Phụng Vụ - Mục Vụ
Lời Chúa dẫn về quê trời
Tuyết Mai
14:58 10/02/2011
Chúa Nhật 6 Thường niên A
Vì con người sống quá tội lỗi nên Thiên Chúa mới phải có biện pháp cho là thiết yếu và thật tối cần để làm gương sống động cho con người phải biết noi theo. Đó là những Lời vàng mà Chúa Giêsu bỏ suốt 3 năm trời đi Rao Giảng. Chúa giảng cho mọi người biết Nước Chúa. Chúa giảng cho mọi người biết để xa lánh tội. Chúa mời gọi mọi người hãy trở nên con Chúa, qua bí tích Rửa Tội. Ngài giảng cho mọi người hiểu cách sống thế nào để được Nước Trời. Ngài giảng và Ngài giảng suốt 3 năm liền. Nhưng có phải Ngài đã giảng một cách thật luống công?. Người nghe thì tìm đến nhiều đến đỗi họ kéo đến từng đoàn người một. Họ mải mê nghe Lời Chúa đến độ đã chiều đến rồi mà bụng ai cũng đói meo. Chúa đã làm phép lạ từ 2 con cá và 5 chiếc bánh để nuôi 5000 ngàn người ăn, không kể đàn bà và con nít, rồi còn lại biết bao nhiêu thúng dư đầy với những mảnh bánh vụn. Đông người chịu đi theo Ngài và để lắng nghe Ngài giảng dậy. Họ chứng kiến trước mắt điều Ngài làm, nhưng rồi được bao nhiêu người đã tuyên tín và xin cho được Chúa Rửa Tội? Được bao nhiêu người nghe rồi cảm thấy không thể theo được, vì những Lời Ngài giảng cho là chói tai, khó nghe? Rồi được bao nhiêu người chẳng những không nghe theo mà còn cho là Chúa Giêsu đã giảng thật khùng điên. Ông ấy khùng rồi!. Ai đời Chúa dậy con người ta là hãy từ bỏ tất cả để theo Ngài? Theo Ngài mà nhà thì không có, cũng chẳng có nơi để gối đầu?. Theo Ngài thì phải về mà bán tất cả để theo Ngài và để được Nước Trời? Theo Ngài thì chỉ biết rày đây mai đó sống một cuộc sống du thủ du thực. Khó lắm khó lắm! Quả có rất ít người chọn theo Chúa thời ấy!.
Như Lời của Chúa tuần này chẳng hạn. Quả Chúa nhân từ quá! Làm sao chúng con nhân loại tội lỗi có thể bắt chước Chúa ăn ở hiền lành như Chúa được chứ!. Giận lên chửi mắng người là đồ ngốc, đồ khùng, đồ điên, mà cũng bị Chúa lên án?. Đàn bà thiếu nữ là những đóa hoa thật đẹp thật tươi mát, mà chính họ đã tốn biết bao nhiêu tiền, để được đẹp; để được người ngắm và thích được khen. Bao nhiêu lần tiền cho lipo, cho botox, cho sửa sắc đẹp, và v.v….. cũng bị Chúa lên án cả sao?. Tội giết người thì đáng cho Chúa bỏ họ vào hỏa ngục thật; nhưng hình thức phá thai thì đâu phải là tội???. Tội sao được khi bào thai ấy làm mất gia phong gia đình chúng con?. Tội sao được khi mà chúng con đã giao ước cho hai bên con trẻ được môn đăng hộ đối để xứng đáng kết hợp thành duyên nợ; ai nhân từ đến độ chấp nhận bào thai ấy chứ!?. Dù con chúng con có muốn giữ nhưng làm cha mẹ, chúng con không chấp nhận. Dấu nhẹm còn chưa xong, ai lại đem cả đứa trẻ ấy về nhà nuôi??. Không không Nước Trời thì còn xa quá! Nhưng chúng con phải sống trong hiện tại. Một hiện tại mà có hứa hẹn cho chúng con một cuộc đời tràn ngập hạnh phúc và thật nhiều tiền. Ai trên thế gian này chê Tiền thì hẳn người đó đáng được chửi rủa là thứ điên, thứ khùng, và thứ ngốc. Ngốc không thể tưởng tượng được!. Khùng điên không còn cách chữa!. Còn ai mà chẳng ham tiền Chúa nhỉ!. Có Tiền thì các ông chỉ cần chỉ ngón tay là có ngay; có hết mọi thứ trên trần gian; chỉ trừ Nước Trời mà thôi!. Ngoại tình đối với Chúa thì làm sao có thể?. Nhưng ngoại tình giữa con người trai gái gần nhau như rơm gần lửa lâu ngày thì cũng bén cháy?. Ăn cơm nhà mãi phát chán phải ra ngoài tìm phở mà ăn là vậy!. Đó là chuyện đời thường và có phải là chuyện muôn đời của nhân loại tội lỗi??.
Chúa xuống trần muốn làm một cuộc giải phóng? Giải phóng cho nhân loại khỏi sự chết? Giải phóng để con người tránh xa được hỏa ngục đời đời? Giải phóng để con người được sống trong bình đẳng trong tự do? Giải phóng để con người khỏi giết chết dần con người? Giải phóng để sự nghèo khổ biến mất thế gian? Giải phóng để biến đi khỏi sự kỳ thị của mầu da của khác chủng tộc? Giải phóng để con người biết vươn lên khỏi những gì là trần tục?. Để sự sáng của Thiên Chúa mới được chiếu dãi khắp mọi chỗ mọi nơi trên mặt đất. Để hòa bình và công lý được thể hiện khắp mọi nơi trên toàn cầu. Để người người nắm tay nhau trong yêu thương, chia sẻ, thông cảm, an ủi, và vỗ về. Để con người giầu có sẽ biết quan tâm và chia sớt cho người cùng khổ. Để nước mắt sẽ biến hẳn trên gương mặt khắc khổ, chai đá, và hằn sâu trên từng vết nhăn cực khổ của cuộc đời. Và được thế thì sự giải phóng của Chúa mới có ý nghĩa; mới có chủ đích; và mới thắng được sự dữ của thế gian mang lại. Khi ấy thì từ đông sang tây, tất cả sẽ là anh chị em tiến dần về Ánh Sáng của Đức Tin là Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa của tất cả nhân loại chúng ta, Ngài là Đường và là Sự Thật muôn đời. Amen.
Vì con người sống quá tội lỗi nên Thiên Chúa mới phải có biện pháp cho là thiết yếu và thật tối cần để làm gương sống động cho con người phải biết noi theo. Đó là những Lời vàng mà Chúa Giêsu bỏ suốt 3 năm trời đi Rao Giảng. Chúa giảng cho mọi người biết Nước Chúa. Chúa giảng cho mọi người biết để xa lánh tội. Chúa mời gọi mọi người hãy trở nên con Chúa, qua bí tích Rửa Tội. Ngài giảng cho mọi người hiểu cách sống thế nào để được Nước Trời. Ngài giảng và Ngài giảng suốt 3 năm liền. Nhưng có phải Ngài đã giảng một cách thật luống công?. Người nghe thì tìm đến nhiều đến đỗi họ kéo đến từng đoàn người một. Họ mải mê nghe Lời Chúa đến độ đã chiều đến rồi mà bụng ai cũng đói meo. Chúa đã làm phép lạ từ 2 con cá và 5 chiếc bánh để nuôi 5000 ngàn người ăn, không kể đàn bà và con nít, rồi còn lại biết bao nhiêu thúng dư đầy với những mảnh bánh vụn. Đông người chịu đi theo Ngài và để lắng nghe Ngài giảng dậy. Họ chứng kiến trước mắt điều Ngài làm, nhưng rồi được bao nhiêu người đã tuyên tín và xin cho được Chúa Rửa Tội? Được bao nhiêu người nghe rồi cảm thấy không thể theo được, vì những Lời Ngài giảng cho là chói tai, khó nghe? Rồi được bao nhiêu người chẳng những không nghe theo mà còn cho là Chúa Giêsu đã giảng thật khùng điên. Ông ấy khùng rồi!. Ai đời Chúa dậy con người ta là hãy từ bỏ tất cả để theo Ngài? Theo Ngài mà nhà thì không có, cũng chẳng có nơi để gối đầu?. Theo Ngài thì phải về mà bán tất cả để theo Ngài và để được Nước Trời? Theo Ngài thì chỉ biết rày đây mai đó sống một cuộc sống du thủ du thực. Khó lắm khó lắm! Quả có rất ít người chọn theo Chúa thời ấy!.
Như Lời của Chúa tuần này chẳng hạn. Quả Chúa nhân từ quá! Làm sao chúng con nhân loại tội lỗi có thể bắt chước Chúa ăn ở hiền lành như Chúa được chứ!. Giận lên chửi mắng người là đồ ngốc, đồ khùng, đồ điên, mà cũng bị Chúa lên án?. Đàn bà thiếu nữ là những đóa hoa thật đẹp thật tươi mát, mà chính họ đã tốn biết bao nhiêu tiền, để được đẹp; để được người ngắm và thích được khen. Bao nhiêu lần tiền cho lipo, cho botox, cho sửa sắc đẹp, và v.v….. cũng bị Chúa lên án cả sao?. Tội giết người thì đáng cho Chúa bỏ họ vào hỏa ngục thật; nhưng hình thức phá thai thì đâu phải là tội???. Tội sao được khi bào thai ấy làm mất gia phong gia đình chúng con?. Tội sao được khi mà chúng con đã giao ước cho hai bên con trẻ được môn đăng hộ đối để xứng đáng kết hợp thành duyên nợ; ai nhân từ đến độ chấp nhận bào thai ấy chứ!?. Dù con chúng con có muốn giữ nhưng làm cha mẹ, chúng con không chấp nhận. Dấu nhẹm còn chưa xong, ai lại đem cả đứa trẻ ấy về nhà nuôi??. Không không Nước Trời thì còn xa quá! Nhưng chúng con phải sống trong hiện tại. Một hiện tại mà có hứa hẹn cho chúng con một cuộc đời tràn ngập hạnh phúc và thật nhiều tiền. Ai trên thế gian này chê Tiền thì hẳn người đó đáng được chửi rủa là thứ điên, thứ khùng, và thứ ngốc. Ngốc không thể tưởng tượng được!. Khùng điên không còn cách chữa!. Còn ai mà chẳng ham tiền Chúa nhỉ!. Có Tiền thì các ông chỉ cần chỉ ngón tay là có ngay; có hết mọi thứ trên trần gian; chỉ trừ Nước Trời mà thôi!. Ngoại tình đối với Chúa thì làm sao có thể?. Nhưng ngoại tình giữa con người trai gái gần nhau như rơm gần lửa lâu ngày thì cũng bén cháy?. Ăn cơm nhà mãi phát chán phải ra ngoài tìm phở mà ăn là vậy!. Đó là chuyện đời thường và có phải là chuyện muôn đời của nhân loại tội lỗi??.
Chúa xuống trần muốn làm một cuộc giải phóng? Giải phóng cho nhân loại khỏi sự chết? Giải phóng để con người tránh xa được hỏa ngục đời đời? Giải phóng để con người được sống trong bình đẳng trong tự do? Giải phóng để con người khỏi giết chết dần con người? Giải phóng để sự nghèo khổ biến mất thế gian? Giải phóng để biến đi khỏi sự kỳ thị của mầu da của khác chủng tộc? Giải phóng để con người biết vươn lên khỏi những gì là trần tục?. Để sự sáng của Thiên Chúa mới được chiếu dãi khắp mọi chỗ mọi nơi trên mặt đất. Để hòa bình và công lý được thể hiện khắp mọi nơi trên toàn cầu. Để người người nắm tay nhau trong yêu thương, chia sẻ, thông cảm, an ủi, và vỗ về. Để con người giầu có sẽ biết quan tâm và chia sớt cho người cùng khổ. Để nước mắt sẽ biến hẳn trên gương mặt khắc khổ, chai đá, và hằn sâu trên từng vết nhăn cực khổ của cuộc đời. Và được thế thì sự giải phóng của Chúa mới có ý nghĩa; mới có chủ đích; và mới thắng được sự dữ của thế gian mang lại. Khi ấy thì từ đông sang tây, tất cả sẽ là anh chị em tiến dần về Ánh Sáng của Đức Tin là Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa của tất cả nhân loại chúng ta, Ngài là Đường và là Sự Thật muôn đời. Amen.
Sống theo tinh thần mới
Giuse Đinh Lập Liễm
18:07 10/02/2011
CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN A
+++
A. DẪN NHẬP
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố với đám đông dân chúng: ”Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Maisen hoặc giáo huấn của các tiên tri. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn… Dù một chấm một phết trong sách Luật cũng không bỏ đi được” (Mt 5,17-18). Chỗ khác Ngài lại nói như người có quyền hơn cả Maisen: ”Anh em đã nghe dạy người xưa rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”(Mt 5,21-22). Phải chăng hai lời tuyên bố này có một sự mâu thuẫn ? Và làm thế nào để giải quyết điều xem ra mâu thuẫn đó ?
Thực ra, Đức Giêsu không nhằm phá bỏ luật Maisen và giáo huấn của các tiên tri, Ngài chỉ kiện toàn và làm cho nó mới mẻ hơn thôi ! “Kiện toàn” vì nó đòi hỏi cao hơn, hoàn hảo hơn, nhân bản hơn, đạo đức hơn, nghĩa là nó thấm nhuần tinh thần bác ái, yêu thương. “Mới” vì từ nay tuân giữ luật lệ, không chỉ làm theo hình thức bề ngoài, mà phải tỏ thiện chí bên trong với một ý hướng ngay lành tuyệt đối, một tình mến chân thành.
Theo lời Chúa dạy, từ nay chúng ta phải sống công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, nghĩa là giữ đạo, tuân giữ luật không vì luật mà vì lòng mến Chúa. Chúng ta không giữ luật như người tôi tớ phải làm theo ý chủ, nhưng sống như những người con thảo muốn làm theo ý Cha mình. Đó là bản chất của luật tình thương.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Hc 15, 15-20
Bài đọc 1 trích trong sách Đức Huấn Ca cùa Ben Sira. Đức Huấn Ca là một sưu tập những ý tưởng khôn ngoan của các bậc tiền bối trong thiên hạ cách chung và trong dân Do thái cách riêng.
Theo tác giả, con người được tự do chấp nhận hay khước từ các điều răn của Thiên Chúa, nhưng ai nấy phải chịu trách nhiệm về quyền tự do của mình.
Đứng trước hai con đường, con người có quyền tự do lựa chọn: điều tốt hay điều xấu, sự sống hay sự chết. Chúa để cho con người được tự do là có ý cho nó biết dùng tự do cách ý thức và trưởng thành, nhờ đó mà được ân thưởng hay bị trừng phạt.
+ Bài đọc 2: 1Cr 2,6-10
Trong Hội thánh tại Corintô, có một số người tự phụ kể mình là người khôn ngoan, nhưng thánh Phaolô cho biết sự khôn ngoan đó chỉ là ảo mộng của con người. Chỉ có một sự khôn ngoan đích thực, đó là sự khôn ngoan của Tin Mừng.
Và ngài giải thích về hai sự khôn ngoan đó: khôn ngoan của thế gian chỉ dẫn tới hư vong; còn khôn ngoan của Thiên Chúa, tuy có bị thế gian cho là ngu dại (khôn ngoan Thập giá) nhưng đưa đến vinh quang.
+ Bài Tin Mừng: Mt 5,17-37
Đức Kitô loan báo rằng Ngài đến không phải để bãi bỏ lề luật cũ mà thay vào bằng lề luật mới, nhưng đến để kiện toàn luật cũ bằng cách giảm bớt các trói buộc quá nặng nề và nhất là nhấn mạnh trên các lý do giữ luật dựa trên tình yêu tinh ròng.
Thực ra, luật mới ở đây là luật cũ đã được làm cho nên hoàn hảo. Sự hoàn hảo mà Đức Kitô đòi hỏi nơi các môn đệ làm thay đổi hẳn ý nghĩa của lề luật, dù việc thi hành bên ngoài vẫn như cũ.
Nói khác đi, người ta giữ luật không phải dựa vào hình thức bên ngoài mà giữ luật, mà giữ luật vì lòng yêu mến Chúa. Người ta không vâng lệnh Chúa như kẻ làm công tuân theo ý chủ, nhưng như người con thảo hiền vì yêu quí mà hết lòng làm theo lệnh của cha mình.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Sống theo tinh thần mới
Trước đám đông dân chúng, Đức Giêsu tuyên bố: ”Anh em đừng tưởng rằng Thầy đến để bãi bỏ luật Maisen hoặc giáo huấn của các tiên tri. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn… Một chấm một phết trong sách luật cũng không thể bỏ đi được” (Mt 5,17-18).
Câu tuyên bố này làm cho người ta thắc mắc bởi vì câu nói và việc làm của Ngài xem ra trái nghịch nhau. Phải chăng Đức Giêsu là một người cấp tiến, đến để hủy bỏ hết các sách Luật và các tiên tri để thay thế vào một luật mới; hay Ngài là một người bảo thủ, giữ nguyên vẹn luật cũ, không thay đổi một chút nào, dù rất nhỏ mọn ?
I. LỀ LUẬT TRONG ĐẠO CŨ
1. Các sách Lề Luật cũ
Dân Do thái giữ luật ông Maisen, luật mà Thiên Chúa đã truyền cho dân chúng qua ông Maisen. Các luật ấy được gọi chung là Lề Luật hay Pháp Luật.
Người ta có thể hiểu chữ Lề Luật ấy theo 4 ý nghĩa khác nhau:
a) Họ dùng để chỉ Mười Điều Răn.
b) Chỉ 5 sách đầu của Kinh Thánh: Ngũ Kinh Maisen: 5 cuốn sách đầu của Kinh thánh được người Do thái gọi là Luật Pháp ưu tú, tuyệt hảo và là tầm quan trọng nhất của Thánh kinh.
c) Họ cũng dùng Luật Pháp và lời tiên tri để chỉ cả Kinh Thánh, là phần Cựu Ước của chúng ta đang có.
d) Họ dùng từ ngữ đó để chỉ Luật Pháp truyền khẩu hoặc Luật Pháp của các luật sĩ.
Trong thời Đức Giêsu, nghĩa thứ bốn thông dụng nhất. Cả Đức Giêsu và Phaolô đều lên án Luật Pháp của các thầy luật sĩ.
2. Luật Pháp của các luật sĩ
Trong Cựu Ước chúng ta thấy rất ít luật lệ, chỉ có các nguyên tắc bao quát, mỗi người phải biết và giải thích dưới sự soi dẫn của Thánh Thần để áp dụng cho những hoàn cảnh cá nhân. Chúng ta không thấy luật lệ trong Mười Điều Răn. Vì mỗi điều răn hàm chứa một nguyên tắc lớn, từ đó mỗi người phải tìm ra luật lệ riêng cho đời sống.
Đối với những người Do thái về sau những nguyên tắc lớn này dường như không đủ. Họ xem luật pháp là thiêng liêng trong đó Đức Giêsu phán những lời chung quyết, bởi vậy mọi sự phải gồm tóm trong đó.
Nếu một sự việc không được nói tỏ tường trong Luập Pháp thì cũng phải hàm ngụ ở trong đó. Bởi vậy, họ tranh luận rằng Luật Pháp có thể suy diễn ra luật lệ cho mỗi người trong mỗi hoàn cảnh của cuộc đời. Do đó, nảy sinh ra hạng người gọi là “rabbi”: luật sĩ, suốt đời chuyên suy luận những nguyên tắc lớn lao của Pháp Luật để lập ra hang ngàn, hang vạn luật lệ khác.
Chúng ta hãy đưa ra một ví dụ.:
Luật pháp dạy rằng hãy giữ ngày sabbat để làm nên ngày thánh và trong ngày đó không được làm công việc gì. Đó là nguyên tắc lớn. Những người duy luật Do thái rất say mê định nghĩa, nên họ hỏi rằng: công việc là gì ? Tất cả mọi thứ sự việc đều có thể định nghĩa là công việc. Thí dụ: mang một gánh nặng trong ngày sabbat là làm việc, nhưng kế đó phải định nghĩa gánh nặng. Vậy luật pháp của các thầy luật sĩ qui định rằng: gánh nặng là lượng thức ăn bằng sức nặng của một trái vả khô, rượu đủ để pha một ly, sữa đủ cho một ngụm, dầu đủ để xức cho một chi thể nhỏ, giấy đủ để viết một báo cáo của thương chánh, mực đủ để viết hai chữ trong bảng mẫu tự, sậy đủ để làm cây viết… và cứ như thế không bao giờ hết.
Chúng ta nên lưu ý rằng trải qua nhiều thế hệ, luật lệ của các luật sĩ không được chép ra, nó chỉ là luật truyền khẩu được truyền lại trong ký ức của nhiều thế hệ giới luật sĩ. Đối với người Do thái chính thống trong thời Đức Giêsu thì phục vụ Thiên Chúa chính là giữ tất cả hàng ngàn các luật lệ này, họ coi đó là những vấn đề sống chết với số phận đời đời.
II. ĐỨC GIÊSU KIỆN TOÀN LUẬT CŨ
1. Đức Giêsu không phá bỏ luật cũ
Đốí với luật truyền khẩu tức là luật của các luật sĩ đặt ra, rõ ràng là Đức Giêsu không có ý nói không một điểm nào trong thứ luật này phải qua đi, vì Ngài đã nhiều lần phá bỏ, nhiều lần lên án chúng, và chắc chắn đó không phải là luật pháp chỉ bằng từ ngữ “Luật Pháp” vì chính Ngài và Phaolô đều lên án.
Đức Giêsu đã phán: ”Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn” (Mt 5,17). Ngài kiện toàn bằng cách thực hiện các lời tiên tri đã báo trước (Mt 3,2) và làm cho tinh thần luật của Cựu Ước được hoàn hảo hơn, vì chữ viết thì giết chết, tinh thần mới giải thoát.
Ngài còn nói thêm: ”Một chấm một phết trong Sách Luật cũng không thể bỏ đi được”(Mt 5,15). Trong văn tự luật nói chung và nói riêng tiếng Do thái, thêm bớt một dấu chấm, dấu phết sẽ làm cho ý nghĩa của luật thành khác hẳn. ví dụ:
“Nàng có ba người anh đi bộ
Đội những em nàng…”
Cũng thế, nguyên văn là một chữ, một vạch nhỏ, tức là chữ và dấu nhỏ nhất trong bộ mẫu tự Hy lạp. Do đó cho dù một chi tiết nhỏ nhất trong luật cũng được tôn trọng. Không phải là tôn trọng luật tỉ mỉ do các luật sĩ và biệt phái thêm vào, nhưng là tôn trong luật Maisen sau khi luật này đã được kiện toàn và đã đước Đức Giêsu phá bỏ những gì lỗi thời và được kiện toàn nhờ có động lực tinh thần bác ái (Mt 9,17).
2. Đức Giêsu kiện toàn luật cũ
Trước hết, Đức Giêsu đưa ra nguyên tắc tổng quát là Ngài không đến để phá hủy lời dạy của Maisen và các tiên tri mà là để hoàn tất nó. Nói cách khác, giáo huấn của Đức Giêsu không phá hủy giáo huấn Maisen và các tiên tri giống như tuổi trưởng thành không tiêu diệt thời thơ ấu. Đúng hơn cái này bổ túc cho cái kia.
Sau khi xác định rõ nguyên tắc tổng quát này, Đức Giêsu tiếp tục đưa ra những lời dạy rõ ràng. Chúng ta thử xem một vài ví dụ:
Maisen dạy rằng phạm tội ngoại tình là một điều sai quấy, giờ đây Đức Giêsu nói thêm là chỉ cần nghĩ đến và đồng ý đến tư tưởng ngoại tình là đã sai quấy rồi. Giáo huấn của Đức Giêsu nhìn nhận một sự kiện đơn giản thuộc lãnh vực con người: Tư tưởng ngoại tình là “mầm giống” để “cây non” ngoại tình mọc lên. Chận đứng cái này tức là chận đứng cái kia.
Luật cũ dạy: ”Chớ giết người”, còn Đức Giêsu dạy: ”Ai giận anh em mình” thì như đã phạm tội giết người. Vì thù oán anh em là đã tiêu diệt họ ngay trong lòng mình. Tuy chưa giết họ thực sự, nhưng đã giết chết họ trong trái tim mình rồi. Thánh Gioan viết: ”Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân”(1Ga 3,15).
Luật cũ cho phép thề, nhưng “chớ bội thề”, còn Đức Giêsu bảo: ”Đừng thề chi cả”. Lời nói tự nó phải có giá trị. Vì thế, “hễ có thì phải nói có, hễ không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37).
Như vậy, Đức Giêsu đã kiện toàn luật và làm cho nó trở nên mới mẻ hơn:
- “Kiện toàn” vì nó đòi hỏi cao hơn, hoàn hảo hơn, nhân bản hơn và đạo đức hơn. Nói khác đi, vì nó thấm nhuần tinh thần bác ái, yêu thương.
- “Mới” vì từ nay tuân giữ luật lệ, không chỉ làm theo hình thức bên ngoài, mà phải tỏ thiện chí từ bên trong với một ý hướng ngay lành tuyệt đối, một tình mến chân thành.
Muốn kiện toàn lề luật, muốn con người sống hoàn hảo, phải thanh tẩy nội tâm con người. Cái “tâm chân chính” sẽ hướng dẫn con người sống chân chính. Nguyễn Du, một thi sĩ vào bậc nhất Việt nam, đã thấy rõ điều đó:
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Khổng Tử đã huấn luyện các đồ đệ trở thành người quân tử đã lấy “chính tâm thành ý” làm nền tảng, vì “Tâm quảng, thể bàn”, tâm quảng đại cho thân xác vững mạnh như bàn thạch (Đại học, chương 4).
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn hết mà Thiên Chúa muốn là lề luật, không phải để ngăn cấm, răn đe những tiêu cực, những điều xấu như luật loài người; luật Thiên Chúa chính là thực thi những điều tích cực, nhưng điều tốt, tạo niềm tin vào Thiên Chúa tốt lành vô cùng để dẫn đưa con người trở về với Thiên Chúa. Đó là mục đích kiện toàn giới luật: Đấng ban bố giới luật thiện hảo.
III. THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA
1. Phải sống công chính đích thực
Đức Giêsu phán: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Chúa đòi chúng ta phải ăn ở công chính hơn nữa. Sự công chính mà Đức Giêsu nói đây không phải do tuân giữ một số luật theo hình thức (mà Ngài từng đả kích) như người biệt phái – Nhưng là sống hiệp thông với Thiên Chúa tức là thực thi ý Chúa.
Sự “công chính” là một từ ngữ Kinh Thánh rất phong phú mà Matthêu ưa thích một cách rất đặc biệt. Từ ngữ “công chính” này không chỉ có nghĩa hạn hẹp mà ngôn ngữ hiện đại gán cho nó: sự công bằng xã hội điều hành những tương quan giữa con người với nhau. Sự “công chính” theo nghĩa Kinh Thánh chủ yếu là “theo đúng điều mà Thiên Chúa muốn chúng ta trở thành”.
Một người công chính là một người hoàn toàn đồng ý cộng sinh, liên minh, hòa hợp với Thiên Chúa, Đấng suy nghĩ và thiết lập vũ trụ và điều hành nó với sự thông minh kỳ diệu. Người công chính, bởi “sự tương ứng” của đời sống người ấy với ý muốn của Thiên Chúa, sẽ tham dự vào Thiên Chúa và đi đến hạnh phúc, nghĩa là đến “mục đích vì đó mà người ấy được sinh ra”.
Vả lại, Đức Giêsu đề nghị một sự “công chính mới”, một sự hoàn thiện con người mới. Đức Giêsu nói phải vượt qua sự công chính… vậy sự công chính của ai ? Thưa:
- Các “luật sĩ”, những nhà thần học của thời đại ấy, những nhà chú giải Kinh Thánh, những vị thấy có chức vị, những giáo trưởng dạy đạo một cách chính thức.
- Các người “biệt phái”, những giáo dân dấn thân của thời đại ấy, liên kết với nhau trong một “phong trào” của những người nhiệt thành, cố gắng sống mọi yêu sách của đức tin thuần túy nhất không để thanh danh bị tổn hại (Noel Quesson, Lời Chúa cho mỗi Chúa nhật, năm A, tr 251-252).
