Ngày 10-02-2014
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Mẹ Lộ Đức - Nhân ngày quốc tế bệnh nhân
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
11:00 10/02/2014
ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC NHÂN NGÀY QUỐC TẾ BỆNH NHÂN

Trưa Chúa Nhật 9.2 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ cùng với các tín hữu hành hương về ý nghĩa của đoạn Tin Mừng Mt 5,13-16. Ngài nói rằng cần phải hiểu lời mời gọi làm ánh sáng và làm muối của Đức Giêsu dành cho các môn đệ dưới ánh sáng của Tám Mối Phúc trước đó. Ngài cho biết, trở nên muối và ánh sáng cho trần gian là căn tính và là sứ mạng của mỗi người Kitô hữu chúng ta. Người Kitô hữu nào không có ánh sáng thì cuộc sống chẳng có ý nghĩa gì, chỉ mang danh là Kitô hữu, chứ không thực sự là Kitô hữu.

Hình ảnh

Sau Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nhắc nhớ mọi người rằng, thứ ba tới đây, ngày 11.2, chúng ta sẽ cử hành lễ Đức Mẹ Lộ Đức, ngày quốc tế Bệnh Nhân. Đây là một dịp đặc biệt để chúng ta nhớ đến các cộng đồng các bệnh nhân. Cầu nguyện cho họ và với họ, ở gần bên họ. Sứ điệp nhân ngày quốc tế bệnh nhân lấy ý tưởng từ một câu nói của thánh Gioan:Đức tin và đức ái – “chúng ta cũng phải thí mạng sống vì anh em” (1Ga 3,16). Đặc biệt, chúng ta có thể bắt chước thái độ của Đức Giêsu dành cho những bệnh nhân mắc đủ thứ chứng bệnh: Chúa đã chăm sóc họ, chia sẻ với họ những khổ đau và mở con tim họ ra với niềm hy vọng mới.

Đức Thánh Cha cũng nhớ và gửi lời cảm ơn đến những nhà hoạt động chăm sóc sức khỏe, đã hằng ngày gặp gỡ, động viên và cứu chữa những bệnh nhân. Ngài nói rằng nhân phẩm con người không bao giờ có thể bị giản lược vào khả năng và cũng không bị giảm thiểu đi khi người đó bị yếu đi, bị bệnh và cần giúp đỡ. Ngài cũng nhớ đến các gia đình của các bệnh nhân và ngài hứa sẽ cầu nguyện cho họ.(Linh Tiến Khải 2/9/2014).

Nhân ngày Quốc Tế Bệnh Nhân, xin chia sẻ cùng quý độc giả ký sự hành hương Đức Mẹ Lộ Đức.

Từ Paris, chúng tôi đi TGV đến Lộ Đức. Chỗ ngồi trên TGV rộng rãi hơn trên máy bay nên thoải mái đọc sách và gõ bàn phím. Tàu cao tốc chạy rất nhanh nên khoảng 6 tiếng là đến nơi.

Trung Tâm Thánh Mẫu Lộ Đức là một quần thể bao gồm: Đại vương cung thánh đường với 2 tầng: Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (tầng trên) và Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Mân Côi (tầng dưới), được xây dựng ngay trên vách đá, nơi có hang đá Massabielle, Đức Maria đã hiện ra với thánh nữ Bernadette. Cũng chính nơi hang đá này, lời Đức Mẹ nói với thánh nữ Bernadette: “Con hãy đến uống và rửa tại suối này” được viết bằng nhiều thứ tiếng, trong đó bản tiếng Việt được treo gần hang đá nhất. Bên phải là dòng sông Gave de Pau trong xanh, nước lững lờ chảy. Một công viên rộng với thảm cỏ xanh mát được chăm sóc cẩn thận. Bên trái là đồi Calvaire, có 15 đường thánh giá dựng trên địa hình của núi đá tự nhiên giúp khách hành hương suy ngẫm cuộc Khổ nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Phía trước là quảng trường rộng lớn có đường kiệu bao quanh và Vương cung Thánh đường Pio X, do kiến trúc sư Pierre Vago thiết kế, xây ngầm dưới lòng đất với sức chứa trên 25.000 người, tựa như hai chiếc thuyền lớn úp ngược lên nhau, khiến người ta có cảm giác đang ở trong một con tàu thực sự. Ngoài ra còn một hệ thống các nguyện đường nơi chầu Thánh Thể, lần hạt Mân Côi, cử hành Bí tích Hòa Giải, các phòng thông tin, chiếu phim, hội họp, bệnh viện, nhà khách...

Lịch một ngày hành hương của Lộ Đức được phân chia theo ý tưởng “qua Đức Maria đến với Đức Kitô”, tập trung chủ yếu vào mầu nhiệm Đức Kitô và Thánh Thể là trung tâm của toàn bộ một ngày hành hương Lộ Đức. 8g30 sáng khách hành hương sẽ đi đường thánh giá. 11g thánh lễ. Buổi chiều 17g rước kiệu Thánh Thể, chầu Thánh Thể và ban phép lành Thánh Thể cho bệnh nhân. 18g lần hạt ngay tại hang đá nơi Đức Mẹ hiện ra. 21g rước kiệu tôn vinh Đức Mẹ. Và kết thúc một ngày hành hương là thánh lễ lúc 23g cũng tại hang đá này. Ngoài ra, khách hành hương được mời gọi tự do tham gia các hoạt động khác như tham dự giờ giáo lý, chầu Thánh Thể riêng, lãnh nhận Bí tích Hòa giải, theo bước hành trình của thánh nữ Bernadette, thăm viếng nhà thánh nữ, bảo tàng Bernadette…

Lộ Đức là một trung tâm hành hương Đức Mẹ rất lớn và nổi tiếng của Giáo Hội. Đức Cố Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tới đây 2 lần vào ngày 15-8-1983 và ngày 14.15-8-2004. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã hành hương đến đây vào tháng 9-2008, nhân kỷ niệm 150 năm ngày Đức Mẹ hiện ra. ĐGM Jacques Perrier cai quản giáo phận Tarbes và Lộ Đức cho biết, để kỷ niệm 150 năm ngày Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, Tòa Thánh đã cho phép Giáo phận Tarbes và Lộ Đức tổ chức năm 2008 là Năm Thánh trong tinh thần truyền giáo.Trong Năm Thánh, tại Lộ Đức có khoảng 8 triệu người đến kính viếng Đức Mẹ.

Lúc 9 giờ sáng ngày 11-2-2008, hàng chục ngàn tín hữu hành hương đã tham dự thánh lễ do Đức Cha Jacques Perrier chủ sự tại Lễ Đài trước hang đá Đức Mẹ. Đây cũng là ngày thế giới các bệnh nhân lần thứ 16. Đồng tế với Đức Cha Perrier có gần 30 Giám Mục và 800 Linh Mục Pháp và nước ngoài.

Ban chiều cùng ngày có giờ Chầu Thánh Thể, và ban tối có cuộc rước nến kính Đức Mẹ bắt đầu lúc 9 giờ tối từ hang đá Đức Mẹ.

Tổng cộng từ ngày 9-11,có gần 70 ngàn tín hữu hành hương đến Lộ Đức, trong đó có hơn 30 đoàn tín hữu hành hương đến từ nhiều nước Âu Châu, và riêng từ Italia có 15 ngàn tín hữu, đặc biệt là một đoàn 2.500 tín hữu trong đó có nhiều bệnh nhân và người tàn tật dưới sự hướng dẫn của Đức ông Luigi Marrucci, Phó Tuyên úy toàn quốc của tổ chức Unitalsi, chuyên giúp đỡ các tín hữu bệnh nhân đi hành hương tại Lộ Đức và các đền thánh khác. 200 ký giả đã đăng ký để theo dõi và tường thuật các sinh hoạt tôn giáo.

Trong khi đó, tại Roma nhân lễ kỷ niệm này, lúc 11 giờ sáng ngày 11-2-2008, có cuộc rước trọng thể từ Lâu Đài Thiên Thần tiến qua đường Hòa Giải, và tới Quảng trường Thánh Phêrô. Hòm đựng hài cốt xương sườn của thánh nữ Bernadette Soubirous cũng được rước đi trong đoàn. Tại đây vào lúc 12 giờ, ĐHY Angelo Comastri, Giám quản Đền thờ Thánh Phêrô đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu. ĐHY gợi lại thân thế khiêm hạ của thánh nữ Bernadette và mời gọi các tín hữu noi gương thánh nữ đến cùng Mẹ Maria. Sau đó, vào lúc 4 giờ, cũng tại Đền Thờ Thánh Phêrô, có buổi đọc kinh Mân Côi và thánh lễ do ĐHY Javier Lozano Barragán, người Mêhicô, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ y tế, chủ sự, trước sự hiện diện của hài cốt Thánh Nữ Bernadette được đưa tới Roma từ ngày 8-2. Có 10 ngàn tín hữu ngồi chật thánh đường.Trong bài giảng thánh lễ, ĐHY Lozano Barragán nhắc đến sứ điệp của ĐTC nhân ngày Thế giới các bệnh nhân lần thứ 16, liên kết ngày này với hai biến cố: kỷ niệm 150 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, và Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế sẽ tiến hành tại Québec Canada vào tháng 6-2008. Có một mối liên hệ chặt chẽ giữa Mẹ Maria và Thánh Thể. Thân Thể Chúa Kitô mà Mẹ Maria trao tặng chúng ta cũng là Mình Thánh Chúa trong Thánh Thể. (x.Vietcatholic.org 11-2.2008).

Tại Lộ Đức có 3 Vương cung Thánh đường và 2 nguyện đường khá lớn. Lúc 5giờ chiều, chúng tôi dâng lễ ở Nhà thờ Mẹ Vô Nhiễm. Sau lễ mọi người ra Hang đá Massabielle lần chuỗi và cầu nguyện.Từng đoàn hành hương thinh lặng xếp hàng tiến vào hang đá. Mỗi người tay đặt lên hang đá, lòng thầm thì nguyện xin.Sau bàn thờ là mạch nước chảy không ngừng từ trong núi đá. Mạch suối này được dẫn xuôi theo Nhà thờ tới chân tháp với nhiều vòi nước, nhiều người đang tới lấy nước và uống nước. Lần lượt từng người dừng lại nơi tượng Đức Mẹ cầu nguyện sốt mến. Có nhiều người quỳ gối thành tâm sám hối. Đến 9giờ tối, chúng tôi hòa vào đoàn hành hương hơn 20 ngàn người đi kiệu tôn vinh Đức Mẹ. Đi đầu là thánh giá nến cao rồi đoàn xe của các bệnh nhân được các thiện nguyện viên đẩy giúp, kiệu Đức Mẹ. Theo sau là cộng đoàn đông đảo tay cầm cây nến cháy sáng lung linh, tay đếm chuỗi hạt Mân Côi, chậm rãi bước đi trong tiếng tung hô “Ave, Ave Maria”. Trời mưa lất phất, thời tiết lạnh 5 độ c. Giữa màn đêm, những ngọn nến vươn cao theo lời hát như một dòng sông ánh sáng, tuyệt đẹp và huyền diệu vô cùng. Nổi bật giữa muôn ngàn ngọn nến sáng, kiệu Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội uy linh tiến bước hòa trong lời suy niệm, lời kinh Kính Mừng và thánh ca ngợi khen tôn vinh Mẹ. Hơn 11g đêm nghi thức cung nghinh kết thúc bằng phép lành và lời kinh tạ ơn. Nhiều người trở lại Hang đá cầu nguyện bên Mẹ.

Hôm sau, chúng tôi dành cả ngày theo hướng dẫn viên đi thăm các địa danh liên quan đến cuộc đời thánh nữ Bernadette và Hang đá nơi Mẹ hiện ra, thăm các Vương cung Thánh đường và nguyện đường. Lộ Đức với tổng diện tích 51ha, bao gồm 22 địa điểm thờ phượng riêng biệt. Có sáu ngôn ngữ chính thức được sử dụng tại Đền thánh: Pháp, Anh, Ý, Tây Ban Nha, Hà Lan và Đức. Ở khu vực bể tắm dành cho bệnh nhân và khách hành hương, người ta phải chờ đợi cả mấy giờ đồng hồ để mong đến lượt. Trời quá lạnh nên chúng tôi không ai dám tắm. Lúc 5giờ chiều, chúng tôi dâng lễ ở Nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi.Sau đó, chúng tôi qua bên kia sông lần chuỗi Mân Côi.

Ban tối, tham dự cuộc rước kiệu cung nghinh Đức Mẹ với hàng chục ngàn người.

Lộ Đức là địa điểm gặp gỡ linh thiêng. Lộ Đức không có những công trình kiến trúc nguy nga, không có những danh lam thắng cảnh lý tưởng, nhưng đây thực sự là nơi linh thánh. Những ngày ở Lộ Đức đã cho tôi những cảm nhận thiêng liêng đó.

1. Nguồn gốc của từ Lourdes

Theo truyền thuyết, tên Lourdes có từ thời vua Charlemage (742-814). Một người Sarrasin (người Hồi giáo thời cổ) tên Mirat đã chiếm miền đất này và cố thủ. Năm 778 quân đội của Charlemagne bao vây thành phố. Tình cờ có một con chim đại bàng ngậm một con cá hồi nước ngọt mang đến cho các người Hồi giáo, các người này liền mang con cá tới cho Charlemagne để làm cho ông ta tin rằng họ có đủ lương thực để cố thủ, chống lại cuộc vây hãm của nhà vua. Thấy khó chiếm được thành phố và theo gợi ý của Giám Mục Turpin của Giáo Phận Puy-en-Velay, nhà vua đề nghị cho phép Mirat giữ thành phố, nhưng ông này phải gia nhập đạo Công Giáo. Mirat chấp nhận lời đề nghị, ông ta đem vũ khí tới bỏ dưới chân tượng Đức Trinh Nữ Đen ở Puy-en-Velay và lãnh nhận bí tích rửa tội với tên thánh là "Lorus", sau này trở thành Lorda (tiếng Gascon miền nam nước Pháp) tức Lourdes (Lộ Đức).

2. Địa danh Lourdes

Lourdes theo thổ ngữ Gascon địa phương miền nam Pháp là Lorda. Tiếng Việt phiên âm là Lộ Đức. Lourdes nằm trong vùng hành chính Midi-Pyrénées, thuộc tỉnh Hautes-Pyrénées, miền tây nam nước Pháp sát ranh giới với phía bắc Tây Ban Nha.

Lourdes nguyên là một thị trấn thương mại lớn với nét đặc trưng như một lâu đài nổi lên giữa thành phố trên một dốc đá đứng. Lourdes nằm ở chân dãy núi Pyrénées, thuộc khu vực kinh tuyến gốc (số 0), trong vùng Bigorre ở phía tây nam tỉnh Tarbes. Thành phố nằm trên khu vực dốc đá, ở độ cao trung bình 420m, có dòng sông Pau chảy qua từ đầu nguồn Gavarnie. Quanh thành phố có 3 ngọn núi cao khoảng 1.000 m là "Béout", "Petit Jer" và "Grand Jer". Có thể tới ngọn Grand Jer bằng xe lửa chạy trên đường sắt leo núi, còn ngọn Béout thì phải đi bằng cáp treo.

