ gồm toàn những may mắn cũng chẳng phải chỉ là một cuộc vật lộn để sống còn, trái lại mỗi người chúng ta là một câu chuyện vui vì được Thiên Chúa yêu mến. Chúng ta “tìm thấy ân sủng trong mắt Người” có nghĩa là Đấng Tạo Hoá nhìn thấy một vẻ đẹp độc đáo trong hiện trạng của chúng ta và Người có một kế hoạch tuyệt vời cho cuộc sống của chúng ta. Nhận thức về sự xác tín này, tất nhiên, không giải quyết được hết tất cả các vấn đề của chúng ta cũng như không làm tan biến đi sự bấp bênh của cuộc sống. Nhưng nó có sức mạnh để biến đổi cuộc sống của chúng ta một cách sâu sắc. Không biết ngày mai dành cho chúng ta những gì/ không phải là một mối đe dọa đen tối/ mà chúng ta cần phải vượt qua đâu, nhưng là thời thuận lợi để chúng ta sống tính độc đáo trong ơn gọi cá vị của chúng ta, và chia sẻ ơn gọi đó với anh chị em của chúng ta trong Giáo Hội và trên thế giới .

4. Can đảm trong khoảnh khắc hiện tại

Sự xác tín rằng ân sủng của Thiên Chúa luôn ở cùng chúng ta làm nảy sinh sức mạnh để can đảm trong giây phút hiện tại: đó là lòng can đảm thực thi những gì Thiên Chúa yêu cầu chúng ta ở đây và ngay bây giờ, trong mọi khía cạnh của cuộc sống của chúng ta; can đảm để đón nhận ơn gọi mà Thiên Chúa tỏ lộ cho chúng ta; can đảm để sống đức tin của chúng ta mà không che giấu hoặc giản lược nó.

Vâng, khi chúng ta mở lòng mình ra với ân sủng của Thiên Chúa, điều không thể trở thành hiện thực. “Nếu Thiên Chúa đứng về phía chúng ta, ai có thể chống lại chúng ta đây?” (Rm 8:31). Ân sủng của Thiên Chúa chạm đến cái “bây giờ” trong cuộc sống của các bạn, “nắm lấy” các bạn trong tình trạng hiện nay của các bạn, với tất cả những nỗi sợ hãi và giới hạn của các bạn, nhưng ân sủng Người cũng cho thấy những kế hoạch diệu kỳ của Người! Hỡi các bạn trẻ, các bạn phải biết rằng có những người thực sự tin tưởng nơi các bạn: xin hãy biết rằng Đức Giáo Hoàng có lòng tin nơi các bạn, rằng Giáo Hội tin tưởng các bạn! Về phần mình, hãy tin tưởng vào Giáo Hội!

Đức Maria trẻ tuổi được ủy thác một nhiệm vụ quan trọng chính vì Mẹ còn trẻ. Các bạn trẻ sung sức vì đang trải qua một giai đoạn trong đời người trong đó không thiếu năng lượng. Hãy tận dụng sức mạnh và năng lượng này để cải thiện thế giới, bắt đầu với những thực tại gần gũi nhất với các bạn. Tôi muốn những trách nhiệm trọng đại được trao cho các bạn trong Giáo Hội; tôi muốn Giáo Hội có can đảm để tạo ra không gian cho các bạn; và các bạn được chuẩn bị để thực hiện những trọng trách này.

Tôi mời gọi các bạn một lần nữa hãy chiêm ngắm tình yêu của Đức Maria: một tình yêu chăm sóc, năng động và cụ thể. Một tình yêu đầy sự dũng cảm và tập trung hoàn toàn vào sự trao ban chính mình. Một Giáo Hội được thấm nhuần bởi những phẩm chất của Mẹ Maria sẽ luôn luôn là một Giáo Hội đi lên, vượt quá giới hạn và ranh giới của chính mình để trao ban những ân sủng nhận được dư dật. Nếu chúng ta để cho mình được thực sự xúc động trước tấm gương của Đức Maria, chúng ta sẽ sống thực sự lòng bác ái đang thúc đẩy chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và trên cả chính chúng ta, và yêu thương những người mà chúng ta chia sẻ cuộc sống hàng ngày. Và chúng ta cũng sẽ yêu những người có vẻ như thật khó yêu. Đó là một tình yêu là phục vụ và dâng hiến, trước hết dành cho những yếu đuối và nghèo nhất, một tình yêu biến đổi khuôn mặt của chúng ta và làm tràn ngập trong ta niềm vui.

Tôi muốn kết thúc bằng những lời đẹp đẽ Thánh Bernard đã dùng trong một bài giảng nổi tiếng về mầu nhiệm Truyền Tin, những lời diễn tả sự mong đợi của toàn thể nhân loại đối với lời đáp trả của Đức Maria: “Lạy Đức Nữ Đồng Trinh, Mẹ đã nghe rằng Mẹ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai; Mẹ đã nghe rằng đó sẽ không phải do con người mà bởi Chúa Thánh Thần. Thiên thần đang chờ đợi câu trả lời ... Lạy Đức Mẹ, chúng con cũng đang chờ đợi lời từ bi của Mẹ ... Trong phản ứng ngắn gọn của Mẹ, chúng con sẽ được tái tạo để được mời gọi đến sự sống ... Đây là điều mà cả thế giới chờ đợi, phủ phục dưới chân Mẹ ... Lạy Đức Nữ Đồng Trinh, xin mau trả lời” (Bài giảng số 4, 8-9; Opera Omnia).

Các bạn trẻ thân mến,

Chúa, Hội Thánh, và thế giới đang chờ đợi câu trả lời của bạn cho ơn gọi độc đáo mà mỗi người nhận được trong cuộc sống này! Khi Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới ở Panama đến gần hơn, tôi mời các bạn chuẩn bị cho cuộc tụ họp của chúng ta với niềm vui và sự nhiệt tình của những ai muốn tham gia vào cuộc phiêu lưu tuyệt vời như vậy. Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới là dành cho những người can đảm! Không dành cho những người trẻ chỉ kiếm tìm sự thoải mái và những ai trốn chạy bất cứ khi nào những khó khăn nổi lên. Các bạn có chấp nhận thử thách không?

Từ Vatican, ngày 11 tháng 2 năm 2018
Chúa Nhật Thứ Sáu Mùa Quanh Năm
Lễ Kính Đức Mẹ Lộ Đức