Vì thế, từ nay sự “công chính mới” hệ tại không phải ở chỗ khép mình một cách bề ngoài vào các tập tục, nhưng la “khuôn mình” theo thánh ý Cha như Đức Giêsu. Sống trong cộng đoàn với tình yêu và tình yêu của con cái, có thế, mới “công chính”hơn các luật sĩ và biệt phái được.
2. Giữ luật với tình con thảo
Suốt 30 năm sống tại Nazareth, Đức Giêsu đã thi hành Luật pháp như mọi người Do thái. Khi đi rao giang Tin mừng, Ngài không chỉ trích Pháp Luật mà Ngài đang tuân giữ. Nhưng cách giả thích và áp dụng luật của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời ấy khiến Ngài phải đặt vấn đề.
Đối với họ, vấn đề quan trọng là giữ luật theo mặt chữ. Một khi làm trọn luật theo mặt chữ, bạn được đánh giá là người tốt. Nhưng đối với Đức Kitô tinh thần của luật mới là quan trọng. Điếu quan trọng không phải là tuân giữ bao nhiêu điều răn nhưng là chúng ta tuân giữ chúng trong tinh thần nào.
Ngài cũng thấy rằng sự vâng lời thường có nguồn gốc là sự sợ hãi. Ngài muốn vâng lời cắm rễ trong tình yêu. Toàn bộ mối quan hệ của Ngài với Cha trên trời, có nền tảng là tình yêu. Khi bạn yêu một người nào, bạn tránh làmm điều gì tổn hại đến người ấy. Nơi nào có tình yêu nơi ấy không cần luật.
Nhưng điều có ý nghĩa nhất mà Đức Giêsu đã làm là điều này: Ngài đem đến một luật mới chính xác hơn, đó là luật tình yêu. Không mâu thuẫn và phá hủy luật cũ, luật mới vượt xa hơn luật cũ và đưa luật cũ đến chỗ hoàn thiện. Đức Giêsu nói mọi luật của Thiên Chúa có thể giản lược vào hai điều: mến Chúa và yêu người. Quả thật, chỉ có một luật mà thôi, đó là luật của tình yêu (McCarthy).
Truyện: Chiếc nhẫn kỳ diệu
Truyện cổ Đông phương kể rằng: ngày xưa, có vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn kỳ diệu và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quí hiếm và gắn nhiều kim cương long lánh. Nó kỳ diệu ở chỗ: nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó rất vừa văn và chiếu sáng. Nhưng nều người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy xiết rất mạnh, ngón tay rất đau đớn.
Mỗi người chúng ta cũng có một chiếc nhẫn là lề luật của Chúa. Chớ gì khi chúng ta làm điều gì sai quấy, chiếc nhẫn lương tâm chúng ta phải khiển trách, và chúng ta kịp thời biết quay về với Chúa để sống trong tình con thảo.
Qua các bài đọc Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy rút ra được bài học để áp dụng vào đời sống cụ thể. Người luật sĩ và biệt phái thường bị Đức Giêsu quở trách, gọi họ là giả hình, vì họ giữ luật câu nệ vào hình thức bên ngoài, mà lòng họ xa Chúa. Vậy nếu luật sĩ và biệt phái trong Cưu ước đã làm sai lạc ý nghĩa của đạo giáo, bằng cách giữ luật theo hình thức bề ngoài, thì người tín hữu ngày nay cũng có thể tự lừa dối mình bằng cách giữ những điều kiện tối thiểu của đạo giáo.
Sau Công đồng Vatican II, những luật lệ của Giáo hội được đơn giản hóa. Điều đó khiến nhiều người lầm tưởng rằng việc giữ đạo đã trở nên lỏng lẻo. Thực sự những thay đổi sau công đồng Vatican II là nhằm khuyến khích người công giáo tự nguyện sống đạo một cách chân tình, vì lòng yêu Chúa chứ không phải vì những luật lệ ràng buộc.
+++
A. DẪN NHẬP
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố với đám đông dân chúng: ”Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Maisen hoặc giáo huấn của các tiên tri. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn… Dù một chấm một phết trong sách Luật cũng không bỏ đi được” (Mt 5,17-18). Chỗ khác Ngài lại nói như người có quyền hơn cả Maisen: ”Anh em đã nghe dạy người xưa rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”(Mt 5,21-22). Phải chăng hai lời tuyên bố này có một sự mâu thuẫn ? Và làm thế nào để giải quyết điều xem ra mâu thuẫn đó ?
Thực ra, Đức Giêsu không nhằm phá bỏ luật Maisen và giáo huấn của các tiên tri, Ngài chỉ kiện toàn và làm cho nó mới mẻ hơn thôi ! “Kiện toàn” vì nó đòi hỏi cao hơn, hoàn hảo hơn, nhân bản hơn, đạo đức hơn, nghĩa là nó thấm nhuần tinh thần bác ái, yêu thương. “Mới” vì từ nay tuân giữ luật lệ, không chỉ làm theo hình thức bề ngoài, mà phải tỏ thiện chí bên trong với một ý hướng ngay lành tuyệt đối, một tình mến chân thành.
Theo lời Chúa dạy, từ nay chúng ta phải sống công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, nghĩa là giữ đạo, tuân giữ luật không vì luật mà vì lòng mến Chúa. Chúng ta không giữ luật như người tôi tớ phải làm theo ý chủ, nhưng sống như những người con thảo muốn làm theo ý Cha mình. Đó là bản chất của luật tình thương.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Hc 15, 15-20
Bài đọc 1 trích trong sách Đức Huấn Ca cùa Ben Sira. Đức Huấn Ca là một sưu tập những ý tưởng khôn ngoan của các bậc tiền bối trong thiên hạ cách chung và trong dân Do thái cách riêng.
Theo tác giả, con người được tự do chấp nhận hay khước từ các điều răn của Thiên Chúa, nhưng ai nấy phải chịu trách nhiệm về quyền tự do của mình.
Đứng trước hai con đường, con người có quyền tự do lựa chọn: điều tốt hay điều xấu, sự sống hay sự chết. Chúa để cho con người được tự do là có ý cho nó biết dùng tự do cách ý thức và trưởng thành, nhờ đó mà được ân thưởng hay bị trừng phạt.
+ Bài đọc 2: 1Cr 2,6-10
Trong Hội thánh tại Corintô, có một số người tự phụ kể mình là người khôn ngoan, nhưng thánh Phaolô cho biết sự khôn ngoan đó chỉ là ảo mộng của con người. Chỉ có một sự khôn ngoan đích thực, đó là sự khôn ngoan của Tin Mừng.
Và ngài giải thích về hai sự khôn ngoan đó: khôn ngoan của thế gian chỉ dẫn tới hư vong; còn khôn ngoan của Thiên Chúa, tuy có bị thế gian cho là ngu dại (khôn ngoan Thập giá) nhưng đưa đến vinh quang.
+ Bài Tin Mừng: Mt 5,17-37
Đức Kitô loan báo rằng Ngài đến không phải để bãi bỏ lề luật cũ mà thay vào bằng lề luật mới, nhưng đến để kiện toàn luật cũ bằng cách giảm bớt các trói buộc quá nặng nề và nhất là nhấn mạnh trên các lý do giữ luật dựa trên tình yêu tinh ròng.
Thực ra, luật mới ở đây là luật cũ đã được làm cho nên hoàn hảo. Sự hoàn hảo mà Đức Kitô đòi hỏi nơi các môn đệ làm thay đổi hẳn ý nghĩa của lề luật, dù việc thi hành bên ngoài vẫn như cũ.
Nói khác đi, người ta giữ luật không phải dựa vào hình thức bên ngoài mà giữ luật, mà giữ luật vì lòng yêu mến Chúa. Người ta không vâng lệnh Chúa như kẻ làm công tuân theo ý chủ, nhưng như người con thảo hiền vì yêu quí mà hết lòng làm theo lệnh của cha mình.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Sống theo tinh thần mới
Trước đám đông dân chúng, Đức Giêsu tuyên bố: ”Anh em đừng tưởng rằng Thầy đến để bãi bỏ luật Maisen hoặc giáo huấn của các tiên tri. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn… Một chấm một phết trong sách luật cũng không thể bỏ đi được” (Mt 5,17-18).
Câu tuyên bố này làm cho người ta thắc mắc bởi vì câu nói và việc làm của Ngài xem ra trái nghịch nhau. Phải chăng Đức Giêsu là một người cấp tiến, đến để hủy bỏ hết các sách Luật và các tiên tri để thay thế vào một luật mới; hay Ngài là một người bảo thủ, giữ nguyên vẹn luật cũ, không thay đổi một chút nào, dù rất nhỏ mọn ?
I. LỀ LUẬT TRONG ĐẠO CŨ
1. Các sách Lề Luật cũ
Dân Do thái giữ luật ông Maisen, luật mà Thiên Chúa đã truyền cho dân chúng qua ông Maisen. Các luật ấy được gọi chung là Lề Luật hay Pháp Luật.
Người ta có thể hiểu chữ Lề Luật ấy theo 4 ý nghĩa khác nhau:
a) Họ dùng để chỉ Mười Điều Răn.
b) Chỉ 5 sách đầu của Kinh Thánh: Ngũ Kinh Maisen: 5 cuốn sách đầu của Kinh thánh được người Do thái gọi là Luật Pháp ưu tú, tuyệt hảo và là tầm quan trọng nhất của Thánh kinh.
c) Họ cũng dùng Luật Pháp và lời tiên tri để chỉ cả Kinh Thánh, là phần Cựu Ước của chúng ta đang có.
d) Họ dùng từ ngữ đó để chỉ Luật Pháp truyền khẩu hoặc Luật Pháp của các luật sĩ.
Trong thời Đức Giêsu, nghĩa thứ bốn thông dụng nhất. Cả Đức Giêsu và Phaolô đều lên án Luật Pháp của các thầy luật sĩ.
2. Luật Pháp của các luật sĩ
Trong Cựu Ước chúng ta thấy rất ít luật lệ, chỉ có các nguyên tắc bao quát, mỗi người phải biết và giải thích dưới sự soi dẫn của Thánh Thần để áp dụng cho những hoàn cảnh cá nhân. Chúng ta không thấy luật lệ trong Mười Điều Răn. Vì mỗi điều răn hàm chứa một nguyên tắc lớn, từ đó mỗi người phải tìm ra luật lệ riêng cho đời sống.
Đối với những người Do thái về sau những nguyên tắc lớn này dường như không đủ. Họ xem luật pháp là thiêng liêng trong đó Đức Giêsu phán những lời chung quyết, bởi vậy mọi sự phải gồm tóm trong đó.
Nếu một sự việc không được nói tỏ tường trong Luập Pháp thì cũng phải hàm ngụ ở trong đó. Bởi vậy, họ tranh luận rằng Luật Pháp có thể suy diễn ra luật lệ cho mỗi người trong mỗi hoàn cảnh của cuộc đời. Do đó, nảy sinh ra hạng người gọi là “rabbi”: luật sĩ, suốt đời chuyên suy luận những nguyên tắc lớn lao của Pháp Luật để lập ra hang ngàn, hang vạn luật lệ khác.
Chúng ta hãy đưa ra một ví dụ.:
Luật pháp dạy rằng hãy giữ ngày sabbat để làm nên ngày thánh và trong ngày đó không được làm công việc gì. Đó là nguyên tắc lớn. Những người duy luật Do thái rất say mê định nghĩa, nên họ hỏi rằng: công việc là gì ? Tất cả mọi thứ sự việc đều có thể định nghĩa là công việc. Thí dụ: mang một gánh nặng trong ngày sabbat là làm việc, nhưng kế đó phải định nghĩa gánh nặng. Vậy luật pháp của các thầy luật sĩ qui định rằng: gánh nặng là lượng thức ăn bằng sức nặng của một trái vả khô, rượu đủ để pha một ly, sữa đủ cho một ngụm, dầu đủ để xức cho một chi thể nhỏ, giấy đủ để viết một báo cáo của thương chánh, mực đủ để viết hai chữ trong bảng mẫu tự, sậy đủ để làm cây viết… và cứ như thế không bao giờ hết.
Chúng ta nên lưu ý rằng trải qua nhiều thế hệ, luật lệ của các luật sĩ không được chép ra, nó chỉ là luật truyền khẩu được truyền lại trong ký ức của nhiều thế hệ giới luật sĩ. Đối với người Do thái chính thống trong thời Đức Giêsu thì phục vụ Thiên Chúa chính là giữ tất cả hàng ngàn các luật lệ này, họ coi đó là những vấn đề sống chết với số phận đời đời.
II. ĐỨC GIÊSU KIỆN TOÀN LUẬT CŨ
1. Đức Giêsu không phá bỏ luật cũ
Đốí với luật truyền khẩu tức là luật của các luật sĩ đặt ra, rõ ràng là Đức Giêsu không có ý nói không một điểm nào trong thứ luật này phải qua đi, vì Ngài đã nhiều lần phá bỏ, nhiều lần lên án chúng, và chắc chắn đó không phải là luật pháp chỉ bằng từ ngữ “Luật Pháp” vì chính Ngài và Phaolô đều lên án.
Đức Giêsu đã phán: ”Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn” (Mt 5,17). Ngài kiện toàn bằng cách thực hiện các lời tiên tri đã báo trước (Mt 3,2) và làm cho tinh thần luật của Cựu Ước được hoàn hảo hơn, vì chữ viết thì giết chết, tinh thần mới giải thoát.
Ngài còn nói thêm: ”Một chấm một phết trong Sách Luật cũng không thể bỏ đi được”(Mt 5,15). Trong văn tự luật nói chung và nói riêng tiếng Do thái, thêm bớt một dấu chấm, dấu phết sẽ làm cho ý nghĩa của luật thành khác hẳn. ví dụ:
“Nàng có ba người anh đi bộ
Đội những em nàng…”
Cũng thế, nguyên văn là một chữ, một vạch nhỏ, tức là chữ và dấu nhỏ nhất trong bộ mẫu tự Hy lạp. Do đó cho dù một chi tiết nhỏ nhất trong luật cũng được tôn trọng. Không phải là tôn trọng luật tỉ mỉ do các luật sĩ và biệt phái thêm vào, nhưng là tôn trong luật Maisen sau khi luật này đã được kiện toàn và đã đước Đức Giêsu phá bỏ những gì lỗi thời và được kiện toàn nhờ có động lực tinh thần bác ái (Mt 9,17).
2. Đức Giêsu kiện toàn luật cũ
Trước hết, Đức Giêsu đưa ra nguyên tắc tổng quát là Ngài không đến để phá hủy lời dạy của Maisen và các tiên tri mà là để hoàn tất nó. Nói cách khác, giáo huấn của Đức Giêsu không phá hủy giáo huấn Maisen và các tiên tri giống như tuổi trưởng thành không tiêu diệt thời thơ ấu. Đúng hơn cái này bổ túc cho cái kia.
Sau khi xác định rõ nguyên tắc tổng quát này, Đức Giêsu tiếp tục đưa ra những lời dạy rõ ràng. Chúng ta thử xem một vài ví dụ:
Maisen dạy rằng phạm tội ngoại tình là một điều sai quấy, giờ đây Đức Giêsu nói thêm là chỉ cần nghĩ đến và đồng ý đến tư tưởng ngoại tình là đã sai quấy rồi. Giáo huấn của Đức Giêsu nhìn nhận một sự kiện đơn giản thuộc lãnh vực con người: Tư tưởng ngoại tình là “mầm giống” để “cây non” ngoại tình mọc lên. Chận đứng cái này tức là chận đứng cái kia.
Luật cũ dạy: ”Chớ giết người”, còn Đức Giêsu dạy: ”Ai giận anh em mình” thì như đã phạm tội giết người. Vì thù oán anh em là đã tiêu diệt họ ngay trong lòng mình. Tuy chưa giết họ thực sự, nhưng đã giết chết họ trong trái tim mình rồi. Thánh Gioan viết: ”Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân”(1Ga 3,15).
Luật cũ cho phép thề, nhưng “chớ bội thề”, còn Đức Giêsu bảo: ”Đừng thề chi cả”. Lời nói tự nó phải có giá trị. Vì thế, “hễ có thì phải nói có, hễ không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37).
Như vậy, Đức Giêsu đã kiện toàn luật và làm cho nó trở nên mới mẻ hơn:
- “Kiện toàn” vì nó đòi hỏi cao hơn, hoàn hảo hơn, nhân bản hơn và đạo đức hơn. Nói khác đi, vì nó thấm nhuần tinh thần bác ái, yêu thương.
- “Mới” vì từ nay tuân giữ luật lệ, không chỉ làm theo hình thức bên ngoài, mà phải tỏ thiện chí từ bên trong với một ý hướng ngay lành tuyệt đối, một tình mến chân thành.
Muốn kiện toàn lề luật, muốn con người sống hoàn hảo, phải thanh tẩy nội tâm con người. Cái “tâm chân chính” sẽ hướng dẫn con người sống chân chính. Nguyễn Du, một thi sĩ vào bậc nhất Việt nam, đã thấy rõ điều đó:
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Khổng Tử đã huấn luyện các đồ đệ trở thành người quân tử đã lấy “chính tâm thành ý” làm nền tảng, vì “Tâm quảng, thể bàn”, tâm quảng đại cho thân xác vững mạnh như bàn thạch (Đại học, chương 4).
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn hết mà Thiên Chúa muốn là lề luật, không phải để ngăn cấm, răn đe những tiêu cực, những điều xấu như luật loài người; luật Thiên Chúa chính là thực thi những điều tích cực, nhưng điều tốt, tạo niềm tin vào Thiên Chúa tốt lành vô cùng để dẫn đưa con người trở về với Thiên Chúa. Đó là mục đích kiện toàn giới luật: Đấng ban bố giới luật thiện hảo.
III. THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA
1. Phải sống công chính đích thực
Đức Giêsu phán: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Chúa đòi chúng ta phải ăn ở công chính hơn nữa. Sự công chính mà Đức Giêsu nói đây không phải do tuân giữ một số luật theo hình thức (mà Ngài từng đả kích) như người biệt phái – Nhưng là sống hiệp thông với Thiên Chúa tức là thực thi ý Chúa.
Sự “công chính” là một từ ngữ Kinh Thánh rất phong phú mà Matthêu ưa thích một cách rất đặc biệt. Từ ngữ “công chính” này không chỉ có nghĩa hạn hẹp mà ngôn ngữ hiện đại gán cho nó: sự công bằng xã hội điều hành những tương quan giữa con người với nhau. Sự “công chính” theo nghĩa Kinh Thánh chủ yếu là “theo đúng điều mà Thiên Chúa muốn chúng ta trở thành”.
Một người công chính là một người hoàn toàn đồng ý cộng sinh, liên minh, hòa hợp với Thiên Chúa, Đấng suy nghĩ và thiết lập vũ trụ và điều hành nó với sự thông minh kỳ diệu. Người công chính, bởi “sự tương ứng” của đời sống người ấy với ý muốn của Thiên Chúa, sẽ tham dự vào Thiên Chúa và đi đến hạnh phúc, nghĩa là đến “mục đích vì đó mà người ấy được sinh ra”.
Vả lại, Đức Giêsu đề nghị một sự “công chính mới”, một sự hoàn thiện con người mới. Đức Giêsu nói phải vượt qua sự công chính… vậy sự công chính của ai ? Thưa:
- Các “luật sĩ”, những nhà thần học của thời đại ấy, những nhà chú giải Kinh Thánh, những vị thấy có chức vị, những giáo trưởng dạy đạo một cách chính thức.
- Các người “biệt phái”, những giáo dân dấn thân của thời đại ấy, liên kết với nhau trong một “phong trào” của những người nhiệt thành, cố gắng sống mọi yêu sách của đức tin thuần túy nhất không để thanh danh bị tổn hại (Noel Quesson, Lời Chúa cho mỗi Chúa nhật, năm A, tr 251-252).
Vì thế, từ nay sự “công chính mới” hệ tại không phải ở chỗ khép mình một cách bề ngoài vào các tập tục, nhưng la “khuôn mình” theo thánh ý Cha như Đức Giêsu. Sống trong cộng đoàn với tình yêu và tình yêu của con cái, có thế, mới “công chính”hơn các luật sĩ và biệt phái được.
2. Giữ luật với tình con thảo
Suốt 30 năm sống tại Nazareth, Đức Giêsu đã thi hành Luật pháp như mọi người Do thái. Khi đi rao giang Tin mừng, Ngài không chỉ trích Pháp Luật mà Ngài đang tuân giữ. Nhưng cách giả thích và áp dụng luật của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời ấy khiến Ngài phải đặt vấn đề.
Đối với họ, vấn đề quan trọng là giữ luật theo mặt chữ. Một khi làm trọn luật theo mặt chữ, bạn được đánh giá là người tốt. Nhưng đối với Đức Kitô tinh thần của luật mới là quan trọng. Điếu quan trọng không phải là tuân giữ bao nhiêu điều răn nhưng là chúng ta tuân giữ chúng trong tinh thần nào.
Ngài cũng thấy rằng sự vâng lời thường có nguồn gốc là sự sợ hãi. Ngài muốn vâng lời cắm rễ trong tình yêu. Toàn bộ mối quan hệ của Ngài với Cha trên trời, có nền tảng là tình yêu. Khi bạn yêu một người nào, bạn tránh làmm điều gì tổn hại đến người ấy. Nơi nào có tình yêu nơi ấy không cần luật.
Nhưng điều có ý nghĩa nhất mà Đức Giêsu đã làm là điều này: Ngài đem đến một luật mới chính xác hơn, đó là luật tình yêu. Không mâu thuẫn và phá hủy luật cũ, luật mới vượt xa hơn luật cũ và đưa luật cũ đến chỗ hoàn thiện. Đức Giêsu nói mọi luật của Thiên Chúa có thể giản lược vào hai điều: mến Chúa và yêu người. Quả thật, chỉ có một luật mà thôi, đó là luật của tình yêu (McCarthy).
Truyện: Chiếc nhẫn kỳ diệu
Truyện cổ Đông phương kể rằng: ngày xưa, có vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn kỳ diệu và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quí hiếm và gắn nhiều kim cương long lánh. Nó kỳ diệu ở chỗ: nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó rất vừa văn và chiếu sáng. Nhưng nều người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy xiết rất mạnh, ngón tay rất đau đớn.
Mỗi người chúng ta cũng có một chiếc nhẫn là lề luật của Chúa. Chớ gì khi chúng ta làm điều gì sai quấy, chiếc nhẫn lương tâm chúng ta phải khiển trách, và chúng ta kịp thời biết quay về với Chúa để sống trong tình con thảo.
Qua các bài đọc Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy rút ra được bài học để áp dụng vào đời sống cụ thể. Người luật sĩ và biệt phái thường bị Đức Giêsu quở trách, gọi họ là giả hình, vì họ giữ luật câu nệ vào hình thức bên ngoài, mà lòng họ xa Chúa. Vậy nếu luật sĩ và biệt phái trong Cưu ước đã làm sai lạc ý nghĩa của đạo giáo, bằng cách giữ luật theo hình thức bề ngoài, thì người tín hữu ngày nay cũng có thể tự lừa dối mình bằng cách giữ những điều kiện tối thiểu của đạo giáo.
Sau Công đồng Vatican II, những luật lệ của Giáo hội được đơn giản hóa. Điều đó khiến nhiều người lầm tưởng rằng việc giữ đạo đã trở nên lỏng lẻo. Thực sự những thay đổi sau công đồng Vatican II là nhằm khuyến khích người công giáo tự nguyện sống đạo một cách chân tình, vì lòng yêu Chúa chứ không phải vì những luật lệ ràng buộc.
Hài hòa
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
18:48 10/02/2011
1. Sự Quan sát
Khi đi học hội họa, thầy giáo đòi hỏi các học sinh làm bài tập mỗi ngày. Bài tập đầu tiên là quan sát một vật chung quanh và vẽ lại hình ảnh của vật đó. Một chi tiết rất kỳ thú trong bài học vẽ là không chỉ vẽ sự vật một lần, mà phải thực tập vẽ đúng 100 lần cùng một vật đó qua những khía cạnh khác nhau. Thực hành ban đầu thật khó những dần dà với sự kiên nhẫn, các học sinh đã học được một bài học rất trân qúi. Mọi vật thể mà chúng ta xem thế mà không phải thế. Có muôn vàn cách diễn tả một vật thể qua nhiều góc độ. Góc độ của ánh sáng, góc độ của không gian, góc độ của thời gian và ảnh hưởng của các vật chung quanh.
Cái nhìn của không gian một chiều, hai chiều và ba chiều khác nhau rất nhiều. Nếu chúng ta để tâm quan sát cảnh vật chung quanh, thật lạ lùng của sự khác biệt này. Mỗi một thụ tạo và sự hình thành của một thụ tạo khác nhau nhưng rất hài hòa với nhau. Triêu triệu lá rừng, không có lá nào giống lá nào. Ngàn triệu bông hoa, không có hoa nào giống hoa nào một trăm phần trăm. Đôi khi chúng ta nói, giống nhau như đúc, nhưng đúc cùng khuôn cũng chẳng thể giống nhau hoàn tòan. Nếu có sự giống nhau hoàn toàn chúng ta đâu cần sự lựa chọn khi mua hàng.
Muốn có sự hài hòa trong môi trường cũng như trong cách xử thế, chúng ta phải chấp nhận có sự khác biệt và đối nghịch. Người ta chế tạo máy móc bao giờ cũng có hai bộ phận trọng yếu là phát động và chận đứng, Trong xe hơi cái phát động làm cho tốc lực mạnh nhưng kề bên có cái thắng để kềm chế tốc lực. Nhờ đó tránh được mọi sự hiểm nghèo có thể xảy ra. Hai bộ phận mâu thuẫn ở bên nhau nhưng thực sự là bổ túc cho nhau. Trong xã hội chúng ta đang sống cũng cần có các thứ đối lập như là lưỡng đảng, đa đảng, nhờ đó có sự kiềm chế và phát triển vững vàng. Như vậy dù trong hoàn cảnh nào chúng ta cũng phải chấp nhận đối lập, chứ đừng tìm để tiêu diệt.
2. Sự Khác Biệt
Chúng ta suy về mầu nhiệm của sự sáng tạo. Thiên Chúa sáng tạo mọi sự từ hư vô. Mọi sự vật được sinh ra hoàn toàn mới. Thụ tạo nào cũng có hai giống, giống đực và giống cái, có âm và dương. Lòai người có nam có nữ. Âm dương hòa hợp, trời đất giao hòa. Đây chính là nguồn mầu nhiệm của sự truyền sinh. Truyền sinh là sự lặp đi lặp lại cùng một phương thức nhưng kết quả là một sự sống mới hoàn toàn. Mỗi vật sinh ra dù qua các phương tiện can thiệp của con người và khoa học thế nào đi nữa, nó đều có một sự sống mới khác biệt. Chúng ta quan sát mỗi độ Đông về, mọi cây cối lá rụng trơ trọi. Xuân đến, các cây cối đâm mầm non và hoa lá bắt đầu sinh chồi nẩy lộc. Mỗi một chiếc lá, một bông hoa đều là kỳ công của Thiên Chúa sáng tạo. Chúng là thụ tạo hoàn toàn mới trong không gian và thời gian.
Vạn vật khác biệt nhưng luôn hài hòa với nhau tạo ra một cảnh sống thiên nhiên tuyệt vời. Nhất là vào mùa Thu, khi đi qua những cánh rừng, chúng ta mới cảm nhận được vẻ đẹp hài hòa và sự hùng vĩ của thụ tạo. Hình như Đấng Sáng Tạo vẫn luôn chăm sóc thiên nhiên từ những côn trùng nhỏ bé, những đàn chim bay lượn và những cánh hoa nhỏ cho đượm thêm màu sắc. Có những nơi bốn mùa thay đổi, cho dù chẳng bao giờ có dấu chân của con người đặt tới. Cảnh thể vẫn có đó, vẫn thay đổi mùa này sang mùa khác và vẫn phát triển năm này qua năm kia. Chúng ta tự hỏi công trình sáng tạo đó để ai nhìn ngắm, ai chăm sóc và ai đã làm cho nên hình nên dạng. Phải chăng chính là Thiên Chúa, Đấng đã sáng tạo và tiếp tục công trình của Ngài cho đến tận cùng.