Do vị trí thuận lợi nằm giữa nhiều thung lũng, Lourdes đã có người cư ngụ từ rất sớm. Người ta đã khai quật được các dụng cụ, đồ trang sức, các mảnh sành và các mộ phần ở Espeluges và trong các hang động Arrouza thuộc thời đại đồ đá mới và thời đại đồ đồng. Công sự của lâu đài ở Lourdes dường như đã có từ thế kỷ I trước công nguyên. Vào thế kỷ XIX, các mảnh tường kiểu La mã đã được Công binh Pháp khám phá ở lâu đài này. Giữa những năm 1904 và 1907, khi phá Nhà thờ giáo xứ mang tên thánh Phêrô cũ, người ta cũng khám phá ra cấu trúc phần nền của một ngôi đền dâng cúng cho Thủy thần (Tutelles) với các mảnh sành và 3 bàn thờ dưới nền vòm cung sau cung thánh của Nhà thờ. Vào thế kỷ V, một ngôi Nhà thờ Công Giáo đã thay thế ngôi đền này bị hỏa hoạn thiêu rụi. Người ta đã tìm thấy bằng chứng là các đồ vật của ngôi đền đã bị vôi hóa.

Thời Trung cổ, ở Lourdes có lâu đài là trụ sở của bá tước Bigorre. Cùng với cuộc chiến chống lại bè rối Albigeois (1208-1249), Lourdes được coi là điểm then chốt của tỉnh, bị nhiều phe tranh giành. Nó rơi vào tay Bá tước Champagne, sau này là Vua Navarre (khoảng đầu thế kỷ 13). Sau đó vào tay vua Pháp Philippe IV (Philippe le Bel). Rồi sau năm 1360 lại rơi vào tay người Anh trong cuộc Chiến tranh 100 năm cho tới đầu thế kỷ XV. Trong Chiến tranh 100 năm, Pierre Arnaud de Béarn giữ lâu đài cùng với toàn vùng Bigorre và Lavedan cho vua Anh. Sau năm 1374, người em là Jean de Béarn lên thay thế, nhưng lúc ấy lãnh thổ bị thu hẹp lại trong vùng núi mà thôi. Tới tháng 10-1407, lâu đài Lourdes rơi vào tay vua Pháp. Thời Trung cổ, thành phố mở về phía tây của lâu đài và được xây tường bao quanh (nay chỉ còn lại tháp Garnavie). Vào thế kỷ XIII, Lourdes có khoảng 150 hộ gia đình và sang đầu thế kỷ XV có 243 hộ gia đình.

Thế kỷ XVI và XVII, Lourdes trải qua nhiều cuộc khủng hoảng. Nhà thờ giáo xứ và Tu viện Saint-Pé-de-Bigorre gần đó bị phá hủy trong cuộc Chiến tranh tôn giáo giữa Công Giáo và Tin Lành.

Tới thế kỷ XVIII, mặc dù có nạn đói và các trận dịch xảy ra, nhưng dân số lại cứ gia tăng. Năm 1696 có 2.315 dân. Từ năm 1730 – 1772, thêm 1.189 dân. Năm 1755, dân số gồm khoảng 40% là nông dân, 40% là thợ thủ công (chủ yếu ngành dệt), 8,5% là thợ làm đá và khoảng 13% làm dịch vụ (buôn bán vv...). Tuy nhiên tới đầu cuộc Cách mạng Pháp (1789), dân số lại giảm xuống chỉ còn khoảng 2.300 người.

Nửa đầu thế kỷ XIX, Lourdes là thị trấn nông nghiệp, khiêm tốn, với khoảng 4.000 dân, phần lớn dân chúng nuôi heo. Cuộc sống ở đây êm đềm buồn tẻ.

3. Từ khi Đức Mẹ hiện ra, Lộ Đức là địa chỉ linh thánh.

Năm 1858, sau khi Đức Mẹ hiện ra với một thiếu nữ nhà quê tên là Bernadette Soubirous trong hang đá nhỏ tên là Massabielle bên bờ sông Pau chảy qua thành phố, Lộ Đức trở thành trung tâm hành hương kính Đức Mẹ nổi tiếng trên thế giới. Hàng năm có khoảng hơn 6 triệu khách hành hương tới Lộ Đức, trong đó có khoảng 60.000 bệnh nhân và người tàn tật đến cầu nguyện, xin ơn phép lạ chữa bệnh.

Ngày 11.2.1858, một cô gái 14 tuổi tên là Bernadette Soubrirous loan tin rằng cô đã gặp một phụ nữ lạ, tại hang đá nhỏ Massabielle bên bờ sông Pau, phía tây thành phố. Bà này xưng mình là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Sau đó, Bà còn hiện ra với cô 17 lần nữa. Dân chúng trong thành phố và các vùng phụ cận đều tuôn đến hang đá cầu nguyện. Chính quyền phải tạm cấm bằng cách đặt hàng rào gỗ chắn lối vào hang. Nhưng đầu tháng 10-1858, họ phải gỡ bỏ hàng rào chắn vì áp lực của dân chúng và sự can thiệp của hoàng hậu Eugénie de Montijo, vợ của hoàng đế Napoléon III, một người Công Giáo nhiệt thành.

Năm 1862, sau những cuộc điều tra theo Giáo luật về sự kiện lạ lùng đó, Đức Cha Laurence, Giám Mục Giáo Phận Tarbes nhìn nhận việc Đức Mẹ hiện ra với Bernadette. Cùng năm đó, Giáo Hội bắt đầu xây ngôi Thánh đường mới - Vương cung Thánh đường Đức Mẹ Mân Côi Ngôi thay thế cho ngôi Nhà thờ đầu tiên và xây tầng trên là Vương cung Thánh đường Đức Mẹ Vô Nhiễm. Ngôi Thánh đường thứ ba mang tên Vương cung Thánh đường Thánh Piô X được xây dưới lòng đất (thấp hơn mức sông Pau), toàn bằng bêtông cốt thép, dài 200m, rộng 80m, ở giữa cao 10m, chứa được trên 25.000 người, do kiến trúc sư Pierre Vago thiết kế và kỹ sư Eugène Freyssinet thực hiện, đã được khánh thành ngày 25-3-1958.

Trong suốt triều đại Giáo hoàng của Đức Piô XI đã có các cuộc hiện ra của Đức Mẹ Beauraing và Đức Mẹ Banneux (ở Bỉ). Năm 1937, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã đề cử Hồng Y Eugenio Pacelli (sau này là Giáo hoàng Piô XII) làm Đặc sứ đến hành hương và kính viếng Lộ Đức. Đức Piô XI đã tích cực đẩy mạnh việc tôn kính Đức Mẹ Lộ Đức khi ngài phong Chân phước cho Bernadette Soubirous ngày 06 tháng 06 năm 1925. Sau đó ngài phong Thánh Bernadette vào ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội 08 tháng 12 năm 1933.

Chính quyền địa phương mở rộng các đường phố và mở một đại lộ tới thẳng hang đá (từ 1879 - 1881). Từ đó các khách sạn và các cửa tiệm mọc lên như nấm để đón tiếp khách hành hương trên toàn thế giới.

4. Lịch sử và sứ điệp Đức Mẹ nhắn gửi qua Thánh nữ Bernadette.

Khi bước vào Vương Cung Thánh Đường Vô Nhiễm Nguyên Tội, tôi thấy bên phải, có phiến đá cẩm thạch ghi lời tuyên bố long trọng của Đức Giám Mục Laurence về những lần hiện ra của Đức Mẹ: "Chúng tôi tuyên bố rằng Đức Vô Nhiễm Nguyên Tội Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã thực sự hiện ra với Bernadette Soubirous, ngày 11 tháng 02 năm 1858 và những ngày kế tiếp, tất cả là 18 lần, trong hang động Massabielle, gần thành Lộ Đức; rằng sự hiện ra này mang tất cả những tính cách của sự thật, và các giáo hữu đều đã tin là chắc chắn. Chúng tôi xin dâng cách khiêm nhượng sự phán đoán của chúng tôi cho Sự Phán Đóan của Đức Giáo Hoàng, Vị được giao trọng trách guồng lái Giáo Hội hoàn vũ ".

Đức Mẹ đã hiện ra 18 lần tại Hang đá Lộ Đức, từ ngày 11 tháng 02 đến ngày 16 tháng 07 năm 1858.

Ngày 28 tháng 07 năm 1858, Đức Giám Mục địa phận Lộ Đức đã thiết lập Ủy Ban Điều Tra về những lần Đức Trinh Nữ Maria hiện ra tại hang đá Massabielle. Công việc điều tra kéo dài trong 4 năm.

Trang web: lourdes-france.com, cho biết công việc nghiên cứu điều tra tỉ mỉ và sự phân định sáng suốt, trong lời kinh nguyện. Sau 4 năm, ngày 18 tháng 01 năm 1862, Đức Giám Mục, nhân danh Giáo Hội, nhìn nhận những lần hiện ra là đích thực. Giáo Hội nhìn nhận chính thức những lần Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, dựa trên chứng từ xác quyết của cô Bernadette Soubirous.

Cho đến ngày hôm nay, đã có 68 phép lạ được Bản quyền Giáo Hội công nhận. Phép lạ gần nhất được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI công nhận năm 2011.

Đức Thánh Cha Lêô XIII chấp thuận mừng lễ Đức Mẹ Lộ Đức vào ngày 11 tháng 2, để ghi nhớ 18 lần mẹ đã hiện ra với Bernadetta, kể từ ngày 11 tháng 2 tới ngày 16 tháng 7 năm 1858. Năm 1907, Đức Thánh Cha Piô X cho phép toàn thể Giáo Hội mừng lễ này vào ngày 11.2 hàng năm.

Bernadette là một cô bé 14 tuổi, không biết đọc, không biết viết, con một gia đình nghèo ở Lộ Đức. Gia đình cô tạm trú tại một nơi trước kia dùng làm nhà giam.Nơi tồi tàn này, cả gia đình gồm ông bà thân sinh và bốn chị em Bernadette làm nơi nương thân. Đức Mẹ muốn chọn một cô bé nơi nghèo hèn để làm sứ giả của Mẹ. Đến thăm căn nhà Bernadetta sinh sống, tôi thấy đây là gia đình quá nghèo.

Theo lời kể của Bernadette. Hôm đó là ngày thứ năm, 11-02-1858, được nghỉ học, Bernadette xin phép mẹ đi nhặt củi. Bình thường theo dọc bờ sông Gave, có rất nhiều cành cây khô. Nhưng suốt buổi sáng đó, dường như chị em của Bernadette không nhặt được bao nhiêu. Bernadette mới tiến đến một hang động gần đó mà dân làng quen gọi là Massabielle. Cô đang loay hoay nhặt củi, từ trong hang đá, một thiếu nữ diễm lệ xuất hiện và đứng trên một tảng đá, ánh sáng bao trùm cả hang Massabielle. Theo lời mô tả của cô, thì người thiếu nữ chỉ trạc độ 16, 17 tuổi. Bernadette tưởng mình như đang mơ. Cô bước thêm bước nữa. Người thiếu nữ diễm lệ chỉ mỉm cười. Trong cơn xúc động, Bernadette lấy tràng chuỗi từ trong túi áo ra và bắt đầu đọc kinh Kính Mừng. Khi Bernadette vừa lần xong chuỗi mân côi, người thiếu nữ làm hiệu cho cô tiến lại gần hơn. Bernadette say sưa ngắm nhìn và tiếp tục đọc kinh cho đến khi ánh sáng bao trùm người thiếu nữ nhạt dần và tắt hẳn.

Cô về nhà kể lại biến cố ấy, nhưng chẳng ai tin cô. Chính cha mẹ cô cũng không muốn cho cô trở lại hang đá nữa. Nhưng như có một sức hấp dẫn lạ kỳ nào đó khiến cô vẫn trở lại hang đá ấy.

Sau lần này, cô còn được trông thấy “người thiếu nữ diễm lệ” hiện ra 17 lần nữa.

Khi hiện ra lần thứ ba, ngày 18.02.1958, người thiếu nữ ấy mới bắt đầu nói với cô: “Con có vui lòng đến đây liên tiếp 15 ngày nữa không? Ta không hứa sẽ làm cho con được sung sướng ở đời này, nhưng là ở đời sau.”.

Trong 15 ngày tiếp đó, người thiếu nữ đã nhắn nhủ và truyền cho Bernadette nhiều điều. Cô kể: “Bà dặn tôi nhiều lần rằng: Hãy sám hối, hãy nói với các linh mục xây một nhà nguyện ở đây, hãy đến uống và rửa ở suối này, phải cầu nguyện cho những người tội lỗi được ơn hối cải. Trong vòng 15 ngày ấy, Bà còn nói với tôi 3 điều và dặn tôi không được nói với ai. Tôi vẫn trung thành giữ kín. Sau ngày thứ 15, tôi hỏi Bà 3 lần liên tiếp: Bà là ai? Nhưng Bà chỉ mỉm cười. Tôi đánh bạo hỏi thêm lần thứ tư. Lúc ấy, Bà mới buông tay xuống, ngước mắt nhìn lên trời rồi vừa nói vừa chắp tay trước ngực: ‘QUE SOY ERA IMMACULADA COUNCEPTIOU’”. Đó là thổ âm của vùng Lộ Đức lúc bấy giờ, được dịch ra tiếng Pháp là: ‘Je suis l’Immaculée Conception’, và dịch sang tiếng Việt Nam là: ‘Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội’.

Các bậc khôn ngoan chống đối, dân chúng xúc động, cảnh sát thẩm vấn Bernadette nhiều lần. Cô bình thản trả lời và không hề nao núng trước những lời đe dọa. May mắn là cô không bị vướng mắc vào những tiểu xảo của người thẩm vấn. Các nữ tu dạy học cũng tỏ ra bất bình, còn Bernadette vẫn luôn giữ được thái đô khiêm tốn lịch sự.

Ngày 25-2-1858, một đoàn người cảm kích theo cô sau khi cầu nguyện, Bernadette đứng dậy, ngập ngừng tiến tới gần hang đá rồi quì xuống. Theo lệnh của “người thiếu nữ diễm lệ”, cô cúi xuống lấy tay cào đất. Một dòng nước vọt lên. Dòng nước đó đến nay cứ chảy mãi, cứ 24 tiếng đồng hồ là có khoảng 120.000 lít nước chảy ra.

Ông biện lý cho gọi Bernadette tới. Ông chế giễu, tranh luận và đe dọa cô nữa. Cuối cùng ông kết luận: - Cô hứa với tôi là sẽ không tới hang đá nữa chứ ?

Nhưng Bernadette bình tĩnh trả lời cách rõ ràng: - Thưa ông, cháu không hứa như vậy.

Cha sở tỏ ra nghi ngại, ngài cấm các linh mục không được tới hang. Khi Bernadette tới gặp ngài và thuật lại "“người thiếu nữ diễm lệ” nói: Ta muốn mọi người tổ chức rước kiệu tại đây".

Cha sở liền quở trách và gằn từng tiếng: - Con hãy nói với bà ấy rằng, đối với cha sở Lộ Đức, phải nói cho rõ rệt. Bà muốn những buổi rước kiệu và một nhà nguyện à ? Trước hết Bà phải cho biết Bà tên là gì và làm một phép lạ đã chứ.

Dòng nước vẫn chảy thành suối. Dân chúng vẫn lũ lượt kéo nhau tới, những kẻ hoài nghi phải chùn bước.

Đã có những phép lạ nhãn tiền:

- Một người thợ đẽo đá mù lòa đã thấy được ánh sáng.

- Một phụ nữ bại tay sáu năm nay bình phục.

- Một em bé hai tuổi bệnh hoạn đang hấp hối trước những cặp mắt thất vọng của cha mẹ. Họ nghèo lắm, bà hàng xóm đã dọn sẵn cho một một cái quách. Người cha thở dài: - Nó chết rồi.

Người mẹ chỗi dậy. Không nói một lời nào, bà ôm đứa trẻ chạy thẳng ra hang đá, dìm nó vào trong dòng nước giá lạnh. Dân chúng cho rằng bà khổ quá hóa điên. Sau khi tắm cho bé khoảng 15 phút, bà ẵm con về nhà. Sáng hôm sau, bé hết bệnh. Ba bác sĩ đã chứng thực chuyện lạ này.

Báo chí công kích dữ dội và cho rằng đó chỉ là ảo tưởng. Bernadette vẫn giản dị vui tươi tự nhiên. Hàng ngày cô trở lại hang đá.

Ngày 25-3, cô quì cầu nguyện và khuôn mặt bỗng rỡ nên rạng rỡ. Rồi cô quay lại nói với vài người có mặt: - Bà nói: Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Vài phút sau, lời Đức Trinh Nữ được truyền từ miệng người này sang người khác. Đám đông cất cao lời cầu khẩn: - Lạy Đức Mẹ Maria chẳng hề mắc tội tổ tông, xin cầu cho chúng con là kẻ chạy đến cùng Đức Mẹ.

Ngày 8-12-1854, Ðức Giáo Hoàng Piô IX tuyên bố tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội trong Hiến Chế Ineffabilis Deus. Hơn ba năm sau, trong lần hiện ra ngày 25-3-1858, Đức Mẹ tự xưng là: "Ðấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.".

Vào năm 1866, Bernadette được gửi vào dòng Nữ Tu Ðức Bà ở Nevers. Ở đây, sơ trở nên một phần tử của cộng đoàn, và bị sơ giám đốc đệ tử đối xử rất tệ hại. Sự bất nhẫn ấy chỉ chấm dứt khi họ khám phá rằng sơ Bernadette đang chịu đau khổ vì một căn bệnh bất trị. Sơ từ trần ở Nevers vào ngày 15-4-1879, khi mới 35 tuổi. Sơ Bernadette được phong chân phước năm 1925, và được Ðức Giáo Hoàng Piô XI phong thánh năm 1933. Lễ kính thánh nữ vào ngày 16-4 hàng năm.

Lộ Ðức đã trở nên trung tâm hành hương và chữa lành, nhất là đức tin. Ðối với những người có đức tin thì không có gì ngạc nhiên. Ðó là sứ vụ chữa lành của Chúa Giêsu được tiếp tục thể hiện qua sự can thiệp của Mẹ Maria.

Nhiều người đến Lộ Ðức và trở về với một đức tin được đổi mới, sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa trong các nhu cầu của tha nhân. Tuy nhiên vẫn còn nhiều người nghi ngờ việc hiện ra ở Lộ Ðức. Ðể nói với họ, có lẽ tốt hơn là dùng những lời mở đầu của cuốn phim "Song of Bernadette": "Với những ai tin vào Chúa thì không cần giải thích. Với những người không tin, thì chẳng sự giải thích nào đầy đủ.".

Sứ điệp Đức Mẹ trao cho Bernadette có thể tóm lược trong ba lời mời gọi sau đây:

- Mời gọi cầu nguyện: Khi hiện ra lần thứ nhất, Mẹ đã dạy Bernadette làm dấu Thánh Giá và lần hạt cách sốt sắng. Mỗi lần hiện ra Mẹ đều làm như vậy. Mẹ còn dạy riêng cho Bernadette một kinh nguyện, rồi cuối cùng mới trao cho cô sứ điệp cầu nguyện: Con hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện cho kẻ có tội được ơn trở lại.

- Mời gọi sám hối: Đức Trinh Nữ lập lại với Bernadette ba lần: ‘Hãy sám hối, sám hối, sám hối’. Ngày 25-2-1858, Mẹ nói với Bernadette: ‘Con hãy đến uống và rửa ở suối này’. Mẹ chỉ cho cô tìm ra một giòng suối. Suối nước này ban đầu rất đục, sau đó bùn lắng xuống rồi trở thành suối nước trong lành. Đó là dấu hiệu cho sự sám hối. Nó tượng trưng cho sự lắng đọng trong tâm hồn tất cả những gì là vẩn đục hầu nên thanh sạch hơn.

- Mời gọi rước kiệu và xây nhà nguyện:“Con hãy nói với các linh mục xây nhà nguyện ở đây. Mẹ muốn người ta đến đây rước kiệu”. Nhà nguyện là nơi dân Chúa tụ họp để nghe lời Chúa và cử hành nhiệm tích Thánh Thể. Để đáp lại nguyện vọng của Đức Maria mà ba đại giáo đường và 2 Nhà thờ khá lớn lần lượt được xây dựng ở đây.“Người ta sẽ xây nhà nguyện cho con, và xây rất lớn”, cha sở Lộ Đức Peyramale đã nói với Bernadette như thế khi cô đến trình bày về lời yêu cầu của Đức Mẹ, hẳn cha đã không ngờ rằng mình nói rất đúng.Những Thánh đường này hằng ngày quy tụ từng đoàn người hành hương đến viếng thăm, chầu Thánh Thể và rước kiệu. Chính tại nơi đây, Thánh lễ cũng như các buổi rước kiệu Thánh Thể luôn được cử hành rất long trọng. Lộ Đức xứng với danh hiệu “Thành phố của nhiệm tích Thánh Thể”.

Hai buổi chiều, tôi dành thời giờ ngồi bên dòng sông Pau, đối diện với Hang Đá, ngắm nhìn Vương Cung Thánh Đường uy nghi xây vách đá, nơi Đức Mẹ hiện ra, nhìn dòng người không ngớt cầu nguyện dưới chân Mẹ. Tôi hiểu tại sao Giáo Hội, trong dọc dài thời gian hơn hai ngàn năm qua vẫn luôn vững bền và phát triển cho dù trải biết bao thăng trầm dâu bể của lịch sử nhân loại. Nhờ Mẹ Maria luôn chở che Giáo Hội như Mẹ đã bao bọc nâng đỡ các Tông Đồ sau Lễ Ngũ Tuần. Mẹ là dòng sông tưới mát cho nhân loại đang trên hành trình tìm về nguồn hạnh phúc bên Chúa.

Lộ Đức là địa chỉ của tình thương, là điểm hẹn của bình an nội tâm. Tạ ơn Đức Mẹ và xin Mẹ thương ban ơn cho các bệnh nhân.
 
ĐTGM Georg Gänswein nhìn lại một năm sau khi Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 thoái vị
Đặng Tự Do
18:58 10/02/2014
Trong một cuộc phỏng vấn với thông tấn xã Reuters nhân kỷ niệm một năm biến cố Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 tuyên bố thoái vị, Đức Tổng Giám Mục Georg Gänswein nói đó ngài đã không bao giờ nhận thấy Đức Bênêđíctô thứ 16 biểu hiện bất kỳ hối tiếc nào về quyết định này.

Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 cảm thấy thanh thản và bình an với chính mình, và tôi nghĩ rằng ngay cả với Thiên Chúa”, Đức Tổng Giám Mục Gänswein, người vừa là thư ký cho Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 trong khi vẫn là Trưởng Phủ Giáo Hoàng cho Đức Thánh Cha Phanxicô nói. "Sức khoẻ ngài rất tốt, nhưng chắc chắn ngài phải trải nghiệm những gánh nặng của tuổi già. Vì vậy, ngài là một người thể chất đã già, nhưng tinh thần của ngài vẫn rất hoạt bát và minh mẫn. "

Khi được hỏi về những chỉ trích của phương tiện truyền thông đối với Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16, Đức Tổng Giám mục Gänswein trả lời rằng Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô biết về điều đó nhưng ngài không oán giận.

"Rõ ràng là về phương diện con người mà nói, đôi khi, thật là đau đớn khi xem những gì viết về một người nào đó không đúng với những gì đã được thực hiện. Tuy nhiên, thước đo việc làm của một người, cách thức họ tiến hành công việc, không phải là những gì các phương tiện truyền thông đại chúng ghi nhận nhưng chính là những gì trước lương tâm và trước Thiên Chúa. Và, nói cho công bằng, thì lịch sử sẽ đưa ra phán quyết sau cùng”.

Đức Tổng Giám mục Gänswein nói tiếp: "Tôi thực sự xác tín rằng lịch sử sẽ đưa ra một phán quyết khác với những gì người ta vẫn thường đọc về những năm cuối cùng của triều đại giáo hoàng của ngài bởi vì mọi sự sẽ rõ ràng và minh bạch".

Ngài nói rằng giờ đây Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 "xa cách với thế giới nhưng ngài vẫn hiện diện trong Giáo Hội. Nhiệm vụ của ngài bây giờ, như ngài đã từng nói, là để giúp Giáo Hội và người kế nhiệm của mình, là Đức Thánh Cha Phanxicô, qua lời cầu nguyện. Đây là nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất của ngài. Nhưng chỉ có 24 giờ trong một ngày. Ngài nghiên cứu, đọc sách, trả lời thư từ và sau đó tiếp những người thăm ngài. Chúng tôi đi bộ trong khi đọc kinh Mân Côi, ngài thường chơi piano, tất cả điều này được thực hiện bởi thể lực của một người đã 86 tuổi."

"Ngay từ đầu đã có sự tiếp xúc tốt giữa Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Đức Thánh Cha danh dự Bênêđíctô thứ 16, và sự khởi đầu tốt này tiếp tục phát triển và trưởng thành." Đức Tổng Giám Mục Gänswein nói thêm: "Các ngài viết cho nhau, gọi điện thoại cho nhau, nói chuyện với nhau, đưa ra những lời mời... Trên nhiều lãnh vực, có một mối giao hảo rất tốt giữa hai vị. "

"Tôi tin Chúa Thánh Thần đã gửi đến cho chúng ta một vị Giáo Hoàng tốt vào đúng thời điểm, và điều này đúng với trường hợp Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16, và Đức Giáo Hoàng Phanxicô”.
 
Lần đầu tiên từ năm 1294, một vị Giáo Hòang nói lời từ biệt với giáo dân .
Pt Huỳnh Mai Trác
18:50 10/02/2014
Mặt trời của thành Roma vừa khuất bóng sau vòm Nhà thờ Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô. Một máy bay trực thăng màu trắng như một con chim đại bàng bay vụt lên cao. Nó đang đưa vị Giáo Hòang chỉ còn trị vì trong ba giờ đồng hồ nữa đến dinh thự Castel Gandolfo rồi về chốn hưu dưỡng. Ở đó Đức Bênêđictô XVI, Giáo Hòang danh dự chờ đợi một Giáo Hòang mới sẽ được bầu lên trong vòng 20 giờ nữa. Ngài sẽ trở về sông âm thầm trong một tu viện như một ẩn tu.



Ngòai quảng Trường Thánh Phêrô, một phụ nữ khỏang 40 tuổi khóc nức nở. Maria Iversen là người xứ Nauy, một người ngòai đạo Công Giáo. Bà đến đó để tỏ lòng kính mến đối với một vị Giáo Hòang mà Bà ngưỡng mộ. Cũng gần đó một nhà kinh tế trẻ tuổi Công Giáo khỏang 31 tuổi, Raphael Reali, đã ngừng mọi công việc của m ình đến đó để chứng giám giây phút lịch sử hiếm có này của lịch sử Giáo Hội, mà cũng để nhìn tận mắt một con người dám quyết liệt từ bỏ danh vọng tột đỉnh của nhân lọai”.

Trong vài phút, máy bay đáp xuống trong vườn của ngôi nhà nghỉ mát của các giáo hòang. Mọi người đều nhìn thấy Đức Giáo Hòang Bênêđictô XVI, rất cảm động, đứng trên ban công, hai tay giang rộng hướng về dân chúng. Ngài nói với dân chúng một lần cuối cùng: Các bạn thấy lần này sẽ khác biệt với các lần trước tôi ngỏ lời cùng các bạn. Tôi không còn là Giáo Hòang tối cao của Giáo Hội Công Giáo nữa. Tôi chỉ còn làm giáo hòang trong 8 giờ nữa mà thôi, và sau đó thì tôi đã mãn sứ vụ của tôi. Tôi chỉ còn là một người hành hương bắt đầu giai đọan cuối cùng còn lại trên cuộc đời này. Tôi vẫn còn muốn nói lên với tất cả tấm lòng,với tất cả tình yêu mến và lời cầu nguyện của tôi, những suy tư của tôi và tât cả mọi sức lực của tôi để làm mọi điều tốt lành cho Giáo Hội và cho nhân loai. Và tôi cảm thấy rất đuợc tất cả anh chị em hổ trợ và ưu ái. Cám ơn tất cả anh chị em “. Hình bóng của chiếc áo trắng khuất dần sau cánh cửa.

Người lữ hành lưng hơi khòm, trông có vẽ mệt mỏi, tay cầm gậy, đứng trong Phòng Clementine rực rỡ và oai vệ. Ở đó có 144 vị Hồng Y đang chờ đợi để nói lời từ biệt. Đức Bênêđictô XVI không đọc diễn văn chỉ thân ái chào hỏi từng người một. Ngài dùng giây phút này để nói nói lên những căn dặn cuối cùng cùng một nơi mà trước đó mà vào ngày 11 tháng 2 mà Ngài đã quyết định từ nhiêm. Ngài cầu xin các Hồng Y hãy thăng tiến đòan kết và Hồng Y đòan sẽ như một ban hòa tấu tuy có nhiều giai điệu khác nhau, nhưng tạo nên một âm điệu hòa hợp cao siêu tuyệt diệu. Và thông điệp này là lời nhắn nhủ rât ư là phong phú. “Tôi muốn nói với các chư huynh là tôi luôn tiếp tục gần gủi các chư huynh trong lời cầu nguyện, đặc biệt là trong những ngày sắp tới để các chư huynh tràn đầy ơn Đức Chúa Thánh Thần trong việc bầu cử một Giáo Hòang mới. Xin Thiên Chúa hãy bày tỏ thánh ý của Ngài. Trong các chư huynh ở đây, sẽ có một vị Giáo Hòang mới, đối với Đức Giáo Hòang mới, tôi xin hứa là tuyệt đối trung thành và vâng phục hòan tòan vô điều kiện. ”

Trích dịch từ Báo La Croix
 
Quyền sống đang được chú ý tại Âu Châu
Vũ Văn An
21:45 10/02/2014
Tại Âu Châu, việc bảo vệ sự sống là một vấn đề tranh tối tranh sáng. Vì một đàng, tại Pháp, người ta đang nới rộng quyền phá thai, thì tại Tây Ban Nha, đang có chiều hướng hạn chế nó.