3. Phát Triển
Con người cao qúi hơn mọi loài, vì con người được tạo dựng nên giống hình ảnh Chúa. Nhìn quanh, chúng ta thấy có biết bao loại người khác biệt từ màu da, tiếng nói, văn hóa, niềm tin, tôn giáo, ý thức hệ và có nhiều truyền thống khác nhau. Càng có nhiều khác biệt thì kiến thức của con người càng đa dạng. Chính sự đa dạng làm nên lịch sử văn minh của nhân loại. Kho tàng văn hóa đến từ những khả năng khác biệt. Tuy khác biệt về mọi lãnh vực hiểu biết nhưng con người có thể trao đổi, cảm thông và bổ túc cho nhau nên hoàn hảo. Nhìn xã hội văn minh với những phát minh khoa học vượt bực, đó là kết qủa công khó của biết bao nhiêu đời người. Bao nhiêu chất xám suy tư và phát minh đã góp phần trong việc kiến tạo nền khoa học kỹ thuật tân tiến ngày nay.
Con người khởi đi từ cuộc sống đơn sơ và chất phát. Bắt đầu họ dùng sức lao động bằng tay chân và sức người. Đối diện với những khó khăn, con người đã biết dùng lý trí và khả năng để khắc phục. Từ những phấn đấu cụ thể đến những phát minh tân tiến. Cộng tác với nhau dưới mọi hình thức, con người có được những kỹ thuật cao siêu và vượt bực. Không có loài thụ tạo hữu hình nào vượt trên khả năng của con người. Nếu con người không có những cống hiến chung, không biết cho đi và chia sẻ thì khả năng của con người sẽ bị đóng khung hạn hẹp và không thể phát triển tốt được. Các nhà khoa học, bác học, toán học, hóa học, vật lý học đã góp phần vào sự phát triển kỹ thuật khoa học. Các nhà tư tưởng học, triết học, thần học, tâm lý học, ngôn ngữ học đã góp phần vào sự hướng dẫn đời sống tâm linh của con người. Tinh thần và vật chất không thể tách rời. Các khoa học ngày càng phát triển, con người càng văn minh, các nhu cầu đòi hỏi càng cao và sự tiến bộ càng nhanh.
4. Phán Đoán
Những suy tư và hiểu biết của con người còn rất thiển cận và giới hạn. Có nhiều người suy tư trong cách nhìn hạn hẹp của mình để phán đoán. Nên sự phán đoán thường lệch lạc hoặc thiếu phân tích đúng đắn đã gây ra biết bao hiểu lầm và xung khắc. Trong một vấn đề được trình bày, mỗi người sẽ nhìn ở những khía cạnh khác nhau trong những môi trường khác nhau. Muốn thấu tỏ quan điểm của người khác, chúng ta cần học hiểu thấu đáo vấn đề. Trên bề nổi trình bày, đôi khi còn có những ý ẩn dấu bên trong. Đôi khi chúng ta bị rơi vào cách lấy bụng ta suy bụng người hoặc là bị thiên kiến. Chân lý thật bao la, mỗi người được chia sẻ một phần nào của chân, thiện, mỹ. Chúng ta hãy tôn trọng những quan điểm mà đôi khi họ không cùng bên lề với chúng ta.
Truyện kể có cô bé vâng lời bà nội đi quét nhà, quét xong, đến thưa với nội là cháu đã quét sạch. Bà nội liền nói: Có thật là cháu quét sạch không? Để bà xem lại. Thế rồi bà đi vòng quanh xem xét, bà trở lại nói với cháu: Nhà chưa sạch, chỗ nào cũng còn đầy bụi, cháu hãy quét lại cho sạch. Cháu gái vâng lời, lần này cô bé quét kỹ hơn. Sau khi bà xem lại, bà bảo rằng vẫn chưa sạch, chỗ nào cũng còn đầy bụi. Cô bé nhỏ lại vâng lời đi quét lại nữa. Bà nội xem xét xong cũng nói như trước. Cuối cùng cô bé phát giác ra rằng đôi kính đeo mắt của bà nội dính đầy bụi đất. Vì thế mà chỗ nào bà nội cũng thấy đầy bụi cả.Ngạn ngữ Tây Phương nói rằng: Hãy uốn lưỡi bảy lần trước khi nói. Có nghĩa là phải suy nghĩ thật kỹ trước khi phát biểu. Khi phát biểu chúng ta chịu trách nhiệm về những lời của chúng ta. Quân tử nhất ngôn. Lời nói của những người có uy tín, như những vị đại diện chính phủ, đại diện tôn giáo, đại diện cho các nhóm hội, càng phải cẩn thận hơn nữa. Một lời nói có thể ảnh hưởng đến cả một dân tộc hay một tôn giáo. Lời nói có thể xây dựng hòa bình mà cũng có thể gây chiến tranh. Kinh nghiệm cho thấy chỉ vì một câu phát biểu của một vị lãnh đạo, đôi khi bị hiểu lầm nên đã mất bao nhiêu bút mực, bao nhiêu bài viết để giãi bày và biết bao nỗ lực để hòa giải.
Nói tóm lại, nhìn sự hài hòa trong vũ trụ, chúng ta nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo. Con người xã hội cũng cần có sự hài hòa để dựng xây một xã hội tốt đẹp. Khả năng và tài trí là món qùa của Thượng Đế ban chung cho con người. Không ai có thể giữ làm của riêng nhưng phải cùng chia sẻ và đóng góp vào ích lợi chung. Nền văn minh chúng ta đang thừa hưởng chính là những hoa qủa của các tiền nhân để lại. Chúng ta dùng những kỷ thuật hiện có để phát triển thêm trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Ước chi mỗi người chúng ta đều góp phần làm cho xã hội mỗi ngày một tốt đẹp, thăng tiến và hài hòa. Hài hòa đưa dẫn chúng ta đến hòa giải và hòa hợp trong tình yêu.
Khi đi học hội họa, thầy giáo đòi hỏi các học sinh làm bài tập mỗi ngày. Bài tập đầu tiên là quan sát một vật chung quanh và vẽ lại hình ảnh của vật đó. Một chi tiết rất kỳ thú trong bài học vẽ là không chỉ vẽ sự vật một lần, mà phải thực tập vẽ đúng 100 lần cùng một vật đó qua những khía cạnh khác nhau. Thực hành ban đầu thật khó những dần dà với sự kiên nhẫn, các học sinh đã học được một bài học rất trân qúi. Mọi vật thể mà chúng ta xem thế mà không phải thế. Có muôn vàn cách diễn tả một vật thể qua nhiều góc độ. Góc độ của ánh sáng, góc độ của không gian, góc độ của thời gian và ảnh hưởng của các vật chung quanh.
Cái nhìn của không gian một chiều, hai chiều và ba chiều khác nhau rất nhiều. Nếu chúng ta để tâm quan sát cảnh vật chung quanh, thật lạ lùng của sự khác biệt này. Mỗi một thụ tạo và sự hình thành của một thụ tạo khác nhau nhưng rất hài hòa với nhau. Triêu triệu lá rừng, không có lá nào giống lá nào. Ngàn triệu bông hoa, không có hoa nào giống hoa nào một trăm phần trăm. Đôi khi chúng ta nói, giống nhau như đúc, nhưng đúc cùng khuôn cũng chẳng thể giống nhau hoàn tòan. Nếu có sự giống nhau hoàn toàn chúng ta đâu cần sự lựa chọn khi mua hàng.
Muốn có sự hài hòa trong môi trường cũng như trong cách xử thế, chúng ta phải chấp nhận có sự khác biệt và đối nghịch. Người ta chế tạo máy móc bao giờ cũng có hai bộ phận trọng yếu là phát động và chận đứng, Trong xe hơi cái phát động làm cho tốc lực mạnh nhưng kề bên có cái thắng để kềm chế tốc lực. Nhờ đó tránh được mọi sự hiểm nghèo có thể xảy ra. Hai bộ phận mâu thuẫn ở bên nhau nhưng thực sự là bổ túc cho nhau. Trong xã hội chúng ta đang sống cũng cần có các thứ đối lập như là lưỡng đảng, đa đảng, nhờ đó có sự kiềm chế và phát triển vững vàng. Như vậy dù trong hoàn cảnh nào chúng ta cũng phải chấp nhận đối lập, chứ đừng tìm để tiêu diệt.
2. Sự Khác Biệt
Chúng ta suy về mầu nhiệm của sự sáng tạo. Thiên Chúa sáng tạo mọi sự từ hư vô. Mọi sự vật được sinh ra hoàn toàn mới. Thụ tạo nào cũng có hai giống, giống đực và giống cái, có âm và dương. Lòai người có nam có nữ. Âm dương hòa hợp, trời đất giao hòa. Đây chính là nguồn mầu nhiệm của sự truyền sinh. Truyền sinh là sự lặp đi lặp lại cùng một phương thức nhưng kết quả là một sự sống mới hoàn toàn. Mỗi vật sinh ra dù qua các phương tiện can thiệp của con người và khoa học thế nào đi nữa, nó đều có một sự sống mới khác biệt. Chúng ta quan sát mỗi độ Đông về, mọi cây cối lá rụng trơ trọi. Xuân đến, các cây cối đâm mầm non và hoa lá bắt đầu sinh chồi nẩy lộc. Mỗi một chiếc lá, một bông hoa đều là kỳ công của Thiên Chúa sáng tạo. Chúng là thụ tạo hoàn toàn mới trong không gian và thời gian.
Vạn vật khác biệt nhưng luôn hài hòa với nhau tạo ra một cảnh sống thiên nhiên tuyệt vời. Nhất là vào mùa Thu, khi đi qua những cánh rừng, chúng ta mới cảm nhận được vẻ đẹp hài hòa và sự hùng vĩ của thụ tạo. Hình như Đấng Sáng Tạo vẫn luôn chăm sóc thiên nhiên từ những côn trùng nhỏ bé, những đàn chim bay lượn và những cánh hoa nhỏ cho đượm thêm màu sắc. Có những nơi bốn mùa thay đổi, cho dù chẳng bao giờ có dấu chân của con người đặt tới. Cảnh thể vẫn có đó, vẫn thay đổi mùa này sang mùa khác và vẫn phát triển năm này qua năm kia. Chúng ta tự hỏi công trình sáng tạo đó để ai nhìn ngắm, ai chăm sóc và ai đã làm cho nên hình nên dạng. Phải chăng chính là Thiên Chúa, Đấng đã sáng tạo và tiếp tục công trình của Ngài cho đến tận cùng.
3. Phát Triển
Con người cao qúi hơn mọi loài, vì con người được tạo dựng nên giống hình ảnh Chúa. Nhìn quanh, chúng ta thấy có biết bao loại người khác biệt từ màu da, tiếng nói, văn hóa, niềm tin, tôn giáo, ý thức hệ và có nhiều truyền thống khác nhau. Càng có nhiều khác biệt thì kiến thức của con người càng đa dạng. Chính sự đa dạng làm nên lịch sử văn minh của nhân loại. Kho tàng văn hóa đến từ những khả năng khác biệt. Tuy khác biệt về mọi lãnh vực hiểu biết nhưng con người có thể trao đổi, cảm thông và bổ túc cho nhau nên hoàn hảo. Nhìn xã hội văn minh với những phát minh khoa học vượt bực, đó là kết qủa công khó của biết bao nhiêu đời người. Bao nhiêu chất xám suy tư và phát minh đã góp phần trong việc kiến tạo nền khoa học kỹ thuật tân tiến ngày nay.
Con người khởi đi từ cuộc sống đơn sơ và chất phát. Bắt đầu họ dùng sức lao động bằng tay chân và sức người. Đối diện với những khó khăn, con người đã biết dùng lý trí và khả năng để khắc phục. Từ những phấn đấu cụ thể đến những phát minh tân tiến. Cộng tác với nhau dưới mọi hình thức, con người có được những kỹ thuật cao siêu và vượt bực. Không có loài thụ tạo hữu hình nào vượt trên khả năng của con người. Nếu con người không có những cống hiến chung, không biết cho đi và chia sẻ thì khả năng của con người sẽ bị đóng khung hạn hẹp và không thể phát triển tốt được. Các nhà khoa học, bác học, toán học, hóa học, vật lý học đã góp phần vào sự phát triển kỹ thuật khoa học. Các nhà tư tưởng học, triết học, thần học, tâm lý học, ngôn ngữ học đã góp phần vào sự hướng dẫn đời sống tâm linh của con người. Tinh thần và vật chất không thể tách rời. Các khoa học ngày càng phát triển, con người càng văn minh, các nhu cầu đòi hỏi càng cao và sự tiến bộ càng nhanh.
4. Phán Đoán
Những suy tư và hiểu biết của con người còn rất thiển cận và giới hạn. Có nhiều người suy tư trong cách nhìn hạn hẹp của mình để phán đoán. Nên sự phán đoán thường lệch lạc hoặc thiếu phân tích đúng đắn đã gây ra biết bao hiểu lầm và xung khắc. Trong một vấn đề được trình bày, mỗi người sẽ nhìn ở những khía cạnh khác nhau trong những môi trường khác nhau. Muốn thấu tỏ quan điểm của người khác, chúng ta cần học hiểu thấu đáo vấn đề. Trên bề nổi trình bày, đôi khi còn có những ý ẩn dấu bên trong. Đôi khi chúng ta bị rơi vào cách lấy bụng ta suy bụng người hoặc là bị thiên kiến. Chân lý thật bao la, mỗi người được chia sẻ một phần nào của chân, thiện, mỹ. Chúng ta hãy tôn trọng những quan điểm mà đôi khi họ không cùng bên lề với chúng ta.
Truyện kể có cô bé vâng lời bà nội đi quét nhà, quét xong, đến thưa với nội là cháu đã quét sạch. Bà nội liền nói: Có thật là cháu quét sạch không? Để bà xem lại. Thế rồi bà đi vòng quanh xem xét, bà trở lại nói với cháu: Nhà chưa sạch, chỗ nào cũng còn đầy bụi, cháu hãy quét lại cho sạch. Cháu gái vâng lời, lần này cô bé quét kỹ hơn. Sau khi bà xem lại, bà bảo rằng vẫn chưa sạch, chỗ nào cũng còn đầy bụi. Cô bé nhỏ lại vâng lời đi quét lại nữa. Bà nội xem xét xong cũng nói như trước. Cuối cùng cô bé phát giác ra rằng đôi kính đeo mắt của bà nội dính đầy bụi đất. Vì thế mà chỗ nào bà nội cũng thấy đầy bụi cả.Ngạn ngữ Tây Phương nói rằng: Hãy uốn lưỡi bảy lần trước khi nói. Có nghĩa là phải suy nghĩ thật kỹ trước khi phát biểu. Khi phát biểu chúng ta chịu trách nhiệm về những lời của chúng ta. Quân tử nhất ngôn. Lời nói của những người có uy tín, như những vị đại diện chính phủ, đại diện tôn giáo, đại diện cho các nhóm hội, càng phải cẩn thận hơn nữa. Một lời nói có thể ảnh hưởng đến cả một dân tộc hay một tôn giáo. Lời nói có thể xây dựng hòa bình mà cũng có thể gây chiến tranh. Kinh nghiệm cho thấy chỉ vì một câu phát biểu của một vị lãnh đạo, đôi khi bị hiểu lầm nên đã mất bao nhiêu bút mực, bao nhiêu bài viết để giãi bày và biết bao nỗ lực để hòa giải.
Nói tóm lại, nhìn sự hài hòa trong vũ trụ, chúng ta nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo. Con người xã hội cũng cần có sự hài hòa để dựng xây một xã hội tốt đẹp. Khả năng và tài trí là món qùa của Thượng Đế ban chung cho con người. Không ai có thể giữ làm của riêng nhưng phải cùng chia sẻ và đóng góp vào ích lợi chung. Nền văn minh chúng ta đang thừa hưởng chính là những hoa qủa của các tiền nhân để lại. Chúng ta dùng những kỷ thuật hiện có để phát triển thêm trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Ước chi mỗi người chúng ta đều góp phần làm cho xã hội mỗi ngày một tốt đẹp, thăng tiến và hài hòa. Hài hòa đưa dẫn chúng ta đến hòa giải và hòa hợp trong tình yêu.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Giáo phận Rôma thiết lập gia trang dành cho việc phong chân phước cho ĐGH Gioan Phaolô II
Bùi Hữu Thư
10:08 10/02/2011
ROME (CNS) -- Giáo phận Rôma đã dựng lên một gia trang dành cho việc phong chân phước và phong thánh cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Được đăng tải bằng bẩy thứ tiếng, gia trang này có điện chỉ là: www.karol-wojtyla.org -- cung cấp các tin tức cập nhật hóa và các dự kiện về cố Đức Giáo Hoàng và nguyên nhân phong thánh, cũng như hình ảnh từ một máy thu hình webcam được đặt ngay tại mộ của ngài dưới hầm Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô.
Gia Trang này cũng loan báo là nghi lễ phong chân phước tại Quảng Trường Thánh Phêrô ngày 1 tháng 5, Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa sẽ được mở cửa đón nhận tât cả mọi các khán giả và không cần phải có vé vào cửa mới được tham dự.
Gia trang cho biết: Buối tối trước ngày phong chân phước,là đêm ngày 30 tháng Tư, sẽ có một buổi canh thức cầu nguyện tại Trường đua xe ngựa cổ Maximus tại Rôma.
Gia trang cung cấp kinh cầu chính thức được giáo phận Rôma chấp thuận để xin được ơn lành qua sự cầu bầu của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bằng 31 thứ tiếng, kể cả Trung Hoa, Ả Rập, Nga, và Swahili.
Còn cần có một phép lạ nữa sau ngày phong chân phước để ngài có thể được phong thánh. Đây là một tuyên bố của Giáo Hội xác nhận một con người là một vị thánh và xứng đáng được tôn kính trên toàn cầu.
Vào ngày 14 tháng 1, 2011, Đức Thánh Cha Benedict XVI đã chấp nhận một phép lạ đầu tiên được gán cho sự cầu bầu của cố giáo hoàng. Việc này mở đường cho việc phong chân phước.
Việc chấp thuận này xẩy ra sau hơn 5 năm điều tra về cuộc sống của vị giáo hoàng người Ba Lan. Ngài qua đời vào tháng Tư, 2005 sau hơn 26 năm làm giáo hoàng.
Được đăng tải bằng bẩy thứ tiếng, gia trang này có điện chỉ là: www.karol-wojtyla.org -- cung cấp các tin tức cập nhật hóa và các dự kiện về cố Đức Giáo Hoàng và nguyên nhân phong thánh, cũng như hình ảnh từ một máy thu hình webcam được đặt ngay tại mộ của ngài dưới hầm Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô.
Gia Trang này cũng loan báo là nghi lễ phong chân phước tại Quảng Trường Thánh Phêrô ngày 1 tháng 5, Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa sẽ được mở cửa đón nhận tât cả mọi các khán giả và không cần phải có vé vào cửa mới được tham dự.
Gia trang cho biết: Buối tối trước ngày phong chân phước,là đêm ngày 30 tháng Tư, sẽ có một buổi canh thức cầu nguyện tại Trường đua xe ngựa cổ Maximus tại Rôma.
Gia trang cung cấp kinh cầu chính thức được giáo phận Rôma chấp thuận để xin được ơn lành qua sự cầu bầu của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bằng 31 thứ tiếng, kể cả Trung Hoa, Ả Rập, Nga, và Swahili.
Còn cần có một phép lạ nữa sau ngày phong chân phước để ngài có thể được phong thánh. Đây là một tuyên bố của Giáo Hội xác nhận một con người là một vị thánh và xứng đáng được tôn kính trên toàn cầu.
Vào ngày 14 tháng 1, 2011, Đức Thánh Cha Benedict XVI đã chấp nhận một phép lạ đầu tiên được gán cho sự cầu bầu của cố giáo hoàng. Việc này mở đường cho việc phong chân phước.
Việc chấp thuận này xẩy ra sau hơn 5 năm điều tra về cuộc sống của vị giáo hoàng người Ba Lan. Ngài qua đời vào tháng Tư, 2005 sau hơn 26 năm làm giáo hoàng.
Sắp phong chân phước cho ĐGH Gioan Phaolô II: Roma lên cơn sốt.
Nguyễn Long Thao
10:55 10/02/2011
Sắp đến ngày phong chân phước cho ĐGH Gioan Phaolô II: Roma lên cơn sốt.
ROME 10/2/2011- Ký giả Catherine Jouault của thông tấn xã AFP, trích dẫn nguồn tin của đức Hồng Y Jose Saraiva Martins, Tổng Trưởng Thánh Bộ Phong Thánh, cho biết sẽ có vào khoảng 2 triệu rưởi người sẽ đến Roma để dự lễ phong chân phước cho đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được tổ chức vào ngày 1 tháng 5 năm 2011.
Lễ phong chân phước được dự trù sẽ tổ chức tại quảng trường thánh Phêrô là nơi cách đây 6 năm đã diễn ra tang lễ cho đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Ông Giuseppe Roscioli, người đứng đầu của tổ chức Federalberghi, đại diện cho khoảng 500 khách sạn ở Roma cho biết các chủ khách sạn và giới chức thành phố đang chật vật tìm kiếm giải pháp đáp ứng nhu cầu ăn ở cho khoảng trên hai triệu khách hành hương đến Roma tham dự lễ phong chân phước
Theo ông Roscioli, tổ chức lễ phong chân phước vào ngày 1 tháng 5 làm vấn đề đáp ứng nhu cầu du khách trở nên khó khăn hơn vì thời điểm đó là ngày lễ Lao Động, cũng là thời điểm du khách thế giới đến Ý du lịch.
Giới chức nói trên cũng cho biết theo luật, giá cả khách sạn không được tăng đột ngột. Tuy nhiên từ khi Tòa Thánh ấn định ngày phong chân phước thì giá thuê khách sạn đã tăng vụt. Khách sạn loại 2 sao giá 447 Mỹ Kim một đêm, khách sạnh 4 sao giá 2386 Mỹ kim một đêm.
Các văn phòng du lịch tại Rome cho biết khách hành hương từ Phi Châu, Brazil và nhất là Ba Lan – quê hương của ĐGH Gioan Phaolô II – đã đăng ký rất đông đảo đến Roma vào dịp này để tham dự lễ phong chân phước.
Tưởng cũng nên nhắc lại vào dịp lễ an táng đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, cũng có hơn 2 triệu người đã đến Roma.
Số người đông đảo đến Roma để dự tang lễ và phong chân phước cho đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chứng tỏ Ngài là nhân vật lịch sử vĩ đại được mọi người ngưỡng mộ.
ROME 10/2/2011- Ký giả Catherine Jouault của thông tấn xã AFP, trích dẫn nguồn tin của đức Hồng Y Jose Saraiva Martins, Tổng Trưởng Thánh Bộ Phong Thánh, cho biết sẽ có vào khoảng 2 triệu rưởi người sẽ đến Roma để dự lễ phong chân phước cho đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được tổ chức vào ngày 1 tháng 5 năm 2011.
Lễ phong chân phước được dự trù sẽ tổ chức tại quảng trường thánh Phêrô là nơi cách đây 6 năm đã diễn ra tang lễ cho đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Ông Giuseppe Roscioli, người đứng đầu của tổ chức Federalberghi, đại diện cho khoảng 500 khách sạn ở Roma cho biết các chủ khách sạn và giới chức thành phố đang chật vật tìm kiếm giải pháp đáp ứng nhu cầu ăn ở cho khoảng trên hai triệu khách hành hương đến Roma tham dự lễ phong chân phước
Theo ông Roscioli, tổ chức lễ phong chân phước vào ngày 1 tháng 5 làm vấn đề đáp ứng nhu cầu du khách trở nên khó khăn hơn vì thời điểm đó là ngày lễ Lao Động, cũng là thời điểm du khách thế giới đến Ý du lịch.
Giới chức nói trên cũng cho biết theo luật, giá cả khách sạn không được tăng đột ngột. Tuy nhiên từ khi Tòa Thánh ấn định ngày phong chân phước thì giá thuê khách sạn đã tăng vụt. Khách sạn loại 2 sao giá 447 Mỹ Kim một đêm, khách sạnh 4 sao giá 2386 Mỹ kim một đêm.
Các văn phòng du lịch tại Rome cho biết khách hành hương từ Phi Châu, Brazil và nhất là Ba Lan – quê hương của ĐGH Gioan Phaolô II – đã đăng ký rất đông đảo đến Roma vào dịp này để tham dự lễ phong chân phước.
Tưởng cũng nên nhắc lại vào dịp lễ an táng đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, cũng có hơn 2 triệu người đã đến Roma.
Số người đông đảo đến Roma để dự tang lễ và phong chân phước cho đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chứng tỏ Ngài là nhân vật lịch sử vĩ đại được mọi người ngưỡng mộ.
Đức tin được dưỡng nuôi bằng lời cầu nguyện và một cuộc sống luân lý trung thực
Linh Tiến Khải
18:27 10/02/2011
Đức tin được dưỡng nuôi bằng lời cầu nguyện và một cuộc sống luân lý trung thực. Sứ vụ tông đồ chỉ định đoạt và đem lại hoa trái cứu độ nơi các con tim, nếu người rao giảng là chứng nhân của Chúa Giêsu, biết để cho Chúa sử dụng và kết hiệp mật thiết với Chúa bởi niềm tin nơi Tin Mừng và nơi Giáo Hội Người.
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên với hơn 7.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung hàng tuần tại đại thính đường Phaolo VI sáng thứ tư 9-2-2011. Trong số các nhóm tham dự cũng có 40 nữ tu dòng Đức Bà đang nhóm họp tại Roma, trong đó có 5 đại biểu của Tỉnh Dòng Việt Nam.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giới thiệu gương mặt thánh Petrus Canisius, người Hòa Lan, dòng Tên, sống hồi thế kỷ XVI. Đức Thánh Cha phác họa vài nét tiểu sử của thánh nhân như sau:
Thánh nhân sinh ngày mùng 8 tháng 5 năm 1521 tại Nimega bên Hòa Lan. Thân phụ là thị trưởng thánh phố. Khi theo học tại đại học Koeln bên Đức Canisius lui tới với các đan sĩ Xitô Santa Barbara, một trung tâm tràn đầy sức sống công giáo và các người đạo đức vun trồng nền tu đức tân tiến. Ngày mùng 8 tháng 5 năm 1543 anh gia nhập dòng Tên tại Mainz, sau khi tham dự một cuộc tĩnh tâm do chân phước Pierre Favre, một trong các bạn đầu tiên theo thánh Iganzio thành Loyola, giảng thuyết. Thụ phong Linh Mục năm 1546 tại Koeln, năm sau cha Canisius trở thành thần học gia của Đức Hồng Y Otto Truchsess thành Walburg, Giám Mục giáo phận Augusta, rồi hiện diện trong Công Đồng Chung Trento và cộng tác với hai tu sĩ cùng dòng là Diego Lainez và Alfonso Salmerón.
Năm 1548 thánh Ignazio gửi cha Canisius về Roma để bổ túc việc đào tạo tinh thần rồi về trường Messina làm các công việc phục vụ khiêm tốn trong nhà. Sau khi đậu bằng tiến sĩ năm 1549 thánh Ignazio gửi cha sang Đức làm việc tông đồ. Ngày mùng 2 tháng 9 năm đó cha Canisius viếng thăm Đức Giáo Hoàng Paolo III tại Castel Gandolfo, rồi đến cầu nguyện tại đền thờ thánh Phêrô, xin hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô trợ lực người trong sứ mệnh vừa nhận lãnh.
Chúng ta đang ở trong thời Cải Cách Luther, trong đó đức tin công giáo xem ra tắt lịm trước sức thu hút của phong trào Cải Cách tại các nước nói tiếng Đức. Canh tân và hồi sinh đức tin công giáo tại các nước này xem ra là điều không thể làm được. Chỉ có sức mạnh của lời cầu nguyện, của tình bạn sâu đậm với Chúa Giêsu Kitô trong Thân Mình Người là Giáo Hội, được dưỡng nuôi bằng bí tích Thánh Thể nơi Người thực sự hiện diện, mới giúp thành công mà thôi.