Chiến dịch "một người của chúng ta"

Đồng thời, sự thành công của các sáng kiến như “Một Người của Chúng Ta” chứng tỏ rằng “người của sự sống” chưa hẳn đang thiếp ngủ. Đây là một sáng kiến của các công dân tranh đấu cho việc thừa nhận quyền sống của thai nhi và việc không được giết các em vì các mục đích nghiên cứu khoa học.

Trong một cuộc phỏng vấn của Zenit, Carlo Casini, chủ tịch và là sáng lập viên của Phong Trào Phò Sự Sống và là một dân biểu của quốc hội Âu Châu, cho biết nhận định của ông về vấn đề này. Theo ông, cho tới ngày 11 tháng Mười Hai năm ngoái, chiến dịch đã thu được 1,896,000 chữ ký gửi tới các nhà cầm quyền có chức năng của 28 quốc gia. Luật Âu Châu định rằng trong vòng ba tháng, các nước cá thể phải kiểm nhận giá trị các chữ ký này: thành thử vào ngày 11 tháng Hai này,ta sẽ biết kết quả dứt khoát. Cho tới nay, ba quốc gia đã kiểm nhận được 90% các chữ ký có giá trị.

Sau ngày 11 tháng Hai,các nhà tổ chức “Một Người Của Chúng Ta” sẽ gặp Ủy Ban Âu Châu lần đầu tiên, và sau đó, sẽ gặp các ủy ban có thẩm quyền của Nghị Viện Âu Châu để giải thích ý nghĩa của sáng kiến.

Sau đó, Ủy Ban Âu Châu sẽ phải quyết định mình sẽ làm gì. Casini xác tín rằng Ủy Ban này không thể trì hoãn được vì đây là sáng kiến của các công dân. Vì viễn tượng bầu cử dân chủ, người ta không thể làm ngơ một sáng kiến như thế. Nhất là trong bầu khí bất tín nhiệm hiện nay đối với các định chế Âu Châu, một làm ngơ như thế chỉ có nghĩa là Ủy Ban muốn tự vận.

Ông hy vọng rằng điều hợp luận lý nhất là Ủy Ban Âu Châu sẽ chấp nhận một hay hai đạo luật nhìn nhận các đề nghị của sáng kiến và ngăn cấm bất cứ sự tài trợ nào cho việc hủy diệt phôi thai.

Sau đó, chiến dịch sẽ vận động để bảo đảm có được ba tuyên bố của ba nhóm sau đây: 1) Các bác sĩ sẽ quả quyết rằng xét về phương diện khoa học, bào thai đã là một hữu thể nhân bản rồi; 2) Các luật gia sẽ yêu cầu để nguyên tắc bình đẳng cũng được áp dụng cho trẻ vừa được thụ thai; 3) Các chính trị gia sẽ chấp nhận nguyên tắc mọi hành vi chính trị phải phục vụ ích chung.

Tất cả các ủy ban quốc gia đã quyết định sẽ thành lập ra Liên Minh Âu Châu Các Phong Trào Phò Sự Sống dưới danh xưng “Một Người Của Chúng Ta”. Kết quả này quả không nhỏ.

Đối với dự luật tại Tây Ban Nha nhằm hạn chế phá thai, Casini cho rằng đạo luật đầu tiên năm 1985 của nước này về phá thai, là đạo luật cho phép phá thai trong một số trường hợp hạn chế như hiếp dâm, thai nhi bị dị hình, nguy hiểm đến sức khỏe người mẹ, đã giữ cho con số phá thai ở mức thấp, vào khoảng 40,000 vụ một năm. Nhưng các cải cách theo hướng lỏng lẻo hơn trong các năm sau đó, nhất là đạo luật của Zapatero năm 2010, cho phép người mẹ được tự do quyết định, đã nâng con số phá thai lên 110,000 vụ mỗi năm.

Dự luật mới đây do Bộ Trưởng Tư Pháp Alberto Ruiz Gallardon đưa ra đã bị các nhóm duy nữ và chống phá thai chỉ trích là vẫn còn quá yếu. Họ tin rằng dự luật này còn có thể cải tiến hơn nữa bằng cách chen vào một điều khoản nhằm bảo vệ thai nhi như một chủ thể luật pháp.

Tuy nhiên, mọi cải tiến nhằm giảm thiểu sự ác đều có tính tích cực. Chấp thuận dự luật này là một triệu chứng cho thấy lương tâm tại Âu Châu đã được đánh thức, do đó, việc thay đổi này cần được hỗ trợ. Ngược lại, quả quyết sự tự do tuyệt đối cho người đàn bà là ủng hộ ý niệm cho rằng thai nhi chỉ là một đồ vật.
Tại Pháp, trái lại, người ta không những có ý định nhìn nhận quyền phá thai, mà còn có ý định kết án những người tranh đấu để ngăn cản việc này. Casini cho rằng: một lần nữa, một sự kiện như thế cho thấy chính trị quan trọng như thế nào. Hiện đang có một khuynh hướng đặt vấn đề sự sống ra ngoài chính trị; và cho rằng các vấn đề thực sự phải là các vấn đề khác như thất nghiệp, thiếu phát triển kinh tế v.v… Các vấn đề này dĩ nhiên là những vấn đề quan trọng. Nhưng việc bảo vệ sự sống đâu phải là vấn đề ít có tính chính trị hoặc tệ hơn nữa là “ngoại vi”. Nó cũng giống như chiến tranh, hễ đã có chiến tranh thì có chết chóc: thành thử việc đầu tiên phải làm là kết thúc chiến tranh và tránh các tử vong này. Cùng một nguyên tắc ấy phải được áp dụng khi các thuyền tị nạn đến từ phía bên kia Địa Trung Hải: tránh đắm tầu và chết chóc.Thành thử, nếu cho rằng trẻ chưa sinh là một người của chúng ta và khi thấy mỗi năm trên thế giới có cả hàng triệu nạn nhân vô tội bị giết trong các vụ phá thai, thì ta phải có tiếng nói chính trị tại quốc hội.

Chiến dịch dóng lên tiếng kêu báo động ở cả Ý nữa: xin cử tri Ý thận trọng trong lá phiếu của mình. Yêu sự sống, qúy cử tri không thể bầu cho những người phản lại sự sống. Còn với Pháp, điều cần là phải đưa ra hàng loạt các hành vi “soi sáng” và đối kháng. Về phương diện này, Casini cho rằng đang có dấu hiệu tích cực: một phong trào quần chúng đang rầm rộ chống lại luật hôn nhân đồng tính. Phong trào ấy có tên Manif Pour Tous đang tổ chức những cuộc biểu tình lôi cuốn hàng trăm ngàn người trên đường phố Paris. Riêng về quyền sống, cuộc Diễn Hành Phò Sự Sống năm nay tại Paris đã lôi cuốn được hơn 40,000 người tham dự. Theo Casini, đây là một cuộc hồi tỉnh của lương tâm. Điều tốt vẫn có thể phát sinh từ người xấu. Ông hy vọng rằng Pháp, mà hiện nay dường như đang ngái ngủ, sẽ chứng kiến một cuộc bừng tỉnh và thành công trong việc ngăn cản, không coi phá thai như một quyền.

“Quyền” phá thai đang xuống dốc tại Âu Châu

Tiến sĩ Grégor Puppinck, giám đốc Trung Tâm Luật Pháp và Công Lý Âu Châu, thì chú trọng tới khía cạnh tiêu cực của “quyền” được phá thai. Thực vậy, tỷ lệ các quốc gia đặt điều kiện cho phá thai trong những tuần lễ đầu tiên của thai kỳ đang gia tăng, họ đang mở lại cuộc tranh luận về phá thai và duyệt lại luật lệ theo chiều hướng hạn chế. Ta có thể nói đây là một xu hướng. Đa số hiện ngả về hướng coi phá thai như một vấn nạn xã hội hơn là một quyền hay một tự do của cá nhân.

Nói chung, khuynh hướng luật lệ hiện nay có khuynh hướng giảm thời gian hợp pháp để phá thai ngõ hầu bảo vệ thai nhi và tránh các vụ phá thai không do những động lực nghiêm túc.

Ngoài trường hợp hết sức biểu tượng của Tây Ban Nha, là nước đang cứu xét việc loại bỏ phá thai theo yêu cầu ra, Puppick còn kể tới việc Nghị Viện Anh thường xuyên xem sét việc giảm thời gian hợp pháp để phá thai, với sự hỗ trợ của đương kim thủ tướng (1). Na Uy (2) cũng thế, bắt đầu từ đầu tháng Giêng năm 2014, đã hoàn toàn ngăn cấm việc phá thai sau 22 tuần lễ của thai kỳ, vốn là định mức để trẻ sơ sinh sống còn ngoài tử cung theo quyết định của Tổ Chức Y Tế Thế Giới. Tại Thụy Sĩ (3), một sáng kiến trưng cầu dân ý về việc chấm dứt tài trợ công cộng cho việc phá thai theo yêu cầu đã được đưa ra và sẽ được biểu quyết vào ngày 9 tháng Hai. Hiện nay, quốc hội Lithuania (4) đang xem sét một dự luật loại bỏ phá thai theo yêu cầu theo gương đạo luật của Ba Lan. Được sự hỗ trợ của nhiều chính đảng, dự luật này đã được thông qua tại cấp tiểu ban của quốc hội. Một năm trước đây, quốc hội Latvia đã mở lại vấn đề, nhất là để buộc các phụ nữ phải qua một cuộc phỏng vấn trước bất cứ một vụ phá thai nào. Tại Ba Lan, vấn đề hạn chế hơn nữa việc phá thai luôn được đặt ra: năm 2011, việc hoàn toàn ngăn cấm phá thai theo yêu cầu chỉ thiếu 5 phiếu để được thông qua (5). Cùng năm, Hung Gia Lợi (6) chấp nhận một tân hiến pháp nhằm bảo vệ sự sống từ lúc thụ thai và từ đó, đã thi hành một chính sách ủng hộ việc chào đời và nhận làm con nuôi. Việc này đã giảm thiểu tỷ lệ phá thai. Ngày 10 tháng Sáu, 2013, Macedonia cũng đã thông qua một luật mới mạnh mẽ tăng cường việc bảo vệ sự sống sau 10 tuần của thai kỳ (7). Từ năm 2011, chính phủ Nga cũng theo đuổi một chính sách coi phá thai không còn được sử dụng như một phương pháp ngừa thai nữa. Chế độ Xô Viết từng “bình thường hóa” việc này đến nỗi mỗi năm có tới 4 triệu vụ phá thai. Con số này đã được giảm xuống còn 1.3 triệu vụ, tương đương với số sinh hàng năm (8). Còn đối với Thổ Nhĩ Kỳ (9), vào tháng Năm, 2012, chính phủ nước này công bố các kế hoạch nhằm giảm thời gian hợp pháp để phá thai từ 10 xuống còn 6 hay 4 tuần. Tuy nhiên, vì áp lực mạnh mẽ của các nước Âu Châu, thay đổi này đã bị hủy bỏ.

Xu hướng này, xem ra, còn đáng chú ý hơn nữa tại Hoa Kỳ, nơi chỉ còn 12% dân chúng vẫn tin rằng phá thai là điều có thể chấp nhận được về phương diện luân lý (10). Giữa các năm 2010 và 2013, các tiểu bang Hoa Kỳ đã thông qua 205 hạn chế mới đối với phá thai, hơn hẳn một thập niên trước đây (11). Sự thay đổi này quả vừa “hoành tráng” vừa sâu sắc.

Xu hướng trên cũng thấy rõ trong các định chế Âu Châu, là các định chế, cho tới nay, vẫn từ khước việc tạo ra quyền được phá thai. Tiểu Ban Các Bộ Trưởng của Hội Đồng Âu Châu đã bác bỏ việc này vào tháng Bẩy, 2013 (12), trong khi Ủy Ban Âu Châu thường xuyên tuyên bố rằng vấn đề này không thuộc thẩm quyền của họ (13). Ngày 10 tháng Mười Hai, 2013, Quốc Hội Âu Châu bác bỏ nghị quyết muốn biến phá thai thành một quyền căn bản (14). Mặt khác, quốc hôi này còn lên án việc phá thai vì chọn phái tính và các chính sách phá thai kiểu Trung Quốc. Đại Hội Đồng (15) và Cao Ủy Nhân Quyền (16) của Hội Đồng Âu Châu cũng đã làm như thế. Tòa Án Nhân Quyền Âu Châu thì luôn từ khước việc tạo ra quyền phá thai, một quyền có thể buộc các quốc gia hội viên phải tuân giữ, dù có nhiều áp dụng theo chiều hướng này. Tòa Án này thừa nhận rằng đứa trẻ chưa sinh đã hiện hữu rồi, dù chưa nhất thiết là một chủ thể luật pháp, và em đã thuộc “chủng loại nhân bản” rồi và đáng được bảo vệ trong tư cách ấy. Tòa này nói thêm rằng nếu các quốc gia quyết định hợp pháp hóa phá thai thì họ phải xem sét quyền lợi của các tác nhân khác nhau: người đàn bà, đứa trẻ và xã hội. Một cách tương tự, Tòa Án của Liên Hiệp Âu Châu tại Lục Xâm Bảo cũng đã thừa nhận rằng bào thai xứng đáng được luật pháp bảo vệ vì lòng tôn trọng nhân phẩm vì đây là một giai đoạn trong diễn trình phát triển của hữu thể nhân bản (17).

Cả về chính trị lẫn pháp lý, luật Âu Châu không bảo đảm quyền phá thai, luật quốc tế cũng không, nó chỉ bảo đảm quyền sống cho mọi người và khuyến khích các quốc gia “giảm thiểu việc sử dụng tới phá thai” (18) là việc “phải tránh bao nhiêu có thể” (19).

Sáng Kiến “Một Người Của Chúng Ta” của các công dân Âu Châu là dấu hiệu cho thấy xu hướng này được sự ủng hộ của xã hội dân chính. Nó từng được sự hỗ trợ của 2 triệu người, một con số chưa bị vượt qua cho tới hôm nay. Nó yêu cầu Liên Hiệp Âu Châu, qua cơ chế tham dự dân chủ, không tiếp tục tài trợ cho phá thai và các cuộc nghiên cứu hủy hoại phôi thai. Ủy Ban và Quốc Hội Âu Châu sẽ có quyết định liên quan tới lời yêu cầu này trong vài tháng tới.

Cuộc cách mạng văn hóa trên gây ra một kình chống lớn vì nó đi ngược lại nền văn hóa đương thịnh, thừa hưởng của thập niên 1960. Chính bối cảnh này đã khiến chính phủ Pháp cố gắng bình thường hóa việc phá thai, và biến nó thành một quyền căn bản của phụ nữ, một điều không khó hiểu bao nhiêu. Nhưng để hiện hữu và bền lâu, “quyền” này hàm nghĩa rằng phôi thai và bào thai sẽ vĩnh viễn bị làm ngơ. Ấy thế nhưng tiến bộ khoa học và lương tâm con người đang cộng tác với nhau, một cách chầm chậm nhưng chắc chắn, đã dẫn tới việc chúng hiểu biết nhau hơn và chắc chắn cũng sẽ dẫn tới việc thừa nhận nhân tính của phôi thai và của bào thai.

Tóm lại, “quyền phá thai” đang xuống dốc vì hai lý do mạnh mẽ. Lý do kinh nghiệm: luật lệ phóng túng tự tỏ ra không thoả đáng. Lý do lý thuyết: tiến bộ khoa học đang gợi ý phải đẩy lui biên giới của nhân tính tới trước khi sinh. Bước lùi của “quyền phá thai” thách thức xã hội nhiều hơn là bước tiến của nó vì bước lùi ấy đòi ta phải nhân bản, có trách nhiệm và đoàn kết nhiều hơn ngõ hầu biết thừa nhận và chào đón sự sống của mọi người.
_________________________________________________________________________________________________________________
(1) The Guardian, Cuộc tranh luận về phá thai: con số thống kê, 8 tháng Mười, 2012.
(2) Dagbladet.no, Abort etter uke 22 blir forbudt, 2 tháng Giêng 2014.
(3) Cuộc trưng cầu sáng kiến công chúng về “tài trợ phá thai là một vấn đề tư riêng” sẽ được đầu phiếu ngày 9 tháng Hai, 2014.
(4) « Lituanie : le Parlement va débattre de l'interdiction de l'avortement », LePoint.fr, 28 tháng Năm, 2013.
(5) http://www.astra.org.pl/repronews/83-polish-parliament-to-debate-two-draft-bills-regarding-access-to-abortion-today.html
(6) Corentin Léotard « Une remise en cause du droit à l’avortement en Hongrie ? » HU-lala, 18 tháng Tư 2011.
(7) Planning Familial, « Le droit à l'avortement régresse en Macédoine », Le Courrier des Balkans; « Macédoine : le gouvernement s’attaque au droit à l’avortement ».
(8) Svetlana Smetanina, La Russie d’Aujourd’hui, « Les femmes russes, championnes de l’avortement », 29 tháng Ba 2013.
(9) « Turquie: une restriction de l'avortement? », Le Figaro, 30 tháng Năm 2012.
(10) Xem the survey for the Huffington Post by Omnibus Poll Tháng Sáu, 2013.
(11) Guttmacher Institute, More State Abortion Restrictions Were Enacted in 2011–2013 Than in the Entire Previous Decade, 2 tháng Giêng 2014; S. Klift, States passed 205 abortion restrictions in three years. That’s totally unprecedented, The Washington Post, 3 tháng Giêng 2014.
(12) Response by the Committee of Ministers of the Council of Europe, 3 tháng Bẩy 2013 cho câu hỏi viết sẵn số 633: : Liệu Qui Ước Âu Châu về Nhân Quyền có tạo ra quyền phá thai không?”
(13) Đặc biệt xin xem tuyên bố của Cao Ủy Dali ngày 30 tháng Tư, 2012.
(14) Cuộc vận động cho nghị quyết và Phúc Trình số 2013/2040 (INI) về Sức Khỏe Tính Dục và Sinh Sản, 3 tháng Mười Hai, 2013.
(15) PACE, Nghị Quyết 1829 (2011), 3 tháng Mười, 2011, Prenatal sex selection.
(16) Cao Ủy Nhân Quyền Sex-selective abortions are discriminatory and should be banned, 15 tháng Giêng, 2014.
(17) CJEU, Brüstle v. Greenpeace V, C-34/10. 18 tháng Mười, 2011.
(18) Chương Trình Hành Động, § 8.25. Phúc Trình của Hội Nghị Quốc Tế về Dân Số và Phát Triển, Cairo, 5-13 Tháng Chín 1994, United Nations, New York, 1995. Có tại trang mạng:http://www.unfpa.org/webdav/site/global/shared/documents/publications/2004/icpd_fre.pdf.
(19) Đại Hội Đồng Quốc Hội của Hội Đồng Âu Châu, Nghị quyết 1607 ngày 16 tháng Tư, 2008.
 
Top Stories
Pope advances causes for canonization
Vatican Radio
12:08 10/02/2014
2014-02-08 Vatican - On Friday, Pope Francis received Cardinal Amato, prefect for the Congregation for the Causes of the Saints, in a private audience. During the audience the Holy Father authorized the Congregation to promulgate the decrees regarding the following persons:
The martyrdom of Servant of God Francesco Zirano, priest of the Order of Conventual Friars Minor (Franciscans). Born 1564 in Sassari, Italy, he was killed, in hatred of the faith, in Algiers, Algeria on 25 January 1603;

The martyrdom of Servant of God Paul Yun Ji-chung, layman, along with 123 companions. They were killed, in hatred of the faith, in Korea between 1791 and 1888;

The heroic virtue of Servant of God Jesus Maria Echavarría y Aguirre, Bishop of Saltillo, Mexico, founder of the Institute of Sisters Catechists of Guadalupe. Born in Real de San Pedro de Bacubirito, Mexico 6 July 1858, he died in Saltillo, Mexico on 5 April 1954.

The heroic virtue of Servant of God Faustino Ghilardi (given name: Guglielmo Giacomo), priest of the Order of Friars Minor (Franciscans). Born in Pieve a Nievole, Italy on 6 May 1858, he died in San Vivaldo di Monaione, Italy on 25 October 1937.

The heroic virtue of Servant of God Maria Rocío of Jesus Crucified (given name: Maria Giuseppa Rodríguez Xuárez de la Guardia), a religious sister for the Congregation of Sisters of the Divine Love. Born in Colmenar, Spain on 16 May 1923, she died in Rome on 30 March 1956.
 
Pope Francis: rediscover a 'sense of the sacred'
Vatican Radio
12:09 10/02/2014
2014-02-08 Vatican - To rediscover the sense of the sacred, the mystery of the Real Presence of God in the Mass: that was Pope Francis’ invitation during the Eucharistic celebration this morning at Casa Santa Marta.

The first Reading of the day speaks about the “theophany” of God in the time of Solomon the king. The Lord came down like a cloud upon the temple, which was filled with the glory of God. The Lord, the Pope said, speaks to His people in many ways: through the prophets, the priests, the Sacred Scriptures. But with the theophanies, He speaks in another way, “different from the Word: it is another presence, closer, without mediation, near. It is His presence.” This, he explained, happens in the liturgical celebration. The liturgical celebration is not a social act, a good social act; it is not a gathering of the faithful to pray together. It is something else. In the liturgy, God is present,” but it is a closer presence. In the Mass, in fact, “the presence of the Lord is real, truly real.”

“When we celebrate the Mass, we don’t accomplish a representation of the Last Supper: no, it is not a representation. It is something else: it is the Last Supper itself. It is to really live once more the Passion and the redeeming Death of the Lord. It is a theophany: the Lord is made present on the altar to be offered to the Father for the salvation of the world. We hear or we say, ‘But, I can’t now, I have to go to Mass, I have to go to hear Mass.’ The Mass is not ‘heard’, it is participated in, and it is a participation in this theophany, in this mystery of the presence of the Lord among us.”

Nativity scenes, the Way of the Cross... these are representations. The Mass, on the other hand, “is a real commemoration, that is, it is a theophany: God approaches and is with us, and we participate in the mystery of the Redemption.” Unfortunately, too often we look at the clock during Mass, “counting the minutes.” This, the Pope said, is not the attitude the liturgy requires of us: the liturgy is God’s time, God’s space, and we must place ourselves there, in God’s time, in God’s space, and not look at the clock”:

“The liturgy is to really enter into the mystery of God, to allow ourselves to be brought to the mystery and to be in the mystery. For example, I am sure that all of you have come here to enter into the mystery; however, someone might say: ‘Ah, I have to go to Mass at Santa Marta, because on the sight-seeing tour of Rome, each morning there is a chance to visit the Pope at Santa Marta: it’s a tourist stop, right?’ All of you here, we are gathered her to enter into the mystery: this is the liturgy. It is God’s time, it is God’s space, it is the cloud of God that surrounds all of us.”

The pope recalled that, as a child, during the preparation for First Communion, there was a song that spoke about how the altar was guarded by angels to give “a sense of the glory of God, of God’s space, of God’s time.” And when, during the practice, they brought the hosts, they told the children: “Look, these are not the ones you will receive: these count for nothing,” because they have to be consecrated. So, the Pope concluded, “to celebrate the liturgy is to have this availability to enter into the mystery of God,” to enter into His space, His time, to entrust ourselves to this mystery:

“We would do well today to ask the Lord to give to each of us this ‘sense of the sacred,’ this sense that makes us understand that it is one thing to pray at home, to pray in Church, to pray the Rosary, to pray so many beautiful prayers, to make the Way of the Cross, so many beautiful things, to read the Bible... The Eucharistic celebration is something else. In the celebration we enter into the mystery of God, into that street that we cannot control: only He is the unique One, the glory, the power... He is everything. Let us ask for this grace: that the Lord would teach us to enter into the mystery of God.”
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Đức Mẹ Thánh Du làm nhiều phép lạ đã tới Gx ĐMHCG Garland TX, sẽ tới Gx Thánh Giuse Grand Prairie
Trần Mạnh Trác
12:13 10/02/2014


Chiều thứ Sáu ngày 07 tháng 2 vừa qua, tượng Đức Mẹ Thánh Du nổi tiếng hay làm phép lạ (note*) đã được đón tiếp trọng thể tại Gx ĐMHCG, Garland TX. Chương trình bắt đầu từ 7:00g chiều nhưng nhiều người đã tới từ 5:00g để dành chỗ. Nhà thờ chật kín và người ta đã ở lại suốt đêm để cầu nguyện xin ơn.

Bức tượng rời Gx lúc 6.00 sáng thứ Bảy.

Xem hình ảnh

Gx Thánh Giuse ở Grand Prairies cũng sẽ được vinh dự đón tiếp Mẹ vào thứ Sáu ngày 21 tháng 2 tới, từ 5:00g chiều cho đến nửa đêm.

Đây là bức tượng có nhiều tên gọi như 'Bức Tượng Phương Tây', 'Bức Tượng Đức Mẹ khóc', 'Bức Tượng Phép Lạ Chim Bồ Câu'.



Bức tượng nổi tiếng là hay làm 'phép lạ' chữa lành. Nổi tiếng nhất là trường hợp Cha Thánh Pio, Ngài đã được chữa khỏi khi đang được cấp cứu khẩn cấp trong nhà thương trong cuộc thánh du ở Ý năm 1959.



Sau đây là lược sử cuả bức tượng.

Chúng ta biết hiện nay có 3 tượng Đức Mẹ Fatima được nhà điêu khắc trứ danh Jose Thedim thực hiện theo lời mô tả cuả 'Sơ' Lucia.



-Bức tượng nguyên thủy được khai trương ngày 13 tháng 5 năm 1920 và luôn được trưng bày tại nhà nguyện Cây Sồi (Capelinha). Đây là bức tượng vừa được đưa qua Roma trong một ngày để cho Đức Thánh Cha Phanxicô dâng hiến Thế Giới lên Mẹ vào ngày 13 tháng 10 vừa qua.

Trong năm 1946, người ta tổ chức một cuộc rước bức tượng này từ Fatima đến Lisbon và đả xảy ra một hiện tượng lạ là có 3 con chim bồ câu đã tới nằm dưới chân bức tượng trong suốt cuộc hành trình dài 2 tuần lễ.





-Bức tượng thứ hai gọi là Bức Tượng Fatima Trái Tim Vô Nhiễm vì tượng có hình trái tim Mẹ. Bức tượng từng qua thăm Miền Nam Việt Nam từ 1965 cho đến 1967.

Phong trào sùng kính Khiết Tâm Mẹ đã được phát động trong dịp này và vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay.

-Ngày 13 tháng 10 năm 1947, nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày cuả phép lạ Mặt Trời Xoay, người ta lại thánh hiến một bức tượng thứ ba gọi là tượng Thánh Du 'Phương Tây' (the Western statue, chắp tay giống như tượng nguyên thủy) và trao cho Đạo Binh Xanh cuả Hoa Kỳ. Bức Tượng Phương Tây thường du hành các xứ Mỹ Châu.

Bức tượng này đã được rước tới Công Trường Đỏ ở Nga năm 1992.

Ngay khi bức tượng 'Phương Tây' khai mạc cuộc thánh du đầu tiên từ Portugal đến Căn Cứ Không Quân cuả Mỹ ở Azores, người ta nhận thấy có một đàn chim bồ câu bay vần vũ trên không như thể chào đón vậy. Sau đó thì hiện tượng chim bồ câu bay lượn hay nằm dưới chân bức tượng, giống như vụ bức tượng nguyên thủy ở Lisbon, đã xảy ra hàng chục lần nữa, gồm có ở Pisa, Roma, Lộ Đức. Do đó người ta đặt thêm một tên mới cho bức tượng là 'Tượng Phép Lạ Chim Bồ Câu'. (Xin xem hình chụp với Cha Thánh Pio ở Ý)



Vì một lý do mà khoa học không thể giải thích được, bức tượng này cũng đã 'khóc' nhiều lần. Người ta thấy bức tượng hình như chẩy nước mắt tới 23 lần trước khi tới New Orleans. Nhưng tại New Orleans năm 1972 thì bức tượng khóc một cách rõ ràng (xin coi hình). Người ta phân tích và biết chắc chắn rằng đó là nước mắt thật. Do đó mà có tên gọi thứ ba là 'Tượng Đức Mẹ khóc'. Riêng tại 'thành phố tội lỗi' Las Vegas năm 1979, tượng đã khóc 4 lần, trước một cộng đoàn giáo dân đông đảo tới 6 ngàn người.

Nhiều người giải thích cách khác nhau về hiện tượng Đức Mẹ khóc, có người bi quan tiên đoán rằng New Orleans sắp chìm vào lòng biển hay tận thế sắp tới.

Tuy nhiên chỉ hiện tượng này mà thôi thì đã đủ làm cho nhiều người ăn năn hối cải. Như vậy chúng ta có thể tin rằng Đức Mẹ đang đem lại ơn Cứu Chuộc chứ không phải là sự Kết án.

Hình như Đức Mẹ dùng bức tượng thánh du này để đi tới tận nơi mà cứu giúp những người con yêu quí cuả Mẹ cả về phần hồn lẫn phần xác, mà vì một hoàn cảnh ngăn trở nào đó đã không thể hành hương tới thăm Mẹ ở những nơi thánh địa xa xôi.