Cha Canisius sang Đức và làm việc trong vùng đất của Quậm Công Bavière. Trước hết như là phân khoa trưởng, rồi viện trương đại học Ingolstadt, người chăm lo cho cuộc sống đại học và cuộc canh cải tôn giáo và luân lý của dân chúng. Tại Vienne, trong một thời gian ngắn, người làm quản lý giáo phận và làm việc mục vụ trong các nhà thương và nhà tù, cũng như trong thành phố và vùng quê, đồng thời chuẩn bị phát hành sách Giáo Lý. Năm 1556 cha thành lập trường Praha và cho tới năm 1569 là bề trên đầu tiên của tỉnh dòng Dức. Cha thành lập cả một mạng liên lạc của dòng trong các nước nói tiếng Đức, đặc biệt giữa các trường của dòng, là các trung tâm của cuộc cải cách và canh tân đức tin công giáo. Vào thời đó thánh nhân cũng tham dự cuộc đối thoại tại Worms với các vị lãnh đạo tin lành trong đó có Filippo Melantone (1557), và làm Sứ Thần Tòa Thánh tại Ba Lan (1558) tham dự vào hai hội nghị tại Augusta (1559 và 1565), tháp tùng Đức Hồng Y Stanislao Hozjusz, đặc sứ của Đức Giáo Hoàng Pio IV gặp hoàng đế Ferdinando (1560), phát biểu trong khóa họp cuối cùng của Công Đồng Chung Trento và trình bầy về vấn đề Rước lễ hai hình và danh sách cấm thư (1562).
Năm 1580 thánh Canisius rút lui về Fribourg bên Thụy Sĩ, dồn toàn lực cho việc rao giảng và sáng tác, rồi qua đời tại đây ngày 21 tháng 12 năm 1597. Người được Đức Giáo Hoáng Pio IX phong chân phước năm 1864; năm 1897 được Đức Giáo Hoàng Lêô XIII tuyên bố là vị Bổn Mạng thứ hai của nước Đức; và năm 1925 được Đức Giáo Hoàng Pio XI phong hiển thánh.
Thánh Canisius đã tiếp xúc với rất nhiều nhân vật quan trọng thời đó và các tác phẩm của người có ảnh hưởng rất lớn. Thánh nhân đã là người xuất bản mọi tác phẩm của thánh Cirillo thành Alessandria và thánh Leo Cả, các thư của thánh Girolamo và các lời cầu của thánh Nicola thành Flue. Người cũng cho xuất bản nhiều sách đạo đức trong các thứ tiếng khác nhau, tiểu sử các thánh Thụy sĩ và nhiều bài giảng. Nhưng các tác phẩm phố biến sâu rộng nhất là 3 cuốn Giáo Lý người biên soạn giữa các năm 1555-1558. Cuốn đầu dành cho các sinh viên giúp hiểu các ý niệm thần học căn bản; cuốn thứ hai dành cho giới trẻ con cái các gia đình thường dân; cuốn thứ ba dành cho các học sinh trung học và cao học. Giáo lý công giáo được trình bầy dưới dạng hỏi thưa rõ ràng, ngắn gọn và đầy đủ, không có sắc thái tranh luận. Ngay thời thánh nhân còn sống cuốn giáo lý này đã được in tới 200 lần, và được tái bản cho tới thế kỷ thứ XIX. Nó thực sự đã đào tạo đức tin cho con người trong bao thế kỷ.
Một trong các đặc thái của thánh Petrus Canisius là biết hòa điệu giữa sự trung thành với các nguyên tắc tín lý và sự tôn trọng đối với mọi người. Nền tu đức đặc thù của thánh nhân là tình bạn với Chúa Giêsu Kitô. Thánh nhân trông thấy Chúa trao cho người một cái áo có ba phần gọi là hòa bình, tình yêu và kiên trì. Với chiếc áo làm bằng hòa bình tình yêu và sự kiên tri đó thánh nhân đã canh tân Giáo Hội Công Giáo. Đức Thánh Cha nêu bật điểm này như sau:
Tình bạn này với Chúa Giêsu là trung tâm con người của thánh nhân, được dưỡng nuôi bởi tình yêu của Thánh Kinh, tình yêu của Bí Tích, tình yêu của các Giáo Phụ. Tình bạn ấy rõ ràng hiệp nhất với ý thức là người tiếp tục sứ mệnh của các Tông Đồ trong Giáo Hội. Điều này nhắc nhở cho chúng ta biết rằng mỗi người rao truyền Tin Mừng đích thật đều luôn luôn là một dụng cụ hiệp với Chúa Giêsu và với Giáo Hội Người và vì thế phong phú.
Thánh Canisius cũng liên lạc thân tình với hai nhà thần bí Xitô là Johan Lansperger, và Nicolas van Hesche. Tiếp đến thánh nhân đào sâu kinh nghiệm tình bạn này cùng sự chiêm niệm các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu. Lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa của thánh nhân đạt tột đỉnh với việc thánh hiến sứ vụ tông đồ tại đền thờ thánh Phêrô có nền tảng nơi đây.
Nền tu đức có Chúa Kitô là trung tâm đó đâm rễ sâu trong xác tín rằng không thể lo lắng cho sự hoàn thiện của chính mình, nếu không thực thi việc cầu nguyên và suy niệm mỗi ngày, giúp người tông đồ sống kết hiệp thân tình với Chúa Giêsu Thầy Chí Thánh. Chính vì thế trong các sáng tác của mình thánh nhân nhấn mạnh tầm quan trọng của phụng vụ với các lời chú giải Phúc Âm, các buổi lễ, nghi thức Thánh Lễ và việc cứ hành các Bí Tích khác. Đồng thời người cho tín hữu thấy vẻ đẹp của lời cầu nguyện cá nhân mỗi ngày bên cạnh các buổi cử hành công khai của Giáo Hội.
Sự khuyến khích và phương pháp này vẫn có giá trị và được Công Đồng Chung Vaticăng II tái đề nghị với chúng ta. Đó là cuộc sống kitô không lớn lên, nếu không được dưỡng nuôi bằng việc tham dự việc cử hành Phụng Vụ, đặc biệt là thánh lễ Chúa Nhật và lời cầu nguyện cá nhân hằng ngày, việc tiếp xúc cá nhân với Thiên Chúa. Giữa hàng ngàn sinh hoạt và các kích thích bao quanh chúng ta, mỗi ngày cần phải tìm ra những lúc cầm trí trước mặt Chúa để lắng nghe Người và thưa chuyện với Người.
Đức Thánh Cha kết thúc bài huấn dụ như sau:
Gương sống của thánh Canisius luôn có gía trị thời sự. Người dậy cho chúng ta biết rằng sứ vụ tông đồ chỉ định đoạt và đem lại hoa trái cứu độ nơi các con tim, nếu người rao giảng là chứng nhân của Chúa Giêsu, biết để cho Chúa sử dụng và kết hiệp mật thiết với Chúa bởi niềm tin nơi Tin Mừng và nơi Giáo Hội Người.
Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm hiện diện trong dại thính đường Phaolô VI, trong đó có các Hồng Y và Giám Mục đang tham dự cuộc họp do phong trào Tổ Âm tổ chức tại Castel Gandofo. Nó là dịp giúp đối chiếu các kinh nghiệm của các Giáo Hội khác nhau trên thế giới. Ngài cầu mong cho các ngày cầu nguyện và suy tư này đem lại nhiều hoa trái phong phú.
Nhắc tới thánh Girolamo Emiliani sáng lập dòng các cha Somaschi và thánh nữ Giuseppina Bakhita, người Phi châu, mà Giáo Hội kính nhớ các ngày vừa qua, Đức Thánh Cha cầu mong gương can đảm của các vị giúp giới trẻ rộng mở trái tim cho sự thánh thiện trong cuộc sống thường ngày; trợ lực các người đau yếu kiên trì dâng lời cầu nguyện và khổ đau cho toàn Giáo Hội; và ban cho các cặp vợ chồng mới cưới lòng can đảm biến gia đình trở thành cộng đoàn tình yêu in đậm dấu các giá trị kitô.
Sau cùng ngài cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên với hơn 7.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung hàng tuần tại đại thính đường Phaolo VI sáng thứ tư 9-2-2011. Trong số các nhóm tham dự cũng có 40 nữ tu dòng Đức Bà đang nhóm họp tại Roma, trong đó có 5 đại biểu của Tỉnh Dòng Việt Nam.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giới thiệu gương mặt thánh Petrus Canisius, người Hòa Lan, dòng Tên, sống hồi thế kỷ XVI. Đức Thánh Cha phác họa vài nét tiểu sử của thánh nhân như sau:
Thánh nhân sinh ngày mùng 8 tháng 5 năm 1521 tại Nimega bên Hòa Lan. Thân phụ là thị trưởng thánh phố. Khi theo học tại đại học Koeln bên Đức Canisius lui tới với các đan sĩ Xitô Santa Barbara, một trung tâm tràn đầy sức sống công giáo và các người đạo đức vun trồng nền tu đức tân tiến. Ngày mùng 8 tháng 5 năm 1543 anh gia nhập dòng Tên tại Mainz, sau khi tham dự một cuộc tĩnh tâm do chân phước Pierre Favre, một trong các bạn đầu tiên theo thánh Iganzio thành Loyola, giảng thuyết. Thụ phong Linh Mục năm 1546 tại Koeln, năm sau cha Canisius trở thành thần học gia của Đức Hồng Y Otto Truchsess thành Walburg, Giám Mục giáo phận Augusta, rồi hiện diện trong Công Đồng Chung Trento và cộng tác với hai tu sĩ cùng dòng là Diego Lainez và Alfonso Salmerón.
Năm 1548 thánh Ignazio gửi cha Canisius về Roma để bổ túc việc đào tạo tinh thần rồi về trường Messina làm các công việc phục vụ khiêm tốn trong nhà. Sau khi đậu bằng tiến sĩ năm 1549 thánh Ignazio gửi cha sang Đức làm việc tông đồ. Ngày mùng 2 tháng 9 năm đó cha Canisius viếng thăm Đức Giáo Hoàng Paolo III tại Castel Gandolfo, rồi đến cầu nguyện tại đền thờ thánh Phêrô, xin hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô trợ lực người trong sứ mệnh vừa nhận lãnh.
Chúng ta đang ở trong thời Cải Cách Luther, trong đó đức tin công giáo xem ra tắt lịm trước sức thu hút của phong trào Cải Cách tại các nước nói tiếng Đức. Canh tân và hồi sinh đức tin công giáo tại các nước này xem ra là điều không thể làm được. Chỉ có sức mạnh của lời cầu nguyện, của tình bạn sâu đậm với Chúa Giêsu Kitô trong Thân Mình Người là Giáo Hội, được dưỡng nuôi bằng bí tích Thánh Thể nơi Người thực sự hiện diện, mới giúp thành công mà thôi.
Cha Canisius sang Đức và làm việc trong vùng đất của Quậm Công Bavière. Trước hết như là phân khoa trưởng, rồi viện trương đại học Ingolstadt, người chăm lo cho cuộc sống đại học và cuộc canh cải tôn giáo và luân lý của dân chúng. Tại Vienne, trong một thời gian ngắn, người làm quản lý giáo phận và làm việc mục vụ trong các nhà thương và nhà tù, cũng như trong thành phố và vùng quê, đồng thời chuẩn bị phát hành sách Giáo Lý. Năm 1556 cha thành lập trường Praha và cho tới năm 1569 là bề trên đầu tiên của tỉnh dòng Dức. Cha thành lập cả một mạng liên lạc của dòng trong các nước nói tiếng Đức, đặc biệt giữa các trường của dòng, là các trung tâm của cuộc cải cách và canh tân đức tin công giáo. Vào thời đó thánh nhân cũng tham dự cuộc đối thoại tại Worms với các vị lãnh đạo tin lành trong đó có Filippo Melantone (1557), và làm Sứ Thần Tòa Thánh tại Ba Lan (1558) tham dự vào hai hội nghị tại Augusta (1559 và 1565), tháp tùng Đức Hồng Y Stanislao Hozjusz, đặc sứ của Đức Giáo Hoàng Pio IV gặp hoàng đế Ferdinando (1560), phát biểu trong khóa họp cuối cùng của Công Đồng Chung Trento và trình bầy về vấn đề Rước lễ hai hình và danh sách cấm thư (1562).
Năm 1580 thánh Canisius rút lui về Fribourg bên Thụy Sĩ, dồn toàn lực cho việc rao giảng và sáng tác, rồi qua đời tại đây ngày 21 tháng 12 năm 1597. Người được Đức Giáo Hoáng Pio IX phong chân phước năm 1864; năm 1897 được Đức Giáo Hoàng Lêô XIII tuyên bố là vị Bổn Mạng thứ hai của nước Đức; và năm 1925 được Đức Giáo Hoàng Pio XI phong hiển thánh.
Thánh Canisius đã tiếp xúc với rất nhiều nhân vật quan trọng thời đó và các tác phẩm của người có ảnh hưởng rất lớn. Thánh nhân đã là người xuất bản mọi tác phẩm của thánh Cirillo thành Alessandria và thánh Leo Cả, các thư của thánh Girolamo và các lời cầu của thánh Nicola thành Flue. Người cũng cho xuất bản nhiều sách đạo đức trong các thứ tiếng khác nhau, tiểu sử các thánh Thụy sĩ và nhiều bài giảng. Nhưng các tác phẩm phố biến sâu rộng nhất là 3 cuốn Giáo Lý người biên soạn giữa các năm 1555-1558. Cuốn đầu dành cho các sinh viên giúp hiểu các ý niệm thần học căn bản; cuốn thứ hai dành cho giới trẻ con cái các gia đình thường dân; cuốn thứ ba dành cho các học sinh trung học và cao học. Giáo lý công giáo được trình bầy dưới dạng hỏi thưa rõ ràng, ngắn gọn và đầy đủ, không có sắc thái tranh luận. Ngay thời thánh nhân còn sống cuốn giáo lý này đã được in tới 200 lần, và được tái bản cho tới thế kỷ thứ XIX. Nó thực sự đã đào tạo đức tin cho con người trong bao thế kỷ.
Một trong các đặc thái của thánh Petrus Canisius là biết hòa điệu giữa sự trung thành với các nguyên tắc tín lý và sự tôn trọng đối với mọi người. Nền tu đức đặc thù của thánh nhân là tình bạn với Chúa Giêsu Kitô. Thánh nhân trông thấy Chúa trao cho người một cái áo có ba phần gọi là hòa bình, tình yêu và kiên trì. Với chiếc áo làm bằng hòa bình tình yêu và sự kiên tri đó thánh nhân đã canh tân Giáo Hội Công Giáo. Đức Thánh Cha nêu bật điểm này như sau:
Tình bạn này với Chúa Giêsu là trung tâm con người của thánh nhân, được dưỡng nuôi bởi tình yêu của Thánh Kinh, tình yêu của Bí Tích, tình yêu của các Giáo Phụ. Tình bạn ấy rõ ràng hiệp nhất với ý thức là người tiếp tục sứ mệnh của các Tông Đồ trong Giáo Hội. Điều này nhắc nhở cho chúng ta biết rằng mỗi người rao truyền Tin Mừng đích thật đều luôn luôn là một dụng cụ hiệp với Chúa Giêsu và với Giáo Hội Người và vì thế phong phú.
Thánh Canisius cũng liên lạc thân tình với hai nhà thần bí Xitô là Johan Lansperger, và Nicolas van Hesche. Tiếp đến thánh nhân đào sâu kinh nghiệm tình bạn này cùng sự chiêm niệm các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu. Lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa của thánh nhân đạt tột đỉnh với việc thánh hiến sứ vụ tông đồ tại đền thờ thánh Phêrô có nền tảng nơi đây.
Nền tu đức có Chúa Kitô là trung tâm đó đâm rễ sâu trong xác tín rằng không thể lo lắng cho sự hoàn thiện của chính mình, nếu không thực thi việc cầu nguyên và suy niệm mỗi ngày, giúp người tông đồ sống kết hiệp thân tình với Chúa Giêsu Thầy Chí Thánh. Chính vì thế trong các sáng tác của mình thánh nhân nhấn mạnh tầm quan trọng của phụng vụ với các lời chú giải Phúc Âm, các buổi lễ, nghi thức Thánh Lễ và việc cứ hành các Bí Tích khác. Đồng thời người cho tín hữu thấy vẻ đẹp của lời cầu nguyện cá nhân mỗi ngày bên cạnh các buổi cử hành công khai của Giáo Hội.
Sự khuyến khích và phương pháp này vẫn có giá trị và được Công Đồng Chung Vaticăng II tái đề nghị với chúng ta. Đó là cuộc sống kitô không lớn lên, nếu không được dưỡng nuôi bằng việc tham dự việc cử hành Phụng Vụ, đặc biệt là thánh lễ Chúa Nhật và lời cầu nguyện cá nhân hằng ngày, việc tiếp xúc cá nhân với Thiên Chúa. Giữa hàng ngàn sinh hoạt và các kích thích bao quanh chúng ta, mỗi ngày cần phải tìm ra những lúc cầm trí trước mặt Chúa để lắng nghe Người và thưa chuyện với Người.
Đức Thánh Cha kết thúc bài huấn dụ như sau:
Gương sống của thánh Canisius luôn có gía trị thời sự. Người dậy cho chúng ta biết rằng sứ vụ tông đồ chỉ định đoạt và đem lại hoa trái cứu độ nơi các con tim, nếu người rao giảng là chứng nhân của Chúa Giêsu, biết để cho Chúa sử dụng và kết hiệp mật thiết với Chúa bởi niềm tin nơi Tin Mừng và nơi Giáo Hội Người.
Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm hiện diện trong dại thính đường Phaolô VI, trong đó có các Hồng Y và Giám Mục đang tham dự cuộc họp do phong trào Tổ Âm tổ chức tại Castel Gandofo. Nó là dịp giúp đối chiếu các kinh nghiệm của các Giáo Hội khác nhau trên thế giới. Ngài cầu mong cho các ngày cầu nguyện và suy tư này đem lại nhiều hoa trái phong phú.
Nhắc tới thánh Girolamo Emiliani sáng lập dòng các cha Somaschi và thánh nữ Giuseppina Bakhita, người Phi châu, mà Giáo Hội kính nhớ các ngày vừa qua, Đức Thánh Cha cầu mong gương can đảm của các vị giúp giới trẻ rộng mở trái tim cho sự thánh thiện trong cuộc sống thường ngày; trợ lực các người đau yếu kiên trì dâng lời cầu nguyện và khổ đau cho toàn Giáo Hội; và ban cho các cặp vợ chồng mới cưới lòng can đảm biến gia đình trở thành cộng đoàn tình yêu in đậm dấu các giá trị kitô.
Sau cùng ngài cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.
Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân ngày cầu cho ơn kêu gọi
LM Trần Đức Anh OP
18:28 10/02/2011
VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 tha thiết kêu gọi toàn thể Giáo Hội động viên cầu nguyện và đẩy mạnh việc mục vụ ơn gọi LM và đời sống thánh hiến.
Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong Sứ điệp công bố hôm 10-2-2011, nhân Ngày Thế giới lần thứ 48 cầu cho ơn gọi sẽ được cử hành vào chúa nhật 15-5 tới đây với chủ đề ”Đề nghị ơn gọi trong Giáo Hội địa phương”.
Trong sứ điệp, ĐTC giải thích rằng ”Đề nghị ơn gọi trong Giáo Hội địa phương” có nghĩa là dùng một nền mục vụ ơn gọi ân cần và thích hợp để chỉ dẫn con đường theo Chúa Kitô với tất cả những cố gắng và đòi hỏi đi kèm. Con đường này có ý nghĩa phong phú và có thể bao trùm trọn cuộc sống”.
ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Mỗi Giáo Hội địa phương ngày càng phải nhạy cảm và quan tâm hơn đến việc mục vụ ơn gọi, giáo dục ở các cấp độ, gia đình, giáo xứ, hội đoàn, nhất là những người trẻ nam nữ, - như Chúa Giêsu đã làm với các môn đệ - để họ làm cho tình bạn chân thành và yêu thương của họ với Chúa được tăng trưởng, được vun trồng trong kinh nguyện bản thân và phụng vụ, học cách chăm chú lắng nghe Lời Chúa một cách hiệu quả, ngày càng làm quen với Kinh Thánh; cần giúp họ hiểu rằng việc sống theo thánh ý Chúa không hề hủy hoại và không phá hủy con người, nhưng giúp con người khám phá và theo đuổi sự thật sâu xa nhất về bản thân; sống tinh thần nhưng không và huynh đệ trong quan hệ với tha nhân, vì chỉ khi nào chúng ta cởi mở đối với tình yêu Thiên Chúa thì mới tìm được niềm vui đích thực và hoàn toàn làm cho những khát vọng của mình được mãn nguyện”.
Trong Sứ điệp, ĐTC cũng gửi những lời nhắn nhủ đến mọi thành phần Dân Chúa. Với các GM, ngài khuyên các vị đặc biệt quan tâm chọn những người hoạt động cho Trung Tâm ơn gọi của giáo phận, là phương tiện quí giá để cổ võ và tổ chức viện mục vụ ơn gọi, cũng như cổ võ việc cầu nguyên để nâng đỡ việc mục vụ ơn gọi và bảo đảm hiệu năng của công tác này”.
ĐTC không quên nhắc nhở các GM thuộc những giáo phận dồi dào ơn gọi hãy chia sẻ với những giáo phận khan hiếm. Thái độ sẵn sàng này là một phúc lành cho chính cộng đoàn giáo phận của các GM ấy và là một chứng tá đối với các tín hữu về sứ vụ tư tế, quảng đại cởi mở đối với các nhu cầu của toàn thể Giáo Hội”.
Với các LM, ĐTC khích lệ các vị hãy làm chứng tá về sự hiệp thông với Đức GM và các anh em LM khác, tạo nên một môi trường thuận lợi sinh động giúp nảy sinh các ơn gọi LM.
Sau cùng, ĐTC khuyến khích các gia đình hãy giúp con cái quảng đại đón nhận ơn gọi LM và đời sống thánh hiến. Ngài kêu gọi các giáo lý viên, cũng như các linh hoạt viên của các hội đoàn Công Giáo và phong trào Giáo Hội hãy giúp người trẻ khám phá ra ơn gọi của Chúa và hăng hái bước theo ơn gọi ấy”. (SD 10-2-2011)
Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong Sứ điệp công bố hôm 10-2-2011, nhân Ngày Thế giới lần thứ 48 cầu cho ơn gọi sẽ được cử hành vào chúa nhật 15-5 tới đây với chủ đề ”Đề nghị ơn gọi trong Giáo Hội địa phương”.
Trong sứ điệp, ĐTC giải thích rằng ”Đề nghị ơn gọi trong Giáo Hội địa phương” có nghĩa là dùng một nền mục vụ ơn gọi ân cần và thích hợp để chỉ dẫn con đường theo Chúa Kitô với tất cả những cố gắng và đòi hỏi đi kèm. Con đường này có ý nghĩa phong phú và có thể bao trùm trọn cuộc sống”.
ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Mỗi Giáo Hội địa phương ngày càng phải nhạy cảm và quan tâm hơn đến việc mục vụ ơn gọi, giáo dục ở các cấp độ, gia đình, giáo xứ, hội đoàn, nhất là những người trẻ nam nữ, - như Chúa Giêsu đã làm với các môn đệ - để họ làm cho tình bạn chân thành và yêu thương của họ với Chúa được tăng trưởng, được vun trồng trong kinh nguyện bản thân và phụng vụ, học cách chăm chú lắng nghe Lời Chúa một cách hiệu quả, ngày càng làm quen với Kinh Thánh; cần giúp họ hiểu rằng việc sống theo thánh ý Chúa không hề hủy hoại và không phá hủy con người, nhưng giúp con người khám phá và theo đuổi sự thật sâu xa nhất về bản thân; sống tinh thần nhưng không và huynh đệ trong quan hệ với tha nhân, vì chỉ khi nào chúng ta cởi mở đối với tình yêu Thiên Chúa thì mới tìm được niềm vui đích thực và hoàn toàn làm cho những khát vọng của mình được mãn nguyện”.
Trong Sứ điệp, ĐTC cũng gửi những lời nhắn nhủ đến mọi thành phần Dân Chúa. Với các GM, ngài khuyên các vị đặc biệt quan tâm chọn những người hoạt động cho Trung Tâm ơn gọi của giáo phận, là phương tiện quí giá để cổ võ và tổ chức viện mục vụ ơn gọi, cũng như cổ võ việc cầu nguyên để nâng đỡ việc mục vụ ơn gọi và bảo đảm hiệu năng của công tác này”.
ĐTC không quên nhắc nhở các GM thuộc những giáo phận dồi dào ơn gọi hãy chia sẻ với những giáo phận khan hiếm. Thái độ sẵn sàng này là một phúc lành cho chính cộng đoàn giáo phận của các GM ấy và là một chứng tá đối với các tín hữu về sứ vụ tư tế, quảng đại cởi mở đối với các nhu cầu của toàn thể Giáo Hội”.
Với các LM, ĐTC khích lệ các vị hãy làm chứng tá về sự hiệp thông với Đức GM và các anh em LM khác, tạo nên một môi trường thuận lợi sinh động giúp nảy sinh các ơn gọi LM.
Sau cùng, ĐTC khuyến khích các gia đình hãy giúp con cái quảng đại đón nhận ơn gọi LM và đời sống thánh hiến. Ngài kêu gọi các giáo lý viên, cũng như các linh hoạt viên của các hội đoàn Công Giáo và phong trào Giáo Hội hãy giúp người trẻ khám phá ra ơn gọi của Chúa và hăng hái bước theo ơn gọi ấy”. (SD 10-2-2011)
Tấn phong Giám Mục Hồng Kông để khẳng định cho Trung Quốc thấy quyền tuyệt đối của ĐGH trong việc bổ nhiệm Giám Mục
Lã Thụ Nhân
18:39 10/02/2011
Tấn phong Giám Mục Hồng Kông để khẳng định cho Trung Quốc thấy quyền tuyệt đối của ĐGH trong việc bổ nhiệm Giám Mục
Vatican (Argus-press.com) – Hôm thứ Bảy 05/02, Đức Giáo Hoàng Bênênđictô XVI đã khẳng định quyền tấn phong các giám mục của mình khi ngài truyền chức cho một giám mục Trung Quốc trong một phản đối ngấm ngầm đối với những nỗ lực của Giáo Hội chính thức của Trung Quốc tấn phong giám mục mà không cần sự phê chuẩn của ngài.
Đức Cha Savio Hàn Đại Huy (Savio Hon Tai-Fai), 60 tuổi, vị giám mục Hồng Kông mới đây được bổ nhiệm vị trí số 2 (Tổng Thư Ký) của Thánh Bộ Truyền Giáo Vatican, là một trong năm giám mục được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI tấn phong tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô.
Việc cất nhắc ngài diễn ra giữa lúc một điểm thấp mới trong quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Bắc Kinh qua việc tấn phong giám mục của Giáo Hội Trung Quốc được nhà nước hậu thuẫn mà không có sự cho phép của Đức Giáo Hoàng.
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã không đề cập cụ thể tới Trung Quốc trong bài giảng của mình nhưng nói chung khẳng định về trách nhiệm và sự cần thiết của Đức Giáo Hoàng để bổ nhiệm giám mục nhằm đảm bảo tính kế vị tông đồ. Ngài cho hay một trong những công việc chính của giám mục là để đảm bảo rằng có "một chuỗi hiệp thông không bị gián đoạn" với các vị tông đồ.
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI cho hay thêm: "Chư huynh đệ thân mến, tôi có sứ vụ giữ gìn sự hiệp thông Công Giáo này, chư huynh đệ biết rằng Chúa đã trao phó choThánh Phêrô và người kế vị ngài trở thành trung tâm của sự hiệp thông này, những người bảo đảm cho sự toàn vẹn của hiệp thông tông đồ và toàn vẹn đức tin".
Ngài nói thêm: "Chỉ qua sự hiệp thông với những người người kế vị các tông đồ thì chúng ta mới gặp gỡ được với Thiên Chúa nhập thể".
Trung Quốc đã buộc người Công giáo La Mã ở đất nước này cắt đứt quan hệ với Tòa Thánh Vatican vào năm 1951 ngay sau khi cộng sản chiếm được quyền lực. Mặc dù chỉ có Giáo Hội Công Giáo do nhà nước hậu thuẫn được công nhận, nhưng hàng triệu người Trung Quốc khác thuộc Giáo Hội thầm lặng thì trung thành với Rôma.
Đối thoại đã được sử dụng để làm dịu căng thẳng, nhưng điểm trở ngại chính yếu là sự khăng khăng của Giáo Hội Trung Quốc có quyền bổ nhiệm giám mục chứ không phải là Đức Giáo Hoàng. Nó cho rằng vị thế của Rôma chung qui là can thiệp vào công việc nội bộ của nó.
Các bên đã đi đến một thỏa hiệp mong manh trong những năm gần đây theo đó Rôma ngầm phê chuẩn các giám mục được Bắc Kinh đề cử. Nhưng điều đó đã bị phá vỡ vào cuối năm ngoái khi Giáo Hội Trung Quốc tấn phong một giám mục mà không có sự phê chuẩn của Đức Giáo Hoàng, một động thái mà Giáo Hội Trung Quốc nói rằng bị buộc phải thực hiện vì thiếu phản ứng từ Vatican.