Vậy thì, với những bạn đang cư ngụ ở vùng Dallas-Fort Worth. Đức Mẹ đã đến đây rồi. Nếu bạn chưa có dịp đón Mẹ ở Gx ĐMHCG, thì hãy tới viếng Mẹ tại Gx Thánh Giuse, Grand Prairie vào ngày 21 tháng 2 này.

Note* Cần xin minh xác rằng những ơn lạ xảy ra trong cuộc thánh du, ngoại trừ trường hợp cuả Thánh Pio vì Ngài đã được phong Thánh thì không thể có nghi ngờ gì nữa, các sự chữa lành khác phải đợi Giáo Hội công nhận mới được chính thức gọi là phép lạ.
 
Những kiểu mẫu huấn luyện ơn gọi dâng hiến
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
10:46 10/02/2014
Để việc huấn luyện trong Chủng Viện và Dòng Tu đạt được những hiệu quả tốt, chúng ta cần phải xác định lại mô hình huấn luyện. Nếu việc đào tạo mà không xác định cách rõ ràng mô hình huấn luyện thì cũng có nghĩa là công việc đó không có mục đích rõ ràng và sẽ không hiệu quả. Việc huấn luyện có nguy cơ rơi tình trạng bất cập, một chiều, hoặc duy tu đức hoặc duy kỹ năng, hoặc duy tri thức hoặc duy hiệu quả, mà không quan tâm đến con người. Chúng ta không làm rõ mối tương quan giữa ân sủng và tự nhiên trong quá trình huấn luyện. Nếu không chúng ta có nguy cơ khi thì quá đề cao ân sủng, khi thì lại quá đề cao tự nhiên. Vậy đâu là kiểu mẫu phù hợp với bối cảnh hiện nay mà chúng ta cần phải giới thiệu với thụ huấn sinh trong việc huấn luyện họ tới đời sống linh mục và thánh hiến? Bài viết này giới thiệu những kiểu mẫu đã và đang được áp dụng trong việc huấn luyện.

1 - Mẫu người hoàn hảo

Từ trước Công Đồng Vatican II, kiểu mẫu người hoàn hảo được giới thiệu và đề nghị để huấn luyện các thụ huấn tới đời sống tu trì.

Theo kiểu mẫu này, người ta đặt ra khuôn mẫu của một người hoàn hảo, không có tì vết như là lý tưởng của việc huấn luyện. Để trở thành con người hoàn hảo, ta sẽ loại trừ trong ta tất cả những gì làm cản trở hoặc không giúp ta đạt tới mục đích cuối cùng. Vì thế, đời sống tu trì được quan niệm là “con đường hoàn hảo”. Mỗi ngày người ta phải cố gắng chùi cho hết những lớp bụi “trần tục và nhân loại” để trở nên như tấm kính hoàn toàn trong suốt. Đó là con đường không có chỗ cho sự bất toàn, yếu đuối và những khuyết điểm. Người hoàn hảo là người hoàn toàn thanh sạch. Theo mẫu này, con người nhận ra yếu đuối của mình sẽ nói một cách chắc chắn rằng: “Anh phải bỏ hết tất cả những gì không trực tiếp xác định mục tiêu cuối cùng”. Theo cách thức đó, đây là hệ quả: tất cả những gì thuộc đời sống tình cảm, những xung năng, cả đời sống giới tính... đều phải loại trừ, phải bỏ hết, không còn gì nữa. Con người bị thuyết phục không có vấn đề gì trong những lĩnh vực này. Họ sống như các “thiên thần” vậy. Việc huấn luyện có nguy cơ đề cao yếu tố “ân sủng” hay duy tu đức, mà ít quan tâm đến yếu tố “tự nhiên” nơi thụ huấn sinh. Những yếu tố tâm sinh lý, tâm lý phát triển, nhân cách, tính tình, tình cảm, tính dục của thụ huấn sinh ít được quan tâm một cách đúng đắn. Vì thế, kẻ muốn trở nên hoàn hảo, phải dồn nén tất cả mọi sức mạnh hay cố gắng dồn nén chúng như thế bằng cách làm nghèo đi đời sống tâm lý, tình cảm và tinh thần của con người. Nếu một người sống trong tình trạng dồn nén những năng lực, nhu cầu tâm lý và tình cảm của mình mà không toàn nhập chúng cho một lý tưởng, thì có ngày chúng sẽ bùng nổ khi có cơ hội. Và sự bùng nổ đó sẽ càng mãnh liệt khi không còn vật cản nữa.

Tuy nhiên, sự hoàn hảo như thế có thể có được khi chúng ta còn sống trên thế gian? Nếu chúng ta đánh mất những sức mạnh sống động của tinh thần, sức mạnh con tim và cả những năng lực thể lý và giới tính thì với cái gì hay làm sao ta có thể yêu mến Chúa? Trong khi đó, Kinh Thánh đòi hỏi những người theo Chúa phải yêu mến Chúa với tất cả và toàn bộ con người của mình: “Người hãy yêu mến Thiên Chúa, hết lòng, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” (Dnl 6,5).

Kinh nghiệm đời sống cho thấy chúng ta không thể loại bỏ các yếu tố “người”, sự bất nhất, yếu kém và những nhu cầu tâm lý trong chúng ta như “nhổ cỏ” ra khỏi ruộng được. Người ta vẫn ví von điều đó khi nói rằng: “Cây nến đã làm phép cũng rực cháy như khi nó chưa làm phép”.

Chúng ta cần phải tái xác định rằng: sự thánh thiện mà Thiên Chúa đặt định cho chúng ta từ vĩnh cửu không nhằm “tước mất tính người” của chúng ta. Đúng hơn, sự thánh thiện ấy muốn thần hóa chúng ta với tất cả những mối tương quan thiêng liêng mà – từng bước một trong sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần – làm cho chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô.

Như thế, kiểu mẫu người hoàn hảo xác định có vấn đề và không phù hợp để áp dụng cho việc huấn luyện cho đời sống dâng hiến.

2 - Mẫu người thể hiện mình và chấp nhận mình

Sau kiểu mẫu hoàn hảo, từ hậu Công Đồng Vatican II, một kiểu mẫu khác ra đời, được gọi là “Anglo-Americain” – Anh Mỹ: kiểu mẫu thể hiện mình kết chặt với tâm lý nhân văn, là một phong trào rất hấp dẫn trong khoa tâm lý. Nhưng kiểu mẫu này được giải thích và áp dụng một cách một chiều. Theo đó, điều quan trọng là thể hiện cái tôi, là thể hiện mình, trong khả năng, năng khiếu, và những gì mà người ta có cả trên bình diện thiêng liêng. Chính chúng ta đóng vai trò chính trong việc xây dựng nên tòa nhà đời sống của mình. Chúng ta xây dựng đền thờ chúng ta, bằng sức mạnh cánh tay của chính mình. Việc dấn thân theo Chúa được hiểu như là những cố gắng vượt bậc để vượt qua những khó khăn và thử thách, nhờ tài cán và sức mạnh của bản thân. Ơn gọi là gì nếu không phải là nhờ những cố gắng thể hiện mình. Chức linh mục là phần thưởng của một quá trình thể hiện tài năng của mình. Vì thế, có nguy cơ con người chỉ dựa trên sức mạnh tự nhiên của mình mà lãng quên yếu tố ân sủng của Thiên Chúa.

Kiểu mẫu tự thể hiện mình rất phổ biến và trở thành nguy hiểm. Bởi vì, nó nhắm đến chính sự hoàn thiện mình, sự hoàn hảo, sự thánh thiện một cách sai lầm. Phương pháp này không hiệu quả và bị công kích nhiều, có lẽ bởi vì thời đại chúng ta không phải là thời đại các anh hùng. Chúng ta ta thấy quanh chúng ta nhiều cách cư xử bạc nhược.

Bên cạnh mẫu người thể hiện mình, có một kiểu mẫu mới xuất hiện. Đó là kiểu mẫu chấp nhận mình. Theo đó, ta có thể nói rằng: “Đừng lo lắng vì đã khám phá ra những vấn đề trong bạn. Tất cả chúng ta đều có vấn đề. Chúa yêu thương bạn như bạn là, hãy an tâm”. “Lạy Chúa, xin chấp nhận con như con là”! và như thế mọi căng thẳng được loại trừ, ý nghĩa của thảm cảnh cuộc sống tan biến, và con người chỉ ước muốn tự chấp nhận mình. Đủ cho giai đoạn đầu, nhưng sau đó phải đi xa hơn. Chấp nhận mình là điều quan trọng, nhưng không phải mục tiêu cuối cùng. Trong cái nhìn tâm lý, điều quan trọng là chấp nhận để có thể đi xa hơn sau này. Trong lúc đó, trong kiểu mẫu này, sự chấp nhận mình là mục tiêu cuối cùng.

Mẫu này hiện nay cũng rất phổ biến và một số hình thức văn hóa có thiện cảm với nó. Điều thú vị là mỗi người chúng ta nhìn chung quanh mình để thấy ba mẫu này hiện diện như thế nào: Ẩn bên trong mẫu hoàn hảo, mẫu thể hiện mình và mẫu chấp nhận mình, cái tôi là điểm trung tâm của ba mẫu này. Đó là những hình thức của hiện tượng “narcisse” khi bước theo Chúa nhưng lại có ước muốn sai lầm là tự mình làm tất cả.

3 - Mẫu hội nhập hay toàn nhập

Kiểu mẫu này là kết quả của kinh nghiệm đồng hành thiêng liêng, kết hợp với sự đóng góp của khoa tâm lý và dưới sự soi sáng của Lời Chúa.

Toàn nhập (integration) là gì? Đây là một khái niệm chìa khóa của việc huấn luyện. Toàn nhập là kết hợp các yếu tố trong con người cách hài hòa để đạt sự phát triển tốt nhất, làm cho con người trở thành một toàn thể. Chúng ta cần phải hội nhập các chiều kích thể lý, tinh thần và tình cảm một cách hài hòa, không thiên lệch cũng không loại trừ và có một điểm quy chiếu rõ ràng để làm cho toàn thể đời sống có trật tự và ý nghĩa.

Việc huấn luyện phải quan tâm đến toàn bộ các cấp bậc của con người xét con người như là một toàn thể và duy nhất. Nhờ đó, thụ huấn sinh có thể phát triển toàn vẹn các phương diện thể lý, tâm lý, tình cảm và trí tuệ của mình và có thể hòa nhập và phát triển tối đa khả năng và năng lực của mình cho lý tưởng mà mình theo đuổi. Hay nói theo một thuật ngữ với đầy đủ ý nghĩa: thụ huấn sinh sẵn sàng quy hướng mọi năng lực về mục tiêu mà chúng ta đặt làm trung tâm.

Theo kiểu mẫu này, từ nguồn gốc, mẫu này liên kết với nhu cầu căn bản của hữu thể con người, có một điểm làm chuẩn, một trung tâm có ý nghĩa cho cuộc sống, nó làm cho con người khám phá liên tục ý nghĩa cuộc sống, cho phép nó thể hiện vai trò của mình cho đến cả chiều sâu của hữu thể của nó và hấp thụ tất cả sức mạnh có trong mình.

Không chỉ là phương diện thiêng liêng mà thôi, mà bao gồm trọn vẹn cả phương diện nhân bản, nghĩa là không buộc tôi phải cắt cụt những phần nhân bản mình, nhưng ngược lại mời gọi tôi phải hội nhập chúng vào đời sống của tôi để sống một cách viên mãn và tràn đầy. Tôi cần một trung tâm hăng say giúp tôi sống tràn đầy những tình cảm của tôi, giới tính của tôi, và cả phần tiêu cực, yếu đuối, sự bất nhất, sự dễ tổn thương của tôi và cả quá khứ và ký ức của tôi. Tôi cần một trung tâm cho tôi một ý nghĩa qua những gì yếu đuối trong tôi, cho yếu tố mỏng giòn không chời đợi tôi đi đến gạt bỏ hoàn toàn những yếu đuối của tôi, nhưng trái lại giúp tôi sống những yếu tố ấy cách tích cực. Tắt một lời: chúng ta tập họp toàn thể con người chung quanh một trung tâm đời sống là Chúa Kitô.

Khác với mẫu của sự hoàn hảo, là mẫu loại bỏ tất cả những gì không trực tiếp liên hệ tới mục tiêu cuối cùng. Trái lại, mẫu sát nhập nhắm tới hoạt động chịu trách nhiệm và bao gồm mọi khía cạnh của con người, bằng cách cố gắng tập trung chung quanh một trung tâm. Sát nhập là một hiện tượng phức tạp, bao gồm nhiều bước: làm trọn, lôi kéo, làm cho hoàn hảo, làm thành một sự thống nhất chung quanh một trung tâm, tập trung sửa chữa, nhưng cũng soi sáng, làm cho sống động, làm ấm lên, nâng đỡ, chăm sóc các vết thương.

Sát nhập là khả năng tập trung tất cả cuộc sống của tôi, quá khứ của tôi, những tội lỗi của tôi, những yếu đuối, sự dễ tổn thương, những hiểu lầm căn bản, những lo lắng và sự kháng cự nội tâm, giới tính của tôi, những thúc đẩy của tôi, những mộng ước, những tương quan chung quanh trung tâm sống động là Chúa Kitô... tất cả tập trung vào điều chính yếu là Chúa Kitô! Không có gì là ở ngoài Ngài. Phải tập trung tất cả chung quanh trung tâm là thập giá Đức Kitô. Chỉ có thánh giá Đức Kitô mới có thể cho tất cả một ý nghĩa mới, cả yếu đuối, tội lỗi và quá khứ cuộc đời chúng ta.

Nếu sự thật chúng ta muốn nên thánh thì trước hết chúng ta phải chấp nhận sự yếu đuối của chúng ta. Không ai là hoàn hảo. Chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng hoàn hảo (x. Mc 10,18) và Ngài có thể ở trong những ai không coi mình là hoàn hảo!

Như vậy, kiểu mẫu hòa nhập là kiểu mẫu đích thực và phù hợp cho việc huấn luyện ơn gọi tu trì trong bối cảnh hiện nay. Kiểu mẫu này cần phải được nghiên cứu và phổ biến trong các Chủng Viện và Dòng Tu.

Tài liệu tham khảo:
1. Cencini A., (Lm. Nguyễn Ngọc Kính, ofm chuyển ngữ), Tâm Tình Chúa Con, Nxb Tôn Giáo, 2012.
2. Cencini A., Giáo Dục, Đào Tạo và Đồng Hành, Nxb Đông Phương 2012.
3. Cencini A. và Manenti A., (Lm. Nguyễn Ngọc Kính, ofm chuyển ngữ), Tâm lý và huấn luyện cơ cấu và năng động, Nxb Phương Đông, HCM 2011.
 