Các xích mích càng trở nên tồi tệ sau một hội nghị hồi tháng Mười Hai của khoảng 300 giám mục, linh mục và giáo dân ở Bắc Kinh, mà tại đó Giám Mục Ma Yinglin - người không được Tòa Thánh công nhận - đã được chọn làm người đứng đầu Hội Đồng Giám Mục Giáo Hội Công Giáo Trung Quốc.
Vào thời điểm đó Tòa Thánh Vatican lên án hội nghị như là một vi phạm tự do tôn giáo và nhân quyền; có báo cáo rằng một số giám mục trung thành với Rôma đã bị buộc phải tham dự.
Mới đây, Đức Cha Hàn được bổ nhiệm vào vị trí số 2 của Thánh Bộ Loan Báo Tin Mừng Cho Các Dân Tộc. Ngài hy vọng rằng mình sẽ là cầu nối giữa Rôma và Bắc Kinh, và việc bổ nhiệm trứ danh của ngài là một dấu hiệu của tình yêu thương nơi Đức Thánh Cha dành cho Trung Quốc.
Hôm thứ Bảy, Lưu Bách Niên (Liu Bainian), phát ngôn viên của Hội Công Giáo Yêu Nước Trung Quốc đã chúc mừng Đức Cha Hàn và nói rằng không cần Đức Cha làm cầu nối vì Vatican và Trung Quốc đã có cuộc đối thoại.
Nhưng trong một cuộc phỏng vấn với AP tại Bắc Kinh, ông nói rằng Giáo Hội có thể cải thiện quan hệ giữa hai bên bằng cách tôn trọng những gì mà ông nói là hai điều kiện do chính quyền Trung Quốc đưa ra: "Trước tiên, cắt đứt cái gọi là quan hệ ngoại giao với Đài Loan và công nhận nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là chính quyền hợp pháp duy nhất. Thứ hai, không can thiệp vào công việc nội bộ của Trung Quốc, kể cả việc bổ nhiệm các giám mục".
Tòa Thánh Vatican cho hay sẵn sàng "bất cứ lúc nào" để chuyển quan hệ ngoại giao của mình từ Đài Bắc sang Bắc Kinh.
Ông Lưu cho biết Đức Cha Hàn có thể giúp cải thiện mối quan hệ ngoại giao Trung Quốc – Vatican khi cho rằng: "Đức Giám Mục Hàn là công dân Trung Quốc và có trách nhiệm xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc cùng với người dân Trung Quốc và đóng góp cho công cuộc khôi phục của quốc gia Trung Quốc".
Trong Thánh Lễ trọng thể, bắt đầu bằng bài đọc Kinh Thánh tiếng Trung Hoa, năm tân giám mục sấp mình trước bàn thờ. Sau đó họ quỳ khi hàng tá các giám mục đặt tay trên đầu họ để cầu nguyện. Kế đến, năm vị giám mục nhận mũ nhọn giám mục từ Đức Giáo Hoàng.
Ngoài Đức Cha Hàn, các giám mục khác đã được tấn phong hôm thứ Bảy gồm: Đức Cha Marcello Bartolucci, Tổng Thư Ký Thánh Bộ Phong Thánh; Đức Cha Celso Morga Iruzubieta, Tổng Thư Ký Thánh Bộ Giáo sĩ; Đức Cha Antonio Guido Filipazzi và Đức Cha Edgar Pena Parra, cả hai đều là những nhà ngoại giao Tòa Thánh Vatican.
Vatican (Argus-press.com) – Hôm thứ Bảy 05/02, Đức Giáo Hoàng Bênênđictô XVI đã khẳng định quyền tấn phong các giám mục của mình khi ngài truyền chức cho một giám mục Trung Quốc trong một phản đối ngấm ngầm đối với những nỗ lực của Giáo Hội chính thức của Trung Quốc tấn phong giám mục mà không cần sự phê chuẩn của ngài.
Đức Cha Savio Hàn Đại Huy (Savio Hon Tai-Fai), 60 tuổi, vị giám mục Hồng Kông mới đây được bổ nhiệm vị trí số 2 (Tổng Thư Ký) của Thánh Bộ Truyền Giáo Vatican, là một trong năm giám mục được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI tấn phong tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô.
Việc cất nhắc ngài diễn ra giữa lúc một điểm thấp mới trong quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Bắc Kinh qua việc tấn phong giám mục của Giáo Hội Trung Quốc được nhà nước hậu thuẫn mà không có sự cho phép của Đức Giáo Hoàng.
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã không đề cập cụ thể tới Trung Quốc trong bài giảng của mình nhưng nói chung khẳng định về trách nhiệm và sự cần thiết của Đức Giáo Hoàng để bổ nhiệm giám mục nhằm đảm bảo tính kế vị tông đồ. Ngài cho hay một trong những công việc chính của giám mục là để đảm bảo rằng có "một chuỗi hiệp thông không bị gián đoạn" với các vị tông đồ.
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI cho hay thêm: "Chư huynh đệ thân mến, tôi có sứ vụ giữ gìn sự hiệp thông Công Giáo này, chư huynh đệ biết rằng Chúa đã trao phó choThánh Phêrô và người kế vị ngài trở thành trung tâm của sự hiệp thông này, những người bảo đảm cho sự toàn vẹn của hiệp thông tông đồ và toàn vẹn đức tin".
Ngài nói thêm: "Chỉ qua sự hiệp thông với những người người kế vị các tông đồ thì chúng ta mới gặp gỡ được với Thiên Chúa nhập thể".
Trung Quốc đã buộc người Công giáo La Mã ở đất nước này cắt đứt quan hệ với Tòa Thánh Vatican vào năm 1951 ngay sau khi cộng sản chiếm được quyền lực. Mặc dù chỉ có Giáo Hội Công Giáo do nhà nước hậu thuẫn được công nhận, nhưng hàng triệu người Trung Quốc khác thuộc Giáo Hội thầm lặng thì trung thành với Rôma.
Đối thoại đã được sử dụng để làm dịu căng thẳng, nhưng điểm trở ngại chính yếu là sự khăng khăng của Giáo Hội Trung Quốc có quyền bổ nhiệm giám mục chứ không phải là Đức Giáo Hoàng. Nó cho rằng vị thế của Rôma chung qui là can thiệp vào công việc nội bộ của nó.
Các bên đã đi đến một thỏa hiệp mong manh trong những năm gần đây theo đó Rôma ngầm phê chuẩn các giám mục được Bắc Kinh đề cử. Nhưng điều đó đã bị phá vỡ vào cuối năm ngoái khi Giáo Hội Trung Quốc tấn phong một giám mục mà không có sự phê chuẩn của Đức Giáo Hoàng, một động thái mà Giáo Hội Trung Quốc nói rằng bị buộc phải thực hiện vì thiếu phản ứng từ Vatican.
Các xích mích càng trở nên tồi tệ sau một hội nghị hồi tháng Mười Hai của khoảng 300 giám mục, linh mục và giáo dân ở Bắc Kinh, mà tại đó Giám Mục Ma Yinglin - người không được Tòa Thánh công nhận - đã được chọn làm người đứng đầu Hội Đồng Giám Mục Giáo Hội Công Giáo Trung Quốc.
Vào thời điểm đó Tòa Thánh Vatican lên án hội nghị như là một vi phạm tự do tôn giáo và nhân quyền; có báo cáo rằng một số giám mục trung thành với Rôma đã bị buộc phải tham dự.
Mới đây, Đức Cha Hàn được bổ nhiệm vào vị trí số 2 của Thánh Bộ Loan Báo Tin Mừng Cho Các Dân Tộc. Ngài hy vọng rằng mình sẽ là cầu nối giữa Rôma và Bắc Kinh, và việc bổ nhiệm trứ danh của ngài là một dấu hiệu của tình yêu thương nơi Đức Thánh Cha dành cho Trung Quốc.
Hôm thứ Bảy, Lưu Bách Niên (Liu Bainian), phát ngôn viên của Hội Công Giáo Yêu Nước Trung Quốc đã chúc mừng Đức Cha Hàn và nói rằng không cần Đức Cha làm cầu nối vì Vatican và Trung Quốc đã có cuộc đối thoại.
Nhưng trong một cuộc phỏng vấn với AP tại Bắc Kinh, ông nói rằng Giáo Hội có thể cải thiện quan hệ giữa hai bên bằng cách tôn trọng những gì mà ông nói là hai điều kiện do chính quyền Trung Quốc đưa ra: "Trước tiên, cắt đứt cái gọi là quan hệ ngoại giao với Đài Loan và công nhận nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là chính quyền hợp pháp duy nhất. Thứ hai, không can thiệp vào công việc nội bộ của Trung Quốc, kể cả việc bổ nhiệm các giám mục".
Tòa Thánh Vatican cho hay sẵn sàng "bất cứ lúc nào" để chuyển quan hệ ngoại giao của mình từ Đài Bắc sang Bắc Kinh.
Ông Lưu cho biết Đức Cha Hàn có thể giúp cải thiện mối quan hệ ngoại giao Trung Quốc – Vatican khi cho rằng: "Đức Giám Mục Hàn là công dân Trung Quốc và có trách nhiệm xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc cùng với người dân Trung Quốc và đóng góp cho công cuộc khôi phục của quốc gia Trung Quốc".
Trong Thánh Lễ trọng thể, bắt đầu bằng bài đọc Kinh Thánh tiếng Trung Hoa, năm tân giám mục sấp mình trước bàn thờ. Sau đó họ quỳ khi hàng tá các giám mục đặt tay trên đầu họ để cầu nguyện. Kế đến, năm vị giám mục nhận mũ nhọn giám mục từ Đức Giáo Hoàng.
Ngoài Đức Cha Hàn, các giám mục khác đã được tấn phong hôm thứ Bảy gồm: Đức Cha Marcello Bartolucci, Tổng Thư Ký Thánh Bộ Phong Thánh; Đức Cha Celso Morga Iruzubieta, Tổng Thư Ký Thánh Bộ Giáo sĩ; Đức Cha Antonio Guido Filipazzi và Đức Cha Edgar Pena Parra, cả hai đều là những nhà ngoại giao Tòa Thánh Vatican.
Giáo phận Rôma ra mắt trang web về Đức Gioan Phaolô II
Lã Thụ Nhân
18:40 10/02/2011
Giáo phận Rôma ra mắt trang web về Đức Gioan Phaolô II
Rôma (CNA/EWTN News) - Giáo Phận Rôma đã ra mắt trang web mới nhằm vinh danh việc tuyên chân phước Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II sắp diễn ra vào ngày 1 tháng Năm.
Trang web Karol-Wojtyla.org, được công bố bằng bảy ngôn ngữ và cung cấp tin tức cập nhật và thông tin cơ bản về Đức Cố Giáo Hoàng và án phong thánh của ngài.
Ngoài việc hiển thị một webcam trực tiếp mộ của Đức Giáo Hoàng dưới hầm mộ của Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, trang web cũng cung cấp lời nguyện xin ơn nhờ sự chuyển cầu của Đức Gioan Phaolô II bằng 31 ngôn ngữ bao gồm các ngôn ngữ Ả Rập, Nga, Swahili, Trung Hoa và Việt Nam (http://karol-wojtyla.org/preghiera/Loinguyen-Vietnam.pdf).
Trang web cũng thông báo rằng buổi lễ tuyên chân phước được chờ đợi sẽ mở cửa cho công chúng và không soát vé người tham dự.
Trong những gì được gọi là kỷ lục về thời gian, án phong thánh của Đức Cố Giáo Hoàng đã tăng tốc qua các thử thách ban đầu để chứng minh cương vị Thánh của ngài.
Theo mệnh lệnh của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, chuẩn tắc quy định cho án phong thánh chỉ có thể bắt đầu sau 5 năm qua đời đã được bãi bỏ. Án phong thánh của ngài, cũng như các Đức Giáo Hoàng khác và các trường hợp đặc biệt, cũng đã được thực hiện ngay chứ không theo tiến trình bình thường "đến trước, thẩm tra thước".
Trong cuộc họp báo hôm 14/01, cha Federico Lombardi, phát ngôn viên Tòa Thánh Vatican, đã đảm bảo rằng "mỗi bước pháp lý của cuộc điều tra đều đã được hoàn thành, chúng đã được thực hiện bằng sự cẩn trọng. Chúng đã không được thực hiện dễ dàng, hơn thế nữa, án phong thánh đã được tiến hành bằng sự quan tâm lớn và trung thực".
Án phong thánh của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng là ngoại thường trong lịch sử Giáo Hội vì nó được vị kế vị ngay sau triều giáo hoàng của ngài chủ sự Lễ tuyên phong.
Lễ tuyên chân phước của ngài vào ngày 01 tháng Năm, Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót, sẽ được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI cử hành ở Quảng Trường Thánh Phêrô. Cha Lombardi giải thích rằng việc lựa chọn này hoàn toàn có ý nghĩa đối với Đức Cố Giáo Hoàng, người qua đời chỉ 1 ngày trước khi cử hành Lễ Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót năm 2005.
Rôma (CNA/EWTN News) - Giáo Phận Rôma đã ra mắt trang web mới nhằm vinh danh việc tuyên chân phước Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II sắp diễn ra vào ngày 1 tháng Năm.
Trang web Karol-Wojtyla.org, được công bố bằng bảy ngôn ngữ và cung cấp tin tức cập nhật và thông tin cơ bản về Đức Cố Giáo Hoàng và án phong thánh của ngài.
Ngoài việc hiển thị một webcam trực tiếp mộ của Đức Giáo Hoàng dưới hầm mộ của Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, trang web cũng cung cấp lời nguyện xin ơn nhờ sự chuyển cầu của Đức Gioan Phaolô II bằng 31 ngôn ngữ bao gồm các ngôn ngữ Ả Rập, Nga, Swahili, Trung Hoa và Việt Nam (http://karol-wojtyla.org/preghiera/Loinguyen-Vietnam.pdf).
Trang web cũng thông báo rằng buổi lễ tuyên chân phước được chờ đợi sẽ mở cửa cho công chúng và không soát vé người tham dự.
Trong những gì được gọi là kỷ lục về thời gian, án phong thánh của Đức Cố Giáo Hoàng đã tăng tốc qua các thử thách ban đầu để chứng minh cương vị Thánh của ngài.
Theo mệnh lệnh của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, chuẩn tắc quy định cho án phong thánh chỉ có thể bắt đầu sau 5 năm qua đời đã được bãi bỏ. Án phong thánh của ngài, cũng như các Đức Giáo Hoàng khác và các trường hợp đặc biệt, cũng đã được thực hiện ngay chứ không theo tiến trình bình thường "đến trước, thẩm tra thước".
Trong cuộc họp báo hôm 14/01, cha Federico Lombardi, phát ngôn viên Tòa Thánh Vatican, đã đảm bảo rằng "mỗi bước pháp lý của cuộc điều tra đều đã được hoàn thành, chúng đã được thực hiện bằng sự cẩn trọng. Chúng đã không được thực hiện dễ dàng, hơn thế nữa, án phong thánh đã được tiến hành bằng sự quan tâm lớn và trung thực".
Án phong thánh của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng là ngoại thường trong lịch sử Giáo Hội vì nó được vị kế vị ngay sau triều giáo hoàng của ngài chủ sự Lễ tuyên phong.
Lễ tuyên chân phước của ngài vào ngày 01 tháng Năm, Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót, sẽ được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI cử hành ở Quảng Trường Thánh Phêrô. Cha Lombardi giải thích rằng việc lựa chọn này hoàn toàn có ý nghĩa đối với Đức Cố Giáo Hoàng, người qua đời chỉ 1 ngày trước khi cử hành Lễ Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót năm 2005.
ĐTGM Los Angeles nhắc Chúa Kitô là một di dân
Lã Thụ Nhân
18:43 10/02/2011
ĐTGM Los Angeles nhắc Chúa Kitô là một di dân
Naples, Florida (CNA) – Di dân là một "vấn đề tôn giáo và tâm linh" cũng như nó là một vấn đề chính trị và kinh tế, Đức Tổng Giám Mục Phó José H. Gomez của Los Angeles đã cho hay như thế hôm 03/02 khi ngài nói chuyện với các vị lãnh đạo doanh nghiệp Công Giáo.
Trong bài diễn văn chủ đạo trước các tham dự viên Hội nghị thượng đỉnh Legatus hàng năm, Đức Cha nói rằng: "Di dân thử thách sự dấn thân của chúng ta như là những môn đệ và thử thách lòng trung tín của chúng ta đối với Tin Mừng và sứ vụ của Giáo Hội Ngài".
Ngài nhắc lại rằng khi còn là hài nhi, chính Chúa Giêsu, cùng với Mẹ Maria và Thánh Giuse, đã bị buộc phải trốn sang Ai Cập và sinh sống một thời gian như là những người di dân và tị nạn. Ngài nói các Kitô hữu cần phải suy nghĩ về mầu nhiệm: "Tại sao Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa, lại lựa chọn để trải nghiệm những hoàn cảnh của người di dân?"
Hội nghị Legatus, diễn ra từ ngày 03 đến 05 tháng Hai, đã thu hút hơn 500 vị quản trị và chủ doanh nghiệp Công Giáo hàng đầu từ khắp Hoa Kỳ để tham dự buổi cầu nguyện và nghe các bài nói chuyện từ các vị lãnh đạo Giáo Hội và các nhà lãnh đạo khác, trong đó có Chánh Án Tối Cao Pháp Viện Clarence Thomas.
Trong bài diễn văn của mình, Đức Tổng Giám Mục Gomez, người đứng đầu Ủy ban Di Dân của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, thừa nhận rằng người Công Giáo bị chia rẽ sâu sắc qua việc xem người di dân như là những công dân của họ. Tuy nhiên, ngài nhấn mạnh rằng bất cứ mối ưu tư nào về chính trị hoặc kinh tế, người Công Giáo buộc phải xem xét di dân trong ánh sáng của giáo huấn của Chúa Kitô và của Giáo Hội.
Đức Tổng Giám Mục Gomez cho hay: "Chúng ta không thể tách rời đức tin vào Chúa Giêsu của chúng ta do các chính sách mà chúng ta biện hộ như là những công dân". "Ngay bây giờ, trên đất nước này, có rất nhiều người - rất nhiều người tốt - những người đang nói về mọi điều họ biết, nhưng họ không bao giờ nói về những người di dân". "Sự tức giận và thất vọng của họ là điều dễ hiểu. Nhưng tài hùng biện của họ và nhiều phản ứng chính trị của họ không xứng đáng với Tin Mừng. Và họ không xứng đáng với lịch sử đáng tự hào của Hoa Kỳ như là người dẫn đường của niềm hy vọng cho người nghèo và người bị áp bức của thế giới".
Đức Tổng Giám Mục Gomez đã dành nhiều thời gian cho bài nói chuyện 35 phút của mình để khám phá nguồn gốc của giáo huấn Giáo Hội về di dân. Ngài cho hay: "Chúng ta chăm sóc cho người di dân vì Chúa Giêsu đã ra lệnh truyền như thế. Vì Chúa bảo chúng ta rằng chúng ta phải tìm kiếm Ngài và phục vụ ngài nơi những anh chị em bé mọn nhất của của chúng ta. Đây là lý do tại sao Chúa chúng ta đã chịu đựng những nhục nhã của người di dân và người xa lạ".
Đức Tổng Giám mục Gomez cũng lưu ý rằng trong dụ ngôn về phán xét chung các linh hồn, Chúa Giêsu nói rằng tình yêu đối với Thiên Chúa sẽ được phán xét bằng tình yêu dành cho người nghèo, cho bệnh nhân, cho tù nhân, và dành cho người di dân. Ngài cho hay: "Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta yêu thương thật sự. Không chỉ yêu bằng lời nói mà thôi nhưng yêu trong hành động. Một tình yêu phản ánh tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người con cái của mình. Chúng ta không thể nói chúng ta yêu Thiên Chúa vô hình trừ khi chúng ta yêu thương anh chị em mình, những người chúng ta nhìn thấy được".
Đức Tổng Giám Mục Gomez cho biết những chính sách được thi hành hiện nay của Hoa Kỳ - bao gồm các cuộc đột kích vào nơi làm việc và biện pháp trục xuất – thì không phù hợp với tiêu chuẩn của Tin Mừng và tình yêu Kitô giáo. "Chúng ta đang phá hủy các gia đình nhân danh việc thực thi pháp luật"; "Thật sự là nhiều người di dân ở đất nước chúng ta là bất hợp pháp. Điều đó làm buồn lòng tôi. Tôi không thích điều đó khi các quy tắc của pháp luật bị xem thường. Và tôi chỉ ủng hộ hình phạt thích đáng và phù hợp. Nhưng giờ đây, chúng ta đang áp đặt các hình phạt làm cho vợ mất chồng, con mất cha mẹ. Chúng ta đang trục xuất những người cha và để lại những bà mẹ đơn thân nuôi con với một ít cho tới không có thu nhập".
Ngài nói thêm rằng: "Chúng ta là người tốt hơn thế. Chúng ta luôn luôn có được một quốc gia của công lý và luật pháp. Nhưng chúng ta cũng có được một quốc gia của lòng nhân từ và tha thứ".
Đức Tổng Giám mục Gomez cho rằng người Công Giáo nên dẫn đường trong việc thay đổi cách thức đối xử với những người di dân. Ngài nhắc nhở các vị lãnh đạo doanh nghiệp: "Chúng tôi cần quý vị giúp nhắc nhở những người láng giềng chúng ta rằng tất cả chúng ta là huynh đệ, là con cái Thiên Chúa - không quan tâm chúng ta từ đâu đến, hoặc làm thế nào chúng ta hiện diện nơi này, hoặc những loại giấy tờ nào chúng ta có được".
Ngài cho hay những người di dân gốc Tây Ban Nha là những người có "truyền thống gia đình và đức tin mạnh mẽ, có tính cộng đồng và làm việc chăm chỉ". Thêm vào đó, hầu hết là người Công Giáo và giữ "những giá trị bảo tồn sâu sắc". "Tôi tin rằng chúng ta càng biết về họ, chúng ta càn muốn họ trở thành những người láng giềng, những bạn hữu, và những công dân của chúng ta. Đó là lý do tại sao tôi tin rằng những người di dân ngày nay – giống như các thế hệ những người di dân trước họ - là niềm hy vọng cho đất nước Hoa Kỳ tương lai. Chúng ta cần phải tìm ra thiện chí chính trị để làm cho họ trở thành công dân của chúng ta. Nếu làm được thế, tôi biết rằng chúng ta sẽ có thể cùng nhau xây dựng một đất nước Mỹ hùng mạnh hơn, có niềm tin tôn giáo hơn, và có đạo đức hơn".
Đức Tổng Giám mục Gomez, một công dân Hoa Kỳ sinh ra tại Monterrey, Mexico, là thành viên gốc Tây Ban Nha cao cấp nhất của phẩm trật Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ. Ngài sẽ đảm đương vị trí lãnh đạo Tổng Giáo Phận Los Angeles, Tổng Giáo Phận lớn nhất Hoa Kỳ khi Đức Hồng Y Roger H. Mahony về hưu vào ngày 27 tháng Hai tới.
Naples, Florida (CNA) – Di dân là một "vấn đề tôn giáo và tâm linh" cũng như nó là một vấn đề chính trị và kinh tế, Đức Tổng Giám Mục Phó José H. Gomez của Los Angeles đã cho hay như thế hôm 03/02 khi ngài nói chuyện với các vị lãnh đạo doanh nghiệp Công Giáo.
Trong bài diễn văn chủ đạo trước các tham dự viên Hội nghị thượng đỉnh Legatus hàng năm, Đức Cha nói rằng: "Di dân thử thách sự dấn thân của chúng ta như là những môn đệ và thử thách lòng trung tín của chúng ta đối với Tin Mừng và sứ vụ của Giáo Hội Ngài".
Ngài nhắc lại rằng khi còn là hài nhi, chính Chúa Giêsu, cùng với Mẹ Maria và Thánh Giuse, đã bị buộc phải trốn sang Ai Cập và sinh sống một thời gian như là những người di dân và tị nạn. Ngài nói các Kitô hữu cần phải suy nghĩ về mầu nhiệm: "Tại sao Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa, lại lựa chọn để trải nghiệm những hoàn cảnh của người di dân?"
Hội nghị Legatus, diễn ra từ ngày 03 đến 05 tháng Hai, đã thu hút hơn 500 vị quản trị và chủ doanh nghiệp Công Giáo hàng đầu từ khắp Hoa Kỳ để tham dự buổi cầu nguyện và nghe các bài nói chuyện từ các vị lãnh đạo Giáo Hội và các nhà lãnh đạo khác, trong đó có Chánh Án Tối Cao Pháp Viện Clarence Thomas.
Trong bài diễn văn của mình, Đức Tổng Giám Mục Gomez, người đứng đầu Ủy ban Di Dân của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, thừa nhận rằng người Công Giáo bị chia rẽ sâu sắc qua việc xem người di dân như là những công dân của họ. Tuy nhiên, ngài nhấn mạnh rằng bất cứ mối ưu tư nào về chính trị hoặc kinh tế, người Công Giáo buộc phải xem xét di dân trong ánh sáng của giáo huấn của Chúa Kitô và của Giáo Hội.
Đức Tổng Giám Mục Gomez cho hay: "Chúng ta không thể tách rời đức tin vào Chúa Giêsu của chúng ta do các chính sách mà chúng ta biện hộ như là những công dân". "Ngay bây giờ, trên đất nước này, có rất nhiều người - rất nhiều người tốt - những người đang nói về mọi điều họ biết, nhưng họ không bao giờ nói về những người di dân". "Sự tức giận và thất vọng của họ là điều dễ hiểu. Nhưng tài hùng biện của họ và nhiều phản ứng chính trị của họ không xứng đáng với Tin Mừng. Và họ không xứng đáng với lịch sử đáng tự hào của Hoa Kỳ như là người dẫn đường của niềm hy vọng cho người nghèo và người bị áp bức của thế giới".
Đức Tổng Giám Mục Gomez đã dành nhiều thời gian cho bài nói chuyện 35 phút của mình để khám phá nguồn gốc của giáo huấn Giáo Hội về di dân. Ngài cho hay: "Chúng ta chăm sóc cho người di dân vì Chúa Giêsu đã ra lệnh truyền như thế. Vì Chúa bảo chúng ta rằng chúng ta phải tìm kiếm Ngài và phục vụ ngài nơi những anh chị em bé mọn nhất của của chúng ta. Đây là lý do tại sao Chúa chúng ta đã chịu đựng những nhục nhã của người di dân và người xa lạ".
Đức Tổng Giám mục Gomez cũng lưu ý rằng trong dụ ngôn về phán xét chung các linh hồn, Chúa Giêsu nói rằng tình yêu đối với Thiên Chúa sẽ được phán xét bằng tình yêu dành cho người nghèo, cho bệnh nhân, cho tù nhân, và dành cho người di dân. Ngài cho hay: "Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta yêu thương thật sự. Không chỉ yêu bằng lời nói mà thôi nhưng yêu trong hành động. Một tình yêu phản ánh tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người con cái của mình. Chúng ta không thể nói chúng ta yêu Thiên Chúa vô hình trừ khi chúng ta yêu thương anh chị em mình, những người chúng ta nhìn thấy được".
Đức Tổng Giám Mục Gomez cho biết những chính sách được thi hành hiện nay của Hoa Kỳ - bao gồm các cuộc đột kích vào nơi làm việc và biện pháp trục xuất – thì không phù hợp với tiêu chuẩn của Tin Mừng và tình yêu Kitô giáo. "Chúng ta đang phá hủy các gia đình nhân danh việc thực thi pháp luật"; "Thật sự là nhiều người di dân ở đất nước chúng ta là bất hợp pháp. Điều đó làm buồn lòng tôi. Tôi không thích điều đó khi các quy tắc của pháp luật bị xem thường. Và tôi chỉ ủng hộ hình phạt thích đáng và phù hợp. Nhưng giờ đây, chúng ta đang áp đặt các hình phạt làm cho vợ mất chồng, con mất cha mẹ. Chúng ta đang trục xuất những người cha và để lại những bà mẹ đơn thân nuôi con với một ít cho tới không có thu nhập".