Giáo xứ Tam Tòa: Thánh lễ cầu bình an năm mới Giáp Ngọ 2014
BTT GPVO
11:04 10/02/2014
GP VINH - Đã thành thông lệ, vào ngày mồng 7 Tết hằng năm, giáo xứ Tam Tòa tổ chức thánh lễ cầu bình an năm mới, cách riêng cho hơn 800 giáo dân trong giáo xứ, cho toàn giáo phận, và cầu cho quốc thái dân an, cho sự thịnh vượng chung của quê hương đất nước.

Hình ảnh

Tam Tòa là một địa danh đã đi vào lịch sử với những buồn vui lẫn lộn trong cảnh thăng trầm của thời cuộc. Tọa lạc bên dòng Nhật Lệ, ngôi thánh đường giáo xứ Tam Tòa xưa in bóng xuống dòng sông hiền hòa, nay chỉ còn cái tháp đổ nát. Chính quyền tỉnh Quảng Bình đã lấy đó làm "chứng tích tội ác chiến tranh... nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu, giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ". "Khép lại quá khứ đau thương và trút bỏ hết những hận thù xuống dòng Nhật Lệ để nó cuốn trôi ra biển khơi, trả lại cảnh an bình, vui tươi cho giáo dân giáo xứ Tam Tòa" là thông điệp của Đức Cha Phaolô trong thánh lễ cầu bình an sáng ngày mồng 7 Tết Giáp Ngọ 2014 tại giáo xứ Tam Tòa.

Sự bình an đích thực chỉ có được khi chúng ta biết "ký thác đường đời cho Chúa". "Anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy" (Mt 6, 34), đó không phải là một sự cổ vũ cho lối sống phó mặc buông xuôi và mình không có trách nhiệm gì trong đó. Nhưng trên hết là sự tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa quan phòng. Mọi toan tính của con người, mọi lo lắng của kiếp người cũng không kéo dài thêm cuộc đời chúng ta trong an bình, hạnh phúc. Ai công hầu, ai khanh tướng... thử hỏi có ai mang được những danh, lợi xuống mồ mà khi còn sống đã mệt nhọc tích cóp. Chúng ta không triết lý về cuộc đời ảo mộng, dối trá, phù du và tuyệt vọng như người phụ nữ trong Cung oán ngâm khúc: Trăm năm còn có gì đâu/Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì. Nhưng thực tế đã cho chúng ta một cái nhìn hiện thực hơn về cuộc đời trăm năm trong cõi: hãy đặt sự phù du giả tạm và chóng qua của đời người trong sự vĩnh hằng bất biến của Thiên Chúa Tình Yêu, bạn sẽ có được hạnh phúc đích thực.

Hy vọng năm Giáp Ngọ 2014 là một năm đánh dấu sự đổi thay lớn trong giáo xứ Tam Tòa để không còn cái cảnh "đôi bờ ngăn cách" mỗi khi tham dự thánh lễ như hôm nay.
 
Đức quốc: Hội người Việt Monchengladbach mừng xuân Giáp Ngọ
Thanh Sơn (Đức Quốc)
16:13 10/02/2014
Tết đến mai vàng nở khắp ngõ

Xuân về đào thắm rộ muôn phương.

Ngày hội tết của cộng đồng người VTNCS. hôm nay đã nở ra tưng bừng và náo nhiệt tại đây và vùng phụ cận cùng với tiếng pháo múa lân và ly rượu mừng cũng như không thiếu cây mai cành đào đã khai mạc vào lúc 18giờ tại hội trường rộng lớn và khang trang.

Xem Hình

Tất cả những quan khách Đức Việt đứng lên trang nghiêm chào Quốc kỳ tự do và Quốc ca Việt- Đức cũng như phút mặc niệm nhớ đến các tiền nhân đã hy sinh vì chính nghĩa tự do, những anh hùng tử sỹ cho chính nghĩa để bảo vệ quê hương tổ quốc.

Tiếp đến là ba vị niệm hương cung kính bàn thờ tổ quốc anh linh ban cho đất Việt sớm được tự do dân chủ thanh bình. Tiếp theo là ba vị đại diện liên tôn gồm:

- Lm. Nguyễn Chí Thiện dòng phanxicô.

- Mục Sư Huỳnh Văn Công,

- Cư Sỹ Lê công Tắc PGHH.

Tiến lên cầu nguyện và cho đất nước trong năm mới Giáp Ngọ được mau có công bình và bác ái trên quê hương Viêt Nam. Linh mục Nguyễn Chí Thiện đại diện chào mừng qúy quan khách bằng Đức ngữ và Cư Sỹ Lê Công Tắc Việt ngữ.

Ông hội trưởng Nguyễn Văn Rị và cô Kim ngân chào mừng qúy vị quan khách Đức-Việt về đây mừng tết đông đảo, cám ơn qúy hội viện và qúy đồng hương và đặc biệt cám ơn chính phủ Đức đã nhân ái cứu vớt đồng bào Việt Nam trên biển đông và đưa về nước Đức này hơn 11.300 (mười một ngàn ba trăm) người được con tàu Cap-anamur mà người đứng đầu trực tiếp là ông tiến sỹ Neudeck, rất tiếc hôm nay ông không thể đến tham dự được những đã gởi thơ chúc mừng.

- Ông Phiplip Rösler cựu chủ tịch đảng Tự Do FPD. gởi thơ chúc mừng.

- Bà Hannelore thống đốc tiểu bang NRW. gởi thơ chúc mừng.

- Ông Jäger bộ trưởng nội vụ tiểu bang NRW. gởi thơ chúc mừng.

- Bà bộ trưởng xã hội tiểu bang NRW. gởi thơ chúc mừng.

Những quan khách Đức có mặt hiện diện hôm nay thì có những vị sau đây:

- Ông DR. Günther Krings thứ trưởng bộ nội vụ đảng CDU. Thiên Chúa Giáo

- Ông Clau Schäfer thị trưởng thành phố Mönchengladbach.

- Bà Gülistan Yükel nghị sỹ quốc hội liên bang SPD.

- Ông Hans Willi Körfger nghị sỹ tiểu bang NRW.

- Ông Norbert Post nghị sỹ tiểu bang NRW.

- Lm. quản xứ Johannes van de Vorst

- Lm. quản xứ Schicks

- Thêm khá nhiều quan khách Đức.

- Lm. Nguyễn Chí Thiện

- Mục sư Huỳnh Văn Công

- Cư sỹ Lê Công Tắc PGHH.

- Ông Bs. Trần Văn Tích chủ tịch Cộng đồng người Vtncs. liên bang Đức.

- Ông Trịnh Đỗ Tôn Vinh phó ngoại vụ.

Cùng rất nhiều đại diện các đoàn thể cộng đồng, cũng như những quan khách Đức Việt mà tôi không thể nhớ hết nổi.

Ông Dr. Günther Krings thứ trưởng bộ nội vụ đảng CDU. Thiên Chúa Giáo phát biểu chào mừng cộng đồng VNtncs. đầy ấn tượng và khen ngợi sự yêu qúy tự do dân chủ của cộng đồng Việt Nam ty nạn cs. Tôi biết nhiều người sẽ không trở về VN. khi chưa có tự do thực sự.

Cũng như sự học hành thành tài của các trẻ em Việt Nam. v. v...

- Bà Gülistan Yükel nghị sỹ quốc hội liên bang SPD. cũng khen ngợi sự hội nhập tốt nhất của nhóm người Việt tncs. ở Đức Quốc. Vì bà chuyên lo về vấn đề văn hóa hội nhập nên hiểu khá rõ về vấn đề này. Bà cũng chúc mừng tất cả những người Việt Nam một năm mới gặt hái thành công và may mắn. Còn khá nhiều phát biểu của chính giới Đức nữa nhưng tôi xin được sơ lược một chút để còn qua mục mới.

Bs. Trần Văn Tích cũng tường thuật sơ môt chút về ngày nhân quyền thế giới tại trụ sở liên hiêp quốc Geneve hồm vừa rồi và nêu lên những bước đường đấu tranh cho dân chủ nhân quyền mới. Hội cũng kêu gọi sự đóng góp cho những nạn nhân Philippin của cơn bão Hải Yến và cho quê hương Việt Nam. Vui xuân nhưng không quyên bổn phận.

Sau phân chào mừng là màn hai chú lân bái tổ và nhảy múa cùng những tiếng pháo rộn ràng hân hoan khắp cả. Các em được các chính giới mừng tuổi đầu năm lấy hên bằng những bao qùa may mắn. lúc này tôi thấy các em ở đâu mà qúa đông như vậy! chắc có lẽ những lúc trước chạy chơi ở các phòng kế bên và bên ngoài thì phải.

Phần văn nghệ năm nay cũng vô cùng phong phú với 2 xướng ngôn viên Thu Sương va 2 Thanh Long. Thu Sương thật là đa tài, không những xướng ngôn lưu loát mà còn hát rất hay. Những màn vũ của các em lớp Việt ngữ cũng vô cùng là dễ thương kèm theo những lời chúc tết của một em bé tí tẹo Việt lai, và cuối lời chúc bé không quên nhắc là nhớ mừng tuổi cho các em...thật là dễ thương qúa khi thấy em bé tóc vàng nói sõi tiêng Việt và đại diện các bé để chúc tết đến các ông bà cô chú.

Sự đóng góp của võ đường Vovinam Trần Hưng Đạo Bỉ Quốc cũng rất đẹp mắt và gây ấn tượng thật nhiều với quan khách và mọi người. Có một điều tôi thấy là Việt Võ Đạo nhưng mà đa số võ sinh là người tây theo học thầy Việt, đây cũng là một điểm thú vị và hãnh diện của dòng giống lạc hồng chúng ta. Đúng là:

Đem chuông đi đánh xứ người

Tiếng vang văng vẳng cho đời học theo

Một sự chú ý đặc biệt của tôi và mọi người là ban Văn Vũ Điểm Sáng đến từ Darmstadt, năm chị em trong một gia đình sinh trưởng bên đây nói tiếng Việt rất hay và rõ ràng chững chạc với những màn vũ gây bất ngờ đẹp mắt đầy ấn tượng. Và trình diễn nhạc phẩm Một chút qùa cho quê hương của (Viêt Dzũng) khá hay rồi màn múa cờ của một người anh em trai trong gia đình với bàn nhạc Đáp lời sông núi của (Trúc Hồ) tuyệt vời. Đây phài nói là gia đình văn võ song toàn đúng nghĩa. Vì khi nghe Thu Sương phỏng vấn tôi mới biết các em đều học võ từ nhỏ cả. Bởi thế khi xem các em trình diễn màn vũ có những động tác nhanh nhẹ hơn bình thường. Những câu trả lời của các em mang đâm tình yêu quê hương và đất nước, mang tinh thần tranh đấu cho tự do dân chủ và nhân quyền của con người. (Cám ơn các em nhiều)

Nhộn nhịp nhất chắc phải nhắc tời nhóm Fitness Rush Zumba sở tại Mönchengladbach làm cho gần cả hội trường già trẻ lớn bé đều lắc lư con tàu hơn 20 phút. Đặc biệt là các bạn trẻ và các cháu thiếu nhi.

Cũng không thể không nhắc đến ban nhạc Tình Si đến từ Hòa Lan và bao nhiêu ca sỹ như Thy Hà, Huy Tài, Kiều Oanh, Hạt Sương Khuya, Kim Thy, Thụy Vy. với biết bao nhiêu nhạc phẩm mừng xuân xen kẽ tranh đấu cho công bình và dân chủ tự do v.v...

Một điểm hẹn không thể không nói tới đó là khu hàng ăn. Nơi đây luôn tấp nập và nhộn nhịp tưng bừng đôi lúc bền ngoài này đầy ắp hơn cả bên trong hội trường chính. Thế mới biết khi vui xuân thì tâm hồn ăn uống cũng dâng cao nên những gian hàng ăn uống được chiếu cố tận tình.

Uớc mong những hội người Việt Tncs. chúng ta luôn giữ gìn được những bản sắc dân tộc và những truyền

thống tốt đẹp, để luôn giữ được tiếng tốt và đem lại sự hãnh diện cho cộng đồng Việt Nam chúng ta.

Các chính khách đang được giới thiệu về những hình ảnh đàn áp nhân quyền ở Việt Nam. Và những con thuyền được tàu Đức cứu vớt.

Đây là một ngày hội tết thành công tốt về mặt ngoại giao với chính quyền Đức vì hội hằng năm đã mời được khá nhiều những chính giới Đức đến tham dự để họ thấy tận mắt những gì chúng ta đang làm và có tiếng nói tốt cho cộng đồng chúng ta.

Chương trình Văn nghệ chấm dứt vào khoảng 24 giờ đêm và mọi người còn thu dọn cho đến hôm sau. (Những đóng góp cho qũy bão lụt sẽ được công bố khi tổng kết).

Thanh Sơn

09.02.2014 Tường thuật và ghi hình

https://plus.google.com/u/0/photos/114927148927567597565/albums/5978183501241326561
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Tuyệt thực trong tù để yêu cầu gặp Linh mục
Hà Minh Thảo
11:08 10/02/2014
Chiều ngày 05.02.2014, tại buổi Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR, Universal Periodic Review, tiếng Anh và Examen Périodique Universel, tiếng Pháp) về hoạt động nhân quyền của chính phủ Việt Nam ở trụ sở Liên hiệp quốc, Genève (Thụy sĩ), Trưởng phái đoàn Hoa kỳ đã yêu cầu ‘Việt Nam trả tự do vô điều kiện cho các tù nhân lương tâm, đặc biệt là: Cù Huy Hà Vũ, Lê Quốc Quân, Điếu Cày, và Trần Huỳnh Duy Thức...’ và là người duy nhất đã nêu đích danh bốn tù nhân lương tâm này. Luật sư (Ls) Lê Quốc Quân là một nhân tài đức độ mà Tổ Quốc và Dân Tộc rất cần để có một nước Việt Nam Hòa bình tức xã hội chúng ta hội đủ bốn cột trụ : Sự thật, Công lý, Công bằng và Tự do (xem Thông điệp ‘Hòa Bình Dưới Thế’). Hiện nay, ông đang tuyệt thực từ ngày 02.02.2014 để yêu cầu :

1- Có Kinh Thánh và sách luật để nghiên cứu hầu tự bào chữa vào hôm phúc thẩm sắp tới. Điều kiện giam giữ rất tệ, vì anh bị giam đông người và chưa bao giờ được cho phép dùng sách và bút ;
2. Cần gặp linh mục sau hơn một năm ngồi tù ;
3. Có thể tuyệt thực đến ngày tòa xử ngày 18.02 tới, và sẽ tiếp tục nếu phiên phúc thẩm diễn ra chỉ nhằm hợp thức hóa bản án sai trái ở sơ thẩm.

Luật sư là thành viên Ban Công lý và Hòa bình Giáo phận Vinh, nên đã được chọn để thuyết trình ‘Công lý và Hòa bình trong bối cảnh xã hội Việt Nam’ nhân dịp ra mắt Ban Điều hành Ủy ban Công lý và Hòa bình Hội đồng Giám mục Việt Nam. Trong đó, khi đề cập đến ‘Công lý trong bối cảnh Việt Nam hôm nay’, Luật sư nói : « Hòa bình đích thực là hoa trái của Công lý ». Việt Nam đã trải qua chiến tranh liên miên nên người dân chỉ khát vọng ‘im tiếng súng’ chưa đòi hỏi và quan tâm đến những điều cao siêu hơn như Công lý. Đó là một sự sai lầm và thiếu sót quá lớn.

Do tham gia biểu tình chống Trung quốc xâm lăng, trợ giúp pháp lý cho đồng bào và đồng đạo trong các vụ cướp đất Tòa Khâm sứ hay Giáo xứ Thái Hà, nên bị sự trả thù của bạo quyền, chứ làm gì có tội trốn thuế. Giới truyền thông ngoại quốc, trước đây, đã biết sự gian dối này. Sau khi nghe Báo cáo về nhân quyền của chánh phủ Việt Nam và của các Tổ chức phi chính phủ ngày 05.02.2014, hôm 07.02.2014, Nhóm Công tác (the Working Group) thuộc UPR đã trao cho Phái đoàn Việt Nam 227 Điểm khuyến nghị yêu cầu tuân xét để bảo vệ Nhân Quyền, trong đó có những lĩnh vực quan trọng cần được thực thi là:

- Tôn trọng quyền tự do tư tưởng, tự do báo chí trên Internet và bên ngoài, tự do hội họp ;
- Tôn trọng quyền tự to tín ngưỡng, tôn giáo đặc biệt các sắc dân thiểu số ;
- Hủy bỏ án tử hình hoặc xét lại hình phạt quá nặng này đối với các tội phạm kinh tế và các tội không nghiêm trọng khác ;
- Hủy bỏ hoặc tu chính các Điều 79, 88, 258 mơ hồ và bị lạm dụng nhằm hạn chế tự do của Bộ Luật hình sự.

Nếu chịu bán lương tâm cho cộng sản, ông Quân và gia quyến chắc chắn đã giàu sang… như các ông, bà và cô quốc doanh.

I. SỰ TÀN BẠO CỦA CHẾ ĐỘ.

Sau khi hoàn tất chương trình nghiên cứu của Tổ chức Hỗ trợ Dân chủ tại Hoa kỳ trở về ngày 06.03.2007, ông Quân đã bị bắt giam vì bị cáo buộc ‘oan’ là vi phạm điều 79 Luật hình sự ‘tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân’. Nhờ Hoa kỳ can thiệp, ông được trả tự do ngày 13.07.2007. Ngày 25.01.2008, ông bị hành hung vì can thiệp không cho công an vây đánh giáo dân trong buổi cầu nguyện tập thể với sự tham dự khoảng 100 Linh mục và nhiều ngàn tín hữu tại Toà Khâm sứ ở Hà nội hôm 25.01.2008 để yêu cầu nhà nứơc trả lại đất đai chiếm dụng sai trái cho Giáo Hội. Ngày 04.04.2011, ông bị bắt khi đến theo dõi ‘Phiên tòa công khai’ xét xử ông Cù Huy Hà Vũ và bị giam tại Hỏa Lò, chung với tù hình sự, cho đến ngày 13.04.2011. Tối hôm 19.08.2012, ông Quân bị hai thanh niên dùng gậy sắt cỡ 80 centimètres đánh nhiều lần vào người. Khi ông la lên thì nhiều đồng bào đi ra và họ bỏ chạy. Dĩ nhiên, công an không tìm ra thủ phạm., nếu không chỉ là một vụ ‘dằn mặt’.

Hai lần Ls Quân muốn ứng cử Đại biểu Quốc hội, nhưng bọn quốc doanh Mặt trận Tổ quốc ngăn chận ông mà dành ghế cho bọn ‘cha, sư ham tiền’. Bây giờ, nhiều người (xin nhắc lại : nhiều người chớ không phải tất cả) trong nhóm ‘72 trí thức đề nghị sửa đổi Hiến pháp’ hãy ‘đấm ngực’ khi than trách : không một Đại biểu Quốc hội ‘lắc đầu’ với cái Hiến pháp do đảng đề nghị sửa đổi mà quý vị hăng hái chỉ trích. Thật đáng hổ thẹn !

Ngày 30.10.2012, lối 70 công an các loại xông vào nhà riêng ông Lê Đình Quản, một em trai ông Quân, giám đốc công ty Trách nhiệm Hữu hạn ‘Thông tin tín nhiệm và Xếp hạng Doanh nghiệp’, tại quận Đống đa, Hà nội đọc lệnh và bắt anh đi với cáo buộc trốn thuế, vi phạm điều 161 Luật Hình sự. Sau đó, ngày 05.12.2012, công an Hà nội đã đến Nghệ an bắt và giam chị Nguyễn Thị Oanh, cố vấn ông Quản, em họ ông Quân, đang về quê dưỡng thai và chăm sóc người bố bị đau nặng. Hành động bắt giam người đang mang thai là vi phạm điều 88 khoản 2 Luật Tố tụng hình sự: « Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, ... ».

Sáng ngày 27.12.2012, Luật sư Lê Quốc Quân bị bắt khẩn cấp (?) khi đang trên đường đưa con đi học. Sau đó, một đội công an đưa con anh trở lại gia đình và khám xét nhà, sau khi đọc lệnh khám xét văn phòng và nhà riêng của anh vì liên quan đến tội ‘trốn thuế’ vi phạm điều 161 Luật Hình sự. Mưu đồ nhà nước cộng sản đã rõ khi việc ‘trốn thuế’ đã được điều tra bởi các công an chính trị và, kết quả ngược lại, cho thấy nhà nước còn thiếu nợ ông 172 triệu đồng.

II. PHIÊN XỬ SƠ THẨM.

Ban đầu, phiên tòa sơ thẩm xử Luật sư Quân được định vào ngày 09.07.2013, nhưng đã bị hoãn lại với lý do bà thẩm phán Lê Thị Hợp bị bệnh. Bởi vậy, trước đó, Luật sư đã viết và gởi cho đồng bào: « Để sống đúng Sự thật và Tin Yêu của Đồng bào, tôi nguyện sẽ bảo vệ Lương tâm và Lý tưởng của mình trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt trong phiên tòa ‘công khai’ vào ngày 09.07.2013 ». Sau đó, phiên tòa được định lại vào ngày 02.10.2013 tại Tòa án Nhân dân Hà nội.

Ngay từ lúc 6 giờ 30, khoảng 1000 đồng bào hiệp thông cầu nguyện Công lý tại Giáo xứ Thái Hà cho Ls Lê Quốc Quân trước phiên tòa. Dĩ nhiên, đám côn(g) an ‘ăn bám xã hội’ trong thường phục đứng xung quanh đường Quang Trung, Hai Bà Trưng… hướng đi ra tòa án. Sau đó, tập thể khoảng 700 người ủng hộ Ls Quân, bao gồm hai Linh mục Nguyễn Ngọc Nam Phong và Lưu Ngọc Quỳnh, Dòng Chúa Cứu Thế, cùng một Hòa thượng đã đi bộ từ nhà thờ Thái Hà tới tòa án, tham dự phiên tòa xét xử công khai này, vừa đi vừa hát Kinh Hòa bình. Công an chìm nổi bám theo Đoàn rất đông để quay phim, chụp hình và ‘chờ dịp’ cướp điện thoại, máy quay phim của bà con.

Đoàn đi đến đoạn đường Xã Đàn thì bị công an ngăn cản đường. Đến hầm đường Kim liên, chúng yêu cầu hai Cha quay về. Gần đến tòa án, các ngả đường vào đều bị ngăn chặn, Đoàn người yêu mến Ls Quân đi bộ tới Hồ Gươm và chúng bắt đầu đàn áp, người dân đang nằm lăn ra đường. Lúc đó, gần phía tòa, cảnh sát cơ động và thanh niên cộng sản làm hàng rào ngăn cản đoàn người đi dự phiên tòa xử người vô tội. Các quán ăn xung quanh toà bị buộc đóng cửa.

Từ Đoàn người, một giọng nói rất Nghệ được cất lên ‘Bay mà chống Trung quốc mà cầm chặt tay thế Tau coi mà hay tê’ (tức: công an các anh mà biết nắm chặt tay nhau như thế để chống Trung quốc thì rất tuyệt), ‘Trung quốc hắn đập người dân Việt Nam chết cho la liệt bay đàn ông mà cầm chặt tay rứa thi ngon rồi’ (tức : các anh là đàn ông, nếu biết cầm chặt tay nhau như thế thì tốt biết bao), ‘bay thì được cái tài bắt dân thì tài tê’ (tức : các anh chỉ biết bắt nạt người dân thì tài thôi)… Một bloggeur ‘nội tuyến’ bọn côn(g) an để nghe và thuật lại : « Sau khi quay đoàn người từ nhà thờ đi đến toà án, chúng lấy video ra xem và bảo nhau ‘sao không xử ở đâu xa phố cho vắng dân để đàn áp cho dễ’, tên khác hỏi: ‘sao mấy xếp cứ bắt quay làm gì nhỉ?’ đứa quay phim trả lời: ‘quay về để khi họp còn có tư liệu mà nói chứ’.

Cuối cùng, trước khi bế mạc phiên tòa, Chánh án tuyên đọc bản án ‘rút túi’ để quy kết Ls Quân 30 tháng tù giam, truy thu 600 triệu tiền thuế và phạt 1,2 tỉ đồng tiền Hồ. Luật sư Quân đã phản đối, không chấp nhận bản án này. Do đó, ông đã ký tên chống án.

Trong Giấy báo đề ngày 22.01.2014, Tòa Phúc thẩm nhân dân tối cao Hà nội báo cho Ls Hà Huy Sơn sẽ xử phúc thẩm Ls Quân vào ngày 18.02.2014. Biết tin này, trong bức thư đầu xuân gửi đồng bào, Ls Lê Quốc Quân xác quyết tinh thần: « Tôi sẵn sàng ngồi tù cho đến chết nếu điều đó làm tốt đẹp hơn cho Tổ quốc và Nhân dân Việt Nam anh hùng ».

Tuy vô thần, người cộng sản vẫn rất sợ những Kitô hữu chân thực dù là giáo sĩ hay giáo dân. Do đó, dù luôn tuyên truyền Tự do Tôn giáo, nhưng họ luôn luôn cấm Linh mục vào nhà tù để chăm lo đời sống thiêng liêng của người Công Giáo. Trước đây, Linh mục Chân Tín cũng đã xin vào tù để gặp chị Tạ Phong Tần theo lời chị mời. Họ đã từ chối.

Trước hoàn cảnh khó khăn của Quê hương, chúng tôi đề nghị chúng ta cùng cầu nguyện cho Ls Lê Quốc Quân vì, qua ông, chúng tôi liên tưởng đến Ls Nguyễn Văn Huyền, người đã góp công nhiều cho Giáo Hội Công Giáo và Quê hương Việt Nam.
 
Thú người
Đinh Văn Tiến Hùng
13:38 10/02/2014
THÚ NGƯỜI *

Riêng cảnh báo tà quyền Cộng Sản Việt Nam và bọn côn đồ tay sai

“ Tất cả những gì mang tính chất thú vật đều được chính phủ cổ võ và những gì có tính cách con người đều bị truy bức “ ( Văn hào Maxim Gorki mô tả về Cộng Sản Xô Viết )

*Thuyết Tiến Hóa đã chủ trương xác quyết, (1)
Muôn vật phát triển thay dạng đổi hình.
Không tin quyền phép Thượng Đế tạo thành,
Hỏa ngục tội hình, Thiên đàng hưởng phúc,
Là trò bịp bợm, thuốc mê ru ngủ.
Khoa học đỉnh cao trí tuệ loài người,
Chứng minh người là hậu duệ đười ươi,
Biến từ cúi lượm, đứng lên bẻ hái,
Qua hàng triệu năm vươn lên vững chãi.
Lớp sóng phế hưng thay đổi từng kỳ,
Và nhân loại đang tìm kiếm những gì,
Nên các nhà nhân chủng, sinh vật học,
Nghiên cứu, tìm tòi khổ công cực nhọc,
Lặn lội lên rặng Hy-Mã-Lạp-Sơn,
Cố tìm dấu chân khổng lồ dã nhân,
Mò mẫn hang động âm u kỳ bí,
Đào cho được những bộ xương hiếm quí,
Để chứng minh thuyết Tiến hóa con người.

*Xin các ngài đừng lặn lội xa xôi,
Thưa quí vị đừng khổ công cho mệt,
Đây đất Việt không phải tin thất thiệt:
Bọn dã nhân hang Pác-Bó chui ra,
Chúng không biết nói, chỉ biết gầm la, (2)
Say mùi máu cuồng điên hơn ác thú,
Không gia đình, không tôn giáo, Tổ quốc,
Chỉ cúi đầu tuân lệnh thú ngoại bang,
Bán biển đảo, dâng rừng núi bạt ngàn,
Dùng thanh niên thay hàng xuất khẩu,
Làm nô lệ và mua vui ô nhục,
Người dân đói nghèo đau khổ lầm than,
Vẫn làm ngơ vẫn bóc lột tham tàn,
Hơn thái thú giặc Tàu thời trung cổ,
Hơn lớp người thời ăn lông ở lỗ,
Vì chính chúng từ hang lỗ chui ra.
Dẫu trăm năm có thay đổi màu da,
Dù cố miệt mài trát son tô phấn,
Dù bắt chước làm sang vẫn dễ thấy,
Vì hiện nguyên hình một lũ Thú Người.

Đinh văn Tiến Hùng

*Ghi chú: (*) Tên tác phẩm nguyên tác tiếng Đức “Herztier”, bản Anh ngữ “The Land of Green Plums” của nữ văn sĩ Đức Herta Muler giải Nobel 2009. Người viết mượn tên được dịch sang tiếng Việt tựa đề “Thú Người”. Trong tác phẩm, tác giả đã vạch trần sự tàn bạo của chế độ Cộng Sản Đông Đức, cũng giống như chế độ CSVN và các nước CS trên thế giới.
(1) Thuyết Tiến Hóa do Charles Darwin chủ trương cho rằng : muôn loài biến hóa thay đổi theo thời gian và con người cũng nằm trọng định luật ấy. Trong cuốn “The Origin of Species : Nguồn gốc muôn loài”, ông cho rằng : loài người có họ hàng với loài vượn. Bọn Cộng Sản ca tụng thuyết Tiến Hóa, nhưng Công Giáo không chấp nhận.
(2) Hang Pác-Bó thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, Cao Bằng, Bắc Việt. Ngày 8/2/1941 khi hầu vương Hồ chí Minh mới về nước đã chọn nơi này làm hang ổ đầu tiên của bọn CSVN và còn lấy tên những ông tổ của chúng đặt cho suối Lê-nin và núi Các-Mác gần đó.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Vịnh Bái Tử Long
Nguyễn Ngọc Liên
22:40 10/02/2014
VỊNH BÁI TỬ LONG
Ảnh của Nguyễn Ngọc Liên
Tiên cảnh hưởng chung ngay hạ giới
Thiên nhiên di sản vịnh nào hơn!
(Trích thơ của Huy Dung)