Ngài nói thêm rằng: "Chúng ta là người tốt hơn thế. Chúng ta luôn luôn có được một quốc gia của công lý và luật pháp. Nhưng chúng ta cũng có được một quốc gia của lòng nhân từ và tha thứ".
Đức Tổng Giám mục Gomez cho rằng người Công Giáo nên dẫn đường trong việc thay đổi cách thức đối xử với những người di dân. Ngài nhắc nhở các vị lãnh đạo doanh nghiệp: "Chúng tôi cần quý vị giúp nhắc nhở những người láng giềng chúng ta rằng tất cả chúng ta là huynh đệ, là con cái Thiên Chúa - không quan tâm chúng ta từ đâu đến, hoặc làm thế nào chúng ta hiện diện nơi này, hoặc những loại giấy tờ nào chúng ta có được".
Ngài cho hay những người di dân gốc Tây Ban Nha là những người có "truyền thống gia đình và đức tin mạnh mẽ, có tính cộng đồng và làm việc chăm chỉ". Thêm vào đó, hầu hết là người Công Giáo và giữ "những giá trị bảo tồn sâu sắc". "Tôi tin rằng chúng ta càng biết về họ, chúng ta càn muốn họ trở thành những người láng giềng, những bạn hữu, và những công dân của chúng ta. Đó là lý do tại sao tôi tin rằng những người di dân ngày nay – giống như các thế hệ những người di dân trước họ - là niềm hy vọng cho đất nước Hoa Kỳ tương lai. Chúng ta cần phải tìm ra thiện chí chính trị để làm cho họ trở thành công dân của chúng ta. Nếu làm được thế, tôi biết rằng chúng ta sẽ có thể cùng nhau xây dựng một đất nước Mỹ hùng mạnh hơn, có niềm tin tôn giáo hơn, và có đạo đức hơn".
Đức Tổng Giám mục Gomez, một công dân Hoa Kỳ sinh ra tại Monterrey, Mexico, là thành viên gốc Tây Ban Nha cao cấp nhất của phẩm trật Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ. Ngài sẽ đảm đương vị trí lãnh đạo Tổng Giáo Phận Los Angeles, Tổng Giáo Phận lớn nhất Hoa Kỳ khi Đức Hồng Y Roger H. Mahony về hưu vào ngày 27 tháng Hai tới.
Top Stories
Népal: Les chrétiens réclament en vain au gouvernement l’autorisation d’enterrer leurs morts
Eglises d'Asie
11:15 10/02/2011
La nomination, après des mois d’instabilité politique, d’un nouveau Premier ministre, le communiste Jhalanath Khanal, le 3 février dernier, n’aura laissé qu’un court répit à la controverse qui agite le Népal autour du droit des non-hindous à enterrer leurs défunts.
Le 29 décembre dernier, les autorités de Pashupatinath, ville sainte hindoue, proche de Katmandou,. ..
... interdisaient toute inhumation dans la forêt de Sleshmantak qui jouxte le temple, un site utilisé comme cimetière depuis des années par différentes communautés hindoues comme non hindoues. Le Pashupati Area Development Trust (PADT), qui gère le temple hindou de Pashupatinath, commençait déjà à détruire les tombes, à l’indignation des chrétiens dont plusieurs centaines de sépultures étaient en passe d’être profanées.
La forêt très dense qui entoure les ghats, plateformes au bord de la rivière sacrée Bagmati où brûlent jour et nuit les cadavres dont les cendres seront ensuite dispersées dans le courant, est un lieu de sépulture traditionnel pour certaines ethnies ainsi que pour quelques communautés hindoues du Népal, les Dashnamis. Les chrétiens de Katmandou avaient commencé à ensevelir leurs défunts dans la forêt de Sleshmantak, les quelques parcelles consacrées à cet usage dans la capitale (essentiellement des terrains privés) étant saturées. Le même problème affectait également les communautés musulmanes et baha’i, qui, tout comme les chrétiens, avaient fait, en vain, de nombreuses demandes de terrains pouvant être utilisés comme cimetières, auprès des gouvernements qui se sont succédés ces dernières années au Népal.
Certains, dont une grande part de catholiques, s’étaient résignés à la crémation. « Déjà que les vivants n’ont pas de terre, il est inutile d’en demander pour les morts ! », ironise Mgr Anthony Sharma, vicaire apostolique du Népal. « Nous avons accepté la crémation pour les catholiques au Népal, comme cela a été accepté ailleurs dans le monde [par L’Eglise]. (…) Mais la crémation elle-même est source de discrimination, souligne le prélat. Sur les ghats de Pashupatinath, il est fait une distinction entre les castes, et les chrétiens sont traités comme des basses castes. Nous avons donc dû mettre en place nos propres sites de crémation afin d’effectuer nos rites [avec le respect nécessaire envers les défunts]. »
Le 30 janvier dernier, le Comité consultatif chrétien sur la Constitution népalaise (Christian Committee on New Constitution) (1) réunissait les leaders des mouvements en faveur des droits de l’homme et les responsables des principaux partis politiques, dont celui du Congrès, du Parti communiste du Népal (PCN-MLU) et du Parti communiste maoïste (UCPN-M). « Depuis deux ans, au nom de la communauté chrétienne, nous avons multiplié les demandes officielles à tous les organes du gouvernement et même proposé des terrains dans Katmandou mais les choses n’ont fait qu’empirer avec les années et nos demandes ont été complètement ignorées », a déclaré le Rév. C. Bahadur Gahatraj, secrétaire général du Comité consultatif chrétien, aux nombreux officiels et journalistes présents.
Tous les leaders politiques ont assuré les chrétiens qu’ils soumettraient le problème en urgence à l’Assemblée constituante. Minendra Rijal, ministre de la Culture et des Affaires fédérales, déclarait notamment avec fermeté qu’après des siècles de monarchie hindoue, « le pays était désormais un Etat laïc et que tous les hindous devaient apprendre à compter avec les autres religions » (2). Mais face à l’avalanche de protestations des extrémistes hindous, le ministre, également à la tête du PADT, faisait rapidement volte-face, affirmant cette fois qu’il « ne laisserait personne blesser les sentiments religieux de millions d’hindous » en autorisant les inhumations dans la forêt de Sleshmantak.
Toutefois, c’est le 1er février que l’affaire a pris une ampleur nationale malgré le fait que l’opinion publique était alors monopolisée par l’élection imminente du Premier ministre, après des mois d’incertitude politique. Aux protestations des chrétiens se sont ajoutées celles de l’ethnie kiranti (3), également frappée du même interdit d’inhumer ses défunts à Pashupatinath. Le 29 janvier, l’intervention de la police sur l’ordre du PADT, interrompant dans la forêt de Sleshmantak l’enterrement d’un jeune chrétien de l’ethnie kiranti-rai a mis le feu aux poudres. Se réclamant d’une longue tradition d’ensevelissement de leurs morts sur le site sacré, les Kirantis, sous l’égide de la Nepal Federation of Indigenous Nationalities (NEFIN), ont manifesté à Katmandou et bloqué des routes, pendant que les chrétiens poursuivent leur mouvement de protestation.
Catholiques et protestants menacent de déposer devant le Parlement les cadavres privés de sépulture. Les chrétiens sont prêts à manifester en « portant des cercueils et des urnes funéraires », affirme le P. Pius Perumana, pro-vicaire apostolique du Népal, qui ajoute que « l’Etat désormais laïc doit garantir des droits égaux à tous les citoyens, quelle que soit leur religion ». Un avis partagé par Narayan Sharam, évêque au sein de la Believers Church, une Eglise protestante, qui rappelle que « les hindous doivent respecter les droits des autres religions ».
Le 2 février, après une journée d’affrontements entre les forces de l’ordre et plusieurs centaines de manifestants à Pashupatinath, les Kirantis ont obtenu du gouvernement la création d’un comité chargé de résoudre la question de l’inhumation des morts qui ne sont pas de religion hindoue. En attendant, ils ont été autorisés à inhumer leurs morts à Sleshmantak et le Premier Ministre a autorisé l’enterrement du jeune kiranti interrompu par la police.
Le 5 février dernier, alors que le Premier ministre du Népal était enfin désigné, les chrétiens ont rappelé que bien qu’ils « n’aient pas pris part aux manifestations des Kirantis », ils attendaient à leur tour que leurs revendications soient prises en compte. L’United Christian Alliance of Nepal (UCAN), un rassemblement œcuménique réunissant des responsables de l’Eglise catholique et de neuf dénominations protestantes, a publié une déclaration dans laquelle il demandait au nouveau gouvernement du Népal « d’accorder toute son attention aux communautés chrétiennes et personnes réclamant le droit à ensevelir leurs morts », et proposait en plus du « site funéraire de Pashupatinath » différentes autres lieux pouvant être convertis en cimetières.
Ces déclarations successives étant restées lettres mortes, C. G. Gahatraj, secrétaire général du Christian Advising Commitee, a lancé un ultimatum au nouveau Premier ministre, menaçant d’organiser une manifestation d’une durée indéterminée avec grève de la faim et blocage des routes par les cadavres sans sépulture si aucune réponse n’est apportée par le gouvernement d’ici le 15 février prochain.
Aujourd’hui, si la communauté chrétienne (surtout protestante) connaît indéniablement une forte expansion au Népal (certains parlent de 2 millions de croyants), il reste difficile de la quantifier avec exactitude, le seul chiffre fiable étant celui des 8 000 catholiques inscrits dans les registres des paroisses du pays.
(1) En raison de l’instabilité politique la nouvelle Constitution du Népal, qui devait être promulguée en 2010, est toujours en cours d’élaboration.
(2) Jusqu’en 2006, l’hindouisme était la religion officielle du royaume du Népal
(3) Les Kirantis (ou Kirants) regroupent différentes ethnies d’origine tibéto-birmane (Rai, Limbu, Yakha, Sunuwar) d’implantation ancienne au Népal. Leur religion, distincte du bouddhisme et de l’hindouisme, est organisée autour de leur livre saint appelé Mundhum.
(4) The Himalayan Times, 5 février 2011; ekantipur, 4 février 2011; Fides, 1er février 2011; Ucanews, 31 janvier 2011; AsiaNews, 28 janvier 2011; Christianpost, 26 janvier 2011.
(Source: Eglises d'Asie, 10 février 2011)
Le 29 décembre dernier, les autorités de Pashupatinath, ville sainte hindoue, proche de Katmandou,. ..
... interdisaient toute inhumation dans la forêt de Sleshmantak qui jouxte le temple, un site utilisé comme cimetière depuis des années par différentes communautés hindoues comme non hindoues. Le Pashupati Area Development Trust (PADT), qui gère le temple hindou de Pashupatinath, commençait déjà à détruire les tombes, à l’indignation des chrétiens dont plusieurs centaines de sépultures étaient en passe d’être profanées.
La forêt très dense qui entoure les ghats, plateformes au bord de la rivière sacrée Bagmati où brûlent jour et nuit les cadavres dont les cendres seront ensuite dispersées dans le courant, est un lieu de sépulture traditionnel pour certaines ethnies ainsi que pour quelques communautés hindoues du Népal, les Dashnamis. Les chrétiens de Katmandou avaient commencé à ensevelir leurs défunts dans la forêt de Sleshmantak, les quelques parcelles consacrées à cet usage dans la capitale (essentiellement des terrains privés) étant saturées. Le même problème affectait également les communautés musulmanes et baha’i, qui, tout comme les chrétiens, avaient fait, en vain, de nombreuses demandes de terrains pouvant être utilisés comme cimetières, auprès des gouvernements qui se sont succédés ces dernières années au Népal.
Certains, dont une grande part de catholiques, s’étaient résignés à la crémation. « Déjà que les vivants n’ont pas de terre, il est inutile d’en demander pour les morts ! », ironise Mgr Anthony Sharma, vicaire apostolique du Népal. « Nous avons accepté la crémation pour les catholiques au Népal, comme cela a été accepté ailleurs dans le monde [par L’Eglise]. (…) Mais la crémation elle-même est source de discrimination, souligne le prélat. Sur les ghats de Pashupatinath, il est fait une distinction entre les castes, et les chrétiens sont traités comme des basses castes. Nous avons donc dû mettre en place nos propres sites de crémation afin d’effectuer nos rites [avec le respect nécessaire envers les défunts]. »
Le 30 janvier dernier, le Comité consultatif chrétien sur la Constitution népalaise (Christian Committee on New Constitution) (1) réunissait les leaders des mouvements en faveur des droits de l’homme et les responsables des principaux partis politiques, dont celui du Congrès, du Parti communiste du Népal (PCN-MLU) et du Parti communiste maoïste (UCPN-M). « Depuis deux ans, au nom de la communauté chrétienne, nous avons multiplié les demandes officielles à tous les organes du gouvernement et même proposé des terrains dans Katmandou mais les choses n’ont fait qu’empirer avec les années et nos demandes ont été complètement ignorées », a déclaré le Rév. C. Bahadur Gahatraj, secrétaire général du Comité consultatif chrétien, aux nombreux officiels et journalistes présents.
Tous les leaders politiques ont assuré les chrétiens qu’ils soumettraient le problème en urgence à l’Assemblée constituante. Minendra Rijal, ministre de la Culture et des Affaires fédérales, déclarait notamment avec fermeté qu’après des siècles de monarchie hindoue, « le pays était désormais un Etat laïc et que tous les hindous devaient apprendre à compter avec les autres religions » (2). Mais face à l’avalanche de protestations des extrémistes hindous, le ministre, également à la tête du PADT, faisait rapidement volte-face, affirmant cette fois qu’il « ne laisserait personne blesser les sentiments religieux de millions d’hindous » en autorisant les inhumations dans la forêt de Sleshmantak.
Toutefois, c’est le 1er février que l’affaire a pris une ampleur nationale malgré le fait que l’opinion publique était alors monopolisée par l’élection imminente du Premier ministre, après des mois d’incertitude politique. Aux protestations des chrétiens se sont ajoutées celles de l’ethnie kiranti (3), également frappée du même interdit d’inhumer ses défunts à Pashupatinath. Le 29 janvier, l’intervention de la police sur l’ordre du PADT, interrompant dans la forêt de Sleshmantak l’enterrement d’un jeune chrétien de l’ethnie kiranti-rai a mis le feu aux poudres. Se réclamant d’une longue tradition d’ensevelissement de leurs morts sur le site sacré, les Kirantis, sous l’égide de la Nepal Federation of Indigenous Nationalities (NEFIN), ont manifesté à Katmandou et bloqué des routes, pendant que les chrétiens poursuivent leur mouvement de protestation.
Catholiques et protestants menacent de déposer devant le Parlement les cadavres privés de sépulture. Les chrétiens sont prêts à manifester en « portant des cercueils et des urnes funéraires », affirme le P. Pius Perumana, pro-vicaire apostolique du Népal, qui ajoute que « l’Etat désormais laïc doit garantir des droits égaux à tous les citoyens, quelle que soit leur religion ». Un avis partagé par Narayan Sharam, évêque au sein de la Believers Church, une Eglise protestante, qui rappelle que « les hindous doivent respecter les droits des autres religions ».
Le 2 février, après une journée d’affrontements entre les forces de l’ordre et plusieurs centaines de manifestants à Pashupatinath, les Kirantis ont obtenu du gouvernement la création d’un comité chargé de résoudre la question de l’inhumation des morts qui ne sont pas de religion hindoue. En attendant, ils ont été autorisés à inhumer leurs morts à Sleshmantak et le Premier Ministre a autorisé l’enterrement du jeune kiranti interrompu par la police.
Le 5 février dernier, alors que le Premier ministre du Népal était enfin désigné, les chrétiens ont rappelé que bien qu’ils « n’aient pas pris part aux manifestations des Kirantis », ils attendaient à leur tour que leurs revendications soient prises en compte. L’United Christian Alliance of Nepal (UCAN), un rassemblement œcuménique réunissant des responsables de l’Eglise catholique et de neuf dénominations protestantes, a publié une déclaration dans laquelle il demandait au nouveau gouvernement du Népal « d’accorder toute son attention aux communautés chrétiennes et personnes réclamant le droit à ensevelir leurs morts », et proposait en plus du « site funéraire de Pashupatinath » différentes autres lieux pouvant être convertis en cimetières.
Ces déclarations successives étant restées lettres mortes, C. G. Gahatraj, secrétaire général du Christian Advising Commitee, a lancé un ultimatum au nouveau Premier ministre, menaçant d’organiser une manifestation d’une durée indéterminée avec grève de la faim et blocage des routes par les cadavres sans sépulture si aucune réponse n’est apportée par le gouvernement d’ici le 15 février prochain.
Aujourd’hui, si la communauté chrétienne (surtout protestante) connaît indéniablement une forte expansion au Népal (certains parlent de 2 millions de croyants), il reste difficile de la quantifier avec exactitude, le seul chiffre fiable étant celui des 8 000 catholiques inscrits dans les registres des paroisses du pays.
(1) En raison de l’instabilité politique la nouvelle Constitution du Népal, qui devait être promulguée en 2010, est toujours en cours d’élaboration.
(2) Jusqu’en 2006, l’hindouisme était la religion officielle du royaume du Népal
(3) Les Kirantis (ou Kirants) regroupent différentes ethnies d’origine tibéto-birmane (Rai, Limbu, Yakha, Sunuwar) d’implantation ancienne au Népal. Leur religion, distincte du bouddhisme et de l’hindouisme, est organisée autour de leur livre saint appelé Mundhum.
(4) The Himalayan Times, 5 février 2011; ekantipur, 4 février 2011; Fides, 1er février 2011; Ucanews, 31 janvier 2011; AsiaNews, 28 janvier 2011; Christianpost, 26 janvier 2011.
(Source: Eglises d'Asie, 10 février 2011)
Tin Giáo Hội Việt Nam
Cảm nhận ngày gặp mặt đầu năm Xuân Tân Mão của Sinh viên Công giáo Tuy Hòa
Micae Trần
09:47 10/02/2011
GIỮA “ĐẦY XUÂN” ĐI TÌM “CHÚT THIẾU”
(Cảm nhận ngày gặp mặt đầu năm Xuân Tân Mão của Sinh viên Công giáo Tuy Hòa)
Tràn ngập tin nhắn nơi các điện thoại di động nhân dịp năm mới là những câu chúc được lập trình sẵn như: Chúc năm mới phát tài, phát lộc, tiền vào cửa trước, vàng vào cửa sau, hai cái gặp nhau chui vào két sắt, một phần mua đất, một phần mua đô, một nửa mua ô tô, loại Camry HOT ! Không đi đường nhánh, cứ đi đường to, thiên hạ hô to: “ Hoan hô tỷ phú” hoặc một câu khác: Năm hết tết đến, rước lộc vào nhà, quà cáp bao la, cả nhà no đủ, vàng bạc đầy tủ, gia chủ phát tài, già trẻ gái trai, sum vầy hạnh phúc…Nếu gặp nhau, họ nắm tay và kèm theo câu chúc: Vạn sự như ý…chúng ta khó nghe thấy câu chúc nào mang bóng dáng tiêu cực, u buồn. Khi trang trí, chuẩn bị cho năm mới, chúng ta còn ao ước mọi điều tốt lành qua tên gọi của cây cảnh được dùng như phải là hoa Vạn Thọ, cây Lộc Vừng, cành Sung, cây Quất trỉu trái tượng trưng cho sự sung túc, giàu sang. Có cụ già khi được đề nghị muốn con cháu chúc cho điều gì? Cụ bảo: Chúc cho sống thêm được chín mười năm nữa, người ta hỏi: Sao lại muốn chúc điều này? Cụ bảo: Vì trước đây cùng khổ, không chết, nay nhà cửa khang trang, chết uổng lắm, như thế đủ biết khát vọng trường thọ và giàu sang là cái canh cánh bên lòng. Đây cũng là lẽ thường tình của con người, ai lại chẳng hiếu sinh úy tử.
Qua những câu chúc, người ta có thể dễ dàng nhận ra sự ước mong được sung túc thịnh vượng nhưng đến với đêm họp mặt truyền thống dịp đầu năm(Mùng 4 tết), sinh viên công giáo Tuy hòa lại chọn cho mình cách đặt vấn đề có vẻ hoài nghi nội dung của những lời chúc trên, đó là: CÓ THIẾU GÌ KHÔNG? Phải chăng các bạn muốn tìm thêm bên kia giá trị nơi những câu chúc thường nghe đó còn có điều gì khác nữa? Và như thế hơn 70 sinh viên công giáo – những đứa con của giáo xứ Tuy Hòa thuộc các thế hệ 8X, 9X từ Huế đến Sài Gòn đã ngồi lại với nhau đi tìm câu giải đáp cho những ai muốn hoàn thiện đời mình khi còn đang ngồi trên ghế giảng đường đại học.
Các bạn trẻ đã hỏi và trả lời về cái THIẾU đầu tiên khiến cho ai ai tham dự buổi gặp gỡ đều ngỡ ngàng – THIẾU NGÔN NGỮ - Chẳng phải một ngôn ngữ nước ngoài nào đó, chẳng phải trình độ bằng A, bằng B như yêu cầu của những cơ quan thi tuyển công chức nhưng thiếu ngôn ngữ giao tiếp hay nói đúng hơn lạm dụng tiếng mẹ đẻ Việt Nam để họ thấy rằng phải chăng chúng ta đang quá thực dụng, quá đơn giản để chúng ta tha hồ MÚA cải biên tiếng Việt, một thứ cải biên không theo khuôn mẫu nào, chẳng hạn đâu nhất thiết phải là BIẾT, có thể BIT hay BIK cũng là BIẾT cơ mà; như thế, họ đâu có thiếu, họ đang thừa đấy chứ! Nhưng có thứ tự họ không cho phép mình phá cách…Các bạn sinh viên đã đưa dần người tham dự đi tìm thứ ngôn ngữ mà bản thân họ - Sinh viên CÔNG GIÁO - gần như chưa có, ngôn ngữ Tình yêu để trình bày, để giới thiệu Đức Ki tô trong môi trường đại học. Từ thứ ngôn ngữ trần thế, các bạn trẻ đi tìm ngôn ngữ Nước Trời.
Muốn lấp đầy lỗ hổng ngôn ngữ siêu nhiên, ngôn ngữ làm thăng hoa đời sống, ngôn ngữ cứu độ, các bạn sinh viên khiêm tốn thừa nhận rằng lâu nay họ quá mải mê đi tìm thứ ngôn ngữ khác, ngôn ngữ âm nhạc như SuperJunior, tìm tòi để biết các ban nhạc nổi tiếng lừng danh... Họ sẵn sàng bỏ đi một buổi học để tìm cho mình chiếc vé vào của, quá say mê những HOT…những Scandal của các nhân vật trẻ, họ quá thuộc lý lịch của các thần tượng…nhưng họ chẳng biết gì nhiều về Giáo Hội Hoàn vũ, về Giáo hội Việt Nam, về những khốn khó Giáo hội đang gặp phải nơi này nơi khác, vì VÔ TRI, họ nhận rằng mình thiếu lửa nhiệt tình sống đạo và họ cũng thờ ơ luôn đối với quê hương, cũng chẳng màn đến chuyện sống còn của tổ quốc, dù chẳng giàu có gì nhưng thích sống hưởng thụ, một tiểu phẩm nho nhỏ được sáng tác và chuẩn bị trong năm ba phút diễn lại cảnh yêu cuồng sống vội đủ để chúng tôi nhận ra rằng qua cách diễn của họ, tiểu phẩm này không khó sáng tác, nó là cảnh thường gặp mỗi ngày. Trái tim họ dành chỗ cho những cuôc tình mau đến chóng đi để còn đâu khoảng trống dành cho Niềm tin và Thao thức sống cuộc đời nhân chứng?
Nhận biết mình ĐANG THIẾU là tín hiệu báo trước mình đang dần lấp đầy chỗ trũng. Tín hiệu rõ nhất là họ chia sẽ ngôn ngữ biểu tượng qua hình ảnh linh mục liên tiếp trao ban Thánh Thể cho rất nhiều người, cử chỉ Trao Ban khiến họ định lại sứ vụ của mình, sứ vụ biết chia phần cho anh chị em xung quanh. Lời chia sẻ ấy khiến mọi thành phần tham dự buổi gặp gỡ thêm niềm hy vọng vào một lớp trẻ Công Giáo, một lớp trẻ dám gắn liền tên tuổi mình vào Đức Kitô; một lớp trẻ hăng say, nhiệt tình ra đi dựng xây thế giới; một lớp trẻ biết sống hiệp nhất, yêu thương, sẵn sàng kết nối anh em dù phú quý mọn hèn; một lớp trẻ tin yêu, phó thác - vì Chúa họ ra đi – Có Chúa họ không lo gì (bài hát Tuổi trẻ Đức Kitô-Nhân Văn).
Buổi gặp gỡ đầu năm của sinh viên công giáo Tuy hòa được kết thúc trước di tượng An rê Phú yên qua tâm tình trong ca từ của An rê Phú Yên - LM Võ tá Khánh, Nhạc LM Sơn ca Linh: Tình yêu đáp trả tình yêu “ Anh chị em ơi, thủy chung một lòng, ta giữ nghĩa cùng Chúa Giê su”sau khi được mời gọi bằng lời nguyện xin: Nguyện xin Cho Con biết Chúa
Nguyện xin cho con biết Con
Để con được tìm thấy Chúa
Và để con tìm lại chính Con.
Không thấy Chúa sao được khi giờ đây những lời chúc xuân của con người nơi thế gian đã lặn đi để nhường chỗ cho tiếng mời gọi nơi Đức Ki-tô nhân ngày đầu năm:
Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó
Phúc cho ai hiền từ
Phúc cho ai khao khát nên người công chính
Phúc cho ai giữ lòng sạch sẽ
Phúc cho ai kiến tạo hòa bình… ( Mt 5/1-12)
Bước về lại giảng đường, dường như họ nhận ra mình không còn THIẾU nữa khi đã biết nói lời tạ ơn: Tạ ơn Chúa, Cảm ơn Cha sở, Cảm ơn Hội Đồng Chức việc, cảm ơn nhau vì cuộc gặp gỡ xuân Tân Mão này giúp họ xác định rõ họ là ai, họ phải làm gì trong gia đình Giáo hội Việt nam hôm nay.
(Cảm nhận ngày gặp mặt đầu năm Xuân Tân Mão của Sinh viên Công giáo Tuy Hòa)
Tràn ngập tin nhắn nơi các điện thoại di động nhân dịp năm mới là những câu chúc được lập trình sẵn như: Chúc năm mới phát tài, phát lộc, tiền vào cửa trước, vàng vào cửa sau, hai cái gặp nhau chui vào két sắt, một phần mua đất, một phần mua đô, một nửa mua ô tô, loại Camry HOT ! Không đi đường nhánh, cứ đi đường to, thiên hạ hô to: “ Hoan hô tỷ phú” hoặc một câu khác: Năm hết tết đến, rước lộc vào nhà, quà cáp bao la, cả nhà no đủ, vàng bạc đầy tủ, gia chủ phát tài, già trẻ gái trai, sum vầy hạnh phúc…Nếu gặp nhau, họ nắm tay và kèm theo câu chúc: Vạn sự như ý…chúng ta khó nghe thấy câu chúc nào mang bóng dáng tiêu cực, u buồn. Khi trang trí, chuẩn bị cho năm mới, chúng ta còn ao ước mọi điều tốt lành qua tên gọi của cây cảnh được dùng như phải là hoa Vạn Thọ, cây Lộc Vừng, cành Sung, cây Quất trỉu trái tượng trưng cho sự sung túc, giàu sang. Có cụ già khi được đề nghị muốn con cháu chúc cho điều gì? Cụ bảo: Chúc cho sống thêm được chín mười năm nữa, người ta hỏi: Sao lại muốn chúc điều này? Cụ bảo: Vì trước đây cùng khổ, không chết, nay nhà cửa khang trang, chết uổng lắm, như thế đủ biết khát vọng trường thọ và giàu sang là cái canh cánh bên lòng. Đây cũng là lẽ thường tình của con người, ai lại chẳng hiếu sinh úy tử.
Qua những câu chúc, người ta có thể dễ dàng nhận ra sự ước mong được sung túc thịnh vượng nhưng đến với đêm họp mặt truyền thống dịp đầu năm(Mùng 4 tết), sinh viên công giáo Tuy hòa lại chọn cho mình cách đặt vấn đề có vẻ hoài nghi nội dung của những lời chúc trên, đó là: CÓ THIẾU GÌ KHÔNG? Phải chăng các bạn muốn tìm thêm bên kia giá trị nơi những câu chúc thường nghe đó còn có điều gì khác nữa? Và như thế hơn 70 sinh viên công giáo – những đứa con của giáo xứ Tuy Hòa thuộc các thế hệ 8X, 9X từ Huế đến Sài Gòn đã ngồi lại với nhau đi tìm câu giải đáp cho những ai muốn hoàn thiện đời mình khi còn đang ngồi trên ghế giảng đường đại học.
Các bạn trẻ đã hỏi và trả lời về cái THIẾU đầu tiên khiến cho ai ai tham dự buổi gặp gỡ đều ngỡ ngàng – THIẾU NGÔN NGỮ - Chẳng phải một ngôn ngữ nước ngoài nào đó, chẳng phải trình độ bằng A, bằng B như yêu cầu của những cơ quan thi tuyển công chức nhưng thiếu ngôn ngữ giao tiếp hay nói đúng hơn lạm dụng tiếng mẹ đẻ Việt Nam để họ thấy rằng phải chăng chúng ta đang quá thực dụng, quá đơn giản để chúng ta tha hồ MÚA cải biên tiếng Việt, một thứ cải biên không theo khuôn mẫu nào, chẳng hạn đâu nhất thiết phải là BIẾT, có thể BIT hay BIK cũng là BIẾT cơ mà; như thế, họ đâu có thiếu, họ đang thừa đấy chứ! Nhưng có thứ tự họ không cho phép mình phá cách…Các bạn sinh viên đã đưa dần người tham dự đi tìm thứ ngôn ngữ mà bản thân họ - Sinh viên CÔNG GIÁO - gần như chưa có, ngôn ngữ Tình yêu để trình bày, để giới thiệu Đức Ki tô trong môi trường đại học. Từ thứ ngôn ngữ trần thế, các bạn trẻ đi tìm ngôn ngữ Nước Trời.
Muốn lấp đầy lỗ hổng ngôn ngữ siêu nhiên, ngôn ngữ làm thăng hoa đời sống, ngôn ngữ cứu độ, các bạn sinh viên khiêm tốn thừa nhận rằng lâu nay họ quá mải mê đi tìm thứ ngôn ngữ khác, ngôn ngữ âm nhạc như SuperJunior, tìm tòi để biết các ban nhạc nổi tiếng lừng danh... Họ sẵn sàng bỏ đi một buổi học để tìm cho mình chiếc vé vào của, quá say mê những HOT…những Scandal của các nhân vật trẻ, họ quá thuộc lý lịch của các thần tượng…nhưng họ chẳng biết gì nhiều về Giáo Hội Hoàn vũ, về Giáo hội Việt Nam, về những khốn khó Giáo hội đang gặp phải nơi này nơi khác, vì VÔ TRI, họ nhận rằng mình thiếu lửa nhiệt tình sống đạo và họ cũng thờ ơ luôn đối với quê hương, cũng chẳng màn đến chuyện sống còn của tổ quốc, dù chẳng giàu có gì nhưng thích sống hưởng thụ, một tiểu phẩm nho nhỏ được sáng tác và chuẩn bị trong năm ba phút diễn lại cảnh yêu cuồng sống vội đủ để chúng tôi nhận ra rằng qua cách diễn của họ, tiểu phẩm này không khó sáng tác, nó là cảnh thường gặp mỗi ngày. Trái tim họ dành chỗ cho những cuôc tình mau đến chóng đi để còn đâu khoảng trống dành cho Niềm tin và Thao thức sống cuộc đời nhân chứng?
Nhận biết mình ĐANG THIẾU là tín hiệu báo trước mình đang dần lấp đầy chỗ trũng. Tín hiệu rõ nhất là họ chia sẽ ngôn ngữ biểu tượng qua hình ảnh linh mục liên tiếp trao ban Thánh Thể cho rất nhiều người, cử chỉ Trao Ban khiến họ định lại sứ vụ của mình, sứ vụ biết chia phần cho anh chị em xung quanh. Lời chia sẻ ấy khiến mọi thành phần tham dự buổi gặp gỡ thêm niềm hy vọng vào một lớp trẻ Công Giáo, một lớp trẻ dám gắn liền tên tuổi mình vào Đức Kitô; một lớp trẻ hăng say, nhiệt tình ra đi dựng xây thế giới; một lớp trẻ biết sống hiệp nhất, yêu thương, sẵn sàng kết nối anh em dù phú quý mọn hèn; một lớp trẻ tin yêu, phó thác - vì Chúa họ ra đi – Có Chúa họ không lo gì (bài hát Tuổi trẻ Đức Kitô-Nhân Văn).
Buổi gặp gỡ đầu năm của sinh viên công giáo Tuy hòa được kết thúc trước di tượng An rê Phú yên qua tâm tình trong ca từ của An rê Phú Yên - LM Võ tá Khánh, Nhạc LM Sơn ca Linh: Tình yêu đáp trả tình yêu “ Anh chị em ơi, thủy chung một lòng, ta giữ nghĩa cùng Chúa Giê su”sau khi được mời gọi bằng lời nguyện xin: Nguyện xin Cho Con biết Chúa
Nguyện xin cho con biết Con
Để con được tìm thấy Chúa
Và để con tìm lại chính Con.
Không thấy Chúa sao được khi giờ đây những lời chúc xuân của con người nơi thế gian đã lặn đi để nhường chỗ cho tiếng mời gọi nơi Đức Ki-tô nhân ngày đầu năm:
Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó
Phúc cho ai hiền từ
Phúc cho ai khao khát nên người công chính
Phúc cho ai giữ lòng sạch sẽ
Phúc cho ai kiến tạo hòa bình… ( Mt 5/1-12)
Bước về lại giảng đường, dường như họ nhận ra mình không còn THIẾU nữa khi đã biết nói lời tạ ơn: Tạ ơn Chúa, Cảm ơn Cha sở, Cảm ơn Hội Đồng Chức việc, cảm ơn nhau vì cuộc gặp gỡ xuân Tân Mão này giúp họ xác định rõ họ là ai, họ phải làm gì trong gia đình Giáo hội Việt nam hôm nay.
Thông báo khẩn của Ủy ban Bác ái Xã hội - Caritas Việt Nam
Văn phòng Caritas Việt Nam
10:30 10/02/2011
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
UỶ BAN BÁC ÁI XÃ HỘI - CARITAS VIỆT NAM
Thông Báo Khẩn
Kính gửi: Đức Hồng y, Quý Đức cha, Quý cha, Quý tu sĩ nam nữ,
Quý ân nhân trong và ngoài nước Việt Nam,
Văn phòng Trung ương Caritas Việt Nam xin thông báo đến Đức Hồng y, Quý Đức cha, Quý cha và toàn thể quý vị một điểm rất quan trọng sau:
Hiện nay, văn phòng Caritas Việt Nam phát hiện một trang web giả mạo lấy tên là http://caritasvietnam.org. Trang web này không thuộc sở hữu của UỶ BAN BÁC ÁI XÃ HỘI - CARITAS VIỆT NAM. Dù giao diện và bài vở của trang web giả mạo này đều lấy từ website của chúng tôi là http://caritasvn.org.
Vậy, chúng tôi xin thông báo đến quý độc giả, các trang web Công giáo và các trang web truyền thông để quý vị cảnh giác và đề phòng sự giả mạo nguy hiểm này. Bất cứ thông báo và các thông tin từ trang web giả mạo này đều không có giá trị. Chúng tôi không chịu trách nhiệm nào về trang web này.
Ghi chú của VietCatholic: Chúng tôi đã vào xem nội dung giao diện trang Web lấy danh nghĩa của Caritas Vietnam theo hình dưới đây. Chúng tôi cũng tìm hiểu và được biết cá nhân và tổ chức trách nhiệm trang caritasvietnam mới ghi danh từ ngày 29.12.2010 và có dự kiện kèm theo:
UỶ BAN BÁC ÁI XÃ HỘI - CARITAS VIỆT NAM
Thông Báo Khẩn
Kính gửi: Đức Hồng y, Quý Đức cha, Quý cha, Quý tu sĩ nam nữ,
Quý ân nhân trong và ngoài nước Việt Nam,
Văn phòng Trung ương Caritas Việt Nam xin thông báo đến Đức Hồng y, Quý Đức cha, Quý cha và toàn thể quý vị một điểm rất quan trọng sau:
Hiện nay, văn phòng Caritas Việt Nam phát hiện một trang web giả mạo lấy tên là http://caritasvietnam.org. Trang web này không thuộc sở hữu của UỶ BAN BÁC ÁI XÃ HỘI - CARITAS VIỆT NAM. Dù giao diện và bài vở của trang web giả mạo này đều lấy từ website của chúng tôi là http://caritasvn.org.
Vậy, chúng tôi xin thông báo đến quý độc giả, các trang web Công giáo và các trang web truyền thông để quý vị cảnh giác và đề phòng sự giả mạo nguy hiểm này. Bất cứ thông báo và các thông tin từ trang web giả mạo này đều không có giá trị. Chúng tôi không chịu trách nhiệm nào về trang web này.
Ghi chú của VietCatholic: Chúng tôi đã vào xem nội dung giao diện trang Web lấy danh nghĩa của Caritas Vietnam theo hình dưới đây. Chúng tôi cũng tìm hiểu và được biết cá nhân và tổ chức trách nhiệm trang caritasvietnam mới ghi danh từ ngày 29.12.2010 và có dự kiện kèm theo:
![]() |
Thánh lễ ngoại lệ tại Chùa cho một vị chân tu vừa theo Chúa
Thanh Tâm
11:27 10/02/2011
Theo lẽ thường, Thánh Lễ thường được cử hành tại Nhà Thờ, tại Nguyện Đường. Có những trường hợp đặc biệt vì hoàn cảnh nào đó thì Thánh Lễ được cử hành tại tư gia. Chiều hôm nay, một Thánh Lễ hết sức đặc biệt được cử hành ở một nơi hết sức đặc biệt đó là tại một ngôi chùa. Chuyện đặc biệt này xảy đến vì lẽ người quá cố là người trụ trì ngôi chùa thân yêu mang tên Quan Âm (Bình Hưng - Bình Chánh).
Chuyện xẩy ra là trong những ngày cuối năm 2010, ở căn phòng của bệnh viện Phạm Ngọc Thạch vang lên những lời kinh, tiếng hát để cầu nguyện cho bệnh nhân. Cạnh lời kinh tiếng hát ấy có cả việc cử hành bí tích giải tội và cả rửa tội nữa.
Rồi một ngày kia, nằm trong căn phòng nhỏ ấy bỗng dưng có bệnh nhân ngồi dậy và xin những người đang làm việc tông đồ là "muốn theo đạo Chúa!" Hết sức ngạc nhiên vì lẽ bệnh nhân rõ ràng là một sư cô nhưng lại ngỏ ý theo đạo. Một người bình thường bảo theo đạo đã là khó huống hồ chi là một vị sư cô.
Thế rồi, ngày 13 tháng 12 năm 2010 tại bệnh viện, sư cô Lương Thị Phụng đã được nhận bí tích Thánh Tẩy trở thành con cái Chúa với tên mới là Maria Lương Thị Phụng.
Sau những ngày chạy chữa, sư cô trở về ngôi chùa thân thương của mình. Tình người, tình Chúa cũng đi theo sư cô về ngôi chùa ấy. Thi thoảng những người giúp cho sư cô biết Chúa, biết Đạo cũng đến để thăm hỏi, để cầu kinh.
Chỉ sau một thời gian tin theo Chúa, Maria Lương Thị Phụng đã được Chúa gọi về Nhà Cha trên trời ngày 7 tháng 2. Thể theo lời thỉnh nguyện của người quá cố, gia đình đồng ý cho linh mục đến Chùa Quan Âm (nơi sư cô trụ trì) để dâng lễ cầu nguyện cho người ra đi.
Hiện diện trong ngôi Chùa hôm nay, hiện diện trong Thánh Lễ an táng cho Maria Lương Thị Phụng hôm nay hết sức dễ thương. Chủ tế là một linh mục dòng Chúa Cứu Thế, bài ca, bài đọc được các nữ tu dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán và các sơ thuộc nữ tử bác ái Vinh Sơn, một số giáo dân và cả gia đình tang quyến. Đặc biệt là trong Thánh Lễ này có cả sự hiện diện của quý tu sĩ của Chùa và những phật tử thân quen với người quá cố.
Trước khi cử hành Thánh Lễ, mọi người chào nhau bằng ánh mắt của tình thương, của tình liên đới giữa những người mang danh là Phật tử và giữa những người mang tên Giêsu. Vài người hỏi linh mục chủ tế rằng có ngạc nhiên không thì ngài mỉm cười bảo “Thiên Chúa có đường lối của Ngài”.
Trong bài chia sẻ, linh mục chủ tế mượn hình ảnh của anh chàng Giakêu trèo lên cây sung để gặp Chúa để diễn tả hình ảnh của một Maria Lương Thị Phụng. Maria Phụng nằm trên giường bệnh nhưng một ngày kia đã ngồi lên và xin học đạo. Thế là trên giường bệnh, Maria Phụng đã tuyên xưng niềm tin của mình … Thiên Chúa chọn mỗi người mỗi kiểu và mỗi cách. Cách đây chừng 1 tuần lễ, linh mục cũng dâng lễ An táng cho mẹ của một nữ tu cũng vừa theo Chúa hơn chục năm. Bà cố năm nay thọ 96 tuổi nhưng mới theo Chúa thôi. Đặc biệt là chính bà cố là người thúc đẩy ông cố theo Chúa nữa. .. Thiên Chúa chọn, Thiên Chúa gọi mỗi người mỗi cách riêng không ai biết … Như hôm nao nhà của Giakêu đón nhận ơn cứu độ thì hôm nay nhà của Maria Lương Thị Phụng cũng đón nhận ơn cứu độ. Không chỉ mình Maria Phụng thôi nhưng hôm nay ngôi nhà thân thương này đã được Chúa đến viếng thăm và ban ơn cứu độ.
Thánh Lễ được cử hành hết sức trang nghiêm và sốt sắng cùng với lời ca tiếng hát thánh thiêng của các sơ và cả sự thành tâm của tang quyến, của Phật tử.
Hết sức dễ thương, người đại diện của tang quyến nói lời cảm ơn ngắn gọn: “Con xin cảm ơn Cha, cảm ơn các sơ đã đến cầu kinh, nguyện hát cho mẹ của con!” Người con nuôi của vị sư trụ trì Chùa hết sức đơn giản.
Hình ảnh của bà Maria Lương Thị Phụng thật dễ thương. Bà được Thiên Chúa chọn, Thiên Chúa gọi trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt: trong bệnh viện, trong tư cách là nữ tu trụ trì Chùa.
Thiên Chúa gặp con người trong mọi nẻo đường đời. Có thể là một trẻ sơ sinh hay là một người lớn, và cũng có thể là một vị sư trụ trì của một ngôi chùa nữa. Thiên Chúa luôn có cách của Ngài.
Thế là từ ngày 13 tháng 12 năm 2010, Hội Thánh Công Giáo có thêm một kitô hữu nữa tên là Maria và ngày 7 tháng 2 năm 2011 Nước Trời lại có thêm một công dân mang tên Maria Lương Thị Phụng nữa.
Tạ ơn Chúa vì tất cả những hồng ân, những kỳ công Ngài thêu dệt trong cõi nhân sinh này.
Chuyện xẩy ra là trong những ngày cuối năm 2010, ở căn phòng của bệnh viện Phạm Ngọc Thạch vang lên những lời kinh, tiếng hát để cầu nguyện cho bệnh nhân. Cạnh lời kinh tiếng hát ấy có cả việc cử hành bí tích giải tội và cả rửa tội nữa.
Rồi một ngày kia, nằm trong căn phòng nhỏ ấy bỗng dưng có bệnh nhân ngồi dậy và xin những người đang làm việc tông đồ là "muốn theo đạo Chúa!" Hết sức ngạc nhiên vì lẽ bệnh nhân rõ ràng là một sư cô nhưng lại ngỏ ý theo đạo. Một người bình thường bảo theo đạo đã là khó huống hồ chi là một vị sư cô.
Thế rồi, ngày 13 tháng 12 năm 2010 tại bệnh viện, sư cô Lương Thị Phụng đã được nhận bí tích Thánh Tẩy trở thành con cái Chúa với tên mới là Maria Lương Thị Phụng.
Sau những ngày chạy chữa, sư cô trở về ngôi chùa thân thương của mình. Tình người, tình Chúa cũng đi theo sư cô về ngôi chùa ấy. Thi thoảng những người giúp cho sư cô biết Chúa, biết Đạo cũng đến để thăm hỏi, để cầu kinh.
Chỉ sau một thời gian tin theo Chúa, Maria Lương Thị Phụng đã được Chúa gọi về Nhà Cha trên trời ngày 7 tháng 2. Thể theo lời thỉnh nguyện của người quá cố, gia đình đồng ý cho linh mục đến Chùa Quan Âm (nơi sư cô trụ trì) để dâng lễ cầu nguyện cho người ra đi.
Hiện diện trong ngôi Chùa hôm nay, hiện diện trong Thánh Lễ an táng cho Maria Lương Thị Phụng hôm nay hết sức dễ thương. Chủ tế là một linh mục dòng Chúa Cứu Thế, bài ca, bài đọc được các nữ tu dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán và các sơ thuộc nữ tử bác ái Vinh Sơn, một số giáo dân và cả gia đình tang quyến. Đặc biệt là trong Thánh Lễ này có cả sự hiện diện của quý tu sĩ của Chùa và những phật tử thân quen với người quá cố.
Trước khi cử hành Thánh Lễ, mọi người chào nhau bằng ánh mắt của tình thương, của tình liên đới giữa những người mang danh là Phật tử và giữa những người mang tên Giêsu. Vài người hỏi linh mục chủ tế rằng có ngạc nhiên không thì ngài mỉm cười bảo “Thiên Chúa có đường lối của Ngài”.
Trong bài chia sẻ, linh mục chủ tế mượn hình ảnh của anh chàng Giakêu trèo lên cây sung để gặp Chúa để diễn tả hình ảnh của một Maria Lương Thị Phụng. Maria Phụng nằm trên giường bệnh nhưng một ngày kia đã ngồi lên và xin học đạo. Thế là trên giường bệnh, Maria Phụng đã tuyên xưng niềm tin của mình … Thiên Chúa chọn mỗi người mỗi kiểu và mỗi cách. Cách đây chừng 1 tuần lễ, linh mục cũng dâng lễ An táng cho mẹ của một nữ tu cũng vừa theo Chúa hơn chục năm. Bà cố năm nay thọ 96 tuổi nhưng mới theo Chúa thôi. Đặc biệt là chính bà cố là người thúc đẩy ông cố theo Chúa nữa. .. Thiên Chúa chọn, Thiên Chúa gọi mỗi người mỗi cách riêng không ai biết … Như hôm nao nhà của Giakêu đón nhận ơn cứu độ thì hôm nay nhà của Maria Lương Thị Phụng cũng đón nhận ơn cứu độ. Không chỉ mình Maria Phụng thôi nhưng hôm nay ngôi nhà thân thương này đã được Chúa đến viếng thăm và ban ơn cứu độ.
Thánh Lễ được cử hành hết sức trang nghiêm và sốt sắng cùng với lời ca tiếng hát thánh thiêng của các sơ và cả sự thành tâm của tang quyến, của Phật tử.
Hết sức dễ thương, người đại diện của tang quyến nói lời cảm ơn ngắn gọn: “Con xin cảm ơn Cha, cảm ơn các sơ đã đến cầu kinh, nguyện hát cho mẹ của con!” Người con nuôi của vị sư trụ trì Chùa hết sức đơn giản.
Hình ảnh của bà Maria Lương Thị Phụng thật dễ thương. Bà được Thiên Chúa chọn, Thiên Chúa gọi trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt: trong bệnh viện, trong tư cách là nữ tu trụ trì Chùa.
Thiên Chúa gặp con người trong mọi nẻo đường đời. Có thể là một trẻ sơ sinh hay là một người lớn, và cũng có thể là một vị sư trụ trì của một ngôi chùa nữa. Thiên Chúa luôn có cách của Ngài.
Thế là từ ngày 13 tháng 12 năm 2010, Hội Thánh Công Giáo có thêm một kitô hữu nữa tên là Maria và ngày 7 tháng 2 năm 2011 Nước Trời lại có thêm một công dân mang tên Maria Lương Thị Phụng nữa.
Tạ ơn Chúa vì tất cả những hồng ân, những kỳ công Ngài thêu dệt trong cõi nhân sinh này.
Tái thiết thánh đường cho người phong cùi Văn Môn ở Thái Bình
Đam Nguyên
11:40 10/02/2011
THÁI BÌNH, Việt Nam – Các bệnh nhân phong cùi ở một trại phong lớn nhất miền bắc Việt Nam vui mừng vì nhà thờ của họ được tái thiết làm nơi dâng lễ, cầu nguyện và trú ngụ thiên tai.
Xem hình ảnh
Khoảng 1.200 người bao gồm tu sĩ, chủng sinh, giáo dân, ban giám đốc trại phong, bệnh nhân, y bác sĩ và lương dân đã tham dự nghi thức cắt băng khánh thành, làm phép nhà thờ mới và Thánh lễ tạ ơn hôm mồng 4 Tết (6-2) do Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ của Thái Bình chủ sự. Đồng tế với ngài có 20 linh mục và 1 phó tế (con của 1 bệnh nhân).
Ông Vinhsơn Vũ Thế Hùng, một trong số những bệnh nhân tham dự Thánh lễ trọng thể ấy, nói rằng: “Tôi tin rằng lòng thương xót Chúa đã nhận lời chúng tôi kêu xin”. Ông Hùng 65 tuổi cho biết ngôi nhà thờ cũ vì quá nhỏ bé và cũ nát, nó không đáp ứng đủ nhu cầu cho các dịp lễ lớn và nó cũng có thể gây nguy hiểm cho giáo dân ngồi dự lễ vì tường đã bị nứt và mái bị dột.
“Ngôi nhà thờ cũ 75 tuổi đã hoàn thành vai trò của nó, thay vào đó là nhà thờ mới rộng lớn, xinh đẹp và chắc chắn hơn. Chúng tôi vui mừng, hạnh phúc, thêm tin tưởng vào Chúa và an tâm ngồi tham dự các lễ nghi Công Giáo diễn ra bên trong nhà thờ”, ông Hùng nói. Ông kể lại những năm trước, bệnh nhân và giáo dân phải ngồi ngoài trời lấy dù che mưa nắng và gió rét để tham dự Thánh lễ đầu năm do Đức giám mục chủ sự.
Từ năm 1993, sau khi Đức cha Phanxicô Nguyễn Văn Sang về làm giám mục Thái Bình, ngài đã khởi xướng thói quen quy tụ mọi thành phần trong giáo phận về dâng Thánh lễ đầu xuân để cầu nguyện và an ủi các bệnh nhân tại nhà thờ giáo họ Đông Thọ vào ngày mồng 4 Tết nguyên đán hàng năm. Nhà thờ giáo họ nằm trong khu vực trại phong Văn Môn, xã Vũ Vân, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, cách Hà Nội 115 kilômet về hướng đông nam.
Bà Maria Nguyễn Thị Tài, trùm chánh giáo họ Đông Thọ, phát biểu cuối Thánh lễ rằng: “Chúng con không thể kể hết những ơn lành trọng đại mà Thiên Chúa đã ban cho chúng con trong những năm qua. Ngôi nhà thờ mới là một trong những ơn đó. Chúng con tri ân cha xứ, các ân nhân, ban giám đốc bệnh viện phong – da liễu Văn Môn, tất cả những người đã góp công sức xây dựng nhà thờ này, kể cả những người không Công Giáo và những người nay đã qua đời.”
Bà Tài 62 tuổi, một trong những người đã từng nhiễm trùng Hansen mà nay đã khỏi bệnh, nói tiếp rằng: “Nhà thờ mới mang tước hiệu ‘Lòng Thương Xót Chúa’ như bông hoa tươi đẹp chúng con dâng lên Thiên Chúa và Đức Mẹ Maria. Chúng con không thể diễn tả được nỗi vui mừng của mình. Chúng con như người đang mơ khi chứng kiến tận mắt nhà thờ mới được khánh thành. Chúng con mượn Thánh Vịnh 125 mà hát lên rằng: ‘Việc Chúa làm cho ta ôi thật vị đại, ta thấy mình chan chứa một niềm vui’”.
Linh mục Giuse Mai Trần Huynh, đặc trách trại phong Văn Môn, người khởi xướng xây dựng lại nhà thờ cho giáo họ và cũng là cho các bệnh nhân phong cùi, nói rằng: “Lịch sử trại phong Văn Môn có 3 nhà thờ nằm ở 3 vị trí đông – tây – nam theo khu vực và nhóm bệnh nhân nặng nhẹ khác nhau, mỗi khu vực ấy gọi là ‘giáp’. Hiện nay một nhà thờ đã sập đổ và mất tích, chỉ còn lại 2 nhà thờ, trong đó nhà thờ Đông Thọ là nhà thờ nằm ở vị trí trung tâm, cao hơn, lớn hơn để đáp ứng cho những dịp lễ lớn trong toàn trại”.
Cha Huynh 65 tuổi, đặc trách trại phong từ năm 1992, cho biết năm 2007 ngài đã tái thiết nhà thờ Tây An làm nhà nguyện cho các bệnh nhân thường xuyên vào chầu Mình Thánh Chúa và cầu nguyện, thỉnh thoảng cha Huynh cũng dâng Thánh lễ tại nhà thờ nhỏ này.
Nhằm lễ Lòng Thương Xót Chúa năm 2009, cha Huynh tiếp tục khởi công tái thiết nhờ thờ thứ hai là nhà thờ giáo họ Đông Thọ rộng 15 mét, dài 42 mét, cao 14 mét, một tum cao 20 mét, hai tháp chuông cao 37 mét, hai quả chuông đồng mỗi quả nặng gần 300 kilôgam. Sau gần 20 tháng thi công nay đã hoàn thành, thà thờ mới với sức chứa khoảng 1000 người, được thiết kế theo lối kiến trúc gothicque, có hai mái thượng và hai mái hạ lợp ngói, tạo sự cân đối hài hòa, nhìn từ xa giống như một con tàu đang rẽ sóng ra khơi.
Cuối nhà thờ là một sân khấu và quảng trường rộng gần 1000 mét vuông, bên cạnh có đài Đức Mẹ La Vang, thuận lợi cho những dịp dâng hoa kính Đức Mẹ hoặc giới trẻ tổ chức sinh hoạt. Xung quanh nhà thờ được bao bọc bởi đường bê-tông rộng 8 mét, với tổng diện tích 3000 mét vuông, bên cạnh có trồng hoa và cây cảnh, thuận lợi cho những dịp rước kiệu hoặc cung nghinh Thánh Thể. Đầu nhà thờ giáp gianh với khu nghĩa trang chôn cất hàng chục ngàn bệnh nhân đã qua đời.
Nghi thức cắt băng khánh thành nhà thờ Đông Thọ diễn ra ở sân cuối nhà thờ, sau đó chiếc chìa khóa nhà thờ và bức tranh nhà thờ được Đức cha Đệ trao cho cha Huynh, dấu chỉ như muốn nói rằng: Cha Huynh, người đặc trách trại phong Văn Môn, có toàn quyền dâng Thánh lễ và ban các Bí tích cho các tín hữu tại nhà thờ này.
Sau khi chúc mừng và khen ngợi cha Huynh đã có công xây dựng cùng những người cộng tác góp phần cho nhà thờ mới được hoàn thành, Đức cha Đệ cầm chiếc gậy gõ vào cửa chính nhà thờ, cửa mở ra cho ngài cùng tất cả mọi người tiến vào trong nhà thờ dâng Thánh lễ. Tiếng vỗ tay và tiếng chuông từ 2 tháp ngân vang, trong khi đó có gần 100 người nam và nữ mặc đồng phục và thổi kèn, các nhạc công này đến từ các giáo xứ lân cận.
Trong bài giảng lễ, Đức cha Đệ mời gọi mọi người trở nên muối và men để làm chứng cho Chúa ngay trong những hoàn cảnh khó khăn thử thách và bệnh tật của mình. Ngài cũng mời gọi các linh mục, tu sĩ và cộng đoàn hiệp dâng lễ vật bằng tiền ngay trong Thánh lễ để góp phần chia sẻ với các bệnh nhân. Mỗi người tùy tâm bỏ vào phong bì và mang lên trao cho Đức cha và cha Huynh lúc sau bài giảng. Số tiền hôm đó thu được là 16.185.000 đồng. Có nhiều người mang theo đường, bánh chưng, bánh kẹo từ nhà đến để trao cho các bệnh nhân.
Ông Đỗ Trọng Hiền, một trong những bệnh nhân, tham dự trọn vẹn các nghi thức và thánh lễ dài 2 tiếng đồng hồ cho dù ông không phải là người Công Giáo, nói rằng: “Nhà thờ Đông Thọ có vai trò rất quan trọng đối với các bệnh nhân phong. Nó không chỉ là nơi cầu nguyện, tổ chức các dịp lễ đông người, mà còn là nơi trú ẩn vững chắc cho các bệnh nhân mỗi khi có gió bão hoặc lũ lụt”.
Ông Hiền 72 tuổi, đến từ Hải Dương, sống ở trại phong Văn Môn từ năm 1956, kể rằng, nhiều lần nước ngập lụt ngang tường các dãy nhà ở của bệnh nhân, người ta phải đưa các bệnh nhân trú tạm trong nhà thờ Đông Thọ cũ vì đó là địa điểm cao hơn mực nước ngập lụt. “Từ nay chúng tôi có nhà thờ mới, rộng lớn và vững chắc hơn, chúng tôi không còn lo sợ những dịp thiên tai hàng năm nữa”, ông nói.
Ông Hiền đã cụt hết các ngón tay và 2 cẳng chân do bệnh phong, ông ngồi trên xe ba bánh và chỉ về nhà thờ mới và nói thêm rằng: “Nơi đây sẽ thu hút nhiều người ở khắp nơi về không chỉ viếng thăm các bệnh nhân mà còn ngắm nhìn và thăm quan nhà thờ và quang cảnh xung quanh nữa. Chúng tôi sẽ có thêm nhiều người đến đây chia sẻ, nói chuyện và ban lộc vào các dịp lễ và tết.”
Một bệnh nhân khác nói: “Nhà thờ mới là niềm mơ ước của không chỉ các bệnh nhân trong giáo họ và trong trại phong, mà còn của cả những người ưu tư và quan tâm đến những người đau khổ ở trại phong có nhiều bệnh nhân nhất miền bắc này”.
Một thầy chủng sinh nói rằng: “Tân thánh đường giáo họ Đông Thọ góp thêm vẻ đẹp cho bức tranh toàn cảnh trại phong Văn Môn, xứng nơi thờ tự linh thiêng, đáp ứng nhu cầu tâm linh của những tín hữu và bệnh nhân đến đây”.
Thầy đang học lớp thần 4 của đại chủng viện Hà Nội, nói thêm rằng: “Tôi hy vọng sẽ có nhiều đoàn từ thiện trong và ngoài nước đến thăm và trợ giúp các phương tiện cần thiết cho các bệnh nhân, đồng thời sẽ góp phần hoàn thiện cho nội thất nhà thờ như bàn thờ, ghế ngồi, âm thanh, ánh sáng, đàn và các đồ phụng vụ khác. Sẽ có nhiều đoàn Công giáo đến đây dâng lễ cầu nguyện cho các bệnh nhân nữa”.
Cha Huynh nói chi phí xây dựng nhà thờ hết gần 5 tỉ đồng, một tổ chức có tên là “Hội bảo trợ các nữ tu Việt Nam” ở Mỹ trợ giúp 115,000 USD. Số còn lại do cha Huynh xin tài trợ của một số cá nhân và tổ chức khác. Người dân địa phương tự nguyện đóng góp công sức của mình đến làm việc tại nhà thờ, tuy nhiên cha Huynh có trả cho người thợ từ 80 đến 100.000 đồng/một ngày làm việc. Có nhiều người đến làm việc không công.
Cha Huynh còn nói ngài không gặp khó khăn nào về phía chính quyền cũng như các giấy phép xây dựng, “tôi được sự hỗ trợ đắc lực của bác sĩ giám đốc trại phong Văn Môn, ông Bùi Huy Thiện, không chỉ lo các thủ tục giấy phép mà còn chịu trách nhiệm giải quyết những vướng mắc phát sinh trong quá trình thi công, ông ấy còn giúp tôi mở rộng khuôn viên nhà thờ mới”.
Vị linh mục đang coi sóc 2 giáo xứ và 2 giáo họ, cho biết thêm rằng chiều thứ bảy và sáng thứ ba hàng tuần ngài dâng lễ tại nhà thờ này, chưa kể những lễ cưới hoặc lễ an táng. Tuy nhiên, trong hai tuần trước và sau ngày lễ khánh thành, ngày nào ngài cũng đến dâng lễ tại nhà thờ này để cùng với các bệnh nhân tạ ơn hồng ân Thiên Chúa đã ban cho họ, đồng thời cầu nguyện cho các Ân nhân.
Năm 1900, các thừa sai đã lập trại dưỡng tế gần trung tâm thủ phủ Thái Bình để chăm sóc các bệnh nhân phong cùi, năm 1954 nhà nước tiếp quản và di dời đến cạnh bờ sông Hồng và hình thành nên trại phong Văn Môn ngày nay. Hiện trong trại có gần 600 bệnh nhân, trong số đó có 312 bệnh nhân nặng đang được điều trị và chăm sóc tại chỗ. Ngoài 2 nhà thờ Công giáo và 2 linh đài Đức Mẹ, trong trại phong còn có một ngôi chùa nhỏ.
Xem hình ảnh
Khoảng 1.200 người bao gồm tu sĩ, chủng sinh, giáo dân, ban giám đốc trại phong, bệnh nhân, y bác sĩ và lương dân đã tham dự nghi thức cắt băng khánh thành, làm phép nhà thờ mới và Thánh lễ tạ ơn hôm mồng 4 Tết (6-2) do Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ của Thái Bình chủ sự. Đồng tế với ngài có 20 linh mục và 1 phó tế (con của 1 bệnh nhân).
Ông Vinhsơn Vũ Thế Hùng, một trong số những bệnh nhân tham dự Thánh lễ trọng thể ấy, nói rằng: “Tôi tin rằng lòng thương xót Chúa đã nhận lời chúng tôi kêu xin”. Ông Hùng 65 tuổi cho biết ngôi nhà thờ cũ vì quá nhỏ bé và cũ nát, nó không đáp ứng đủ nhu cầu cho các dịp lễ lớn và nó cũng có thể gây nguy hiểm cho giáo dân ngồi dự lễ vì tường đã bị nứt và mái bị dột.
“Ngôi nhà thờ cũ 75 tuổi đã hoàn thành vai trò của nó, thay vào đó là nhà thờ mới rộng lớn, xinh đẹp và chắc chắn hơn. Chúng tôi vui mừng, hạnh phúc, thêm tin tưởng vào Chúa và an tâm ngồi tham dự các lễ nghi Công Giáo diễn ra bên trong nhà thờ”, ông Hùng nói. Ông kể lại những năm trước, bệnh nhân và giáo dân phải ngồi ngoài trời lấy dù che mưa nắng và gió rét để tham dự Thánh lễ đầu năm do Đức giám mục chủ sự.
Từ năm 1993, sau khi Đức cha Phanxicô Nguyễn Văn Sang về làm giám mục Thái Bình, ngài đã khởi xướng thói quen quy tụ mọi thành phần trong giáo phận về dâng Thánh lễ đầu xuân để cầu nguyện và an ủi các bệnh nhân tại nhà thờ giáo họ Đông Thọ vào ngày mồng 4 Tết nguyên đán hàng năm. Nhà thờ giáo họ nằm trong khu vực trại phong Văn Môn, xã Vũ Vân, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, cách Hà Nội 115 kilômet về hướng đông nam.
Bà Maria Nguyễn Thị Tài, trùm chánh giáo họ Đông Thọ, phát biểu cuối Thánh lễ rằng: “Chúng con không thể kể hết những ơn lành trọng đại mà Thiên Chúa đã ban cho chúng con trong những năm qua. Ngôi nhà thờ mới là một trong những ơn đó. Chúng con tri ân cha xứ, các ân nhân, ban giám đốc bệnh viện phong – da liễu Văn Môn, tất cả những người đã góp công sức xây dựng nhà thờ này, kể cả những người không Công Giáo và những người nay đã qua đời.”
Bà Tài 62 tuổi, một trong những người đã từng nhiễm trùng Hansen mà nay đã khỏi bệnh, nói tiếp rằng: “Nhà thờ mới mang tước hiệu ‘Lòng Thương Xót Chúa’ như bông hoa tươi đẹp chúng con dâng lên Thiên Chúa và Đức Mẹ Maria. Chúng con không thể diễn tả được nỗi vui mừng của mình. Chúng con như người đang mơ khi chứng kiến tận mắt nhà thờ mới được khánh thành. Chúng con mượn Thánh Vịnh 125 mà hát lên rằng: ‘Việc Chúa làm cho ta ôi thật vị đại, ta thấy mình chan chứa một niềm vui’”.
Linh mục Giuse Mai Trần Huynh, đặc trách trại phong Văn Môn, người khởi xướng xây dựng lại nhà thờ cho giáo họ và cũng là cho các bệnh nhân phong cùi, nói rằng: “Lịch sử trại phong Văn Môn có 3 nhà thờ nằm ở 3 vị trí đông – tây – nam theo khu vực và nhóm bệnh nhân nặng nhẹ khác nhau, mỗi khu vực ấy gọi là ‘giáp’. Hiện nay một nhà thờ đã sập đổ và mất tích, chỉ còn lại 2 nhà thờ, trong đó nhà thờ Đông Thọ là nhà thờ nằm ở vị trí trung tâm, cao hơn, lớn hơn để đáp ứng cho những dịp lễ lớn trong toàn trại”.
Cha Huynh 65 tuổi, đặc trách trại phong từ năm 1992, cho biết năm 2007 ngài đã tái thiết nhà thờ Tây An làm nhà nguyện cho các bệnh nhân thường xuyên vào chầu Mình Thánh Chúa và cầu nguyện, thỉnh thoảng cha Huynh cũng dâng Thánh lễ tại nhà thờ nhỏ này.
Nhằm lễ Lòng Thương Xót Chúa năm 2009, cha Huynh tiếp tục khởi công tái thiết nhờ thờ thứ hai là nhà thờ giáo họ Đông Thọ rộng 15 mét, dài 42 mét, cao 14 mét, một tum cao 20 mét, hai tháp chuông cao 37 mét, hai quả chuông đồng mỗi quả nặng gần 300 kilôgam. Sau gần 20 tháng thi công nay đã hoàn thành, thà thờ mới với sức chứa khoảng 1000 người, được thiết kế theo lối kiến trúc gothicque, có hai mái thượng và hai mái hạ lợp ngói, tạo sự cân đối hài hòa, nhìn từ xa giống như một con tàu đang rẽ sóng ra khơi.
Cuối nhà thờ là một sân khấu và quảng trường rộng gần 1000 mét vuông, bên cạnh có đài Đức Mẹ La Vang, thuận lợi cho những dịp dâng hoa kính Đức Mẹ hoặc giới trẻ tổ chức sinh hoạt. Xung quanh nhà thờ được bao bọc bởi đường bê-tông rộng 8 mét, với tổng diện tích 3000 mét vuông, bên cạnh có trồng hoa và cây cảnh, thuận lợi cho những dịp rước kiệu hoặc cung nghinh Thánh Thể. Đầu nhà thờ giáp gianh với khu nghĩa trang chôn cất hàng chục ngàn bệnh nhân đã qua đời.
Nghi thức cắt băng khánh thành nhà thờ Đông Thọ diễn ra ở sân cuối nhà thờ, sau đó chiếc chìa khóa nhà thờ và bức tranh nhà thờ được Đức cha Đệ trao cho cha Huynh, dấu chỉ như muốn nói rằng: Cha Huynh, người đặc trách trại phong Văn Môn, có toàn quyền dâng Thánh lễ và ban các Bí tích cho các tín hữu tại nhà thờ này.
Sau khi chúc mừng và khen ngợi cha Huynh đã có công xây dựng cùng những người cộng tác góp phần cho nhà thờ mới được hoàn thành, Đức cha Đệ cầm chiếc gậy gõ vào cửa chính nhà thờ, cửa mở ra cho ngài cùng tất cả mọi người tiến vào trong nhà thờ dâng Thánh lễ. Tiếng vỗ tay và tiếng chuông từ 2 tháp ngân vang, trong khi đó có gần 100 người nam và nữ mặc đồng phục và thổi kèn, các nhạc công này đến từ các giáo xứ lân cận.
Trong bài giảng lễ, Đức cha Đệ mời gọi mọi người trở nên muối và men để làm chứng cho Chúa ngay trong những hoàn cảnh khó khăn thử thách và bệnh tật của mình. Ngài cũng mời gọi các linh mục, tu sĩ và cộng đoàn hiệp dâng lễ vật bằng tiền ngay trong Thánh lễ để góp phần chia sẻ với các bệnh nhân. Mỗi người tùy tâm bỏ vào phong bì và mang lên trao cho Đức cha và cha Huynh lúc sau bài giảng. Số tiền hôm đó thu được là 16.185.000 đồng. Có nhiều người mang theo đường, bánh chưng, bánh kẹo từ nhà đến để trao cho các bệnh nhân.
Ông Đỗ Trọng Hiền, một trong những bệnh nhân, tham dự trọn vẹn các nghi thức và thánh lễ dài 2 tiếng đồng hồ cho dù ông không phải là người Công Giáo, nói rằng: “Nhà thờ Đông Thọ có vai trò rất quan trọng đối với các bệnh nhân phong. Nó không chỉ là nơi cầu nguyện, tổ chức các dịp lễ đông người, mà còn là nơi trú ẩn vững chắc cho các bệnh nhân mỗi khi có gió bão hoặc lũ lụt”.
Ông Hiền 72 tuổi, đến từ Hải Dương, sống ở trại phong Văn Môn từ năm 1956, kể rằng, nhiều lần nước ngập lụt ngang tường các dãy nhà ở của bệnh nhân, người ta phải đưa các bệnh nhân trú tạm trong nhà thờ Đông Thọ cũ vì đó là địa điểm cao hơn mực nước ngập lụt. “Từ nay chúng tôi có nhà thờ mới, rộng lớn và vững chắc hơn, chúng tôi không còn lo sợ những dịp thiên tai hàng năm nữa”, ông nói.
Ông Hiền đã cụt hết các ngón tay và 2 cẳng chân do bệnh phong, ông ngồi trên xe ba bánh và chỉ về nhà thờ mới và nói thêm rằng: “Nơi đây sẽ thu hút nhiều người ở khắp nơi về không chỉ viếng thăm các bệnh nhân mà còn ngắm nhìn và thăm quan nhà thờ và quang cảnh xung quanh nữa. Chúng tôi sẽ có thêm nhiều người đến đây chia sẻ, nói chuyện và ban lộc vào các dịp lễ và tết.”
Một bệnh nhân khác nói: “Nhà thờ mới là niềm mơ ước của không chỉ các bệnh nhân trong giáo họ và trong trại phong, mà còn của cả những người ưu tư và quan tâm đến những người đau khổ ở trại phong có nhiều bệnh nhân nhất miền bắc này”.
Một thầy chủng sinh nói rằng: “Tân thánh đường giáo họ Đông Thọ góp thêm vẻ đẹp cho bức tranh toàn cảnh trại phong Văn Môn, xứng nơi thờ tự linh thiêng, đáp ứng nhu cầu tâm linh của những tín hữu và bệnh nhân đến đây”.
Thầy đang học lớp thần 4 của đại chủng viện Hà Nội, nói thêm rằng: “Tôi hy vọng sẽ có nhiều đoàn từ thiện trong và ngoài nước đến thăm và trợ giúp các phương tiện cần thiết cho các bệnh nhân, đồng thời sẽ góp phần hoàn thiện cho nội thất nhà thờ như bàn thờ, ghế ngồi, âm thanh, ánh sáng, đàn và các đồ phụng vụ khác. Sẽ có nhiều đoàn Công giáo đến đây dâng lễ cầu nguyện cho các bệnh nhân nữa”.
Cha Huynh nói chi phí xây dựng nhà thờ hết gần 5 tỉ đồng, một tổ chức có tên là “Hội bảo trợ các nữ tu Việt Nam” ở Mỹ trợ giúp 115,000 USD. Số còn lại do cha Huynh xin tài trợ của một số cá nhân và tổ chức khác. Người dân địa phương tự nguyện đóng góp công sức của mình đến làm việc tại nhà thờ, tuy nhiên cha Huynh có trả cho người thợ từ 80 đến 100.000 đồng/một ngày làm việc. Có nhiều người đến làm việc không công.
Cha Huynh còn nói ngài không gặp khó khăn nào về phía chính quyền cũng như các giấy phép xây dựng, “tôi được sự hỗ trợ đắc lực của bác sĩ giám đốc trại phong Văn Môn, ông Bùi Huy Thiện, không chỉ lo các thủ tục giấy phép mà còn chịu trách nhiệm giải quyết những vướng mắc phát sinh trong quá trình thi công, ông ấy còn giúp tôi mở rộng khuôn viên nhà thờ mới”.
Vị linh mục đang coi sóc 2 giáo xứ và 2 giáo họ, cho biết thêm rằng chiều thứ bảy và sáng thứ ba hàng tuần ngài dâng lễ tại nhà thờ này, chưa kể những lễ cưới hoặc lễ an táng. Tuy nhiên, trong hai tuần trước và sau ngày lễ khánh thành, ngày nào ngài cũng đến dâng lễ tại nhà thờ này để cùng với các bệnh nhân tạ ơn hồng ân Thiên Chúa đã ban cho họ, đồng thời cầu nguyện cho các Ân nhân.
Năm 1900, các thừa sai đã lập trại dưỡng tế gần trung tâm thủ phủ Thái Bình để chăm sóc các bệnh nhân phong cùi, năm 1954 nhà nước tiếp quản và di dời đến cạnh bờ sông Hồng và hình thành nên trại phong Văn Môn ngày nay. Hiện trong trại có gần 600 bệnh nhân, trong số đó có 312 bệnh nhân nặng đang được điều trị và chăm sóc tại chỗ. Ngoài 2 nhà thờ Công giáo và 2 linh đài Đức Mẹ, trong trại phong còn có một ngôi chùa nhỏ.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Cẩm nang cuộc sống lành mạnh hạnh phúc
Khuyết Danh
11:07 10/02/2011
Sức khỏe:
1. Uống nhiều nước.
2. Ăn sáng giống như vua, ăn trưa giống như ông hoàng và ăn tối giống như kẻ ăn xin.
3. Ăn nhiều thức ăn mọc trên cây và ăn ít thức ăn được chế tạo trong nhà máy.
4. Sống với 3 N – Năng lực, Nhiệt thành và Nhân ái
5. Tìm cho ra thì giờ mà cầu nguyện.
6. Chơi trò chơi nhiều hơn.
7. Đọc nhiều sách hơn năm 2010.
8. Ngồi yên lặng ít nhất 10 phút mỗi ngày.
9. Ngủ 7 giờ.
10. Đi bộ từ 10-30 phút mỗi ngày. Và mỉm cười trong khi bước đi.
Nhân cách:
11. Đừng so sánh cuộc đời của bạn với cuộc đời của những người khác. Bạn không biết cuộc hành trình của họ như thế nào đâu.
12. Đừng có những tư tưởng tiêu cực hoặc có những thứ mà bạn không thể làm chủ. Thay vào đó, hãy đầu tư năng lực của bạn vào khoảnh khắc hiện tại tích cực.
13. Đừng làm quá mức. Giữ giới hạn của bạn.
14. Đừng quá coi trọng bản thân bạn. Không ai để ý bạn đâu.
15. Đừng phí năng lực quý báu vào chuyện ngồi lê đôi mách.
16. Hãy mơ nhiều hơn khi bạn còn đang thức.
17. Ghen tỵ là phí thì giờ. Bạn đã có tất cả những gì bạn cần rồi.
18. Hãy quên đi những chuyện quá khứ. Đừng nhắc cho vợ/chồng của bạn nhớ lại những lỗi lầm của họ trong quá khứ. Việc này sẽ làm hỏng hạnh phúc hiện tại của bạn.
19. Cuộc sống quá ngắn để mà phí thì giờ vào việc ghét người nào. Đừng ghét những người khác.
20. Hãy làm hòa với quá khứ của bạn để nó không làm hỏng hiện tại.
21. Không ai lãnh trách nhiệm về hạnh phúc của bạn ngoài bạn.
22. Hãy nhận thức rằng cuộc đời là một trường học và bạn ở đây là để học. Các bài toán chỉ là một phần của học trình, xuất hiện rồi phai mờ đi giống như lớp đại số, nhưng cácbài học bạn học được thì sẽ kéo dài suốt đời. ..
23. Mỉm cười và cười nhiều hơn.
24. Bạn không buộc phải thắng mọi điểm đâu. Hãy đồng ý với việc không đồng ý.
Xã hội:
25. Hãy thăm viếng gia đình bạn thường xuyên.
26. Mỗi ngày, hãy mang lại điều gì tốt cho người khác..
27. Hãy tha thứ cho mọi người về mọi sự.
28. Hãy dành thì giờ cho những người ngoài 70 và dưới 6 tuổi.
29. Hãy cố gắng làm cho (ít ra) 3 người mỉm cười mỗi ngày.
30. Không cần biết những điều người khác nghĩ về bạn.
31. Việc làm của bạn sẽ không săn sóc bạn khi bạn đau ốm đâu. Bạn bè mới làm việc ấy. Hãy liên lạc với nhau luôn.
Đời sống:
32. Hãy làm chuyện đúng !
33. Loại bỏ bất cứ thứ gì không ích lợi, không đẹp hoặc không vui.
34. Trời chữa lành mọi sự…
35. Cho dù một hoàn cảnh tốt hay xấu, nó sẽ thay đổi.
36. Mặc cho bạn có cảm thấy thế nào, hãy ra khỏi giường, chưng diện lên và khoe thiên hạ.
37. Điều tốt nhất sẽ đến.
38. Mỗi sáng thức dậy mà còn sống, hãy cám ơn TRỜI về điều ấy.
39. Thâm tâm bạn luôn luôn muốn hạnh phúc. Thế thì, hãy sống hạnh phúc đi. ..
1. Uống nhiều nước.
2. Ăn sáng giống như vua, ăn trưa giống như ông hoàng và ăn tối giống như kẻ ăn xin.
3. Ăn nhiều thức ăn mọc trên cây và ăn ít thức ăn được chế tạo trong nhà máy.
4. Sống với 3 N – Năng lực, Nhiệt thành và Nhân ái
5. Tìm cho ra thì giờ mà cầu nguyện.
6. Chơi trò chơi nhiều hơn.
7. Đọc nhiều sách hơn năm 2010.
8. Ngồi yên lặng ít nhất 10 phút mỗi ngày.
9. Ngủ 7 giờ.
10. Đi bộ từ 10-30 phút mỗi ngày. Và mỉm cười trong khi bước đi.
Nhân cách:
11. Đừng so sánh cuộc đời của bạn với cuộc đời của những người khác. Bạn không biết cuộc hành trình của họ như thế nào đâu.
12. Đừng có những tư tưởng tiêu cực hoặc có những thứ mà bạn không thể làm chủ. Thay vào đó, hãy đầu tư năng lực của bạn vào khoảnh khắc hiện tại tích cực.
13. Đừng làm quá mức. Giữ giới hạn của bạn.
14. Đừng quá coi trọng bản thân bạn. Không ai để ý bạn đâu.
15. Đừng phí năng lực quý báu vào chuyện ngồi lê đôi mách.
16. Hãy mơ nhiều hơn khi bạn còn đang thức.
17. Ghen tỵ là phí thì giờ. Bạn đã có tất cả những gì bạn cần rồi.
18. Hãy quên đi những chuyện quá khứ. Đừng nhắc cho vợ/chồng của bạn nhớ lại những lỗi lầm của họ trong quá khứ. Việc này sẽ làm hỏng hạnh phúc hiện tại của bạn.
19. Cuộc sống quá ngắn để mà phí thì giờ vào việc ghét người nào. Đừng ghét những người khác.
20. Hãy làm hòa với quá khứ của bạn để nó không làm hỏng hiện tại.
21. Không ai lãnh trách nhiệm về hạnh phúc của bạn ngoài bạn.
22. Hãy nhận thức rằng cuộc đời là một trường học và bạn ở đây là để học. Các bài toán chỉ là một phần của học trình, xuất hiện rồi phai mờ đi giống như lớp đại số, nhưng cácbài học bạn học được thì sẽ kéo dài suốt đời. ..
23. Mỉm cười và cười nhiều hơn.
24. Bạn không buộc phải thắng mọi điểm đâu. Hãy đồng ý với việc không đồng ý.
Xã hội:
25. Hãy thăm viếng gia đình bạn thường xuyên.
26. Mỗi ngày, hãy mang lại điều gì tốt cho người khác..
27. Hãy tha thứ cho mọi người về mọi sự.
28. Hãy dành thì giờ cho những người ngoài 70 và dưới 6 tuổi.
29. Hãy cố gắng làm cho (ít ra) 3 người mỉm cười mỗi ngày.
30. Không cần biết những điều người khác nghĩ về bạn.
31. Việc làm của bạn sẽ không săn sóc bạn khi bạn đau ốm đâu. Bạn bè mới làm việc ấy. Hãy liên lạc với nhau luôn.
Đời sống:
32. Hãy làm chuyện đúng !
33. Loại bỏ bất cứ thứ gì không ích lợi, không đẹp hoặc không vui.
34. Trời chữa lành mọi sự…
35. Cho dù một hoàn cảnh tốt hay xấu, nó sẽ thay đổi.
36. Mặc cho bạn có cảm thấy thế nào, hãy ra khỏi giường, chưng diện lên và khoe thiên hạ.
37. Điều tốt nhất sẽ đến.
38. Mỗi sáng thức dậy mà còn sống, hãy cám ơn TRỜI về điều ấy.
39. Thâm tâm bạn luôn luôn muốn hạnh phúc. Thế thì, hãy sống hạnh phúc đi. ..
Văn Hóa
Công chính trong lề luật
Mic. Cao Danh Viện
14:56 10/02/2011
Kì diệu thay! Giới luật Ngài!
Êm như tiếng nói ngọt đầy hương xuân
Khôn ngoan, trung tín, khoan nhân
Tự do vui sống tinh thần yêu thương
Người công chính, yêu khiêm nhường
Chu toàn lề luật theo đường Chúa đi
Trái tim nhân hậu từ bi
Lòng không nuôi giận oán gì tha nhân
Mắt: đèn soi cả xác thân
Luôn trong sáng với tinh thần sạch trong
Có nói có, không nói không
Miệng môi chân thật nên dòng chính nhân
Phúc thay lễ phẩm hiến dâng
Là lòng yêu mến giới răn Chúa truyền
Bước theo Thần Khí nên duyên
Thần hồn với Chúa nguyên tuyền trung trinh.
Êm như tiếng nói ngọt đầy hương xuân
Khôn ngoan, trung tín, khoan nhân
Tự do vui sống tinh thần yêu thương
Người công chính, yêu khiêm nhường
Chu toàn lề luật theo đường Chúa đi
Trái tim nhân hậu từ bi
Lòng không nuôi giận oán gì tha nhân
Mắt: đèn soi cả xác thân
Luôn trong sáng với tinh thần sạch trong
Có nói có, không nói không
Miệng môi chân thật nên dòng chính nhân
Phúc thay lễ phẩm hiến dâng
Là lòng yêu mến giới răn Chúa truyền
Bước theo Thần Khí nên duyên
Thần hồn với Chúa nguyên tuyền trung trinh.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Trúc
Joseph Ngọc Phạm
21:51 10/02/2011
TRÚC
Ảnh của Joseph Ngọc Phạm
Thân con cây trúc tầm thường
Được Người kén chọn yêu thương tràn trề.
Kiên trì đục cắt đam mê
Cho lòng rỗng trống tìm về nẻo Tin.
Lùa dao khoét lỗ luyện Kinh
Tác thành ống sáo cho tình dâng cao…
(Trích thơ của Lm. Trần Cao Tường)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Ảnh của Joseph Ngọc Phạm
Thân con cây trúc tầm thườngĐược Người kén chọn yêu thương tràn trề.
Kiên trì đục cắt đam mê
Cho lòng rỗng trống tìm về nẻo Tin.
Lùa dao khoét lỗ luyện Kinh
Tác thành ống sáo cho tình dâng cao…
(Trích thơ của Lm. Trần Cao Tường)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
